Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ có ảnh hưởng tích cực đến công cuộc XĐGN và XĐGN cũng sẽ góp phần mạnh mẽ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đất nước giàu mạnh là khát vọng của toàn dân, xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ của cả đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà Nước nhằm đưa kinh tế đất nước phát triển sánh vai cùng năm châu bốn biển như lời căn dặn của Hồ Chủ Tịch.
36 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình xoá đói giảm nghèo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lớp dân cư được cải thiện rõ rệt, mức sống chung của nhân dân năm 1998 so với 1990 tăng lên 1,5 lần. Tổng số hộ đói nghèo năm 1998 là 2378050 hộ chiếm 15,7% tổng số hộ trên toàn quốc. Phần lớn số hộ nghèo sống ở vùng nông thôn(91,5%) trong đó tập trung đông nhất là ở khu vực miền núi xa xôi hẻo lánh, đồng bào dân tộc thiểu số.
Số hộ nghèo theo vùng
Vùng
1997
%
1998
%
Miền núi phía bắc
638400
25,32
507445
22,39
Đồng bằng sông hồng
302460
9,81
272160
8,38
Bắc trung bộ
544926
27,48
500225
24,62
Duyên hải miền trung
358620
22,44
291815
17,80
Cao nguyên trung bộ
180400
27,84
171915
25,65
Đông nam bộ
103900
5,50
91400
4,75
Đồng bằng sông cửu long
493750
15,65
489090
15,38
Cả nước
2622906
17,68
2387050
15,70
Nguồn bộ LĐ TB - XH
Hàng năm số người phải cứu tế đột xuất do thiên tai, mất mùa vào khoảng 1- 1,5 triệu người. Tỷ lệ tái đói nghèo năm 1998 khoảng 3,5- 5% tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo.
Giải pháp
Trong công cuộc đổi mới, đất nước ta có bước phát triển, tăng trưởng đáng mừng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện. Song nước ta vẫn là một nước nghèo. Để thoát nghèo, đi đôi với các giải pháp về kinh tế chúng ta phải tập trung giải quyết cho được vấn đề việc làm, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Bởi lẽ đến nay, vẫn còn 80% dân số và hơn 70% lực lượng lao động của cả nước ở khu vực nông thôn. Đặc biệt có đến 90% số hộ nghèo đang sinh sống ở nông thôn và như vậy vấn đề nhân lực, nguồn lực, tiềm năng đất đai, điều kiện tự nhiên nước ta gắn liền với vùng nông thôn rộng lớn. Muốn đất nước phát triển, tăng trưởng bền vững, vấn đề cơ bản là phải giải quyết được việc làm, xoá đói nghèo. Đây không chỉ là khâu then chốt mà còn là vấn đề tình cảm và trách nhiệm đối với nhân dân. Vậy giải pháp nào cho vấn đề việc làm, xoá đói ở nông thôn nước ta.
Trước hết phải tập trung sức lực và nguồn lực phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, bền vứng với cơ cấu hợp lý. Chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đặc biệt giống cây mới có năng suất, chất lượng cao cho phù hợp với thị trường trong nước và xuất khẩu, phù hợp với từng vùng, từng miền, thậm chí từng địa phương, từng vùng sinh thái, trên cơ sở hiệu quả kinh tế để thay đổi nếp nghĩ, nếp làm cũ, hướng vào thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá. Gĩư vững và tăng diện tích trồng lúa môt cách hợp lý, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và dành một phần cho xuất khẩu. Diện tích hoa màu, ngô, khoai, sắn, đậu đỗ… còn tiềm năng lớn để phát triển, đi đôi với diện tích phải hướng vào thâm canh, tăng sản lượng và chất lượng hàng hoá đáp ứng yêu cầu chăn nuôi và xuất khẩu, ở một số vùng do điều kiện khí hậu, đất đai, thời tiết, nguồn nước, đất chua phèn trồng lúa bếp bênh cần nhanh chóng chuyển đổi sang cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hoặc nên trồng thuỷ sản cho hiệu quả kinh tế cao. Với nền khí hậu nhiệt đới, đất đai khá màu mỡ, nước ta có điều kiện phát triển những cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như: cao su, cà phê, chè, thuốc lá, bông, đay, cam, bưởi, soài….Nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp còn có khả năng mở rộng, phát triển hàng trăm ngàn ha ở cả 3 miền, một số cây nguyên liệu đã và đang thay thế cho nhập ngoại như bông, mía đường, cao su. Nhiều sản phẩm cây công nghiệp, cây ăn quả xuất khẩu đạt giá trị cao. Cần quan tâm nhiều hơn tới nông nghiệp trên cơ sở quy hoạch tổng thể, dự báo thị trường giá cả, yêu cầu tiêu thụ trong nước và nước ngoài để phát triển bền vững, lập quỹ hỗ trợ bình ổn giá nông sản, khắc phục cho được tính tự phát, khi đến mùa được giá thì đua nhau nuôi trồng, khi giá hạ thì chặt phá gây tốn kém sức người, sức của của nhân dân.
