Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh

Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay bằng cách khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước

doc22 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1840 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ biện chứng giữa giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh sinh ngày 19/5/1890 trong một gia đình trí thức yêu nước, nguồn gốc nông dân ở làng Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, nơi có truyền thống đấu tranh kiên cường chống ách thống trị nặng nề của thực dân phong kiến. Hoàn cảnh xã hội và giáo dục gia đình đã ảnh hưởn sâu sắc đến Hồ Chủ tịch ngay từ thời niên thiếu. Với tinh thần yêu nước nồng nàn, với sự sáng suốt về chính trị, Người đã bắt đầu suy nghĩ về những nguyên nhân thành bại của các phong trào yêu nước hồi bấy giờ và quyết tâm đi tìm con đường đúng đắn để cứu dân, cứu nước. Cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh là một cuộc đời trong sáng cao đẹp của mộtngười cộng sản vĩ đại, một anh hùng dân tộc kiệt xuất, một chiến sĩ quốc tế lỗi lạc, đã đấu tranh không mệt mỏi và hiến dâng cả đời mình vì Tổ quốc, vì nhân dân, vì lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, vì độc lập, tự do của các dân tộc, vì hòa bình và công lý trên thế giới. Trong suốt cuộc đời hoạt động của mình Bác đã cống hiến rất nhiều cho dân tộc Việt Nam, Bác đã để lại cho chúng ta bài học vô cùng có giá trị để đưa đất nước giành được độc lập, tự do. Với việc nghiên cứu học thuyết Mac-Lenin nhưng không dập khuôn máy móc mà vận dụng một cách tạo Người đã đưa đất nước đi theo con đường đúng đắn nhất để giải phóng dân tộc. Một trong những vấn đề hay nhất, được nhiều nhà nghiên cứu phân tích cũng như được các nhà chính trị đánh giá cao chính là về: “Mối quan hệ biện chứng giữa giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh”. Tư tưởng Hồ Chí Minh là “kết quả sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác- Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại” Luận điểm sáng tạo đầu lớn đầu tiên của Bác là luận điểm về chủ nghĩa thực dân và vấn đề giải phóng dân tộc. Đề cương Về vấn đề dân tộc và thuộc địa của V.I. Le-nin, viết năm 1920, đã thức tỉnh Nguyễn Ái Quốc, đưa Người đến với chủ nghĩa Mac- Lenin, vì đây là chủ nghĩa duy nhất quan tâm đến vấn đề thuộc địa. Nhưng tư tưởng của Người có những điều gì độc đáo? Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp của là gi? Tại sao Người lại không làm theo tư tưởng của Lenin về vấn đề dân tộc và thuộc địa trong khi Người luôn coi học thuyết Mac- Lenin là học thuyết dẫn đường, soi sáng và làm nên tảng cho con đường giải phóng dân tộc. Chính vì những lý do trên em chọn đề tài: “Biện chứng về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh” làm đề tài cho bài tập lớn bộ môn tư tưởng Hồ Chí Minh. Nội dung chính của bài tập lớn gồm 4 phần chính như sau: I. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp-dân tộc. II. Nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề giai cấp III. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp IV. Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trong tư tưởng Hồ Chí Minh Trong quá trình nghiên cứu, mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhưng do kiến thức còn hạn chế nên bài làm của em không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em mong nhận được ý kiến đóng góp của thầy giáo. Em xin chân thành cảm ơn. PhẦN I. QUÁ TRÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC 1.1. Quan hệ giai cấp - dân tộc cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX: Từ nửa sau của thế kỷ XIX, CNTB đã chuyển thành chủ nghĩa đế quốc. Chúng đặt ách đô hộ lên giai cấp công nhân và nhân dân lao động các nước nhược tiểu. Nhiều mâu thuẫn trên thế giới xuất hiện. Cách mạng Nga năm 1917 thắng lợi là thể hiện sự bùng phát của các mâu thuẫn này tại Nga. Cách mạng Nga mở ra thời đại mới trong lịch sử loài người, thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH, giai cấp công nhân trỏ thành giai cấp trung tâm của thời đại. Bản chất của QHGC - DT trên thế giới do đó cũng được xác định bởi bản chất của giai cấp công nhân. Chịu ảnh hưởng của QHGC - DT trên thế giới, QHGC - DT ở Việt Nam từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX đã thay đổi. Trong 5 giai cấp của xã hội thì chưa có giai cấp nào đi tiên phong trong phong trào dân tộc, dân chủ xã hội Việt Nam, dân tộc Việt Nam lúc bấy giờ là một xã hội có kết cấu giai cấp lỏng lẻo, xộc xệch, rệu rã và mất hết sinh lực. Đó chính là sự khủng hoảng về vai trò lãnh đạo của một giai cấp đối với xã hội. Tiếp xúc với thực tiễn của QHGC - DT thời kỳ này, TTHCM về QHGC - DT được hình thành. 