BẢN CAM KẾT 0
LỜI CẢM ƠN 0
MỤC LỤC 0
DANH MỤC BẢNG 0
DANH MỤC VIẾT TẮT 0
PHẦN MỘT: PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG 1
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Giới hạn nghiên cứu 3
2.1. Đối tượng 3
2.2. Phạm vi 4
3. Mục đích, mục tiêu 4
3.1. Mụcđích 4
3.2. Mục tiêu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
4.1. Phương pháp trực quan 4
4.2. Phương pháp lý luận 4
4.3. Phương pháp điều tra 4
5. Cấu trúc của đề tài 5
PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG 6
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN UỶ NHIỆM CHI VÀ CÁC HÌNH THỨC TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT. 6
1. Khái niệm Uỷ nhiệm chi 8
1.1. Đối tượng áp dụng 8
1.2. Phạm vi áp dụng 8
2. Quy trình thanh toán 8
2.1. Người trả tiền 8
2.2. Ngân hàng kiểm tra uỷ nhiệm chi 9
2.3. Nhận được chứng từ thanh toán 9
3. Khách hàng và lợi ích của khách hàng 9
4. Lịch sử nguồn gốc phát triển của đề tài Mở rộng và hoàn thiện hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi 10
5. Khái niệm và đặc điểm 10
5.1. Thanh toán không dùng tiền mặt: 11
5.2. Các hình thức cụ thể trong thanh toán 12
5.2.1. Thanh toán trong nội bộ ngân hàng 13
5.2.2. Thanh toán liên ngân hàng 15
5.2.3. Thanh toán quốc tế 16
5.2.3.1. Phương thức chuyển tiền 17
5.2.3.2. Phương thức uỷ thác thu hay nhờ thu 17
5.2.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ 17
5.2.3.4. Phương thức thư tín dụng 18
5.3. Thủ tục thanh toán trong nước 19
5.3.1. Thủ tục thanh toán: 19
5.2.2 Trình tự thực hiện 19
5.3.4. Hồ sơ 19
5.3.5. Thời hạn giải quyết: 19
5.3.6. Đối tượng thực hiện: 20
5.3.7. Cơ quan thực hiện 20
5.3.8. Căn cứ pháp lý 20
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
1. Sơ lược về phương pháp nghiên cứu 21
1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
1.2. Phạm vi nghiên cứu 21
1.3. Phương pháp nghiên cứu 21
1.3.1. Phương pháp trực quan 21
1.3.2. Phương pháp lý luận 21
1.3.3. Phương pháp điều tra 21
1.4. Kế hoạch nghiên cứu 21
2. Tiến hành nghiên cứu 22
2.1. Tiến hành nghiên cứu trực quan 22
2.2. Tiến hành nghiên cứu lý luận 22
2.3. Phương pháp thu thập, điều tra dữ liệu 22
3. Kết quả nghiên cứu: 22
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN UỶ NHIỆM CHI TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN NÔNG CỐNG TỈNH THANH HOÁ. 23
1. Thực trạng thanh toán bằng tiền mặt ở chi nhánh. 23
2. Nguyên nhân 26
3. Gỉải pháp mở rộng thanh toán uỷ nhiệm chi 28
4. Đánh giá 31
4.1. Những tiêu cực 31
Hạn chế 32
4. 2. Đánh giá tích cực 32
4.2.1. Cơ hội 32
4.2.2 Tiềm năng: 32
PHẦN BA: PHẦN KẾT LUẬN 33
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ. 33
1. Kết luận 33
2. Ý nghĩa 33
3. Một số kiến nghị 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1820 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mở rộng và hoàn thiện hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi tại ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Nông Cống - Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lĩnh vực Tài Chính Ngân Hàng nó riêng, vì vậy uỷ nhiệm chi một phần rất lớn và có tác động mạnh mẽ tới nền kinh tế.
Vì uỷ nhiệm chi thuộc hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, rất đơn giản và tiện lợi, tiết kiệm chi phí, thuận tiện cho các khách hàng sử dụng và thuận tiện trong việc áp dụng công nghệ thanh toán.
( tên đề tài là gì? ở đâu ?)
2. Giới hạn nghiên cứu
2.1. Đối tượng
Uỷ nhiệm chi và hoạt động thanh toán liên quan tới hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi tại Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn chi nhánh Huyện Nông Cống_ Tỉnh Thanh Hóa.
Sử dụng cho thanh toán chuyển khoản, chuyển tiền thư, điện.
2.2. Phạm vi
Uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán tại một chi nhánh Ngân Hàng, hoặc giữa các chi nhánh ngân hàng cùng hoặc khác hệ thồng trong phạm vi cả nước.
( phạm vi không gian và thời gian cụ thể)
3. Mục đích, mục tiêu
3.1. Mụcđích
Nhằm kiểm soát tối đa lượng tiền mặt tham gia trên thị trường tiền tệ.
Có một ý nghĩa to lớn đối với nền kinh tế: bởi vì uỷ nhiệm chi hạn chế được tối đa lượng tiền mặt nhàn rỗi và quay vòng vốn phục vụ nền kinh tế.
3.2. Mục tiêu
Giúp Ngân Hàng thương mại tạo ra một lượng lợi nhuận lớn.
Giải quyết tốt công tác thu chi tiền, vốn và các giấy tờ có giá khi khách hàng đến hạn thanh toán.
4. Phương pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp trực quan
Dùng phương pháp này chúng ta chỉ mới quan sát được thực tế rất ít những việc làm trong ngân hàng, ngân hàng có nhiều công việc cần độ bảo mật cao, dùng phương pháp này sẽ kém phần hiệu quả.
4.2. Phương pháp lý luận
Dùng thông tin từ những nguồn khác để phân tích như các bảng mẫu, các giấy tờ có liên quan đến quy trình thanh toán trong kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại.
4.3. Phương pháp điều tra
Sau đó lên kế hoạch điều tra để tiện cho việc nghiên cứu và là cơ sở dữ liệu tập trung và sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quản lý của Ngân Hàng Nông Nhiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống Tỉnh Thanh Hóa.
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Lấy số liệu từ Ngân Hàng Nông Nhiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống Tỉnh Thanh Hóa.
5. Cấu trúc của đề tài
Đề tài của tôi được trình bày theo kết cấu ba phần và năm chương:
Chương I: Những vấn đề cơ bản về thanh toán uỷ nhiệm chi.
Chương II: Tổng quan về hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi trong hệ thống ngân hàng và ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống.
Chương III: Phương pháp nghiên cứu.
Chương IV: Một số giải pháp mở rộng và hoàn thiện hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi tại chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống Tỉnh Thanh Hoá.
Chương V: Kết luận và kiến nghị.
PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN UỶ NHIỆM CHI TRONG HỆ THỐNG NGÂN HÀNG
1.1. Đối tượng áp dụng
Áp dụng để chi trả tiền hàng hoá, dịch vụ ... cho người thụ hưởng thông qua hệ thống Ngân Hàng bằng cách uỷ nhiệm cho ngân hàng phục vụ mình chi trả.
1.2. Phạm vi áp dụng
Uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi được áp dụng cho ngườisử dụng dịch vụ thanh toán tại một chi nhánh ngân hàng hoặc giữa các chi nhánh ngân hàng cùng hoặc khác hệ thống trong phạm vi cả nước.
2. Quy trình thanh toán
Trường hợp các khách hàng mở tài khoản tại cùng một chi nhánh ngân hàng:
Người trả tiền nộp uỷ nhiệm chi vào ngân hàng yêu cầu ngân hàng trích tài khoản của mình để chuyển cho người thụ hưởng.
Ngân hàng kiểm tra uỷ nhiệm chi, số dư tài khoản tiền gửi của người trả tiền, tiến hành trích tài khoản tiền gửi và báo nợ cho người trả tiền.