Ngành thuỷ sản nước ta có khả năng phát triển gấp đôi, gấp ba so với hiện nay. Đây cũng là ngành kinh tế trọng yếu thu hút nhiều lao động. Có chương trình, kế hoạch phát triển đồng bộ, bền vững cả nuôi trồng, đánh bắt gắn với chế biến, nâng cao chất lượng hàng hoá thuỷ sản. Chúng ta vừa có khả năng mở rộng thị trường, vừa có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, với hơn 3000 km bờ biển, hàng triệu ha mặt biển, đầm phá, sông, hồ là tiềm năng rất lớn cho ngành thuỷ sản phát triển toàn diện cả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, gắn tiêu dùng trong cả nước với xuất khẩu, phát triển vững chắc nghề muối nhất là muối công nghiệp thay thế nhập khẩu để ổn định việc làm cao cho nhân dân. Đi đôi với phát triển kinh tế biển, chúng ta cũng còn nhiều tiềm năng về rừng, kinh tế rừng thể hiện sinh thái rừng, sản phẩm hàng hoá từ rừng rất phong phú đa dạng, cùng với hơn 133 ngàn trang trại, mô hình nông lâm kết hợp, gắn sản xuất với chế biến, xuất khẩu vừa giải quyết vấn đề kinh tế, vừa bảo vệ môi trường sinh thái, thực hiện tốt việc phân vùng- rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh tế để giao đất, giao rừng sẽ giúp cho hàng triệu người dân sống bằng nghề rừng và kinh tế rừng. Để nông nghiệp nước ta phát triển bền vững đòi hỏi phải đầu tư phát triển nền nông nghiệp và công nghiệp chế biến vừa đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn, vừa đáp ứng yêu cầu chế biến nông lâm hải sản cho người tiêu dùng trong nước và xuất khuẩu để nâng cao giá tri sản phẩm hàng hoá, xoá dần xuất khẩu sản phẩm thô. Trước hết coi trọng chế biến lương thực, thực phẩm, mỗi năm xuất khẩu từ 4- 5 triệu tấn gạo, hàng triệu tấn hải sản, cao su, cà phê, mía đường… sản phẩm hoa quả, lâm sản có giá trị cao. Quan tâm sản xuất máy móc, công cụ cầm tay, máy xay sát chế biến lương thực, thực phẩm cho nhân dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc để giảm bớt lao động nặng nhọc, tốn nhiều thời gian công sức cho phụ nữ, trẻ em và cải thiện đời sống nhân dân. Một yếu tố hết sức quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, phát triển toàn diện bền vững, chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, gắn sản xuất với chế biến với xuất khẩu là tăng cường sự đầu tư của Nhà Nước đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư của địa phương và nhân dân để nhanh chóng tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nông thôn phát triển, trước hết là cơ sở hạ tầng: đường giao thông, trường học, trạm xá, chợ, trung tâm cụm xã đặc biệt là hệ thống hồ đập, kênh mương thuỷ lợi đảm bảo vững chắc nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, cây công nghiệp và sinh hoạt đời sống nhân dân. Thoả mãn nhu cầu vay vốn của nhân dân để phục vụ cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế trang trại, đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính cả đại gia súc, gia súc và gia cầm. Vấn đề quan trọng và có tính quyết định là vấn đề cán bộ cơ sở, đặc biệt là các xã miền núi, hải đảo đang hết sức khó khăn. Cán bộ vừa thiếu vừa yếu, bất cập với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Nguyên nhân triển khai chậm dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn là do cán bộ. Những năn qua Nhà Nước rất quan tâm, đầu tư nhiều chương trình dự án, nhiều chủ trương chính sách hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm, vay vốn nhưng sự chuyển biến ở các xã này chưa theo mong muốn, tình hình kinh tế – xã hội, đời sống của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn. Các tỉnh, thành phố cần tăng cường cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm về giúp đỡ xã. Đồng thời có kế hoạch đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ tại chỗ. Đối với miền núi, vùng đồng bào dân tộc cần phải chọn con em ở trường nội trú để đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ cho xã. Trước mắt huy động, bổ sung các tri thức trẻ về công tác ở các xã đặc biệt khó khăn, vừa đáp ứng nhiệm vụ XĐGN, xây dựng nông thôn mới, vừa đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ cho địa phương.
Ngoài những giải pháp cơ bản trên, cần có chương trình, kế hoạch rút bớt lực lượng lao động trẻ từ nông thôn đi đào tạo, dạy nghề để vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ CNH- HĐH đất nước nói chung, CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng và đáp ứng yêu cầu lao động cho các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt chương trình phát triển các làng nghề và nghề truyền thống để thu hút lao động nông nhàn ở khu vực nông thôn. Đồng thời chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực tham gia thị trường xuất khẩu lao động đang ngày càng mở rộng, có kế hoạch đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn để đáp ứng kịp thời khi có nhu cầu. Thực hiện hướng này, hàng năm từ khu vực nông thôn có thể rút ra hàng triệu lao động vừa góp phần giải quyết vấn đề thiếu việc làm ở khu vực nông thôn vừa góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động ở nước ta.
Giải quyết vững chắc vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn sẽ nhanh chóng xoá được đói nghèo và thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển và như vậy nươc ta mới phát triển, sớm thoát khỏi một nước nghèo.
2. Các yếu tồ ảnh hưởng đến đói nghèo ở nước ta
Nguồn lực hạn chế là một trong những yếu tố cơ bản của đói nghèo. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói.
Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hưóng tăng lên, đặc biệt là ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trông với giá trị cao hơn. Đa số người nghèo vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp, lựa chọn phươg án sản xuất tự cung, tự cấp. Do vậy, giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường, từ đó đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó. Bên cạnh đó đa số người nghèo chưa có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như : khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động thực vật, nhiều yếu tố đầu vào như : điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón…. đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cân nguồn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân làm giảm khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…. Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng tăng lên nhiều song vẫn còn khá nhiều người nghèo không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt không có tài sản thế chấp, những người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm họ càng nghèo hơn. Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt các thông tin về pháp luật, chính sách và thị trường đã làm cho người nghèo không nắm bắt được thông tin cần thiết tạo thuận lợi cho họ trong việc XĐGN.
Trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định cũng là một trong những yếu tố của đói nghèo. Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy họ không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…. đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tới trường của con em các gia đình nghèo và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo: tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, trung học cơ sở chiếm 37%. Trình độ học vấn thấp đã gây ra rất nhiều khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Thêm vào đó, họ gần như không có khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn.
Ngoài hai yếu tố trên, yếu tố về nhân khẩu học cũng ảnh hưởng đến đói nghèo. Quy mô gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con là một trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ nghèo còn rất cao, năm 1998 số con bình quân trên một phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của nhóm 20% giàu nhất. Quy mô gia đình lớn làm tỷ lệ ăn theo cao(tỷ lệ ăn theo của nhóm nghèo nhất là 1,75 so với 1,05 của nhóm giàu nhất). Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh con cao trong các gia đình nghèo là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe sinh sản.Tỷ lệ phụ nữ đặt vòng tránh thai thấp, trong khi tỷ lệ nam giới nhận thức đầy đủ trách nhiêm kế hoạch hoá gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai chưa cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khoẻ sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế.
Với những yếu tố trên đã ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc XĐGN của nước ta. Mặt khác nước ta còn phải hứng chịu những nguyên nhân do thiên tai, mất mùa làm kiệt quệ thu nhập của người nghèo. Bệnh tật và sức khoẻ yếu cũng la yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Với những người có ý thức thoát khỏi đói nghèo thì lại gặp những rủi ro trong kinh doanh, sản xuất, chăn nuôi….
III. nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
1. Nội dung:
Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX xác đinh nhiệm vụ đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2000. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn bởi lẽ đến nay nước ta chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cao, trên cơ sở đường lối rõ ràng và có luận cứ khoa học. Trong tổng thể các vấn đề cần giải quyết, việc xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ vị trí quan trọng. Khi đề cập đến xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta có mấy vấn đề cần xem xét:
Trước hết, cơ cấu kinh tế được xác định là cơ cấu linh hoạt, có khả năng thích nghi nhanh với sự biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế, trước hết và chủ yếu là sự tiến bộ khoa học và công nghệ, chi phí(tài chính và thời gian) cho điều chỉnh thấp.
Thứ hai, đánh giá lại một cách toàn diện và sâu sắc những lợi thế mà lâu nay được nhìn nhận một cách lạc quan. Tài nguyên và nhân lực của nước ta chỉ tạo nên lợi thế có tính chất ngắn hạn của một nền kinh tế có trình độ phát triển thấp kém. Hơn nữa, trong các yếu tố đó lại chứa đựng nhiều điểm thể hiện sự bất lợi trong cạnh tranh quốc tế. Chẳng hạn trong yếu tố nhân lực, những hạn chế ấy là chất lượng thấp, bị ảnh hưởng nặng nề của tư duy và nề nếp sản xuất nhỏ, tiểu nông…. Nếu nói tới tiếp cận kinh tế tri thức thì đây là một trong những yếu tố cản trở lớn nhất.