1.2. Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và chủ nghĩa Mác - Lênin về quan hệ giai cấp - dân tộc. Lịch sử Việt Nam cho đến cuối thế kỷ XIX về cơ bản là lịch sử chống ngoại xâm. Để chống lại sự xâm lược từ bên ngoài, dân tộc Việt Nam đã đoàn kết đi vào tâm thức của người Việt trở thành chủ nghĩa yêu nước. Chủ nghĩa này là động lực tinh thần thôi thúc cả dân tộc đứng lên bảo vệ giang sơn tổ quốc, tạo nên sức sống trường tồn cho dân tộc Việt Nam và ảnh hưởng sâu sắc đến Hồ Chí Minh. Sau khi gặp chủ nghĩa Mác - Lênin, chủ nghĩa yêu nước của Hồ Chí Minh lại mang nội dung mới. Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề dân tộc bao giờ cũng gắn liện với vấn đề giai cấp, do một giai cấp tiên phong giải quyết. Sự hình thành và phát triển của dân tộc đều nhằm đáp ứng lợi ích của một gia cấp nhất định. CNMLN kết luận rằng: trong thời đại ngày nay, dân tộc gắn liền với giai cấp công nhân và để làm tròn sứ mệnh lịch sử của mình, giai cấp công nhân phải nắm lấy ngọn cờ dân tộc. PHẦN II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ QUAN HỆ GIAI CẤP - DÂN TỘC 2.1. Cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo Chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống và CNMLN về QHGC - DT có thể nói đã được kết hợp nhuần nhuyễn trong TTHCM, thể hiện thành quan điểm của Người về QHGC - DT. Vận dụng sáng toạ CNMLN vào việc phân tích kết cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam, Hồ Chí Minh đã nhận ra rằng trong các giai cấp của xã hội Việt Nam thì công nhân nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc đều có kẻ thù chung là đế quốc và phong kiến. Do đó theo Hồ Chí Minh cách mạng phải là sự nghiệp của toàn dân. Tức là của 4 giai cấp này. Đồng thời khi phủ nhận vai trò lãnh đạo cách mạng của giai cấp nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc thì Hồ Chí Minh cũng khẳng định vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân đối với cách mạng Việt Nam. Người cho rằng lãnh đạo được hay không là do đặc tính giai cấp chứ không phải do số lượng nhiều hay ít của giai cấp đó. Giai cấp công nhân là giai cấp có nhiều đặc tính tiến bộ và có hệ tư tưởng CNMLN nên giai cấp công nhân ắt phải là người lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Nhưng Hồ Chí Minh cũng cho rằng, giai cấp công nhân Việt Nam muốn hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình thì phải lập nên Đảng cộng sản. Đảng là điều kiện quan trọng hàng đầu để cách mạng giành thắng lợi. Xuất phát từ nhận thức như thế, Hồ Chí Minh đã nỗ lực chuẩn bị mọi mặt để thành lập Đảng cộng sản Việt Nam năm 1930. Đồng thời với việc xác định lực lượng cách mạng là toàn dân, giai cấp lãnh đạo cách mạng là công nhân, Hồ Chí Minh cũng xác định vai trò, vị trí của các giai cấp trong cấu trúc của lực lượng cách mạng qua các giai đoạn lịch sử. Trước khi Đảng ra đời, Người xác định: động lực của cách mạng là công nhân, nông dân; bầu bạn của cách mạng là tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Nhưng qua thử thách của thời gian, động lực của cách mạng được Hồ Chí Minh xác định là công nhân, nông dân, tiểu tư sản. Tư sản dân tộc là lực lượng cách mạng. Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Trên cơ sở xác định vai trò vị trí các giai cấp như thế, Hồ Chí Minh đã kêu gọi toàn dân đoàn kết, thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Có thể nói, những lời kên gọi vang dậy núi sông của Người đối với toàn thể quốc dân đồng bào là quá trình thể hiện cụ thể tư tưởng của Người về lực lượng cách mạng. Nhờ đó cách mạng Việt Nam đã giành thắng lợi to lớn trong giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Như vậy dựa vào CNMLN, kết hợp với chủ nghĩa yêu nước Việt Nam truyền thống, Hồ Chí Minh đã phân tích cơ cấu xã hội - giai cấp ở Việt Nam, thấy được vai trò vị trí của các giai cấp này. Trên cơ sở đó Người khẳng định: cách mạng là sự nghiệp của toàn dân do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đó là luận điểm cơ bản TTHCM về QHGC - DT. 2.2. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - con đường giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc. Theo Hồ Chí Minh, ở Đông dương giải phóng dân tộc, giành độc lập cho dân tộc là điều kiện hàng đầu để giải quyết giai cấp. Bởi vì Hồ Chí Minh cho rằng, trong các mâu thuẫn cơ bản của xã hội Việt Nam thì mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với chủ nghĩa đế quốc là mâu thuẫn chủ yếu. Mặt khác nếu vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là hai yếu tố song sinh thì trong mọi giai đoạn của lịch sử Việt Nam, vấn đề dân tộc luôn luôn chiếm vị trí nổi bật. Chính vì vậy Hồ Chí Minh cho rằng độc lập dân tộc là điều kiện hàng đầu để giải phóng giai cấp. Đó là một bộ phận trong tư tưởng của Người về QHGC - DT. Nhưng sau khi giành được độc lập thì dân tộc sẽ thực hiện quyền tự quyết theo con đường nào? TBCN hay XHCN? theo Hồ Chí Minh ĐLDT gắn liền với CNXH thì mới giải quyết triệt để giai cấp và dân tộc. Người viết: "Làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản". Chiến lược này vừa đáp ứng được nguyện vọng trước mắt, vừa đáp ứng được nguyện vọng mục tiêu lâu dài của nhân dân nên đã lôi cuốn được đông đảo nhân dân đi theo, tạo ra lực lượng vô cùng to lớn cho cách mạng. KHi đó quyền lãnh đạo của giai cấp công nhân được khẳng định và củng cố vững chắc. Tức là toàn dân được giải phóng đến đâu thì giai cấp công nhân được giải phóng đến đó. QHGC - DT sẽ luôn luôn hài hoà, xoắn xít bên nhau. Có thể nói rằng tính chất và giá trị của nền độc lập của Việt Nam sau cách mạng Tháng tám năm 1945 đã được thay đổi nhiều. Dân tộc được giải phóng đến đâu thì giai cấp sẽ được giải phóng theo nấc thang tương ứng đến đó. QHGC - DT theo đó cũng được giải quyết tốt hơn của giai đoạn sau so với giai đoạn trước. Như thế theo Hồ Chí Mính, ĐLDT gắn liền với CNXH là con đường giải quyết triệt để QHGC - DT. Nếu ĐLDT gắn liền với CNXH là con đường giải quyết triệt để QHGC - DT thì ngược lại, Hồ Chí Minh cũng cho rằng: CNXH là điều kiện bảo đảm độc lập thực sự, hoàn toàn. Đó là một nền độc lập về mọi mặt và nhân dân có quyền tự quyết. Người viết: "chỉ có CNXH, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên toàn thế giới khỏi ách nô lệ". Bởi vì Hồ Chí Minh cho rằng học thuyết CNXH rất phù hợp với văn hoá và các giá trị truyền thống của Việt Nam, rất dễ cắm sâu vào xã hội Việt Nam, giúp Việt Nam giành được độc lập hoàn toàn, độc lập thực sự. Trên thực tế, sự du nhập của học thuyết CNXH vào Việt Nam, thông qua Hồ Chí Minh đã giúp Việt Nam giành được độc lập năm 1945 và giải phóng Miền Bắc năm 1954. Sau 1954, Nam Việt Nam vẫn chưa được giải phóng. Hồ Chí Minh cho rằng Miền Bắc phải đi lên CNXH thì mới tạo điều kiện giải phóng Miền Nam, hoàn thành ĐLDT trên cả nước. Chế độ XHCN ở Miền Bắc là nền tảng cho sự nghiệp thống nhất này. Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ đã kiểm chứng quan điểm này của Hồ Chí Minh. Như vậy vận dụng sáng tạo CNMLN vào điều kiện lịch sử cụ thể Việt Nam, TTHCM về QHGC - DT đã được xác lập. Nội dung của nó là khẳng định lực lượng cách mạng là toàn dân; người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân; phương hướng tiến lên của cách mạng là CNXH. Phần III. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giai cấp - dân tộc vào sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay 3.1. Thực trạng giải quyết quan hệ giai cấp - dân tộc trong thời kỳ đổi mới vừa qua và những vấn đề đặt ra Vấn đề dân tộc và giai cấp trong thời kỳ đổi vừa qua đã được giải quyết đạt những thành tựu và những hạn chế còn tồn đọng như sau: Về thành tựu: Đảng đã từng bước hoàn thiện đường lối đổi mới, xác định những nét chính của mô hình CNXH ở Việt Nam với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Bản chất và linh hồn của những chủ trương đổi mới trên đây của Đảng ta là nắm vững ngọn cờ ĐLDT và CNXH, thực hiện lợi ích dân tộc trên quan điểm, lập trường giai cấp công nhân. Trong thời kỳ 1991 - 2000, đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội. Nền kinh tế đất nước chuyển từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường, định hướng XHCN; Hệ thống chính trị hoàn thiện từng bước; bản sắc văn hoá