Ngân hàng ghi Có vào tài khoản tiền gửi và báo Có cho người thụ hưởng
khách hàng mở tài khoản tại hai chi nhánh ngân hàng:
2.1. Người trả tiền
Lập uỷ nhiệm chi nộp vào ngân hàng phục vụ mình yêu cầu trích tài khoản của mình để trả cho người thụ hưởng.
2.2. Ngân hàng kiểm tra uỷ nhiệm chi
Số dư tài khoản tiền gửi của người trả tiền, tiến hành ghi Nợ vào tài khoản tiền gửi và báo Nợ cho người trả tiền. Đồng thời chuyển tiền sang ngân hàng phục vụ người thụ hưởng.
2.3. Nhận được chứng từ thanh toán
Do ngân hàng phục vụ người trả tiền gửi đến, ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ghi Có vào tài khoản tiền gửi và báo Có cho người thụ hưởng.
3. Khách hàng và lợi ích của khách hàng
Giao dịch của Quý khách sẽ được thực hiện nhanh chóng, thuận tiện.Quý khách có thể chuyển tiền tới hầu hết các tỉnh, thành phố, quận huyện, khu công nghiệp trên toàn quốc. Quý khách có thể chuyển tiền mặt hoặc sử dụng các công cụ thanh toán như Séc, Uỷ nhiệm chi…Quý khách không cần có tài khoản tại Ngân hàng mà vẫn được nhận hoặc chuyển tiền. Để lệnh chuyển tiền thực hiện hoàn hảo Quý khách cần thông báo với người hưởng đến địa chỉ Ngân hàng nhận tiền và mang theo Chứng minh nhân dân của mình hoặc giấy tờ nhận dạng hợp pháp.Quý khách có thể nhận tiền ngay trong ngày phát sinh giao dịch phí chuyển tiền hợp lý nhất. Sự phục vụ tận tình, chu đáo của nhân viên Hướng dẫn chuyển tiền và nhận tiền.
3.1. Đối với người nhận tiền
Quý khách cần thông báo cho người chuyển tiền đầy đủ, chính xác những thông tin sau: Họ và tên người nhận tiền. Số CMND, ngày cấp, nơi cấp. Số địa chỉ liên hệ, số điện thoại. Tên ngân hàng phục vụ người nhận tiền. Số tài khoản cá nhân ( nếu có )
3.2. Đối với người chuyển tiền
Nếu chuyển tiền qua tài khoản, Quý khách chỉ cần đến quầy kế toán và viết
uỷ nhiệm chi theo mẫu in sẵn rồi nộp giấy uỷ nhiệm chi cho kế toán viên.
Nếu chuyển tiền bằng tiền mặt, Quý khách chỉ cần đến quầy thu ngân và viết giấy nộp tiền, bảng kê các loại tiền nộp theo mẫu in sẵn. Nộp tiền, giấy nộp tiền, bảng kê cho thủ quỹ.
Đối với Uỷ nhiệm chi chủ thể thanh toán là nhà cung cấp.
Trường hợp người thụ hưởng chưa mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại ngân hàng nào đó, thì ngân hàng phục vụ người thụ hưởng ghi Có vào tài khoản phải trả khách hàng và báo cho người thụ hưởng đến nhận tiền.
4. Lịch sử nguồn gốc phát triển của hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi ( trong 1 khoảng thời gian cụ thể nào?)
Theo nhận định trước đây: Thì uỷ nhiệm chi không phổ biến, không chiếm tỷ trọng lớn trong thanh toán thương mại trong ngân hàng.
Còn bây giờ, đây là hình thức thanh toán chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số thanh toán tại ngân hàng.
Tóm lại, hiện nay trên cơ sở phát triển của công nghệ ngoài việc lập uỷ nhiệm chi bằng giấy, khách hàng lập lệnh dưới hình thức chứng từ điện tử.
Hình 1: Lập uỷ nhiệm chi tại hệ thống các ngân hàng.
Hình 2: Tài liệu nguồn từ ngân hàng.
5. Khái niệm và đặc điểm
Thanh toán đơn giản là thuật ngữ ngắn gọn mô tả việc chuyển giao các phương tiện tài chính từ một bên sang một bên khác. Tiền là phương tiện thực hiện trao đổi hàng hóa, đồng thời là việc kết thúc quá trình trao đổi. Lúc này tiền thực hiện chức năng phương tiện thanh toán. Sự vận động của tiền tệ có thể tách rời hay độc lập tương đối với sự vận động của hàng hoá.
Thực hiện chức năng phương tiện thanh toán, tiền không chỉ sử dụng để trả các khoản nợ về mua chịu hàng hóa, mà chúng còn được sử dụng để thanh toán những khoản nợ vượt ra ngoài phạm vi trao đổi như nộp thuế, trả lương, đóng góp các khoản chi dịch vụ …
Lưu thông không dùng tiền mặt là các quá trình tiền tệ thực hiện chức năng phương tiện lưu thông và phương tiện thanh toán không trực tiếp bằng tiền mặt mà thực hiện bằng cách trích chuyển trên các tài khoản ở Ngân hàng, tổ chức tín dụng hoặc bù trừ lẫn nhau giữa những người phải thanh toán và những người thụ hưởng.
5.1. Thanh toán không dùng tiền mặt ( bỏ mục này đi, lý thuyết đi vào cụ thể của đề tài là Ủy Nhiệm Chi thôi)
Chỉ được phát triển và hoàn thiện trong nền kinh tế thị trường và được áp dụng rộng rãi trong lĩnh vực kinh tế tài chính đối nội cũng như đối ngoại. Sự phát triển rộng khắp của thanh toán không dùng tiền mặt hiện nay là do yêu cầu phát triển vượt bậc của nền kinh tế hàng hoá. Kinh tế hàng hoá phát triển càng cao, khối lượng hàng hoá trao đổi trong nước và ngoài nước càng lớn thì cần có những cách thức trả tiền thuận tiện, an toàn và tiết kiệm.
Xét về mặt lý luận, thanh toán không dùng tiền mặt là một hình thức vận động của tiền tệ. Ở đây, tiền vừa là công cụ kế toán, vừa là công cụ để chuyển hoá hình thức giá trị của hàng hoá và dịch vụ. Mặt khác, thanh toán không dùng tiền mặt là nghiệp vụ có quá trình chứa đựng những công nghệ tinh vi và phức tạp. Khi thực hiện chức năng phương tiện thanh toán có thể sử dụng tiền đủ giá (vàng) hoặc dấu hiệu giá trị. Trở ngại chính của tiền giấy và tiền kim loại là chúng dễ bị đánh cắp và có thể tốn nhiều chi phí vận chuyển; để khắc phục nhược điểm này, cùng với bước phát triển của hệ thống thanh toán là sự ra đời của séc trong hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Điều này cải tiến một bước rất quan trọng trong thanh toán, nâng cao hiệu quả thanh toán. Chúng có thể được sử dụng bù trừ trong thanh toán, giảm chi phí vận chuyển và đặc biệt là nó an toàn, ghi theo số lượng tiền tuỳ ý. Tuy nhiên, nó có hai nhược điểm cơ bản: thanh toán chậm do không được ghi “Có” ngay vào tài khoản người thụ hưởng và chi phí in ấn, quản lý còn cao.
Hình thức thanh toán là tổng thể các quy định về một cách thức trả tiền, là sự liên kết các yếu tố của quá trình thanh toán. Các hình thức cụ thể:
5.2. Các hình thức cụ thể trong thanh toán
Ủy nhiệm chi: là một hình thức thanh toán khá phổ biến trong môi trường kinh tế các nước khi bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Việc chuyển nợ có uỷ quyền như các doanh nghiệp nhờ Ngân hàng trả lương vào Tài khoản của công nhân, việc nộp các loại phí bảo hiểm… cũng là một dịch vụ thanh toán mới tương tự như ủy nhiệm nhưng hình thức luân chuyển thông tin có thể là đĩa hoặc băng từ hay qua mạng viễn thông.