Thứ ba, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chủ yếu phải xuất phắt từ cầu thị trường, trên cơ sở khai thác có hiệu quả khả năng chứ không thể xuất phát thuần tuý từ khả năng. Từ thực tiễn phát triển kinh tế các năm qua cho thấy, một loạt ngành phát triển nhanh và đã xác lập được vị thế trên thi trường quốc tế( lúa, gạo, cà phê, may mặc, thuỷ sản….) đều xuất phát từ khai thác khả năng tự nhiên và lao động, chưa đảm bảo hiệu quả mong muốn. Chính sự phát triển chỉ dựa vào khả năng làm cho bản thân chúng gặp khó khăn trong việc tiếp tục phát triển có hiệu quả và bền vững do khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ.
Thứ tư, huy động, phân bổ và quản lý sử dụng vốn đầu tư vẫn được coi là điều kiện trọng yếu cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển ở nước ta. Nếu đặt yêu cầu tiếp cận kinh tế tri thức thì nhu cầu vốn lại càng lớn và hơn nữa việc đầu tư lại chứa đựng những yếu tố rủi ro lớn(nghĩa là có thể thất bại dù người ta luôn mong muốn thành công và cố gắng phòng ngừa rủi ro trong thực hiện đầu tư).
Thứ năm, đánh giá và phân loại khả năng cạnh tranh và dự báo triển vọng cạnh tranh của các ngành kinh tế để có giải pháp sử lý hợp lý. Cơ cấu kinh tế hiện tại thường được đánh giá chung là kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp. Sự đánh gía này rất khó bác bỏ, song lại mang nặng cảm tính, ít có giá trị trong việc định hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, để trên cơ sở đó điều chỉnh định hướng và chính sách đầu tư. Bởi vậy, nhất thiết cần có sự đánh giá đầy đủ cơ cấu kinh tế hiện tại, đánh giá khả năng cạnh tranh của các ngành thông qua việc đánh giá khả năng cạnh tranh của các nhóm ngành hàng chủ yếu. Chuẩn mực để đánh giá và phân loại này là yêu cầu của thị trường và khả năng đáp ứng yêu cầu ấy. Việc làm này sẽ tạo lập nên những cơ sở tổi thiểu cần có cho việc điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo mục tiêu hướng đích. Nói cách khác, với kết quả đánh giá, sẽ xác định rõ quan điểm định hướng phát triển và các giải pháp cụ thể với từng nhõm ngành.
Việc phân nhóm các ngành theo khả năng cạnh tranh nêu trên đã tính đến khả năng hiện có, lợi thế có thể khai thác, nhu cầu thị trường trong nước và thị trường thế giới, cũng như xu thế phát triển khoa học và công nghệ. Theo đó, có thể phân các ngành kinh tế theo các nhóm sau đây:
Nhóm thứ nhất, bao gồm các ngành tạo được ưu thế nổi trội không cạnh tranh trên thị trường quốc tế sẽ được ưu tiên và phát triển với nhịp độ cao. Nhóm ngành này bao gồm hai phân nhóm lớn.
Các ngành truyền thống đã và sẽ tiếp tục xác lập được vị thế trên thị trường. Những ngành còn lại bao gồm:
Các ngành phát triển trên cơ sở lợi thế về tài nguyên như: nông nghiệp, ngư nghiệp và khai thác một số khoáng sản có trữ lượng lớnvà giá trị cao ( trong giai đoạn đầu) bản thân nông nghiệp và ngư nghiệp cũng cần có chuyển đổi mạnh cơ cấu nội tại so với hiện nay.
Các ngành phát triển trên cơ sở lợi thế về lao động như may mặc, giày dép và lắp ráp cơ khí , điện tử…
Những ngành mới phát triển, đại diện cho trình độ khoa học công nghệ cao ( điện tử, tin học, công nghệ thông tin, cơ- điịen tử, vật liệu mới, các chế phẩm sinh học cao cấp) những ngành này dần chiếm vị trí cao, quan trọng trong cơ cấu kinh tế. Sự phát triển các ngành này dừa trên cơ sở 2 con đường được sử dụng sau đây:
Kế thừa thành tựu nghiên cứu đã có qua con đường chuyển giao công nghệ, cải biên cho phù hợp với điều kiện công nghệ và nâng cấp để nâng cao giá trị kinh tế.
Tự nghiên cứu phát minh bằng lực lượng khoa học công nghệ trong nước. Với cả 2 con đường ấy, nghiên cứu khoa học và công nghệ mang tính chất ứng dụng đều phải được coi trọng.
Nhóm thứ hai, bao gồm các ngành có thể triển vọng nâng coa khả năng cạnh tranh trên thị trường cũng cần được ưu tiên thoả đáng nhằm biến khả năng ấy thành hiện thực. Nhóm này có diện khá rộng, bao gồm 2 loại:
Các nhóm ngành nước ta có lợi thế, nhưng hiện nay phát triển theo kiểu truyền thống ( tự nhiên ), mức độ đầu tư khoa học và công nghệ còn thấp ( trình độ sản xuất thấp ), nên sản phẩm không có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước như nông sản thực phẩm nhiệt đới ( chè, rau, hoa quả hồ tiêu, gia súc gia cầm….), một số loại cây công nghiệp ( cao su, dâu tằm…), cây công nghiệp chế biến lưong thực và thực gắn với các ngành sản xuất nông nghiẹp nêu trên.
Các nhóm ngành thị trường trong nước có nhu cầu, đã có sứn cơ sở vật chất nhất định, nhưng trình độ sản xuất lại lạc hậu, việc đầu tư khoa học và công nghệ không thoả đáng ( kể cả đầu tư đổi mới, hioện đại hoá trang thiết bị sản xuất và đầu tư nghiên cứu sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của thị trường) nếu chưa đủ khả năng chiếm lĩnh thị trường trong nước và thâm nhập thị trường nước ngoài. Có thể liệt một số nhóm ngành điển hình gồm: sản xuất vật liệu xây dựng thông thường và cao cấp, cơ khí sản xuất thiết bị cho công nghiệp nhẹ, nông nghiệp, phụ tùng cho công nghiệp nặng và kim khí tiêu dùng, một số ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng ( dệt, giấy, văn phòng phẩm…), sản xuất phân bón và các chế phẩm phục vụ trồng trọt và chăn nuôi.
Nhóm ngành sẽ được phát triển mạnh hơn nhưng trong thời gian đầu chưa thể có sức cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế. Chẳng hạn công nghiệp hoá chất gắn liền với công nghiẹp hoá dầu, luyệ kim đen và luyện kim màu, các hoạt động và dịch vụ của kinh tế thi trường như tài chính, ngân hàng, bảo hiểm …
Nhóm thứ ba là các ngành trên thị trường không vấp phải sự cạnh tranh gay gắt do tính đặc thù của sản xuất hoặc tiêu dùng, dung lượng thị trường nhỏ. Trong định hướng phát triển, cần phải để các ngành này phát triển một cách tự nhiên theo sự điều tiết của thị trường và khả năng của các chủ đầu tư.