dân tộc và nhiều giá trị văn hoá được phát huy. Về khuyết điểm tồn tại: Nền kinh tế nước ta còn đứng trước nguy cơ tụt hậu xa hơn nữa so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Nều kinh tế phát triển chưa cân đối; tăng trưởng kinh tế chưa thực sự gắn liền với tiến bộ, công bằng xã hội; Trên lĩnh vực chính trị tư tưởng đang diễn ra xu hướng tuyệt đối hoá lợi ích và các giá trị vật chất, xem nhẹ và coi thường các giá trị tinh thần; chủ nghĩa cá nhân thực dụng đang lây lan với quy mô khá rộng. Nhìn chung đát nước đứng trước nhiều nguy cơ lớn, đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. Những thành tựu và khuyết điểm yếu kém tồn tại trong sự nghiệp đổi mới đang đặt ra nhu cầu là: phát huy những thành tựu đã đạt được, đẩy lùi những nguy cơ to lớn, đe doạ lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc. 3.2 Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp ở Việt Nam Nhận định được tình hình trong nước, đặc biệt là những mâu thuẫn gay gắt trong xã hội Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những quan điểm vận dụng sáng tạo học thuyết Mac- Lenin. Do kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp phù hợp với đặc điểm và điều kiện cụ thể Việt Nam. Chủ nghĩa Mac- Lenin đề cao nhiệm vụ giải phóng giai cấp sau đó mới đến giai quyết vấn đề giải phóng dân tộc Tư tưởng Hồ Chí Minh lại đề cao việc giải phóng dân tộc trước, coi đó là nền tảng, là vấn đề trước mắt, cần giải quyết trước. Sự khác biệt này nảy sinh chính là do việc nhận định chính xác tình hình mâu thuẫn trong xã hội nước ta. Nhận định của chủ tịch Hồ Chí Minh: Một là, trong hoàn cảnh đất nước ta có rất nhiều các tầng lớp, lợi ích cũng khác nhau nhưng đều có một kẻ thù chung là chủ nghĩa đế quốc là bọn tay sai. Trong lịch sử dân tộc ta, mỗi khi tổ quốc bị xâm lăng mỗi người dân đều đồng lòng đứng lên giết giặc. Tinh thần yêu nước đã ngấm vào máu của từng người con đất Việt. Chẳng thế mà ông cha ta đã làm nên một Bạch Đằng giang lẫy lừng , một vua tôi nhà Trần ba lần đại phá quân Mông Nguyên, rồi cả những Ngọc Hồi, Đống Đa vang danh non song đất nước. Trong tất cả những chiến thắng đó, tại thời điểm nào trong xã hội cũng đều tồn tại giai cấp, đều tồn tại nhưng mâu thuẫn của người bị trị và kẻ cai trị. Nhưng trên hết vẫn là tinh thần đồng lòng đánh đuổi giặc xâm lăng. Một dân tộc anh hùng như vậy, sao có thể chịu cảnh áp bức bóc lột của đế quốc, bè lũ tay sai và sự bạc nhược của triều đình nhà Nguyễn. Chính vì lý do đó mà vấn đề giải phóng dân tộc cần phải được đặt lên hàng đầu. Hai là, nước ta là nước phong kiến nữa thuộc địa, nền kinh tế còn nghèo nàn lạc hậu phát triển chưa cao. Nông nghiệp vẫn chiếm hơn 90% nền kinh tế. Do vậy, sự phân hóa giai cấp chưa rõ rệt, mâu thuẫn giai cấp chưa thật sự gay gắt như ở các nước phương Tây. Ba là, việc giải phóng dân tộc là nhiệm vụ tất yếu phải thực hiện nhưng cần phải khai thác thiệt để yếu tố dân tộc trong đấu tranh, cách mạng không thể dừng lại ở giải phóng dân tộc mà còn phải giải phóng con người, giai cấp. Xóa bỏ áp bức dân tộc mà không xóa bỏ được tình trạng áp bức bóc lột giai cấp thì nhân dân lao động vẫn chưa được giải phóng. Chỉ có xóa bỏ tận gốc tình trạng áp bức, boc lột, chỉ có thiết lập một nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân mới đảm bảo người lao động có quyền làm chủ, mới thực hiện được sự phát triển hài hòa giữa cá nhân và xã hội, giữa độc lập dân tộc với tự do và hạnh phúc của con người. 3.3. Một số phương hướng, giải pháp nhằm tăng cường quan hệ giai cấp - dân tộc ở nước ta hiện nay Thứ nhất: Kiên định con đường XHCN với mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vấn đề QHGC - DT hiện nay thể hiện tập trung ở đường lối và quan điểm phát triển. Con đường mang tính quy luật của Việt Nam là con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Nó cho phép kết hợp hài hoà lợi ích dân tộc với lợi ích giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Lịch sử dân tộc ta hơn 70 năm qua đã chứng minh tính đúng đắn của con đường này. Tuy nhiên thực tiễn của phong trào XHCN thế giới hiện nay làm cho một số người ở nước ta mất niềm tin vào con đường ĐLDT gắn liền với CNXH. Họ muốn quay sang phía CNTB. Nhưng tỉ lệ giữa các nước tư bản phát triển trên tổng số các nước thế giới không chứng minh được tính ưu việt