Ủy nhiệm thu: ủy nhiệm thu do người thụ hưởng lập gửi vào Ngân hàng phục vụ mình để thu tiền hàng đã giao hay dịch vụ đã cung ứng, thông thường là các dịch vụ điện, nước, điện thoại.
Các loại séc chuyển khoản, bảo chi, định mức, chuyển tiền do người mua phát hành để trả tiền hàng hoá, dịch vụ.
Ngân phiếu thanh toán: Thực chất là một lệnh trả tiền đặc biệt của chủ sở hữu nào đó, việc trả tiền thực hiện theo đúng chứng từ thanh toán có tên Ngân phiếu thanh toán.
Thư tín dụng: Đối với thanh toán trong nước được sử dụng ít, chủ yếu được sử dụng trong việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Các loại thẻ thanh toán: Thẻ thanh toán do Ngân hàng phát hành bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác, rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy rút tiền tự động.
Thúc đẩy thanh toán điện tử trong người tiêu dùng. “Trong thời gian vừa qua, việc sử dụng thẻ thanh toán đã tăng trưởng theo cấp số nhân tại Việt Nam. Tin tưởng rằng, người tiêu dùng Việt... Visa đã và đang thúc đẩy những phương thức thanh toán phi tiền mặt tại Việt Nam. Ngoài việc phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đưa ra các giải pháp thẻ thanh toán thương mại trong khu vực Chính phủ. Nhằm mục đích thúc đẩy thanh toán phi tiền mặt, tạo thói quen mua sắm hàng hoá bằng thẻ.
Để khắc phục nhược điểm của séc, cùng với phát triển của máy tính điện tử và hệ thống viễn thông, trong mấy thập kỷ qua hệ thống thanh toán được cải tiến và hoàn thiện, chuyển sang một hệ thống mới với các khái niệm mới: “Tiền điện tử”, “Ví điện tử”, “Thẻ thanh toán”, “Hệ thống chuyển khoản điện tử”. Ngoài ra, ở nhiều nước đã tổ chức hệ thống chuyển tiền liên Ngân hàng (thanh toán bù trừ liên Ngân hàng), được dùng để thanh toán liên Ngân hàng trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Việc thanh toán cũng được thực hiện không chỉ tại các Chi nhánh Ngân hàng mà hàng loạt kênh giao dịch mới ra đời: ATM, KIOSK, PC, Telephone, Mobile phone.
Khi Internet ra đời, việc giao lưu kinh tế được thuận lợi hơn bao giờ hết, nó không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nhờ đó, các giao dịch mua bán hàng hóa (vật chất hoặc nội dung hoặc các dịch vụ) được thực hiện gần như tức thời. Vấn đề nảy sinh cần được nghiên cứu và giải quyết là: xác nhận về người mua người bán, xác nhận về giao dịch, các quy định về thủ tục hải quan liên quan đến xuất nhập khẩu/vấn đề bảo hiểm và vận chuyển hàng hóa (nếu có), cơ sở để xử lý tranh chấp v v… và đặc biệt là vấn đề thanh toán. Thanh toán điện tử trong thương mại điện tử là vấn đề rất phức tạp, đa dạng liên quan đến pháp lý, kinh tế, tiền tệ và kỹ thuật trong việc đạt được mục tiêu “Nhanh chóng – Chính xác – An toàn”.
5.2.1. Thanh toán trong nội bộ ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ. Chức năng làm trung gian thanh toán của Ngân hàng Thương mại thực chất là Ngân hàng làm thủ quỹ, thực hiện các nhiệm vụ uỷ quyền của khách hàng.
Trong các loại nghiệp vụ Ngân hàng, vai trò làm trung gian thanh toán cho nền kinh tế là một nghiệp vụ rất quan trọng, nó có lịch sử gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng cũng như có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Các giao dịch thanh toán của khách hàng và nội bộ ngân hàng (đổi tiền, đầu cơ, đầu tư, quyết toán thanh toán…) thực hiện dưới hình thức tiền mặt, chuyển khoản (trong hệ thống) hoặc chuyển tiền (liên ngân hàng).
Trước đây, do điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật khó khăn, việc thanh toán của khách hàng trong một hệ thống Ngân hàng thường được quản lý và xử lý phân tán trên cơ sở chứng từ và luân chuyển qua bưu điện. Sau đó, khi có điện thoại và telex, các Ngân hàng sử dụng việc chuyển tiền bằng điện báo của bưu điện. Những giao dịch này bắt đầu và kết thúc không đồng thời, do đó, các ngân hàng phải tổ chức hệ thống thanh toán trong nội bộ (intrabank payment). Hệ thống thanh toán này phù hợp với mô hình quản lý phân tán và thời gian hoàn tất một giao dịch từ một cho đến 15 ngày (điều kiện Việt Nam). Khi máy tính ra đời, nhiều Ngân hàng thương mại lớn đã thực hiện việc kết nối máy tính giữa Trụ sở chính với các Chi nhánh, sử dụng các máy tính lớn (mainframe) và trạm làm việc (terminal). Đồng bộ với nó là hệ thống quản lý và xử lý tập trung các giao dịch của các khách hàng. Các nghiệp vụ thanh toán giữa các khách hàng trong một hệ thống ngân hàng được thực hiện dưới hình thức chuyển khoản (books transfer), ghi “Nợ” và ghi “Có” tức thì cho khách hàng. Việc quản lý tài khoản khách hàng, xử lý giao dịch tập trung cho phép thực hiện các giao dịch trực tuyến (online), tức thời (real time), giảm tối đa các rủi ro trong thanh toán và tối ưu hóa trong quản lý vốn của ngân hàng và khách hàng.
Cùng với sự phát triển của hệ thống kỹ thuật và đổi mới cấu trúc kinh doanh của ngân hàng, việc “bán” các dịch vụ thanh toán cũng từng bước được củng cố và phát triển về lượng và chất. Trước đây, khách hàng muốn thực hiện giao dịch phải đến chi nhánh ngân hàng nơi mở tài khoản, tới quầy giao dịch gặp các nhân viên kế toán chuyên trách theo từng công đoạn của một sản phẩm thanh toán (séc, ủy nhiệm chi, thanh toán liên ngân hàng…). Ngày nay, công nghệ đã trợ giúp cho việc tích hợp các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Do tài khoản khách hàng được quản lý tập trung nên khách hàng có thể đến bất kỳ chi nhánh nào, đến bất cứ quầy giao dịch nào để thực hiện bất kỳ giao dịch nào. Thậm chí, khách hàng có thể tự thực hiện giao dịch trên các máy trạm của ngân hàng hay sử dụng các loại thẻ thanh toán tại các điểm bán lẻ POS, máy ATM, PC, telephone, Internet để thực hiện các giao dịch với khách hàng khác có mở tài khoản tại hệ thống ngân hàng đó hay ở hệ thống ngân hàng khác một cách linh hoạt và tiện lợi.
5.2.2. Thanh toán liên ngân hàng
Trong quan hệ thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế, các Ngân hàng có thể ký kết các văn bản thoả thuận về việc thanh toán bù trừ giữa hai bên hoặc nhiều bên về thanh toán tiền nội địa hay thanh toán bù trừ về ngoại tệ. Các Ngân hàng mở tài khoản tại tiền gửi thanh toán cho nhau, quy định về loại tiền, hạn mức thấu chi, thời gian thấu chi, tất toán theo định kỳ, cách tính lãi … Đặc điểm thuận lợi là có thể tận dụng các thế mạnh trong thanh toán cho nhau ở những nơi Ngân hàng này chưa có chi nhánh nhưng Ngân hàng khác có lợi thế về ngoại tệ của mỗi Ngân hàng khác nhau, đảm bảo thanh toán nhanh chóng. Nó rất thuận lợi cho nhóm Ngân hàng lớn trong việc quản lý điều hành vốn tập trung tại trụ sở chính trong khi chưa thể mở rộng thanh toán bù trừ đa biên, tăng khả năng đảm bảo thanh toán, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn với mức tối ưu trước khi phải vay mượn trên thị trường tiền tệ hay vay chiết khấu tại Ngân hàng Trung ương.
