Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu

Thực trạng hiện nay, năng lực đổi mới công nghệ ở nước ta còn thấp vì vậy tại mỗi doanh nghiệp cần nâng cao năng lực đổi mới công nghệ thông qua việc tạo lập trong doanh nghiệp các trung tâm R&D. Đổi mới tư duy, phương pháp quản lý doanh nghiệp: để nâng cao phương pháp quản lý trong doanh nghiệp thì cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài nhằm học hỏi phương pháp quản lý tiên tiến mang lại hiệu quả kinh doanh. Chú trọng vào việc nâng cao công tác đào tạo nguồn nhân lực, tuyển chọn và giữ chân nhân tài. Đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng tăng cường đầu tư chiều sâu để đổi mới máy móc thiết bị và quy trình công nghệ: tăng cường tỷ lệ vốn đầu tư vào việc mua sắm thêm máy móc thiết bị mới và công nghệ hiện đại nhằm mục đích là để tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và thị trường thế giới thông qua hoạt động xuất khẩu. Giải pháp này rất quan trọng đối với tất cả các ngành sản xuất công nghiệp từ chế tạo cơ khí đến lắp ráp điện tử, máy tính, ô tô, xe gắn máy, gia công hàng xuất khẩu (dệt, da giày), công nghiệp khai thác than, dầu khí Ngoài ra, đối với các ngành nghề thủ công, các ngành nghề truyền thống cần tăng tỷ lệ nội địa hóa để tận dụng nguồn nhân lực và tiềm năng sẵn có trong nước, giảm giá nguyên liệu đầu vào, giảm giá thành sản phẩm đầu ra.

doc47 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1637 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xám cao. Cụ thể là kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may, giày dép, đồ gỗ, thủ công, mỹ nghệ… tăng rất mạnh trong khi đó các mặt hàng dầu thô, than đá có kim ngạch không tăng hoặc tăng chậm. Ví dụ như kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang ASEAN đạt 7,8 tỷ USD, tăng 21,7% so với năm 2006. Một số mặt hàng có giá trị kim ngạch xuất khẩu tương đối cao như: Giày dép 3,9 tỷ USD, tăng 47,73% so với năm 2006. Hàng điện tử linh kiện máy tính 2,2 tỷ đạt 28,8%. Nhóm sản phẩm cơ khí 2,2 tỷ USD đạt 120%, sản phẩm nhựa 45,8%, dây điện và cáp điện tăng 27,7% trong 10 mặt hàng có giá trị xuất khẩu đạt tỷ lệ tăng cao. Về mặt dịch vụ, du lịch có nhiều khởi sắc do chúng ta đã có nhiều chủ trương đầu tư theo chiều sâu khuyến khích phát triển ngành du lịch, dịch vụ như nâng cao chất lượng dịch vụ, cải tạo và nâng cấp các khu du lịch đồng thời quảng bá rộng rãi. Vì vậy mà hoạt động du lịch phát triển mạnh, lượng khách quốc tế đến Việt Nam đạt khoảng 4,4 triệu lượt người, tăng 17% so với 2006. Lượng khách quốc tế tăng nhanh làm cho nhu cầu về khách sạn và dịch vụ tăng theo. Cơ hội đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho ngành du lịch và dịch vụ giải trí tại Việt Nam trở nên cực kỳ hấp dẫn. Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực ngành du lịch có bước chuyển biến quan trọng. Khoa học công nghệ được ứng dụng đã góp phần tích cực vào việc nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. Hoạt động du lịch đã tạo ra 1,7 triệu việc làm mới, tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 14.7%, góp phần nâng cao dân trí, đời sống vật chất tinh thần cho nhân dân, mở rộng giao lưu giữa các vùng, miền trong nước và với nước ngoài. Hạn chế Năng lực đổi mới công nghệ của các doanh nghiệp Việt Nam là rất yếu, đầu tư của doanh nghiệp cho đổi mới công nghệ còn rất thấp, nhất là trong lĩnh vực công nghiệp, nơi có nhu cầu cao về đổi mới công nghệ. Theo số liệu hiện có của Tổng cục thống kê năm 2003 thì có khoảng 8% số doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến, 