của CNTB. Hiện nay CNXH thế giới đang khủng hoảng, nhưng nó sẽ rút ra được những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn sau. Và ở nước ta ĐLDT gắn liền với CNXH là con đường phát triển tất yếu của lịch sử. Thứ hai: Củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh công nhân - nông dân - trí thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản. Trước yêu cầu của thời kỳ mới, hơn lúc nào hết, chúng ta phải ra sức củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân, tạo thành sức mạnh và động lự to lớn để xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN. Tinh thần cơ bản, nhiệm vụ bao trùm của đại đoàn kết dân tộc trong giai đoạn này phải được tiến hành theo quan điểm của đại hội IX của Đảng đã chỉ ra. Muốn vậy cần phải quán triệt mục tiêu giữ vững độc lập thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, hướng tới dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh; quán triệt đại đoàn kết trong các chủ trương chính sách của Đảng, trong xây dựng bộ máy nhà nước, trong xây dựng và mở rộng mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đáp ứng lợi ích, nguyện vọng chính đáng của các giai cấp, tầng lớp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội; gắn quyền lợi với trách nhiệm, lợi ích riêng của mỗi người với nghĩa vụ công dân, trong đó lợi ích dân tộc là trung tâm. Thứ ba: Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là bước cụ thể hoá tiếp theo trong chủ trưởng củng cố và tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc, được tiến hành trên lĩnh vực kinh tế. Phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN là dựa vào công cụ kinh tế thị trường để thực hiện mục tiêu CNXH. Trên thực tế mức tăng trưởng của kinh tế nước ta thời kỳ 1991 - 2002 theo mô hình này đạt được khá cao, bình quân mỗi năm tăng hơn 7%, nhưng còn rất nhiều hạn chế. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay nếu không bảo đảm tăng trưởng kinh tế cao, ôn định theo mô hình kinh tế này thì sẽ đe doạ lợi ích giai cấp và dân tộc. Vì vậy chúng ta phải tiếp tục phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng XHCN để thực hiện mục tiêu chiến lược của sự nghiệp đổi mới. Muốn vậy đòi hỏi chúng ta phải tập trung đổi mới và phát triển có hiệu quả kinh tế nhà nước; mở rộng và đa dạng hoá các hình thức kinh tế nhà nước; đa dạng hoà và áp dụng một cách phổ biến các hình thức kinh tế tư bản nhà nước; hướng dẫn khuyến khích kinh tế cá thể, tiểu chủ phát triển; khuyến khích kinh tế tư bản tư nhân đầu tư vào sản xuất, yên tâm làm ăn lâu dài. PHẦN IV. MỐI QUAN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA VẤN ĐỀ DÂN TỘC VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 4.1 Tư tưởng biện chứng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp là một trong những nhân tố đảm bảo thành công của cách mạng Việt Nam, một trong những đóng góp xuất sắc của Người vào kho tàng lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin. Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của Người ngay từ những năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Như mọi người đều thấy rõ, trước khi học thuyết Mác – Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại. Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đó thất bại chính là do bế tắc về đường lối, mặc dù các bậc lãnh tụ của những phong trào yêu nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình, nhưng do họ không nhận thức được xu thế của thời đại, nên không thấy được giai cấp trung tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân - giai cấp đại biểu cho một phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử và thời đại, nên không thể đem lại kết quả và triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển của xã hội Việt Nam. Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu nước, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm đường cứu nước. ''Công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước, khai phá con đường giải phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới''. Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước, qua khảo sát thực tế ở các nước trên các châu lục Âu, Phi, Mỹ và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã rút ra nhận xét: chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả “chính quốc” cũng như ở thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ (1776); Pháp (1789), Nguyễn Ái Quốc nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy nêu khẩu hiệu ''tự do'', ''bình đẳng'', nhưng không đưa lại tự do, bình đẳng thực sự cho quần chúng lao động. Người viết: Tiếng là cộng hoà, dân chủ kì thực trong thì nó bóc lột công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Tuy khâm phục các cuộc cách mạng ấy, nhưng Nguyên Ái Quốc cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế, Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia hoạt động đấu tranh trong phong trào giải phóng của các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến với cách mạng Tháng Mười Nga, đến với V.I. Lênin; như một tất yếu lịch sử. Cách mạng Tháng Mười Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc biệt, sau khi đọc ''Sơ thảo lần thứ nhất Luận cương về dân tộc và thuộc địa” của V.I. Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn mà cách mạng Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: ''Chỉ có chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và những người lao động trên thế giới khỏi ách nô lệ''; rằng: ''Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản''. Kết luận trên đây của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định một hướng đi mới, nguyên tắc chiến lược mới, mục tiêu và giải pháp hoàn toàn mới, khác về căn bản so với các lãnh tụ của các phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam; đưa cách mạng giải phóng dân tộc vào quỹ đạo của cách mạng vô sản, tức là sự nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư tưởng của chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu của cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng XHCN. Người chỉ rõ: ''Cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn''. Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải phóng giai cấp, bền bỉ chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc địa, đã phát triển lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong phong trào công nhân ở Pháp, Người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa giai cấp công nhân và nhân dân lao động ''chính quốc'' với giai cấp công nhân và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sô-vanh nước lớn của các dân tộc đi thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị. Trong Đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp (1920), Nguyễn Ái Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc tế, theo đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các dân tộc thuộc địa. Trong nhiều tham luận tại các Đại hội quốc tế và các bài viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác - Lênin, phê bình một cách kiên quyết và chân thành những sai lầm, khuyết điểm của các Đảng Cộng sản chính quốc. Các Đảng Cộng sản này, tuy thừa nhận 21 điều kiện của Quốc tế cộng sản, trong đó Điều 8 quy định các Đảng Cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và hoạt động một cách thiết thực giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc; nhưng trên thực tế hoạt động rất ít, do không nhận thức đúng tầm quan trọng của vấn đề thuộc địa. Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong ''Chính cương vắn tắt'' do Nguyên Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: ''Chủ trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản''. Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, với Hồ Chí Minh, sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng XHCN. Cuộc cách mạng này kết hợp trong bản thân nó tiến trình của hai sự nghiệp giải phóng: giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết trên lập trường của giai cấp công nhân - điều đó phù hợp với xu thế thời đại và lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi tới thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng XHCN. Đặc điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho bước chuyển sang thời kỳ quá độ lên CNXH; tức là, cách mạng XHCN là bước kế tiếp ngay khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi và giữa hai cuộc cách mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng dân tộc mới có điều kiện để tiến lên CNXH và chỉ có cách mạng XHCN mới giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc, mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc cho mọi tầng lớp nhân dân, mới có độc lập dân tộc thực sự. Như chúng ta đều biết, Hồ Chí Minh đã đi từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lênin. Từ đó, Người đã phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước truyền thống Việt Nam, trong sự thống nhất với chủ nghĩa quốc tế vô sản. Bởi vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đúng như Ph. Ăng-Ghen đã nói: Những tư tưởng dân tộc chân chính... đồng thời cũng là những tư tưởng quốc tế chân chính. Sự phát triển tự tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ đạo sự phát triển của thực tiễn cách mạng Việt Nam, trong sự thúc đẩy lẫn nhau giữa dân tộc và giai cấp, ý thức giác ngộ về cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc là tiền đề quyết định nhất, cũng là động lực chủ yếu để Nguyễn Ái Quốc đến với chủ nghĩa Mác - Lênin và tiếp thu quan điểm mác-xít về giai cấp. Đó chính là nhân tố đảm bảo tính khoa học và cách mạng cho sự phát triển tinh thần dân tộc đúng đắn ở người chiến sĩ cộng sản Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh. Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách mạng: giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin, mà còn là sự phát triển sáng tạo và có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng đắn, sáng tạo, đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho tàng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin; đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh của cách mạng nước ta trong suốt bảy thập kỷ qua. Bởi lẽ: Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng khít của cách mạng vô sản. Cuộc cách mạng đó phải đưa vào lực lượng của nhân dân, nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, nếu chỉ đưa vào lực lượng của riêng giai cấp công nhân, thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà theo Người, chỉ có phát động cả dân tộc tham gia mới biến sức mạnh dân tộc thành lực lượng vô địch. Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân tộc (mâu thuẫn địa chủ - nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không tách rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa toàn thể dân tộc với các thế lực đế quốc xâm lược. Ở giai đoạn đầu của cách mạng, cần đặt vấn đề dân tộc, độc lập dân tộc lên trên hết. ''Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc, không đòi được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được''. ''Chính lập trường và lợi ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc''. Ở đây rõ ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết theo lập trường giai cấp công nhân, chứ đâu phải là “hy sinh cái nọ cho cái kia” như có người từng cố chứng minh. Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc như ''hai cánh của một con chim'', phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi, thậm chí có thể giành thắng lợi trước, từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở các nước tư bản. Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đáng tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người, trong đó có một vài người của Quốc tế cộng sản cũng không thừa nhận. Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi chế độ thuộc địa, dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên CNXH và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm đất nước, tránh giáo điều, dập khuôn những hình thức, bước đi, biện pháp của nước khác. 4.2. Vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này. Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. KẾT LUẬN Trong thực tiễn công cuộc xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hố Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì, thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này. Tuy thế, trong những năm gần đây, ở nước ta đã nảy sinh ý kiến cho rằng: mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp luận chứng trong chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh chỉ đúng với một số nước khác nào đó, còn ở Việt Nam vốn là nước thuộc địa, nửa phong kiến, vấn đề dân tộc bao giờ cũng chi phối, khi nào Đảng nhấn mạnh vấn đề giai cấp thì đều dẫn đến sai lầm. Từ đó, họ đề xuất ý kiến theo hướng nhấn mạnh một chiều vấn đề dân tộc, tách vấn đề dân tộc khỏi vấn đề giai cấp, hạ thấp