Hiện nay, việc tổ chức thanh toán bù trừ song biên do các ngân hàng tự thỏa thuận và quyết toán thanh toán qua tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong tổ chức thanh toán bù trừ chứng từ và bù trừ điện tử liên ngân hàng. Đối với thanh toán quốc tế có Ngân hàng thanh toán quốc tế – IBS tổ chức bù trừ. Đặc biệt, đến đầu năm 2004, 55 ngân hàng thành viên (trong đó có 11 Ngân hàng trung ương) của CLS bank (Continuous Linked Settlement) đã tham gia mạng bù trừ đa tiền tệ (CAD, USD, EUR, JNY, GB, CHF và dự kiến sẽ có thêm 7 loại tiền nữa) nhằm giảm rủi ro, cung cấp tiện ích quản lý vốn trong ngày, tăng tính lỏng của vốn tiền tệ, giảm lỗi và giảm phí giao dịch.
Bù trừ qua mạng ATM, POS: Trong thập kỷ 80, một số Ngân hàng lớn thường đầu tư riêng cho mình một hệ thống ATM, các khách hàng của Ngân hàng nào chỉ được sử dụng thẻ tại các máy ATM của Ngân hàng đó. Sau này, các Ngân hàng đều nhận thấy việc sử dụng chung hệ thống thiết bị là tiết kiệm và cũng không ảnh hưởng lớn đến cạnh tranh nên cùng nhau góp vốn xây dựng các trung tâm xử lý thẻ hoặc sử dụng kỹ thuật để cùng khai thác mạng ATM của các Ngân hàng kết nối với nhau. Trung tâm xử lý thẻ có trách nhiệm quản lý hệ thống và xác định các giao dịch của mỗi Ngân hàng làm căn cứ thanh toán bù trừ về vốn cũng như phân bổ chi phí. Trên cơ sở liên kết giữa các Ngân hàng trong việc phát triển mạng lưới ATM, việc giao dịch và thanh toán của các khách hàng và Ngân hàng được mở rộng một cách nhanh chóng.
Ngân hàng Agribank Huyện Nông Cống đã có một trạm ATM rút tiền và còn có các loại thẻ VISA, MASTER, AMERICA EXPRESS, JCB CARD… là các loại thẻ tín dụng, thanh toán cho cá nhân trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Các khách hàng có thể tham gia làm thành viên các tổ chức phát hành các loại thẻ nói trên, khách hàng có thể nhận cung ứng hàng hoá, dịch vụ trong khoảng thời gian 24h/24 giờ/1 ngày, 7/7 ngày trong tuần, thanh toán trong nước (POS, EDP, ATM) cũng như tại các chi nhánh, đại lý .
5.2.3. Thanh toán quốc tế
Trong việc tổ chức thanh toán giữa các tổ chức tín dụng ở các quốc gia khác nhau để thực hiện các khoản thu chi liên quan đến hoạt động kinh tế chính trị – xã hội đều diễn ra qua việc xử lý các giấy tờ thanh toán nhất định gọi là nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
5.2.3.1. Phương thức chuyển tiền
Trong thanh toán quốc tế, một khách hàng (người trả tiền) có thể yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng hai cách: Chuyển tiền điện hay chuyển tiền bằng thư. Phân biệt nội dung 2 cách này là thời gian nhanh hay chậm, phí cao hay thấp. Nếu khách hàng chuyển tiền ra nước ngoài thì việc thanh toán thực hiện bằng ngoại tệ, nó được sử dụng chủ yếu trong thanh toán phi mậu dịch, các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá…
5.2.3.2. Phương thức uỷ thác thu hay nhờ thu
Đây là phương thức thanh toán, trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn tất nghĩa vụ xuất chuyển hàng hoá cho người nhập khẩu thì uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra. Phương thức nhờ thu gồm nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
5.2.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ
Trên cơ sở hợp đồng Thương mại đã ký kết, người nhập khẩu lập thủ tục xin mở thư tín dụng.
Ngân hàng mở thư tín dụng thông báo nội dung và chuyển thư tín dụng qua Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu là Ngân hàng thông báo.
Ngân hàng thông báo, báo tín cho người xuất khẩu về nội dung thư tín dụng đã mở.
Người xuất khẩu nếu thấy nội dung thư tín dụng phù hợp yêu cầu cần thì tiến hành xuất hàng hoá cho người nhập khẩu.
Sau khi xuất chuyển hàng hoá, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán gửi Ngân hàng mở thư tín dụng (qua Ngân hàng thông báo).
Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì thanh toán cho người xuất khẩu.
Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển giao bộ chứng từ cho người nhập khẩu.
Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì hoàn trả tiền cho Ngân hàng, nếu không, có quyền từ chối trả tiền.
5.2.3.4. Phương thức thư tín dụng
Là một sự thỏa thuận, trong đó một Ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng, sẽ trả một số tiền nhất định, cho một người thứ ba hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ ba ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người thứ ba này xuất trình cho Ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đã đề ra trong thư tín dụng. Các loại thư tín dụng Thương mại chủ yếu gồm: Thư tín dụng có thể huỷ ngang; Thư tín dụng không thể huỷ ngang; Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận; Thư tín dụng chuyển nhượng. Đây là một nghiệp vụ được các Ngân hàng đặc biệt quan tâm nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh của khách hàng trong điều kiện quốc tế hoá thị trường hiện nay.
Ngoài những phương thức trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khác (biên lai tín thác), hoặc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ thanh toán…. Việc thực hiện giao dịch có thể qua đường thư, telex hoặc mạng máy tính qua hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication): Hiệp hội tài chính viễn thông liên Ngân hàng toàn cầu. SWIFT được thành lập năm 1973 và đi vào hoạt động chính thức từ cuối năm 1977, trụ sở chính đặt tại thủ đô Bruxelles của nước Bỉ.
SWIFT là hiệp hội của các Ngân hàng với mạng lưới viễn thông an toàn, tiết kiệm và hiệu quả cao, quy mô hoạt động trên toàn thế giới. Đến nay đã có gần trên 150 thành viên quốc gia với hơn 4000 ngân hàng thành viên góp cổ phần, (không kể các thành viên phụ).
SWIFT là tổ chức hoạt động không vì lợi ích tự thân, cung cấp cho các Ngân hàng thành viên một mạng riêng để chuyển giao dữ liệu trên phạm vi toàn cầu, xử lý các giao dịch liên Ngân hàng quốc tế với các đặc điểm cơ bản: tiêu chuẩn (Standard), an toàn (Security), trách nhiệm tài chính (Finacial Liablity), hợp tác (Cooperation).
Khi nói đến SWIFT, thường hay nhắc đến việc tiêu chuẩn hoá. SWIFT sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Organization – ISO), ngược lại, ISO cũng cố gắng sắp xếp định dạng các bức điện trong thanh toán liên ngân hàng phù hợp với các khuôn mẫu do SWIFT đã đưa ra. Tất nhiên, các tiêu chuẩn của SWIFT cũng có quan hệ rất chặt chẽ với các quy chế của phòng Thương mại quốc tế Paris.
5.3. Thủ tục thanh toán trong nước
5.3.1. Thủ tục thanh toán:
Thủ tục thanh toán trong nước - Thanh toán bằng Ủy nhiệm chi:
5.2.2 Trình tự thực hiện
Bước 1: Khách hàng lập Ủy nhiệm chi theo mẫu quy định gửi Phòng Kế toán ngân quỹ .
Bước 2: Phòng Kế toán ngân quỹ Ngân Hàng tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra các thông tin có liên quan đến quá trình thanh toán của khách hàng. Nếu đủ điều kiện thanh toán theo quy định thì Phòng Kế toán ngân quỹ tiến hành thực hiện thanh toán theo lệnh của khách hàng và ghi Nợ, ghi Có vào tài khoản thích hợp. Nếu không đủ điều kiện thanh toán theo quy định thì Phòng Kế toán ngân quỹ trả lại chứng từ cho khách hàng, từ chối thanh toán và nêu rõ 5.3.3 Cách thực hiện
Trực tiếp tại trụ sở Sở giao dịch hoặc trụ sở chi nhánh, Phòng giao dịch .