75% có công nghệ trung bình và lạc hậu. Công nghệ của các doanh nghiệp chủ yếu được nhập khẩu từ các nước khác nên thiếu đồng bộ. Trong khi đó chuyển giao công nghệ từ các công ty đa quốc gia cho các công ty con ở trong nước còn rất hạn chế. Theo kết quả điều tra 93 Doanh nghiệp (gồm 60 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 33 doanh nghiệp trong nước) do viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương thực hiện năm 2004, 70% doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cho rằng họ ít tiếp cận được công nghệ của công ty mẹ. Điều này được giải thích phần nào qua các công ty nước ngoài đầu tư vào Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, sử dụng công nghệ mức trung bình. Để thu lợi ích thông qua con đường chuyển giao và rò rỉ công nghệ thì chiến lược thu hút các công ty đa quốc gia là chưa đủ mà đồng thời cần phải tăng năng lực nghiên cứu và triển khai( R& D), đổi mới công nghệ cho các doanh nghiệp trong nước. Nếu doanh nghiệp không có khả năng tiếp thu công nghệ, không có lao động trình độ đủ để ứng dụng công nghệ thì sự có mặt của các công ty xuyên quốc gia cũng không mang lại lợi ích nhiều cho doanh nghiệp. Về mặt lý thuyết, khả năng chuyển giao và tiếp thu công nghệ của doanh nghiệp trong nước càng dễ dàng hơn nếu như sự chênh lệch về trình độ trong nước và nước ngoài càng thấp. Ngoài ra nếu trình độ lao động quá thấp thì việc chuyển giao và tiếp thu công nghệ mới cũng không xảy ra, chưa nói gì đến đổi mới công nghệ. Điều này cũng cản trở tạo dựng mối liên kết sản xuất giữa các doanh nghiệp với nhau, giữa doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Vì vậy đầu tư cho công nghệ và đổi mới công nghệ đòi hỏi phải đi đôi với đào tạo đội ngũ lao động có đủ trình độ để nắm bắt và sử dụng công nghệ. Đầu tư lệch pha sẽ dẫn đến tình trạng công nghệ hiện có sẽ không được sử dụng hiệu quả và hạn chế khả năng tiếp thu đổi mới công nghệ của doanh nghiệp. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết là các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ, năng lực nghiên cứu và triển khai rất thấp, khả năng đầu tư cho công nghệ và đổi mới công nghệ rất yếu. Chi cho hoạt động này của các doanh nghiệp còn thấp, hầu hết dành chi cho các nghiên cứu tối thiểu về đổi mới mẫu mã, cải tiến sản phẩm trước áp lực cạnh tranh trong nước chứ chưa dành cho nghiên cứu để đổi mới công nghệ. Đặc biệt trong ngành dệt may thiếu thông tin nghiêm trọng, trong khi ngành này rất cần một địa chỉ tin cậy để thẩm định về nguyên vật liệu, công nghệ, thiết bị... nhưng hầu như chưa có. Ông Nguyễn Thành Nhơn, Tổng Giám đốc Công ty Cổ phần Công nghệ Nhơn Hữu, giải thích: “Ý thức về tầm quan trọng của công nghệ, thiết bị đối với sự sống còn của doanh nghiệp chưa cao. Sau hơn 4 năm Luật doanh nghiệp ra đời, có thêm hàng chục ngàn doanh nghiệp được khai sinh nhưng mức đầu tư cho thiết bị mới vẫn gần như giẫm chân tại chỗ. Chính vì lẽ đó mà khoảng cách giữa các công ty tư vấn công nghệ và doanh nghiệp nói chung ngày càng lớn. Phải đến 20 năm nữa chúng ta mới có thị trường tư vấn đúng nghĩa”. Điều đó được thể hiện rõ trong bảng số liệu sau: Bảng 6: Tỷ lệ chi cho nghiên cứu và triển khai tính trên doanh thu Đơn vị : % tỷ lệ R&D các ngành DN có vốn nước ngoài DN trong nước 2001 2002 2003 2001 2002 2003 may mặc – da dày 3.9 2.1 1.4 2.02 2.3 1.04 chế biến thực phẩm 0.6 0.6 0.8 0.6 0.5 2.9 cơ khí điện tử 9 8.4 5.6 0.98 0.9 0.8 tổng số 6.9 4.8 3.2 1.3 1.02 1.14 Nguồn: Tổng cục thống kê Yếu kém về đổi mới công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam còn bộc lộ do thiếu kênh liên kết sản xuất với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thể hiện qua sự yếu kém của ngành công nghệ phụ trợ. Sự thiếu liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài đã hạn chế khả năng chuyển giao công nghệ và hạn chế tác động tràn công nghệ mà doanh nghiệp Việt Nam có thể nhận được từ các công ty nước ngoài. Bên cạnh những yếu kém trên đây, phần lớn các doanh nghiệp trong nước có nhu cầu đổi mới công nghệ và tăng năng lực R&D nhưng thiếu vốn đầu tư. Tuy nhiên, cũng phải nhìn nhận một cách khách quan là trong khi thiếu vốn đầu tư thì vẫn còn tình trạng lãng phí xảy ra, ví dụ như đầu tư vào công nghệ không phù hợp dẫn đến không được sử dụng vào quá trình sản xuất. Trong khi đó nhiều doanh nghiệp đầu tư quá mức vào mua thiết bị sản xuất nhưng không sử dụng hết công suất cho phép như đã trình bày ở phần trên. Một số khác do trình độ lao động thấp không làm chủ được công nghệ. Ngoài ra còn do sự thiếu liên kết giữa doanh nghiệp và tổ chức R&D. Đây là vấn đề phức tạp được nhắc nhiều nhưng chưa có cải thiện trên thực tế. Theo kết quả điều tra mới đây của 2 tổ chức Swiss Contact (Thụy Sĩ) và GTZ (Đức) tiến hành trên 1.200 doanh nghiệp tại Việt Nam, chỉ có khoảng... 0,1% doanh nghiệp có sử dụng tư vấn khi đầu tư mua sắm công nghệ. Các chuyên gia kinh tế nhận định, chậm đổi mới công nghệ, đặc biệt là những ngành hàng xuất khẩu chủ lực, những thua thiệt về khả năng phát triển thị trường xuất khẩu sẽ không còn là nguy cơ nữa mà đang trở thành một thực tế khó tránh khỏi. Đầu tư chiều sâu để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực còn chưa được chú trọng đúng mức. Tuy tổng số lao động của cả nước nói chung và cho công nghiệp nói riêng đều tăng, nhưng chất lượng lao động vẫn còn nhiều bất cập, phần lớn lao động công nghiệp là lao động phổ thông hoạt động trong các ngành dệt may, giày da, khai thác vật liệu xây dựng, chế biến nông, lâm, thuỷ sản…nên giá trị gia tăng tạo nên chưa cao. Một số lao động được đào tạo từ các trường đại học, cao đẳng ít có cơ hội tìm được việc làm phù hợp với nghề nghiệp được đào tạo, nên chưa phát huy đựơc năng lực. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ KẾT HỢP ĐẦU TƯ THEO CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ THEO CHIỀU SÂU Theo phân tích ở trên, đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu có mối quan hệ mật thiết với nhau: đầu tư chiều rộng tạo nền tảng cơ sở để đầu tư chiều sâu đồng thời đến lượt đầu tư chiều sâu lại tiếp tục tạo ra những tiền đề để đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới. Đất nước ta đã gia nhập WTO, thị trường ngày càng rộng mở nhưng cùng với đó thì các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải đối mặt với rất nhiều đối thủ cạnh tranh mới mạnh hơn ta về nhiều mặt. Do vậy, việc nâng cao khả năng cạnh tranh của bản thân là tất yếu. Muốn làm được điều này thì các doanh nghiệp, các nhà sản xuất cần có những chiến lược đầu tư hợp lý để sản xuất và kinh doanh một cách hiệu quả. Do vậy, vấn đề đặt ra hiện nay là khi nào thì đầu tư chiều rộng, khi nào thì đầu tư chiều sâu và phải kết hợp hai hình thức này như thế nào là hợp lý. Đầu tư chiều rộng quá nhiều liệu có phải là giải pháp tốt khi mà khoa học công nghệ ngày càng hiện đại và yêu cầu của người tiêu dùng thì ngày càng cao. Chú trọng đầu tư chiều sâu liệu có phải là giải pháp đúng đắn khi đổi mới công nghệ trên một nền tảng cơ sở hạ tầng yếu kém, sử dụng những công nghệ tự động hoá cao gắn liền với việc giảm lao động trong