Nhóm thứ tư bao gồm các ngành có khả năng cạnh tranh thấp do năng lực sản xuất hạn chế, khả năng không thể thao kịp sự biến đổi của nhu cầu, việc đầu tư không mang lại hiệu quả mong muốn. Cần tính toán đầy đủ sự tác động của tonà cầu hoá và mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế để định hướng đầu tư theo yêu cầu phát huy lợi thế và bảo đảm hiệu quả đầu tư.
Việc phát triển hệ thống hạ tầng kinh tế xã hội hiện đại đương nhiên phải luôn được coi là đối tượng ưu tiên hàng đầu trong tất cả các đối tượng đầu tư vì nó tạo điều kiện cho sự phát triển nhanh và bền vững. Nhiều bộ phận trong đó phải đi ngay vào trình độ hiện đại ( như bưu chính viễn thông, mạng lưới điịen, giao thông ) trong định hướng phát triển các ngành, cần xác định đúng các đối tượng cần được ưu tiên, khắc phục tình trạng giàn trải. Đồng thời, lại có quan điểm đúng đắn về sự ưu tiên đầu tư phát triển. Trong điều kiện kinh tế thị trường, nói đến xác định sự ưu tiên là nói đến vai trò và trách nhiệm của nhà nước trong việc tạo lập các điều kiện để thực hiện những mục tiêu hướng đích. Vai trò thể hiện tập trung trên hai mặt: một là, giành phần thoả đáng đầu tư tập trung cho ngân sách cho các much tiêu ưu tiên. Hai là, chủ yếu phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng và các ngành công nghiệp mới, phát triển nghiên cứu khoa học và đào tạo nhân lực. Mặt khác, toạ những chính sách ưu đãi để thu hút mạnh mẽ các nguồn đầu tư trong và ngoài nước vào các mục tiêu khuyến khích.
2. Các nhân tố tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta.
Xác định và thực hiện các phương hướng và biện pháp nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hội nhập là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý nhà nước về kinh tế. Để thực hiện nhiệm vụ này cần phải nghiên cứu vầ phân tích kỹ các nhân tố khách quan và chủ quan có ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Sự phát triển các loại thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Cần khẳng định ngay rằng thị trường có ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, trước hết là cơ cấu ngành. Bởi lẽ, thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Mỗi doanh nghiệp phải hướng ra thị trường, xuất phát từ quan hệ cung cầu, hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách kinh doanh của mình.Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp để thích ứng với các điều kiện thị trường dẫn tới từng bước thúc đẩy sự hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước. Bởi vậy, sự hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường trong nước( thị trường hàng hoá, dịch vụ, thị trường vốn, thị trường lao động, thị trường khoa học công nghệ…)có tác động mạnh đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế.
Trong cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước, Nhà Nước tạo điều kiện phát triển đồng bộ, điều tiết các loại thị trường và tạo môi trường, điều kiện cho thị trường và cho các hoạt động sản xuất kinh doanh thông qua các chính sách kinh tế vĩ mô. Hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng nào là phụ thuộc vào chiến lược và các định hướng phát triển của Nhà Nước trong từng thời kỳ có tính đến các yếu tố trong bối cảnh mở cửa và hội nhập quốc tế.
Các nguôn lực và lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo một cách bền vững và có hiệu quả. Trước hết, việc xác định các ngành mũi nhọn, các ngành cần ưu tiên phát triển phải dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực(cả trong nước và ngoài nước có khả năng khai thác)để chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành mà nước ta có lợi thế và có điều kiện phát triển mới tạo đà hội nhập và tham gia có hiệu quả vào phân công lao động quốc tế.
Tài nguyên thiên nhiên( khoáng sản, hải sản, lâm sản, nguồn nước…)và các điều kiện tự nhiên(khí hậu, thời tiết, bờ biển…)phong phú và thuận lợi tạo điều kiện phát triển các ngành công nghiệp dịch vụ, ngư nghiệp, nông nghiệp….Tuy nhiên, vịêc khai thác các yếu tố này phục vụ phát triển và chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Thông thường ở mỗi giai đoạn phát triển, người ta tập trung khai thác các tài nguyên có lợi thế, trữ lượng lớn, giá trị kinh tế cao, nhu cầu thị trường lớn vầ ổn định….Như vậy, sự đa dạng và phong phú của tài nguyên thiên và các điều kiện tự nhiên có ảnh hưởng đến quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, là nhân tố phẩi tính đến trong quá trình hoạch định chiến lược cơ cấu.
Dân số, lao động được xem là nguồn lực quan trọng cho phát triển kinh tế. Sự tác động của nhân tố này lên quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu kinh tế được xem xét trên các mặt chủ yếu sau:
Thứ nhất, kết cấu dân cư và trình độ dân trí, khả năng tiếp thu khoa học kỹ thuật mới… là cơ sở quan trọng để phát triển các ngành công nghiệp kỹ thuật cao và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các ngành đang hoạt động là nhân tố thúc đẩy tiến bộ khoa học kỹ thuật tròn sản xuất của các ngành kinh tế quốc dân.
Thứ hai, quy mô dân số, kết cấu dân cư và thu nhập của họ có ảnh hưởng lớn đến quy mô và cơ cấu của nhu cầu thị trường. Đó là cơ sở để phát triển các ngành công nghiệp và các ngành phục vụ tiêu dùng.
Thứ ba, sự phát triển các ngành nghề truyền thống trong công nghiệp cũng như các ngành kinh tế khác thường gắc liền với tập quán, truyền thống, phong tục của một địa phương, một cộng đồng người. Sự phát triển và chuyển hóa các nghề này gắn chặt với đội ngũ các nghệ nhân. Sản phẩm của các ngành nghề này hầu hết là các sản phẩm độc đáo, có ưu thế và được ưa chuộng trên thị trường quốc tế. Vị trí địa lý kinh tế của đất nước cũng là một yếu tố cần phải được xem xét khi hình thành cũng như định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Yếu tố này trở nên quan trọng trong điều kiện xây dựng nền kinh tế mở, tăng trưởng mở rộng và các quan hệ kinh tế quốc tế, hội nhập vào đời sống kinh tế và khu vực Thế Giới. Nước ta nằm ở vị trí địa lý thuận lợi và ở vào khu vực kinh tế phát triển vào loại năng động nhất Thế Giới. Đó là các yếu tố phải tính đến trong định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng mở cửa và hội nhập giai đoạn hiện nay.
Sự ổn định của thể chế chính trị và đường lối đối ngoại rỏ ràng và mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ…là một lợi thế quan trọng của nước ta trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác đinh và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Môi trường thể chế thường gắn bó chặt chẽ với thể chế chính trị và đường lối xây dựng kinh tế. Nói cách khác, quan điểm, đường lối chính trị nào sẽ có môi trường thể chế đó, đến lượt nó, môi trường thể chế lại ước định các hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nói chung cũng như cơ cấu nội bộ từng ngành, từng vùng và thành phần kinh tế. Môi trường thể chế là biểu hiện cụ thể của những quan điểm, ý tưởng và hành vi của Nhà Nước can thiệp và định hướng sự phát triển tổng thể, cũng như sự phát triển của các bộ phận cấu thành của nền kinh tế. Trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế( cho dù là chuyển dịch theo hướng nào) thì Nhà Nước đóng vai trò quyết định. Vai trò đó thể hiện tập trung ở:
Thứ nhất, Nhà Nước xây dựng và quyết định chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội tổng thể của đất nước. Đó thực chất là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực và đầu tư cũng theo ngành và theo vùng lãnh thổ.