5.3.4. Hồ sơ
Thành phần hồ sơ
Ủy nhiệm chi (03 liên)
Số lượng hồ sơ: 01 bộ
5.3.5. Thời hạn giải quyết:
Ngay trong ngày nếu đủ điều kiện thanh toán.
5.3.6. Đối tượng thực hiện:
Cá nhân; Tổ chức
5.3.7. Cơ quan thực hiện
Cơ quan có thẩm quyền quyết định: Giám đốc Ngân Hàng cấp tỉnh, cấp huyện.
Cơ quan hoặc người có thẩm quyền được uỷ quyền hoặc phân cấp thực hiện (nếu có):
Cơ quan trực tiếp thực hiện: Phòng Kế toán Ngân quỹ NHCSXH cấp tỉnh, cấp huyện.
Cơ quan phối hợp (nếu có).
Phí dịch vụ thanh toán theo biểu phí
5.3.8. Căn cứ pháp lý
Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Quyết định số 16/2003/QĐ-TTg ngày 22/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Quyết định 226/2002/QĐ - NHNH ngày 26/3/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc Ban hành Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Quyết định số 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 08/10/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. về việc Hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán trong hệ thống ngân hàng.
( thiếu 3 tác phẩm nghiên cứu, mỗi tác phẩm phân tích theo 3 mục tiêu: tóm tắt tp, đóng góp, hạn chế)
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Sơ lược về phương pháp nghiên cứu
1.1. Đối tượng nghiên cứu
Uỷ nhiệm chi thuộc hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, cùng với các hình thức thanh toán bằng séc, chuyển tiền điện tử, uỷ nhiệm thu, yhư tín dụng, thẻ thanh toán, ngân phiếu thanh toán.
1.2. Phạm vi nghiên cứu
Uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán tại một chi nhánh Ngân Hàng, hoặc giữa các chi nhánh ngân hàng cùng hoặc khác hệ thồng trong phạm vi cả nước.
( phạm vi thời gian?)
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp trực quan
Dùng phương pháp này chúng ta chỉ mới quan sát được thực tế rất ít những việc làm trong ngân hàng, ngân hàng có nhiều công việc cần độ bảo mật cao, dùng phương pháp này sẽ kém phần hiệu quả. ( quan sát ở đâu? Khi nào?)
1.3.2. Phương pháp lý luận
Dùng thông tin từ những nguồn khác để phân tích như các bảng mẫu, các giấy tờ có liên quan đến quy trình thanh toán trong kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại. ( nguồn gốc các thông tin lấy từ đâu?)
1.3.3. Phương pháp điều tra
Sau đó lên kế hoạch điều tra để tiện cho việc nghiên cứu và là cơ sở dữ liệu tập trung và sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quản lý của Ngân Hàng.
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Lấy số liệu từ Ngân Hàng mà sinh viên thực tập. ( số liệu minh họa đâu?)
1.4. Kế hoạch nghiên cứu
Kế hoạch nghiên cứu được thực hiện trong thời gian thực tập tại ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống.
Từ ngày 07/3/2011 đến ngày 16/5/2011.
Kế hoạch nghiên cứu là khoảng thời gian thực tập tại Ngân Hàng, dựa trên phương pháp nghiên cứu được áp dụng tại ngân hàng.
2. Tiến hành nghiên cứu
2.1. Tiến hành nghiên cứu trực quan
Cảm nhận , quan sát sự thay đổi hàng ngày của nền kinh tế với hướng phát triển vượt bậc ảnh hưởng tới quá trinh công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
Mục đích: Tìm ra các cách thức thanh toán mà người dân địa phương áp dụng.
2.2. Tiến hành nghiên cứu lý luận
Thu thập thông tin dữ liệu liên quan tới hoạt động thanh toán trong ngân hàng, từ đó tìm ra nét riêng trong các hình thức thanh toán tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Nông Cống_ Tỉnh Thanh Hóa.
2.3. Phương pháp thu thập, điều tra dữ liệu
Được tiến hành trong suốt thời gian thực tập từ ngày 07.3 đến ngày 16.5 tại chi nhánh, sau đó là tình hình khảo sát thực tế tại các hộ gia đình. Ngoài ra còn tham khảo tại sách báo, mạng internet.
3. Kết quả nghiên cứu:
Qua quá trình thực tập tại Ngân Hàng đã thu thập được những số liệu, chứng từ có liên quan đến hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi kết quả được trình bày hết trong báo cáo thực tập.
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN UỶ NHIỆM CHI TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN NÔNG CỐNG TỈNH THANH HOÁ.
1. Thực trạng thanh toán bằng tiền mặt ở chi nhánh. ( chương 4 làm lại toàn bộ theo đúng đề cương mẫu)
Theo khảo sát của cơ quan chức năng vào năm 2003 cho thấy thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến. Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu vực dân cư. Tại 740 doanh nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì các doanh nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch của họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; những doanh nghiệp có ít hơn 25 công nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh nghiệp nhà nước mới chỉ hơn 80% giao dịch được thực hiện qua ngân hàng; hầu hết các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn tư nhân đều trả lương bằng tiền mặt. Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ kinh doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền mặt; số người sử dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và ổn định. Từ năm 2001 đến nay, tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán so với tổng phương tiện thanh toán năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%; năm 2005 là 19%; năm 2006 là 17,21%, năm 2007 là 16,36%, năm 2008 là 14,6%; tuy tỷ trọng hàng năm đã giảm nhưng còn ở mức cao hơn so với thế giới; tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc là nước phát triển trung bình nhưng cũng chỉ ở mức là 10%.
Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt chưa thuận tiện
Theo tác giả Đặng Đức Anh trong bài “Dịch vụ tài chính – ngân hàng Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập” đăng tải trên Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội số 11/2006, tỷ trọng giá trị thanh toán bằng các phương tiện thanh toán (%) như sau:
Ví dụ: Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh trong ba năm gần đây (đơn vị: triệu đồng).
Chỉ tiêu
31/12/2008
31/12/2009
31/12/2010
Tổng nguồn
6998,097
8253,248
7451,045
Nguồn ngăn hạn
4901,920
5612,334
5316,156
Nguồn trung .dài hạn
2096,177
2649,914
2134,889
So sánh kết quả các năm
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng năm 2009 tăng 1255,151 triệu đồng so với năm 2008. Trong đó nguồn ngắn hạn tăng 710,414 triệu đồng chiếm 14,5%, nguồn trung và dài hạn tăng 544,737 triệu đồng chiếm 26%.
Tương tự, tổng dư nợ năm 2010 giảm 802,203 triệu đồng đồng thời giảm 9,7%. Trong đó nguồn ngắn hạn giảm 296,178 triệu đồng tương ứng với 5.3%, nguồn trung và dài hạn giảm 506,025 triệu đồng ứng với 19,2%.
Một trong các phương tiện thanh toán khá phổ biến hiện nay là thẻ thanh toán giao dịch qua máy ATM, máy POS; tuy số lượng thẻ, máy ATM, máy POS do các ngân hàng thương mại (NHTM) phát hành, lắp đặt ngày càng nhiều nhưng tác dụng giảm khối lượng tiền mặt vào lưu thông còn rất khiêm tốn. Theo thống kê, khoảng 80% giao dịch qua ATM là để rút tiền mặt. Theo người dân phản ánh, việc thanh toán tiền mua hàng, trả phí dịch vụ qua máy POS còn rất hạn chế vì không có đủ máy quét cho nhiều loại thẻ của nhiều ngân hàng. Để trả tiền mua hàng, khách hàng phải rút tiền mặt từ máy ATM lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị. Do hệ thống POS lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị của các ngân hàng hiện nay chưa được kết nối với các hệ thống của ngân hàng khác, dẫn đến ít tiện ích cho các thẻ ATM nội địa của các ngân hàng Việt Nam.