điều kiện nước ta là một nước có nguồn lao động dồi dào?...Làm thế nào để doanh nghiệp Việt Nam có thể tồn tại và phát triển trong một môi trường kinh doanh cạnh tranh ngày càng gay gắt và phức tạp. Bởi vậy, kết hợp đầu tư chiều sâu với đầu tư chiều rộng là điều tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của bất kì một doanh nghiệp nào. Tình hình kết hợp đầu tư chiều rộng và chiều sâu ở nước ta hiện nay. Theo báo cáo của bộ KHĐT, kết thúc 6 tháng đầu năm 2007- nửa năm đầu thực hiện cam kết với tư cách là thành viên WTO- kinh tế Việt Nam tăng trưởng với tốc độ cao nhất trong 5 năm gần đây, đầu tư phát triển xã hội đạt 38,4% GDP, cam kết đầu tư nước ngoài tăng 55% so với cùng kì năm ngoái, xuất khẩu tăng 19,4%...Năm 2007, giá trị xuất khẩu cả nước đạt 48 tỷ USD, vượt 3.1% so kế hoạch đề ra. Biểu đồ 2: Mức tăng GDP qua các năm(%) Nguồn: Tổng cục thống kê Tăng trưởng kinh tế là do 3 yếu tố: vốn, lao động và năng suất các nhân tố tổng hợp( TFP). Đặc trưng của tăng trưởng, phát triển theo chiều rộng là tăng trưởng dựa vào số lượng vốn, số lượng lao động; còn đặc trưng của tăng trưởng, phát triển theo chiều sâu là dựa vào yếu tố nâng cao năng suất các nhân tố tổng hợp, bao gồm nâng cao hiệu quả đầu tư, nâng cao năng suất lao động. Những năm qua, yếu tố vốn đã đóng góp 57,5%, yếu tố lao động đóng góp 20% và yếu tố năng suất lao động cùng các nhân tố tổng hợp chỉ đóng góp 22,5% vào tốc độ tăng trưởng, thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực. Sử dụng mô hình tăng trưởng nội sinh để hồi quy và phân tích những đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản, trên cơ sở đó đánh giá tác động của vốn đầu tư đến chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kì 1994- 2004, thể hiện bảng sau: Bảng 7: Tỷ trọng đóng góp của các yếu tố đầu vào cơ bản cho tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1994-2004 Đơn vị: % Năm 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 2003 2004 Tăng trưởng 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 100 Vốn đầu tư 28.8 28.4 34.4 42.5 56.3 68.8 48.5 49.3 48.7 49.6 47.2 Lao động 23.1 20.6 16.5 18.6 26.0 47 21.5 26.9 27.3 27.1 28.3 TFP 48.1 51 49.1 38.9 17.7 4.2 30 23.8 24 23.3 24.5 Nguồn: Giáo trình Kinh tế đầu tư 2007 Chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam thời kỳ 1994-2004 chủ yếu do yếu tố bề rộng, đặc biệt do yếu tố vốn- nhân tố mà Việt Nam còn thiếu và sử dụng chưa hiệu quả, trong khi yếu tố lao động được coi là nguồn lực nội sinh, lợi thế chi phí thấp thì đóng góp cho tăng trưởng kinh tế lại chưa tương xứng. Theo tạp chí Nghiên cứu kinh tế ra ngày 19/11/2005, có 40,6% doanh nghiệp đã áp dụng thành tựu khoa học kỹ thuật trong quản lý, giảm tối đa biên chế quản lý (48,4%). Tuy nhiên trình độ lực lượng lao động của nước ta còn thấp, chủ yếu tập trung trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp. Theo báo cáo của IMF, năm 2005 giá trị đóng góp vào GDP từ lĩnh vực này là 21% nhưng số lao động lại chiếm tới 57% tổng số lao động của cả nền kinh tế. Tính đến cuối năm 2006, Việt Nam có tổng cộng hơn 45,3 triệu lao động trong đó ¾ là lao động ở nông thôn. Số lao động đã qua đào tạo hiện nay mới chỉ có 32% và tỷ lệ lao động đã có chứng chỉ đào tạo ngắn hạn là 14,4%. Chúng ta thiếu trầm trọng lao động trình độ cao và lao động dịch vụ cao cấp trong các ngành tài chính ngân hàng, du lịch, marketing...nên phải đi thuê lao động nước ngoài. Hiệu quả đầu tư biểu hiện chủ yếu ở hai chỉ số tổng hợp quan trọng đó là: một đồng vốn phải tạo ra nhiều đồng GDP hơn, và để tăng