Thứ hai, bằng hệ thống pháp luật, chính sách… Nhà Nước khuyến khích hay hạn chế, thậm trí gây áp lực để các doang nghiệp, các nhà đầu tư(cả trong và ngoài nước) phát triển sản xuất kinh doanh theo định hướng Nhà Nước đã định.
Như vậy, sự đồng bộ và tính ổn định của môi trường thể chế có ý nghĩa quan trọng đối với quá trình hình thành và chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ của nền kinh tế.
Tiến bộ khoa học – công nghệ không những chỉ tạo ra những khả năng sản xuất mới, đẩy nhanh tốc độ phát triển một số ngành làm tăng tỷ trọng của chúng trong tổng nền kinh tế(làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế), mà còn tạo ra những nhu cầu mới, đòi hỏi sự xuất hiện một số ngành công nghiệp non trẻ, công nghệ tiên tiến do đó có triển vọng phát triển mạnh trong tương lai. Trong điều kiện mở cửa và hội nhập tiến bộ khoa học – công nghệ cho phép tạo ra các sản phẩm mới, chất lượng cao, chi phí kinh doanh hạ, do đó có sự cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Kết quả làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nói chung theo hướng xuất nhập khẩu, thay thế nhập khầu và hội nhập vào đời sống kinh tế khu vực và Thế Giới, ở nước ta hiện nay vai trò của nhân tố khoa học – công nghệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế phụ thuộc vào hai yếu tố:
Một là, chính sách khoa học công nghệ của Đảng và Nhà Nước.
Hai là, sự yếu kém của hệ thống kỹ thuật công nghệ đang sử dụng trong các ngành của nền kinh tế quốc dân và khả năng hạn hẹp về vốn đầu tư cho đổi mới kỹ thuật công nghệ.
Về yếu tố thứ nhất, đã có nhiều chủ chương nghị quyết của Đảng và Nhà Nước ta theo hướng này, gần đây là nghị quyết hôi nghị TW lần thứ 2 ( khoá VIII ). Sau khi khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của khoa học công nghệ trong sự nghiệp CNH- HĐH, nghị quyết đã chỉ ra các quan điểm và đường lối cơ bản phát triển khoa học công nghệ trong tình hình mới, và các biện pháp tổ chức thực hiện trong thực tế. Về yếu tố thứ hai, nhất thiết phải tìm kiếm các con đường để đẩy nhanh tốc độ đổi mới kỹ thuật công nghệ trong các ngành kinh tế làm cho yếu tố này thực sự thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế có hiệu quả.
IV: mối quan hệ giữa quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế với công cuộc XĐGN
Trong quá trình đổi mới đất nước. Đảng và Nhà Nước đã ưu tiên phát triển một số ngành mũi nhọn. Một số ngành kinh tế mà Việt Nam có lợi thế so sánh lớn. Đối với nước ta hiện nay, thách thức chủ yếu là ở trạng thái suât phát thấp, tiêm lực vật chất đặc biệt là vốn và công nghệ, còn quá mỏng. Do qui điịnh hư vậy nên ngay cả tận dụng cơ hội phát triển thuận lợi và hiếm hoi mà thời đại mang lại cũng không phải là điều rõ ràng. Do vậy, với tất cả quy điịnh riêng có Việt Nam buộc phải lựa chọn cho mình một chiến lược cơ cấu ngành thích hợp, tìm kiếm các giải pháp để khai thác có hiệu quả chiến lược cơ cấu đó. Yếu tố vật chất quy định quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là vốn và lao động lành nghề. Đối với nước ta, luận điểm này càng đúng vì nhìn chung nguồn tài nguyên thiên nhiên của đất nước thuộc loại khan hiếm, đặc biệt khi xét theo chỉ số rên đầu người. Vì lý do đó, vấn đề mấu chốt đặt ra để đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế là việc tìm các giải pháp để huy động tối đa và sử dụng hịe quả nguồn lực khan hiếm chủ yếu nói trên.
Như vậy, yếu tố nguồn nhân lực là một trong những yếu tố quan trọng cảu quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Xét đến nguồn nhân lực cua nước ta hiện nay cho thấy: nước ta là nước đông dân nhưng nguồn nhân lực có đủ khả năng tham gia vào quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế lại rất ít do trình độ khoa học, nắm bắt cong nghệ còn nhiều hạn chế. Nguồn nhân lực đông nhưng số lựơng có chất lượng rất ít do không được đào tạo cơ bản mà nguyên nhân chủ yếu là do đói nghèo vì những gia đình nghèo thường đông con nên không được đi học do vậy kiến thức có hạn, đó là một trong những nguyên nhân chủ yếu của nước ta hiện nay.
Trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế cần nhiều nguồn vốn và nguồn nhân lực có chất lượng cao. Xét về mặt nguồn vốn: vốn có thể có từ nhiều nguồn khác nhau như ngân sách Chính Phủ, nguồn ODA, PDI….nhưng vốn lớn nhất đối với tất cả các nước đó là nguồn vốn từ trong dân. Mà nước ta lại là một nước nghèo đời sống của nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, như vậy người dân làm gì có vốn để gửi ngân hàng tạo nguồn vốn cho đất nước. Xét về nguồn nhân lực: đa số các hộ gia đình nghèo thường đông con, vì họ nghèo nên không đủ điều kiện cho con cái đi học do vậy khả năng nắm bắt những công nghệ, khoa học kỹ thuật rất yếu. Từ đó họ không đủ khả năng để tham gia vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tóm lại, nghèo đói là một khó khăn, một cản trở lớn của quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế. Sự tác đọng ngược lại của quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế đối với công cuộc XĐGN. Chuyển dich cơ cấu kinh tế nhằm chú trọng phát huy những ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước, những ngành kinh tế có khả năng giải quyết được lực lượng lao động dư thừu của đất nước. Để xem xét rõ hơn những ảnh hưởng của chuyển dịch cơ cấu kinh tế với công cuộc XĐGN ta xét ở hai khu vực nông thôn và thành thị.
Tại khu vực nông thôn, Đảng và Nhà Nước đã chú trọng phát triển những ngành mũi nhọn trên tất cả nông, lâm ngư nghiệp. Đối vơi nông nghiệp tuỳ thuộc vào đặc điểm địa lý khí hậu của từng vung ưu tiên phát triển các ngành khác nhau. Về lâm nghiệp, nước ta vốn đã có diện tích rừng phong phú song do sự quản lý lỏng lẻo diện tích rừng đã ngày một bị cạn kịêt do vậy phải có chính sách phát triển rừng.Về ngư nghiệp, với diện tích bờ biển dài và rộng là điều kiện tốt cho ngành ngư nghiệp trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Tại một số khu vực do quá trình chuyển dich cơ cấu kinh tế hợp lý đã tạo ra nhiều công ăn việc làm, đời sống của nhân dân được cải thiện góp phần rất lớn vào công cuộc XĐGN của đất nước.