Séc là một trong những phương tiện thanh toán đã có lâu đời ở các nước phát triển, dựa trên Công ước thế giới về Séc năm 1933, các nước đều ban hành Luật Séc, hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Séc, để việc sử dụng séc được nhanh chóng, thuận tiện không chỉ trong cùng địa phương và cùng tổ chức phát hành séc, các nước đều có Trung tâm xử lý thanh toán bù trừ séc ngoài hệ thống và khác địa phương do Ngân hàng Trung ương hoặc Hiệp hội Ngân hàng quản lý, nhờ vậy, phương tiện thanh toán bằng séc được sử dụng phổ biến ở nhiều nước phát triển. Mỹ là nước sử dụng thanh toán điện tử trong hoạt động ngân hàng sớm nhất.
Còn ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm. Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền hoặc chuyển vào tài khoản nhưng hiện nay, tỷ lệ thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt; nguyên nhân thanh toán bằng séc bị hạn chế là do chưa có quy định bắt buộc về hạn mức phải thanh toán bằng séc mà hiện chỉ “động viên” dùng séc và một nguyên nhân khác là sự lo ngại của người bán hàng sợ tài khoản của người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn đến rủi ro. Việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức nếu khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống.
Thương mại điện tử (TMĐT) còn nhiều rào cản trong những năm gần đây, TMĐT đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Hiện có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối internet. Tuy nhiên, do thói quen mua sắm của người tiêu dùng và khâu thanh toán khiến TMĐT Việt Nam chậm phát triển; người mua và người bán vẫn thực hiện theo phương thức “tiền trao cháo múc”, vì người tiêu dùng lo ngại mua phải sản phẩm không dùng được hoặc chất lượng không đạt như mong muốn. Hệ thống pháp lý bảo vệ thông tin cá nhân vẫn còn thiếu những quy định, chế tài cụ thể về bảo vệ đối tượng sử dụng TMĐT. Nhìn chung, việc phát triển TMĐT ở địa bàn hiện còn mang tính tự phát, đầu tư cho TMĐT ở mỗi doanh nghiệp phụ thuộc vào tầm nhìn, quan điểm của lãnh đạo doanh nghiệp, có nhiều cá nhân, doanh nghiệp thành lập những website TMĐT (sàn giao dịch, website phục vụ việc cung cấp thông tin, website rao vặt, siêu thị điện tử…) để giành vị thế tiên phong, tuy nhiên, tình hình chung là các website này chưa thực sự được marketing tốt và phát triển tốt để mang lại lợi nhuận kinh tế đáng kể.
2. Nguyên nhân
Theo các chuyên gia kinh tế trong và ngoài ngành Ngân hàng, có nhiều lý giải về tình trạng thanh toán ở ngân hàng Agribank Huyện Nông Cống hiện nay:
Cơ sở pháp lý còn nhiều lỗ hổng và thiếu đồng bộ: Năm 1991 sau khi Hội đồng Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh về Ngân hàng, hệ thống ngân hàng từ một cấp chuyển sang hệ thống ngân hàng hai cấp: các giao dịch thanh toán trong nền kinh tế thông qua NHNN, các tổ chức tín dụng, Kho bạc Nhà nước, để thực hiện Pháp lệnh và phù hợp với những đòi hỏi của các tổ chức, cá nhân trong giai đoạn đổi mới, Chính phủ ban hành Nghị định số 91/CP ngày 25/11/1993 về tổ chức công tác thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) thay thế Nghị định số 04/CP ngày 7/3/1960 về thể lệ TTKDTM và Nghị định số 15/CP ngày 31/5/1960 quy định những nguyên tắc thanh toán bằng tiền mặt. Sau đó, ngày 20/9/2001, Chính phủ ban hành Nghị định số 64/2001/NĐ-CP về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán thay cho Nghị định số 91/CP, đến nay, Nghị định này vẫn còn hiệu lực thi hành; dù tên gọi hai nghị định có khác nhau nhưng nội dung cả 2 nghị định trên đều quy định “ Các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán có nghĩa vụ đáp ứng đầy đủ, kịp thời các nhu cầu về gửi và rút tiền mặt của người sử dụng dịch vụ thanh toán phù hợp với quy định của pháp luật”. Sau khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế nói chung, đổi mới hoạt động ngân hàng nói riêng thì tất cả những quy định về quản lý tiền mặt đã từng được sử dụng trước đó đều bị loại bỏ hoặc các văn bản quy phạm pháp luật mới ban hành nhưng không đi vào cuộc sống. Do vậy, tiền mặt đã nghiễm nhiên trở thành một công cụ thanh toán không hạn chế về đối tượng và phạm vi sử dụng. Đây cũng chính là nguyên nhân để tạo ra một thói quen trong dân chúng, trong các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế trong nền kinh tế, đó là “việc ưa thích sử dụng tiền mặt trong thanh toán”. Có những quan điểm cho rằng trong kinh tế thị trường thì Nhà nước không thể bắt ép các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế phải sử dụng phương thức này hoặc phương thức khác trong thanh toán, việc sử dụng tiền mặt, séc hay uỷ nhiệm chi… để thanh toán cho nhau. Đây là quan điểm hết sức sai lầm, bởi dù là kinh tế thị trường nhưng vì lợi ích chung của nền kinh tế, mọi công dân, doanh nghiệp đều phải tuân thủ pháp luật, trong đó có pháp luật về thanh toán. Thực tế cho thấy rằng, sau khi thực hiện công cuộc đổi mới kinh tế, ngành Ngân hàng đã có nhiều đổi mới rất quan trọng, nhưng trong lĩnh vực thanh toán thì không những chưa được đổi mới để phát triển mà còn gần như bị buông lỏng. Do vậy, tình trạng nền kinh tế tiền mặt ở Việt Nam đã kéo dài trong nhiều năm là do không có một hành lang pháp lý ngay từ đầu; Nhà nước không quản lý và cũng không kiểm soát việc thanh toán giữa các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và giữa các tầng lớp dân cư với nhau.
Luật là các công cụ chuyển nhượng có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2006 nhưng đến nay, Chính phủ chưa ban hành Nghị định quy định thi hành, tuy NHNN đã ban hành Quyết định số 44/2006/QĐ-NHNN ngày 5/9/2006 quy định về thủ tục nhờ thu hối phiếu qua người thu hộ, đến nay trên thực tế, hối phiếu chưa được các tổ chức kinh tế sử dụng trong giao dịch thương mại và chiết khấu tại các NHTM, ngày 11/7/2006, Thống đốc NHNN ra Quyết định 30/2006/QĐ-NHNN về Quy chế cung ứng và sử dụng séc, nhưng đến nay, séc vẫn chưa được nhiều người sử dụng, vì NHNN vẫn chưa thành lập được các trung tâm bù trừ séc, qua đây có thể thấy Luật Các công cụ chuyển nhượng đã ban hành từ hơn 3 năm nhưng chưa đi vào cuộc sống.