một đồng GDP phải tốn ít vốn đầu tư hơn. Năm 2007, một đồng vốn đầu tư đã tạo ra được 2,48 đồng GDP, cao hơn các số liệu tương ứng trong 3 năm trước ( năm 2004 là 2,46 đồng, năm 2005 là 2,45 đồng, đến năm 2006 là 2,44 đồng), nhưng lại thấp hơn của các năm từ 2003 trở về trước (năm 2003 là 2,56 đồng, năm 2002 là 2,68 đồng năm 2001 là 2,82 đồng, năm 1999 là 3,05 đồng, năm 1998 là 3,08 đồng, năm 1995 là 3,16 đồng). Các ngành của chúng ta cũng đã có những tăng trưởng nhất định mà tiêu biểu là ngành công nghiệp. Nhờ luôn được chú trọng phát triển, hơn chục năm qua, sản xuất của công nghiệp Việt Nam có phần lớn các năm có tốc độ tăng GTTT đạt trên 10%. Duy có 2 năm 1998 và 1999 chỉ tiêu này đạt 9,73% và 8,99% (do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực) và cũng chính là 2 năm có TFP thấp. Riêng năm 1999 TFP giảm 0,53%. Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng về giá trị tăng thêm trên đây của công nghiệp chủ yếu vẫn là do mở rộng quy mô sản xuất bằng cách đầu tư thêm vốn tức là để làm tăng giá trị TSCĐ. Tác động của các yếu tố đổi mới sản xuất, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng lao động ... (các nhân tố chất lượng) có làm tăng TFP, tức là góp phần làm tăng giá trị tăng thêm, nhưng còn ở mức khiêm tốn. Điều đó cũng có nghĩa chất lượng tăng trưởng trong công nghiệp tuy đã có tiến bộ, song cũng còn hạn chế. Việc đầu tư trong sản xuất công nghiệp còn nặng về đầu tư theo chiều rộng hơn là chú ý đến đầu tư theo chiều sâu. Tình hình này lại càng phổ biến hơn trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp và dịch vụ. Năm 2002, giá trị sản xuất toàn ngành nông nghiệp tăng khoảng 5% so với năm 2001. Nhưng những chuyển dịch về cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng vùng còn mang tính tự phát, chưa bảo đảm được yếu tố phát triển bền vững. Chất lượng sản phẩm của ngành chưa cao, nhiều sản phẩm chưa đáp ứng được tiêu chuẩn của nước ngoài nên không thể xuất khẩu. Sự phát triển của ngành chủ yếu do tự phát từ nhu cầu thị trường. Tình trạng được mùa mất giá, mất mùa được giá thường xuyên xảy ra phản ánh sự bấp bênh trong sản xuất nông nghiệp. Về hoạt động xuất nhập khẩu, giá trị xuất khẩu của nước ta trong thời gian vừa qua chiếm chủ yếu vẫn là mặt hàng dầu thô, than đá, cà phê nhân, gạo (với giá trị thấp và giá trị gia tăng hạn chế). Kim ngạch xuất khẩu tháng 9 – 2006 đạt 3,3 tỷ USD, nâng tổng kim ngạch 9 tháng đầu năm 2006 lên 29,4 tỷ USD, tăng 24,2% so với cùng kì năm trước. Sự gia tăng của xuất khẩu chủ yếu là nhờ vào gia tăng nhu cầu của thị trường thế giới hơn là do yếu tố nâng cao năng lực cạnh tranh của các sản phẩm dịch vụ của nước ta. Tình hình kết hợp đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong các doanh nghiệp ở nước ta hiện nay. Hiện nay, thị trường của chúng ta ngày càng rộng mở, không chỉ bó hẹp trong nước nữa mà đã vươn ra thị trường thế giới. Để làm được điều này, các doanh nghiệp của chúng ta đã nỗ lực không ngừng trong việc nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, đa dạng hóa mẫu mã, công dụng để đáp ứng được yêu cầu đòi hỏi rất cao của người tiêu dùng. Một trong những yếu tố tạo nên thành công này chính là nhờ những chiến lược đầu tư đúng hướng. Có thể kể ra những công ty rất thành công như Trường Hải, Sơn Hà, Gold Sun…mặc dù mỗi công ty một lĩnh vực khác nhau thành công ở những thị trường khác nhau nhưng điểm chung giữa họ chính là chiến lược đầu tư cho phát triển: kết hợp hài hòa giữa mở rộng sản xuất với nâng cao trình độ công nghệ và đào tạo phát triển con người. Công