ý nghĩa quan trọng, bức thiết của vấn đề giai cấp, không lấy quan điểm giai cấp làm quan điểm cơ sở lập trường để xem xét, giải quyết vấn đề dân tộc. Theo họ, nước ta hiện nay chỉ nên đề ra và giải quyết những vấn đề dân tộc, còn vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Mục tiêu ''dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh'' được họ đồng tình, thưng giải thích theo hướng phi giai cấp, nghĩa là không nhất thiết phải theo định hướng XHCN. Thực chất là họ bác bỏ đường lối giải quyết vấn đề dân tộc theo lập trường của giai cấp công nhân. Quan điểm nêu trên đi ngược với con đường mà Hồ Chí Minh, Đảng ta và nhân dân ta đã lựa chọn, và rõ ràng là không phù hợp với thực tiễn của lịch sử cách mạng Việt Nam. Thực tiễn đó đã chỉ ra rằng, trong bất cứ giai đoạn nào, sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta đều phải kết hợp nhuần nhuyễn lợi ích giai cấp với lợi ích dân tộc; trong chủ nghĩa yêu nước Việt Nam luôn luốn gắn bó hữu cơ với lý tưởng của giai cấp công nhân Việt Nam. Nền độc lập thật sự của dân tộc; tự do, sự giàu mạnh, văn minh và hạnh phúc của nhân dân chỉ có thể đạt được một cách bền vững trong sự nghiệp cách mạng theo mục tiêu, lý tưởng của giai cấp công nhân. Bởi vậy, ngay từ khi khởi xướng và lãnh đạo công cuộc đổi mới, Đảng ta đã xác định rõ: đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu XHCN mà là quan niệm đúng đắn hơn về CNXH và thực hiện mục tiêu ấy bằng những hình thức; bước đi và biện pháp phù hợp. Nói cách khác, giữ vững định hướng XHCN là nguyên tắc cơ bản của quá trình đổi mới. Thực tiễn cách mạng Việt Nam từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đến nay, Đảng ta đã ngày càng cụ thể hoá và hoàn thiện đường lối đổi mới toàn diện, mà thực chất là nhận thức đúng đắn và sâu sắc hơn về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp đúng đắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp trong công cuộc xây đựng CNXH ở nước ta. Văn kiện của Đảng ta tại Đại hội lần thứ IX đã xác định rõ: “mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây đựng và bảo vệ Tổ quốc được sự lãnh đạo của Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”. Nhìn lại lịch sử dân tộc ta trong thế kỷ XX, một thế kỷ vận động và phát triển mau lẹ và phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt lẫn trong những khó khăn của hoà bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Ngày nay, tư tưởng Hồ Chí Minh đang thể hiện giá trị trường tồn nhất là trong bối cảnh các dân tộc đang đứng trước những thách thức cực kì nguy hiểm khi các thế lực hiếu chiến dựa vào tiềm lực quân sự hiện đại tiến hành chiến tranh xâm lược những nước có chủ quyền, bất chấp luật pháp. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc trong công cuộc đổi mới hiện nay bằng cách khơi dậy sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước và tinh thần dân tộc, nguồn động lực mạnh mẽ để xây dựng và bảo vệ đất nước Trong sự nghiệp đổi mới, càng phải xác định rõ các nguồn lực và phải phát huy tối đa các nguồn nội lực (bao gồm con người, trí tuệ, truyền thống dân tộc, truyền thống cách mạng, đất đai, tài nguyên, vốn liếng...), trong đó yếu tố quan trọng nhất, quyết định nhất vẫn là nguồn lực con người với tất cả sức mạnh thể chất và tinh thần của nó. Con người Việt Nam vốn có nhiều truyền thống tốt đẹp. Trong công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, truyền thống quý báu ấy cần được tiếp tục khơi dậy mạnh mẽ, biến nó thành một nguồn nội lực vô tận để đưa đất nước vượt qua mọi nguy cơ, thử thách, vững bước tiến lên. Điều đó càng cho thấy sự cần thiết phải tiếp tục nghiên cứu, học tập, quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp trong tình hình mới, làm cơ sở vững chắc cho việc vận dụng, hoạch định, tổ chức và thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, để đưa dân tộc ta vượt qua mọi thử thách, vững bước trong quá trình xây dựng một đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình tư tưởng Hồ Chí Minh 2.Viện Nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, biên niên tiểu sử, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1993 3.Viện nghiên cứu chủ nghĩa Mác – Lênin và Tư tưởng Hồ Chí Minh, Hồ Chí Minh, toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc25712.doc
Tài liệu liên quan