Hành lang pháp lý trong lĩnh vực thanh toán chưa hoàn thiện, mặc dù ngày 19 tháng 11 năm 2005 vừa qua, Luật Giao dịch điện tử đã được Quốc hội thông qua, tạo hành lang pháp lý cho các nghiệp vụ, dịch vụ ngân hàng hiện đại, tạo điều kiện cho ngân hàng tham gia sâu rộng vào các hoạt động TMĐT, cung cấp các dịch vụ thanh toán cho các chủ thể tham gia kinh doanh trực tuyến trên mạng trong phạm vi toàn xã hội. Tuy nhiên, để Luật này đi vào cuộc sống không chỉ của riêng ngành Ngân hàng mà của toàn xã hội. Hệ thống văn bản pháp lý liên quan đến lĩnh vực thanh toán vẫn còn những điểm cần phải tiếp tục được chỉnh sửa, thay thế để có thể phù hợp với thông lệ quốc tế và nhu cầu của người sử dụng, để cả các loại hình tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán không phải là ngân hàng, các tổ chức công nghệ thông tin cung ứng những sản phẩm, dịch vụ hỗ trợ cho các ngân hàng, các tổ chức làm dịch vụ thanh toán, chẳng hạn như những công ty cung cấp giải pháp công nghệ qua mạng Internet, các công ty kinh doanh dịch vụ thẻ, các tổ chức chuyên làm dịch vụ thanh toán bù trừ:
Cơ sở hạ tầng về công nghệ chưa đáp ứng được yêu cầu về thanh toán ủy nhiemj chi, có một thực tế trong nhiều năm trước đây, cơ sở vật chất của nhiều ngân hàng còn nhiều yếu kém do không có nhiều vốn để đầu tư trang bị máy móc thiết bị và công nghệ nên khi thực hiện công tác thanh toán giữa các tổ chức kinh tế thường chậm trễ, ảnh hưởng đến chu chuyển vốn của nền kinh tế nói chung và từng doanh nghiệp, cá nhân nói riêng. Thời gian gần đây, trước sự đòi hỏi của thị trường và cạnh tranh trong dịch vụ ngân hàng, tình hình đầu tư và ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành Ngân hàng đã được cải thiện.
3. Gỉải pháp mở rộng thanh toán uỷ nhiệm chi
Trước thực trạng trên, theo đề nghị của NHNN, Chính phủ phê duyệt Đề án bằng thanh toán uỷ nhiệm chi giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến năm 2020 theo Quyết định số 291/2006/QĐ-TTg ngày 29/12/2006, giao NHNN, các Bộ, ngành, địa phương liên quan phối hợp tổ chức triển khai xây dựng và thực hiện các đề án thành phần.
Những kết quả bước đầu đạt được
Có thể thấy mục tiêu và các chỉ tiêu của Đề án TTKDTM giai đoạn 2006 – 2010 và định hướng đến năm 2020 là khá toàn diện và sự phân công, phân nhiệm giữa các Bộ, ngành có liên quan khá chi tiết, đến nay, sau hơn 2 năm triển khai, đã mang lại kết quả đáng khích lệ. Để triển khai Đề án thành phần thuộc nhóm thanh toán ủy nhiệm chi trong khu vực công, NHNN đã phối hợp với Bộ Tài chính trình Chính phủ ban hành Nghị định số 161/2006 ngày 29/12/2006 quy định về thanh toán bằng ủy nhiệm chi của các cơ quan, tổ chức sử dụng vốn NSNN và tổ chức sử dụng vốn nhà nước; để hướng dẫn thi hành Nghị định, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư về quản lý thu chi tiền mặt qua hệ thống Kho bạc Nhà nước, trong đó quy định nội dung, đăng ký số tiền cần rút, định mức tồn quỹ, giá trị số tiền thanh toán cho việc mua hàng hóa, dịch vụ. Ngành Ngân hàng đã tăng cường đầu tư phát triển mạnh cơ cở hạ tầng về công nghệ thông tin, quyết toán tức thời và dung lượng ngày càng cao, giữ vai trò là hệ thống thanh toán “xương sống” của quốc gia, tạo cơ hội mở rộng các dịch vụ ngân hàng hiện đại, thay đổi tư duy kinh doanh ngân hàng truyền thống và tạo thuận lợi cao nhất cho mọi đối tượng khách hàng. Hệ thống này đã sẵn sàng kết nối với Hệ thống thanh toán của Kho bạc Nhà nước, Hệ thống thanh toán bù trừ và quyết toán chứng khoán và các hệ thống cần thiết khác. Các NHTM đã hoàn thành dự án thanh toán điện tử nội bộ kết nối giao dịch thanh toán trong hệ thống giữa các chi nhánh, đẩy mạnh triển khai hệ thống Core Banking để hiện đại hóa hệ thống thanh toán nội bộ, mở rộng mạng lưới, không ngừng đầu tư vào cơ sở hạ tầng phục vụ cho hoạt động thanh toán. Nhiều phương tiện thanh toán mới, hiện đại, tiện ích ứng dụng công nghệ cao như thẻ ngân hàng, thanh toán qua Internet, điện thoại di động, ví điện tử… được các NHTM cung ứng, đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế. NHNN đã trình và được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Đề án xây dựng Trung tâm chuyển mạch thẻ thống nhất”, qua đó thực hiện kết nối các hệ thống ATM của các liên minh thẻ hiện hành thành một hệ thống thống nhất trên toàn quốc nhằm tăng tính thuận tiện cho người sử dụng dịch vụ thẻ ngân hàng. Bộ Tài chính đang phối hợp với các cơ quan liên quan xây dựng Thông tư hướng dẫn thu và quản lý các khoản thu NSNN qua Kho bạc Nhà nước; trong đó, quy trình thu NSNN bằng tiền mặt sẽ được cải tiến bằng cách người nộp thuế nộp tiền mặt vào ngân hàng nơi Kho bạc Nhà nước mở tài khoản, triển khai thu thuế qua hệ thống thanh toán điện tử. Ngoài ra, Bộ Tài chính cũng đang tiến hành khảo sát và nghiên cứu xây dựng quy trình thanh toán tiền mua hàng hóa, dịch vụ công qua thẻ ngân hàng và sẽ thí điểm ở một số thành phố lớn, ngành Thuế đang có kế hoạch ký hợp đồng với các NHTM để thu thuế qua tài khoản của khách hàng nộp cho Kho bạc. Mới đây, Bộ Tài chính đã có Công văn số 10220/BTC-TCT, hướng dẫn về điều kiện chứng từ thanh toán qua ngân hàng để khấu trừ, hoàn thuế GTGT. Theo đó, điều kiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào đối với hàng hoá, dịch vụ mua vào từ 20 triệu đồng trở lên phải có chứng từ thanh toán qua ngân hàng, NHNN đã trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 20/2007/CT-TTg ngày 24/8/2007 về trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN. Theo NHNN, việc trả lương qua tài khoản cho các đối tượng hưởng lương từ NSNN đã hoàn thành giai đoạn 1 với kết quả khả quan, từ cuối năm 2007 đến cuối năm 2008, số đơn vị trả lương qua tài khoản đã tăng hơn 4 lần, từ 5.181 lên 21.562 đơn vị, số người nhận lương qua tài khoản đã tăng 3,7 lần, từ 298.920 lên đến 1.132.442 người. Để đáp ứng yêu cầu việc chi trả lương qua tài khoản theo Chỉ thị của Chính phủ, nhiều NHTM đã đầu tư nhiều tỷ đồng để lắp đặt hệ thống máy ATM, máy POS và phát hành nhiều loại thẻ ATM với nhiều tiện ích khác nhau.
Hạn chế
Trong quá trình triển khai thanh toán ở khu vực công, theo nhận định của NHNN, bên cạnh mặt đạt được vẫn còn những tồn tại, hạn chế, hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông phục vụ thanh toán của ngân hàng còn chưa đáp ứng được nhu cầu về hoạt động thanh toán trong nền kinh tế, quy định thu phí giao dịch qua các tổ chức cung ứng dịch vụ nhằm hạn chế thanh toán tiền mặt nhưng đến nay, Trong quá trình triển khai Chỉ thị 20 đã nảy sinh một số hầu như chưa thực hiện. vướng mắc, chất lượng dịch vụ trả lương qua tài khoản và chăm sóc khách hàng chưa tốt (máy ATM hết tiền, gặp trục trặc kỹ thuật, việc giải quyết khiếu nại, khiếu kiện chưa nhanh chóng, kịp thời. Một số đề án thành phần về thanh toán ủy nhiệm chi chưa được triển khai như đề án chi trả trợ cấp ưu đãi xã hội và trợ cấp xã hội qua tài khoản do phần lớn các đối tượng này hầu hết là người cao tuổi, thương binh, bệnh binh đi lại gặp nhiều khó khăn, các đề án thành phần khác như: đề án hoàn thiện khuôn khổ pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế.