Tại khu vực thành thị, đã hình thành một số ngành kinh tế mũi nhọn như tin học điện tử viễn thông, dệt may….Nhiều khu vực công nghiệp đã tận dụng tối ưu thế mạnh của vùng, của khu vực, khai thác tốt tài nguyên thiên nhiên và tạo ra nhiều công ăn việc làm góp phần tăng thu nhập xoá đói nghèo.
Nói chung, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tác động tích cực rất lớn đến công cuộc XĐGN của đất nước. Song công cuộc XĐGN là một trong những nhiệm vụ mà quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải gánh vác. Giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và công cuộc XĐGN có mối quan hệ rất mật thiết với nhau, chúng cùng đều một mục tiêu đưa đất nước ta phát triển để sánh vai với các cường quốc trên Thế Giới.
V. Một số chính sách xoá đói giảm nghèo vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta hiện nay.
1. Một số chính sách về xoá đói giảm nghèo
* Chính sách hỗ trợ về y tế
- Mục tiêu: trợ giúp người nghèo trong việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu; đa dạng hoá các hình thức khám chữa bệnh miễn, giảm phí cho người nghèo (đặc biệt quan tâm đến phụ nữ và trẻ em) như: cấp thẻ BHYT, cấp thẻ hoặc giấy chứng nhận khám chữa bệnh miễn phí, khám chữa bệnh nhân đạo, từ thiện... tăng cường mạng lưới y tế cơ sở.
- Nội dung:
Phát triển và nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên y tế, thôn, bản; thực hiện cung cấp thuốc thiết yếu cho các xã miền núi, biên giới, hải đảo, vùng sâu, vùng xa, tiếp tục đầu tư cơ sở vật chất và đưa bác sĩ về các trạm y tế cơ sở để nâng cao chất lượng dịch vụ y tế tại tuyến xã, phường đặc biệt là các xã nghèo.
Đảm bảo tài chính để thực hiện khám chữa bệnh cho người nghèo thông qua điều chỉnh phân bổ ngân sách y tế giữa các tỉnh, điều tiết và xác định các mức thu viện phí giữa người giầu, người có khả năng y tế và người nghèo.
Huy động trong việc khám và chữa bệnh cho người nghèo, quỹ bảo trợ người nghèo, khám chữa bệnh nhân đạo, khuyến khích các đội y tế lưu động phục vụ vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, xác định trách nhiệm của người nghèo trong phòng bệnh, tự bảo vệ chăm lo sức khoẻ và chia sẻ một phần kinh phí trong việc khám chữa bệnh.
* Chính sách hỗ trợ về giáo dục.
- Mục tiêu:
Đảm bảo cho con em tất cả các hộ nghèo, đặc biệt là trẻ em gái có điều kiện cần thiết trong học tập. Giảm sự chênh lệch về môi trường học tập và sinh hoạt trong nhà trường giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, giữa các vùng khó khăn với các vùng có điều kiện phát triển.
- Nội dung:
Miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp, xây dựng nhà trường, hỗ trợ vở viết, sách giáo khoa, cấp học bổng cho học sinh tiểu học thuộc diện quá nghèo, khuyến khích học sinh nghèo học khá, giỏi bằng các giải thưởng, học bổng và các chế độ ưu đãi khác.
Tăng cường cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng giáo dục ở các trường dân tộc nội trú để đào tạo cán bộ cho các xã đặc biệt khó khăn.
Khuyến khích các tổ chức, cá nhân tình nguyện tham gia gúp người nghèo nâng cao trình độ học vấn, tổ chức các hình thức giáo dục phù hợp để xoá mù chữ và ngăn ngừa tình trạng tái mù chữ như các lớp bổ túc văn hoá, lớp học tình thương, lớp học chuyên biệt.
* Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn.
- Mục tiêu: Hỗ trợ các gia đình thuộc các dân tộc đặc biệt khó khăn, nhằm ổn định đời sống, hỗ trợ phát triển sản xuất, tiếp cận phương thức sản xuất mới, nâng cao dân trí, bảo tồn và phát triển bản sắc văn hoá dân tộc, thực hiện xoá đói giảm nghèo bền vững.
- Nội dung: Hỗ trợ các hộ gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn ổn định đời sống.
Nội dung: Hỗ trợ các hộ gia đình dân tộc đặc biệt khó khăn phát triển sản xuất để tự đảm bảo đời sống: chọn và đưa cây trồng mới có năng suất cao cho đồng bào, khuyến khích thâm canh tăng vụ hoá nước, hoá nương, tăng trưởng và khuyến khích phát triển đàn gia súc, gia cầm, vật nuôi phù hợp với trình độ các hộ gia đình. Hướng dẫn kỹ thuật đưa giống mới năng suất cao, khuyến khích khai hoang đồng ruộng, mở rộng diện tích canh tác, thâm canh tăng vụ.
* Chính sách hỗ trợ an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế
- Mục tiêu: Hỗ trợ trực tiếp cho người bị rủi ro, thiên tai bão lụt để ổn định cuộc sống. Hỗ trợ nhóm yếu thế (người nghèo cô đơn không nơi nương tựa, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn người tàn tật...) ổn định cuộc sống, từng bước hoà nhập cộng đồng.
- Nội dung: Trợ giúp các đối tượng yếu thế (có khả năng làm việc) về học nghề, tạo việc làm, tự bảo đảm cuộc sống. Hỗ trợ các vùng bị thiên tai phải di chuyển nhà ở, hỗ trợ tạo điều kiện sản xuất để xớm ổn định cuộc sống.
*Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở.
- Mục tiêu: Xoá nhà ổ chuột, xoá dột nát, xiêu vẹo, nhà ở trong khu vực ô nhiễm nặng, độc hại ảnh hưởng đến sức khoẻ, tính mạng người nghèo. Đối tượng được đặc biệt quan tâm và hộ nghèo ở vùng biên giới, hải đảo.
- Nội dung: Xây dựng kiểu căn hộ vừa và nhỏ để bán theo hình thức trả góp cho người nghèo ở đô thị. Huy động các nguồn từ thiện, sự đóng góp của dòng họ, gia đình, cộng đồng, vận động cán bộ công nhân viên chức, các tổ chức kinh tế xã hội và một phần từ ngân sách Nhà nước ủng hộ, giúp đỡ người nghèo xây dựng, sửa chữa lại nhà ở.
* Chính sách hỗ trợ tư liệu, công cụ và đất sản xuất cho người nghèo.
- Mục tiêu: tạo điều kiện về đất và hỗ trợ một phần công cụ sản xuất phù hợp cho người nghèo ở nông thôn.
- Nội dung: phân bổ, sắp xếp lại đất sản xuất ( nếu có thể) cấp cho người nghèo chưa được cấp, khai hoang, phục hoá đất, mở rộng quỹ đất cấp cho người nghèo dạy nghề, chuyển đổi nghề, tạo việc làm phi nông nghiệp cho người nghèo. Hỗ trợ một phần công cụ sản xuất nhỏ như: thuyền, lưới đánh bắt cá, công cụ cầm tay cho người nghèo.