ty cổ phần Khoáng sản Bình Định thành lập đến nay gần 8 năm. Trong 8 năm qua các chỉ tiêu cơ bản như mức đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, giá trị tổng sản lượng, tổng doanh thu, mức nộp ngân sách, lợi nhuận, thu nhập của người lao động… đều tăng cao so với trước. Sau chuyển đổi, các chính sách khuyến khích ưu đãi đã tạo nên luồng sinh khí mới ở doanh nghiệp này. Ý thức làm chủ của các cổ đông, nhất là các cổ dông là người lao động của Công ty được nâng cao. Cứ sau mỗi kỳ đại hội thường niên, các phương án sản xuất kinh doanh mới, các giải pháp nhằm phát huy năng lực tiềm tàng của doanh nghiệp đã kích thích nâng cao năng suât, chất lượng và hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Do tích luỹ được nhiều kinh nghiệm trước đó, nên Ban lãnh đạo doanh nghiệp điều hành công ty khá tốt. Các phương án sản xuất kinh doanh đều đảm bảo tính tối ưu, đều giảm chi phí giá thành sản phẩm. Ngay sau khi thực hiện cổ phần hoá, doanh nghiệp bỏ ra gần 2 tỷ đồng đầu tư mới một cụm vít xoắn tuyển quặng, công suất 6000 tấn/năm và hệ thống thiết bị phụ trợ đặt tại mỏ (Cát Thành-Phù Cát). Sau khi đầu tư xây dựng trạm biến áp để có thể nhận điện trực tiếp từ lưới điện quốc gia, doanh nghiệp tự chế tạo và sản xuất thêm 2 cụm thiết bị tuyển ướt và tyển tinh, nâng cao công suất ở toàn bộ quy trình sản xuất. Tại Cát Thành, doanh nghiệp xây dựng thêm một nhà xưởng quy mô, thực hiện cả hai khâu: tuyển ướt và tuyển tinh, cho 70 người làm việc tại đây. Trước đây, khi chưa có nhà xưởng này, gần như toàn bộ số quặng cần tuyển tinh phải chở từ mỏ về Quy Nhơn, số quặng này chỉ có hàm lượng quặng có ích dưới 60%. Nhờ vác hệ thống vít tuyển này, trong hơn 2 năm qua, lượng quặng chở về Quy Nhơn đạt quặng có ích trên 70%. Chỉ riêng ở khâu này, chi phí sản xuất đã giảm trên 10%. Tại Quy Nhơn, doanh nghiệp hoàn thành việc xây dựng thêm 600m2 nhà xưởng, nâng tổng diện tích ở đây lên 2.200m2. Trong đó, doanh nghiệp cho thay dần những thiết bị tuyển tinh cũ đồng thời gia tăng đầu tư các hệ thống thiết bị phụ trợ, theo hướng giảm tối đa lao động thủ công. Mục tiêu nhắm đến của công việc này là nâng cao năng suât lao động và chât lượng sản phẩm, giảm tối đa giá thành sản phẩm Trong lĩnh vực sản xuất đồ gia dụng, thương hiệu được nhắc đến nhiều nhất có thể nói là thương hiệu Goldsun. Theo ông Phạm Cao Vinh – Tổng giám đốc của Goldsun, thị trường xuất khẩu các sản phẩm gia dụng inox và bếp nướng từ Việt Nam đã và đang có những bước phát triển đột biến, do xu hướng của các tập đoàn phân phối và sản xuất hàng gia dụng đang tích cực tìm kiếm nguồn hàng từ Việt Nam thay cho Trung Quốc và Ấn Độ. Chỉ tính riêng trong quý 1 năm 2007, giá trị xuất khẩu của công ty đã đạt gấp 4 lần so với cả năm 2006. Goldsun đang tiến hành đàm phán các hợp đồng lớn với các nhà phân phối nổi tiếng như IKEA và Landmann. Việc thực hiện những cam kết này đòi hỏi mở rộng năng lực sản xuất tương xứng. Giai đoạn mở rộng nhà máy gia dụng hiện tại có tổng vốn đầu tư là 22 tỷ đồng cho tài sản cố định. Giai đoạn xây dựng mới nhà máy gia dụng có tổng vốn đầu tư là 35 tỷ đồng cho xây dựng cơ bản và tài sản cố định, trong đó xây dựng chiếm 7,5 tỷ đồng. Dự kiến sau khi mở rộng, thu nhập ròng cho chủ sở hữu của dự án có giá trị hiện tại ròng là 58 tỷ đồng Việt Nam. Goldsun là một trong ba nhà máy sản xuất bao bì lớn nhất miền Bắc. Thế mạnh của công ty trong kinh doanh sản xuất bao bì được xác lập dựa trên những ưu thế về công nghệ, kĩ thuật, tính đồng bộ và khép kín của dây chuyền máy móc thiết bị, qua đó đảm bảo với khách