Sau hơn 2 năm triển khai Đề án đến nay, thanh toán ủy nhiệm chi tuy được cải thiện tại ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống Tỉnh Thanh Hóa. “Tiền mặt vẫn là phương thức thanh toán chủ yếu, chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực công, doanh nghiệp và dân cư. Chất lượng, tiện ích mới trong thanh toán ủy nhiệm chi còn hạn chế, các tiện ích thiết thực và phổ biến (như thanh toán tiền điện, nước, điện thoại, truyền hình cáp) chưa được triển khai mạnh trên thực tế. Các dịch vụ thanh toán trực tuyến như Mobile Banking, Internet Banking, Ví điện tử… mới chỉ dừng lại ở quy mô nhỏ hẹp, chưa triển khai trên diện rộng để đáp ứng nhu cầu thanh toán nhỏ lẻ của khách hàng”.
4. Đánh giá
4.1. Những tiêu cực
Hiện nay ở Việt Nam uỷ nhiệm chi được áp dụng rộng rãi, do vậy thuận lợi cho khách song cũng gây ra nhiêu bất lợi ngoài tầm kiểm soát cho cả ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống và khách hàng trong địa bàn. Đó là:
Việc rò rỉ thông tin.
Rủi ro trong thanh toán như rủi ro kỳ hạn.
Hạn chế
Để hạn chế những tiêu cực thì phải hạn chế nhưng nguyên nhân phát sinh tiêu cực như:
Kiểm tra, kiểm soát các hoạt động, các nghiệp vụ trong hệ thông ngân hàng.
Phòng ngừa rủi ro thanh toán.
4. 2. Đánh giá tích cực
4.2.1. Cơ hội
Uỷ nhiệm chi có ưu điẻm thuận tiện cho khách hàng sử dụng và thuận tiện cho việc áp dụng công nghệ thông tin trong ngân hàng một cách nhanh chóng và rộng rãi.
4.2.2 Tiềm năng:
Hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi đang ngày càng được mở rộng và hoàn thiện bởi những ưu điểm rất lớn như tiết kiệm chi phí, thuận tiện cho khách hàng sử dụng.
PHẦN BA: PHẦN KẾT LUẬN
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận
Trong xã hội phát triển như hiện nay, yêu cầu con người đặt ra ngày càng cao, hoạt động trao đổi hàng hoá dịch vụ và các giao dịch khác trong nền kinh tế cuối cùng cũng được kết thúc bằng khâu thanh toán. Để thực hiện thanh toán một cách thuận lợi và tiết kiệm các đối tác thương không thanh toán trực tiếp với nhau mà thông qua Ngân Hàng. Do vậy uỷ nhiệm chi được áp dụng một cách rộng rãi.
2. Ý nghĩa
Đề tài mở rộng và hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán uỷ nhiệm chi, ngoài việc áp dụng vào trong ngân hàng phục vụ cho việc thanh toán chi trả tiền hàng, dịch vụ, và các khoản thanh toán khác giữa những tác nhân trong nước và quốc tế được thực hiện thông qua hệ thống ngân hàng. 1.2 Đề xuất ý kiến
Qua một thời gian nghiên cứu và thực hiện, em đã hoàn thành đề tài mặc dù vẫn còn nhiều thiếu sót, nhưng cũng từ những thiếu sót đó em cũng đã tích luỹ được một số kinh nghiệm, nâng cao khả năng ren luyện bản thân trong học tập.
Song em cũng có ý kiến lên nhà trường về phương pháp dạy và học nhăm nâng cao năng lực làm việc thực tiễn cho sinh viên khi tốt nghiệp.
Em mong nhận được sự góp ý và giúp đỡ của thầy cô và các bạn.
( thiếu mục định hương tương lai của NH)
3. Một số kiến nghị
Để thực hiện vai trò quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng, trong đó có tổ chức thanh toán, xây dựng khung pháp lý về thanh toán bằng tiền mặt và phí tiền mặt cần đảm bảo lợi ích của nền kinh tế, lợi ích của Nhà nước và nhân dân, là cơ sở để mọi thành viên trong xã hội tuân thủ. Vì vậy, khung pháp lý về thanh toán uỷ nhiệm chi không tránh khỏi có những quy định mang tính hành chính, văn bản pháp lý đó không thể thỏa mãn ý muốn của mọi đối tượng, nhất là những phần tử xấu muốn “đục nước béo cò” trong việc thanh toán qua ngân hàng; các đạo luật khác cùng vậy, không thể làm vừa lòng tất cả mọi người, khi tình hình chính trị, kinh tế, xã hội, công nghệ thay đổi sẽ có những khe hở nhất định, không tránh khỏi bị lợi dụng để “ lách luật”, khi đó, cơ quan quản lý nhà nước lại phải sửa đổi, bổ sung cho phù hợp. Mở rộng thanh toán trong nền kinh tế bằng công nghệ nên chỉ coi là giải pháp hỗ trợ để thúc đẩy nhanh trong giao dịch thanh toán chứ không thể coi là “phao cứu sinh” cho tình trạng thanh toán ủy nhiệm chi hiện nay. Kinh nghiệm của nước ngoài cho thấy, trong lĩnh vực thanh toán qua ngân hàng có nhiều luật khác nhau như Luật Thanh toán bằng tiền mặt, Luật Séc, Luật Hối phiếu, Luật Phòng chống rửa tiền… đều được xây dựng đồng bộ. Do vậy thanh toán uỷ nhiệm chi ở Quốc gia này đã có bước phát triển vượt bậc so với các Quốc gia khác và đã được áp dụng đáng kể.
Ở cấp độ cao hơn, đề nghị NHNN trình Chính phủ có lộ trình xây dựng Luật Giao dịch bằng tiền mặt trong nền kinh tế mà không cần nhiều nghị định như các đề án thành phần, cùng với xây dựng Luật Séc, Luật Hối phiếu thay cho Luật Các công cụ chuyển nhượng hiện nay chưa đi vào cuộc sống, Luật Phòng chống rửa tiền và tài trợ khủng bố thay cho Nghị định 74/2005/NĐ-CP ngày 7/6/2005 về phòng, chống rửa tiền. Nếu thực hiện được sẽ giúp hạn chế thanh toán bằng tiền mặt trong nền kinh tế và giảm được hoạt động kinh tế “ngầm” đang đe dọa đến an ninh quốc gia, là mối bận tâm của các nhà quản lý và sự lo ngại công chúng trong lĩnh vực phòng chống tham nhũng, rửa tiền, trốn thuế và các họat động phi pháp khác; tiết kiệm được chi phí in ấn, vận chuyển, bảo quản tiền, đảm bảo an toàn tài sản của Nhà nước và công dân; giúp cho hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế và có điều kiện để NHTM mở chi nhánh hoạt động ở các nước phát triển.
Trên đây là một số ý kiến về công tác thanh toán ủy nhiệm chi trong ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống Tỉnh Thanh Hóa.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
(1) Tác giả Nguyễn Ngọc Lâm (số 7/ 2005), “Kinh nghiệm của bạn và giải pháp của Việt Nam”, Tạp chí Tin học ngân hàng.
(2) TS. Trần Minh Ngọc, ThS. Phan Thuý Nga( 13- 2006). “Thanh toán không dùng tiền mặt ở Việt Nam”, Tạp chí Ngân hàng.
(3) PGS.,TS. Lê Đình Hợp( năm 2004), “Phương hướng và giải pháp thanh toán không dùng tiền mặt trong khu vực dân cư ở Việt Nam đến năm 2020, Kỷ yếu các công trình khoa học ngành Ngân hàng”, NXB Thống kê.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BÁO CÁO HOÀN CHỈNH _ Nguyễn Thị Len.doc