* Các chính sách khác:
- Chính sách chuyển giao công nghệ:
Thứ nhất là đào tạo dạy nghề rộng rãi cho thanh niên trong tuổi lao động và các ngành nghề như nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, nghề truyền thống, những nghề mới phục vụ cho công nghiệp nông thôn, phù hợp với yêu cầu của thị trường lao động khu vực và thế giới.
Thứ hai: khuyến khích việc kết hợp dạy nghề, chuyển giao kiến thức công nghệ phù hợp tại các trung tâm giao dịch, phát triển hơn nữa hình thức học nghề từ xa, khuyến khích các hộ gia đình trong lòng, xã có kinh nghiệm tổ chức phát triển sản xuất giỏi...
- Dân số kế hoạch hoá gia đình:
Để nâng cao chất lượng cuộc sống và chất lượng dân số phải vận động và đầu tư cho hộ nghèo các biện pháp y tế và đảm bảo sức khoẻ sinh sản. Phải làm cho người nghèo nhận thức hậu quả trong việc sinh nhiều con, khuyến khích chỉ sinh từ 1 đến 2 con.
- Phát huy sức mạnh của Đảng, Nhà nước, mặt trận và các đoàn thể.
Xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, đặc biệt là chính quyền các cấp với vai trò pháp kuật và chính sách hoá về giải pháp về tổ chức toàn xã hội và chính sách người nghèo thực hiện xoá đói giảm nghèo.
*Chính sách đối với nghèo nghèo vay vốn.
Việc hoạch định chính sách hỗ trợ vay vốn cho hộ nghèo cần bám sát theo định hướng sau:
- Về đối tượng vay vốn: cần ưu tiên trước cho hộ chính sách trong đó hộ đói nghèo vay trức, sau đó là hộ đói nghèo mà có sức lao động và đến các hộ nghèo xã hội. Số hộ đói nghèo mà không có sức lao động thì không thể cho vay vốn.
- Về nguồn vốn: Trước hết phải coi trọng nguồn vốn tại chỗ ở người khá, người giầu và doanh nghiệp, thương gia với hình thức cho mượn, hoặc cho vay với lãi suất thấp phù hợp cụ thể là:
* Trích từ ngân sách: Ngân sách xã, huyện, tỉnh và trung ương khoảng2%/năm.
* Từ ngân hàng: Ngân hàng Nhà nước , Ngân hàng công thương, Ngân hàng nông nghiệp và đặc biệt là Ngân hàng phục vụ người nghèo....
* Nguồn vốn từ các tổ chức đoàn thể xã hội, hội nghề nghiệp: đây cũng là dặc trưng và thế mạnh ở Việt Nam. Các hội đều có trách nhiệm với các hội viên của mình, kể cả những hội viên còn nghèo để cho hội viên nghèo vay.
*Sự hợp tác thôgn qua các dự án vừa và nhỏ của các tổ chức đa chính phủ: vấn đề này đã được cam kết trong hội nghị thượng đỉnh tại Copen hagen Đan Mạch, tháng 3/1995. Tuy đây không phải là nguồn vốn chính song là cần thiết và có thể tranh thủ để tạo nguồn vốn hỗ trợ tự thêm cho người nghèo.
- Mức vay:
Tuy yêu cầu về sản xuất, dịch vụ mà cho các hộ vay mức nhiều ít khác nhau song mức trung bình là 1,5 đến 3 triệu đồng cho một hộ sản xuất với các dự án nhỏ tạo việc làm tại chỗ, có thể giành cho các hộ nghèo góp vốn hình thành các tổ hợp sản xuất... Thời gian vay theo chu kỳ sản xuất không dưới 3 năm.
- Về lãi suất:
Đây là một yếu tố mang nội dung kinh tế và tâm lý đối với người nghèo. Cần phải tạo ra những nấc thang cho người nghèo tham gia vay vốn, tham gia tín dụng. Chúng ta cần phải xoá bỏ bao cấp, không cho không, và ngay từ đầu phải tập chung người nghèo có vay, có trả trả cả gốc lẫn lãi để cho họ tự tính toán, sản xuất, dịch vụ gì có hiệu quả và nên vay bao nhiêu, người nghèo canà nhắc trước khi vay. Sẽ phi thực tế nếu chỉ cho người nghèo tiền để thực hiện xoá đói giảm nghèo.
Cần có chính sách ưu đãi người nghèo như chính quyền cơ sở và đoàn thể chính trị xã hội được tính chấp cho người vay vốn mà không phải thế chấp, và xác định lãi xuất ưu đãi hợp lý.
- Về cơ cấu quản lý nguồn vốn:
Cần thống nhất các nguồn vốn vay này thông qua ngân hàng nông nghiệp và ngân hàng phục vụ người nghèo quản lý giải ngân, thu hồi vốn, lãi theo tính chất mục tiêu từng dự án, chính sách đối tượng của từng vùng. Danh sách được vay là theo đề nghị của ban xoá đói giảm nghèo xã, phường đề nghị.
Trong cơ chế cũng cần phải lập quỹ rủi ro và quy định mức độ rủi ro như thế nào thì được bù đắp từ quỹ rủi ro của Ngân hàng.
2. Một số chính sách về quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở Việt Nam
* Các khuyến khích về thuế quan:
Với tư cách là loại giải pháp thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu theo một chiến lược định sẵn thì các giải pháp thuế quan nhằm đồng thời hai loại mục tiêu: khuyến khích tăng trưởng xuất khẩu ở một số ngành, đồng thời góp phần bảo hộ thị trường nội địa có điều kiện. ở nước ta hiện nay, theo định giá của các chuyên gia nước ngoài được rút ra trên cơ sở so sánh với một số nước khác, số lượng sắc thuế (28) không phải là lớn, song độ phân tán quá cao. Một sắc thuế đánh vào sản phẩm xuất nhập khẩu có thể rủi ro trên nhiều mức độ chênh lệch nhỏ. Sự phân tán này làm cho hệ thống thuế quan trở nên phức tạp và kém hiệu quả. Trong nhiều trường hợp tình trạng đa mức thuế không phục vụ cho mục tiêu rõ ràng nào. do đó, tính khuyến khích cục bộ của hệ thống thuế quan đến các ngành riêng biệt là rất thấp. Trong giai đoạn tiếp theo, nhiệm vụ đầu tiên và cơ bản nhằm cải tiến hệ thống thuế quan là đơn giản hoá hệ thống bằng cách thu gọn các mức thuế trong từng sắc thuế. Điều đó là phải dồn những mức thuế không chênh lệch nhau lắm về một mức làm tăng khoảng cách giữa các mức thuế trong cùng một sắc thuế. Với biểu thuế quan như vậy chắc chắn rằng hiệu quả thu sẽ cao hơn, đồng thời nó có tác dụng khuyến khích hay kiềm chế phát triển rõ rệt hơn. Về nguyên tắc, để thoả mãn đồng thời hai mục tiêu tăng trưởng lâu bền và bảo hộ thị trường nội địa, giải pháp thuế quan cần áp dụng là mức độ đánh thuế hàng nhập khẩu cần mang tính chọn lọc và phân biệt cao.