hàng về chất lượng sản phẩm, tính ổn định và thời gian giao hàng. Dự án mở rộng nhà máy sản xuất bao bì có tổng vốn đầu tư là 96.8 tỷ đồng cho tài sản cố định. Tổng cộng việc mở rộng sản xuất của cả hai nhà máy, Goldsun cần huy động 50 tỷ đồng vốn chủ sở hữu trong tổng số hơn 150 tỷ đồng đầu tư cho tài sản. Có thể khẳng đinh, các doanh nghiệp Việt Nam đang từng bước lớn mạnh nhờ những chiến lược đầu tư không ngừng và hợp lý của mình. Đó là những minh chứng hết sức cụ thể về sự khéo léo trong chiến lược đầu tư: kết hợp đúng cách đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Những vấn đề tồn tại cần khắc phục để sự phối kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu để đạt hiệu qủa cao Từ thực trạng ta thấy, vấn đề đầu tiên là đầu tư theo chiều sâu chưa gắn kết và làm cơ sở cho sự phát triển mở rộng sản xuất. Việc mở rộng sản xuất diễn ra nhanh nhờ có sự tham gia liên doanh của đầu tư nước ngoài mà chủ yếu là ở khu vực dịch vụ và công nghệ, trong khi đó đầu tư theo chiều sâu nhằm đổi mới công nghệ diễn ra rất chậm. Công nghệ đưa vào sản xuất chủ yếu ở trình độ trung bình. Điều này sẽ hạn chế việc mở rộng sản xuất ở một quy mô lớn hiện đại hơn. Tuy phát triển đầu tư theo chiều rộng cả ở thành phần kinh tế trong và ngoài quốc doanh nhưng lại thiên về xu hướng tăng tỷ trọng đầu tư chiều rộng ở kinh tế ngoài quốc doanh. Trong khi đó, đầu tư chiều sâu đổi mới công nghệ diễn ra nhanh hơn ở thành phần kinh tế quốc doanh nhờ những ưu đãi nhất định của Nhà nước. Nhìn chung, đầu tư chiều sâu chưa làm thay đổi cơ bản về trình độ công nghệ ở phần lớn các trang thiết bị, đầu tư chiều sâu chưa thực sự là tiền đề, là bàn đạp cho sự phát triển mở rộng của đầu tư chiều rộng. Thứ hai, cơ cấu giữa đầu tư theo chiều rộng và đầu tư theo chiều sâu trong doanh nghiệp còn nhiều bất cập. Đó là việc đầu tư chiều rộng được chú trọng hơn đầu tư chiều sâu quá nhiều. Theo nguyên bộ trưởng Hoàng Trung Hải: “Lâu nay trong chiến lược phát triển công nghiệp, chúng ta quá chú trọng đến đầu tư theo chiều rộng, hàng ngang, mà chưa chú tâm đến đầu tư theo chiều sâu, dẫn tới việc nếu bây giờ có ai hỏi sản phẩm nào là mặt hàng chủ lực của ngành công nghiệp Việt Nam, cũng đành chịu...”. Trong tháng 10/2007 thì giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước ước đạt 49.976 tỷ đồng, tăng 3,9% so với thực hiện tháng 9/2007, nâng tổng mức giá trị sản xuất công nghiệp 10 tháng lên 467.935 tỷ đồng, tăng 17% so với cùng kỳ năm trước. Một số địa phương có giá trị sản xuất công nghiệp lớn, tăng trưởng khá cao so với cùng thời kỳ như: Vĩnh Phúc 42,1%, Bình Dương 24,5%, Hà Tây 23,0%, Đồng Nai 22%, Hà Nội 20,1%, Cần Thơ 17,1%, Hải Phòng 16,5%....Đến tháng 12 thì giá trị sản xuất công nghiệp đạt hơn 55 nghìn tỷ đồng, tăng 20,7% so với cùng kỳ. Tính chung cả năm 2007, giá trị sản xuất công nghiệp cả nước đạt hơn 574 nghìn tỷ đồng, tăng 17,1% so với năm 2006, đạt mức kế hoạch đề ra từ đầu năm. Trong đó công nghiệp quốc doanh tăng 10,3%, ngoài quốc doanh tăng 20,9% và khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tăng 18,2%. Trong đó có một số sản phẩm công nghiệp có mức tăng khá cao so với mức năm 2006 là máy công cụ tăng 69,8%, ô tô các loại tăng 52,8%, xe máy tăng 23,9%, điều hoà nhiệt độ tăng 51,9%, bia các loại tăng 19,2%... Theo thông báo của Bộ Công Thương cho biết giá trị sản xuất công nghiệp cả nước tháng 1/2008 ước đạt 52.950 tỷ đồng, tăng 18,2% so với cùng kỳ năm trước. Hầu hết các sản phẩm công nghiệp chủ yếu phục vụ sản xuất, tiêu dùng và xuất khẩu trong tháng 1 đều đạt mức tăng