Đối với các sản phẩm đang được khuyến khích thay thế nhập khẩu, mức thuế nhập khẩu cần đủ cao để bảo vệ các ngành công nghiệp non trẻ, chưa có đủ sức cạnh tranh với hàng nhập khẩu trong một thời hạn nhất định.
* Các khuyến khích tài chính.
Đối với nhiều nước, đây là công cụ cực kỳ hữu hiệu để tạo ra sự biến chuyển nhanh về cơ cấu (kể cả thành phần theo trục Nhà nước - giới kinh doanh- các tập đoàn Công ty). Loại giải pháp này cho phép Chính phủ tập trung nỗ lực của mình trong từng đoạn thời gian xác định (thường là không quá dài) để tạo nên những đột phá và xung lực phát triển mạnh. Việc áp dụng giải pháp này có liên quan đến hai biến cố chính là cung cấp tín dụng ưu đãi và thực hành chế độ tỷ giá hối đoái thích hợp.
* Việc cung cấp tín dụng:
So với thời gian trước đổi mới, hoạt động cấp tín dụng từ phía các ngân hàng ở Việt Nam chưa làm nảy sinh những vấn đề lớn. Tình hình xuất phát từ chỗ nhiệm vụ trọng tâm của hoạt động ngân hàng giai đoạn vừa qua là ổn định tiền tệ, chống lạm phát chứ chưa phải là tăng trưởng. Ngoài ra, quá trình sắp xếp lại cơ cấu trong các khu vực cũng chưa làm nảy sinh cầu tín dụng gay gắt ở các doanh nghiệp.
Trong khuôn khổ chính sách công nghiệp, để hướng hoặc tài chính vào phục vụ cho mục tiêu cơ cấu, đương nhiên là cần đưa ra những hình thức khuyến khích cụ thể, trước hết là khuyến khích tín dụng. Song rõ ràng là trước khi áp dụng bất kỳ hình thức khuyến khích nào, phải khắc phục những" trục trặc" tối thiểu trong sự vận hành của nó. Hàm ý ở đây là cần có quan điểm rõ ràng về mối quan hệ giữa lãi suất dương với độ cao cần thiết của mức lãi suất, cần sửa đổi cơ cấu lãi suất và tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh trên các thị trường tài chính - tiền tệ cả ở hai phía - phía cho vay và phía đi vay- để sao cho mọi doanh nghiệp đều có cơ hội tiếp cận đến nguồn tín dụng chính thức ngang nhau. Chỉ sau đó và trên cơ sở đó, những khuyến khích tài chính mới có khả năng đem lại hiệu quả cao.
Khuyến khích tài chính về thực tế áp dụng ưu đãi tài chính nhằm mục tiêu khuyến khích phát triển các hươngs ưu tiên đã chọn. Hình thức ưu đãi chủ yếu là ưu đãi về khối lượng và thời hạn tín dụng. Thông thường, loại tín dụng này xuất phát từ ngân hàng Trung ương dưới hình thức tín dụng có chỉ định. Trong điều kiện khan hiếm vốn, mức độ rủi ro đầu tư tương đối cao ở các nước đang phát triển thì nói chung, chỉ cần có sự ưu đãi về khối lượng và thời hạn cung cấp tín dụng cũng đủ để tạo ra một sức kích thích phát triển to lớn.
* Vấn đề tỷ giá hối đoái.
Chính sách tỷ giá hối đoái là một bộ phận hữu cơ của chính sách tiền tệ. Nó phải đáp ứng đầy đủ các mục tiêu của chính sách tiền tệ. Một cách tổng quát, tác động của chính sách tiền tệ đến các mục tiêu cuối cùng của nền kinh tế thông qua biến số lượng tiền cung ứng quy định mức biến thiên của lạm phát và phản ánh khả năng đầu tư của đất nước.
* Về giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả vốn nước ngoài:
Tham vọng tăng trưởng tốc độ cao, lâu bền của nước ta chỉ có thể đạt được với điều kiện huy động được một khối lượng đáng kể vốn nước ngoài.
Thứ nhất, các nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư vào nơi nào có độ an toàn cao và mức sinh lợi lớn. Độ an toàn đầu tư có liên quan đến tổng thể môi trường vĩ mô (chính trị - xã hội - kinh tế ). Còn hiệu quả đầu tư xét trong triển vọng dài hạn, liên quan đến cơ cấu ngành được lựa chọn. Điều đó có nghĩa là để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài cần có một chiến lược cơ cấu được thừa nhận là có thể tạo ra sức tăng trưởng lâu bền cho nền kinh tế.
Thứ hai, phải đảm bảo sự cân bằng về vốn đối ứng trong nước đối với khoản ODA. Hiện nay nước ta đang đứng trước một tình thế khó lưỡng nam. Mong muốn tăng trưởng cao nhìn chung là đồng hướng với khả năng huy động vốn nước ngoài.
Kêt luận
Từ một nước nông nghiệp nghèo, đất nước ta muốn thoát khỏi nghèo đói, đó là một nhiệm vụ lâu dài của toàn Đảng, toàn dân ta. Với mục tiêu đến năm 2005 là không còn hộ đói nghèo và tỷ lệ hộ nghèo xuống còn 10%. Muốn đất nước phát triển nhanh, bền vững thì công cuộc XĐGN và quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế phải là hai nhiêm vụ song song cùng giải quyết. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế sẽ có ảnh hưởng tích cực đến công cuộc XĐGN và XĐGN cũng sẽ góp phần mạnh mẽ vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đất nước giàu mạnh là khát vọng của toàn dân, xoá đói giảm nghèo là nhiệm vụ của cả đất nước, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là mục tiêu hàng đầu của Đảng và Nhà Nước nhằm đưa kinh tế đất nước phát triển sánh vai cùng năm châu bốn biển như lời căn dặn của Hồ Chủ Tịch.
Danh mục tài liệu tham khảo
1.Chính Phủ nước CHXHCNVN : Phương hướng xoá đói giảm nghèo 09
2. Chính Phủ nước CHXHCNVN : Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và XĐGN (phê chuẩn 5/2002).
3. Đảng cộng sản Việt Nam : Văn kiện đại hội Đảng IX
4. Nguễn Thị Hằng : Bước tiến mới của sự nghiệp XĐGN
5. Đàm Hữu Đắc : Tiến công trên mặt trận XĐGN- Tạp chí cộng sản số 1 tháng 1/2000.
6. Vũ Thị Ngọc Phùng : Tăng trưởng kinh tế – công bằng xã hội và vấn đề XĐGN ở Việt Nam.
7. Tạp chí lao động xã hội các số:
191(16 -31/05/2002)
194+195(1-31/7/2002)
199(16-30/o9/2002)
196(1-15/08/2002)
198(1-15/09/2002)
8. Một số tài liệu khác:
Phát triển kinh tế số 117/2000
Phát triển kinh tế số 44/2001
Ngân hàng 06/2000
Tạp chí cộng sản 01/2000
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- G0064.doc