trưởng khá như ô tô tăng hơn 70%, xi măng tăng hơn 206%, vải lụa thành phẩm tăng 25,2%... Ở khu vực trong nước, giá trị sản xuất công nghiệp khu vực Nhà nước trung ương tháng 1/2008 đạt 5.854 tỷ đồng, giảm 9% so với tháng 12/2007 và tăng 17,4% so với cùng kỳ năm 2007 với 15 trong tổng số 19 ngành sản xuất tăng. Giá trị sản xuất công nghiệp khu vực nhà nước địa phương tháng 1/2008 đạt 1.723 tỷ đồng, tăng 0.9% so với tháng 12/2007, so với cùng kỳ năm 2007 tăng 6% so với 9 trong tổng số 18 ngành sản xuất tăng. Giá trị sản xuất khu vực ngoài Nhà nước tháng 1/2008 đạt 13.792 tỷ đồng, giảm 2,2% so với tháng 12/2007, so với cùng kỳ năm 2007 tăng 21,5% với 23 trong tổng số 26 ngành sản xuất tăng. Trong đó, loại hình hợp tác xã tăng 61,4% ; doanh nghiệp tư nhân tăng 26,4%; công ty TNHH tăng 23,5%; công ty cổ phần tư nhân tăng 31,2%; công ty cổ phần có vốn Nhà nước dưới 50% tăng 19,1%; cá thể tăng 14,8%. Ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, giá trị sản xuất công nghiệp tháng 1/2008 giảm 8% so với tháng 12/2007 và tăng 20,7% so với tháng 1/2007 với 20 trong tổng số 23 ngành sản xuất tăng, trong đó các ngành công nghiệp chủ yếu đều tăng cao hơn khu vực trong nước. Như vậy, trong năm 2007 chúng ta đạt giá trị sản xuất công nghiệp cả nước 17,1% và tốc độ tăng trưởng kinh tế là 8,5% cao nhất trong vòng 10 qua. Ba nhóm ngành chính (nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp- xây dựng và dịch vụ) có tốc độ tăng trưởng khá (tương ứng là 3,5%, 10,6% và 8,7%), đều đạt hoặc vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra (chỉ tiêu kế hoạch tương ứng là 3,5-3,8%; 10,5-10,7% và 8-8,5%). Cơ cấu giữa các nhóm ngành tiếp tục có chuyển dịch tích cực. Tỷ trọng của khu vực nông nghiệp trong GDP giảm từ 20,4% xuống còn 20%; của công nghiệp và xây dựng tăng từ 41,5% lên 41,8%. Đây cũng là lần đầu tiên tốc độ tăng trưởng của khu vực dịch vụ (8,7%) cao hơn tốc độ tăng trưởng chung của cả nền kinh tế. Tuy nhiên, để duy trì và nâng cao mức tăng trưởng này trong những năm tới nhất là khi mà giá cả đầu vào tăng cao thì Chính phủ cần có biện pháp tích cực hơn nữa. Sẽ là phát triển toàn diện, nếu như giá trị gia tăng (phần hiệu quả trong sản xuất kinh doanh) tỷ lệ thuận với giá trị sản xuất công nghiệp(GTSXCN). Bên cạnh sự khởi sắc về mặt GTSXCN, vẫn và đang tồn tại một bức tranh đối lập nhau khá rõ nét giữa tốc độ tăng trưởng trong sản xuất và giá trị tăng thêm. Nếu như trong vòng 3 năm trở lại đây, GTSXCN luôn luôn có mức tăng trưởng từ 15- 16%/năm; thì giá trị gia tăng của ngành lại không tăng đáng kể, thấp nhất là 8,5% và thời điểm cao nhất cũng chỉ tăng 10,5% vào. Giá trị tăng thêm ít chuyển biến không những nói lên tính hiệu quả của doanh nghiệp thuộc ngành chưa cao, chậm chuyển biến, mà còn thể hiện trong một thời gian khá dài nội tại ngành vẫn không có sự đầu tư chiều sâu nhằm chuyển biến về nguồn nguyên liệu cho sản xuất, kinh doanh, dẫn tới hệ số phụ thuộc vào thị trường nước ngoài lớn. Điểm lại một số ngành tiêu biểu như dệt may, sau một năm gia nhập WTO dệt may Việt Nam đạt được những bước tiến vượt bậc. Đến cuối năm kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 7,8 tỷ USD, tăng khoảng 31% so với cùng kỳ năm 2006. Mặc dù gặp nhiều khó khăn về thị trường, nguồn lao động nhưng sản xuất và xuất khẩu mặt hàng dệt may đã đạt được những kết quả tốt, trở thành mặt hàng có kim ngạch lớn nhất trong các mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đóng góp phần đang kể vào việc hoàn thành mục tiêu xuất khẩu 48,1 tỷ USD năm 2007. Tuy đạt mức tăng trưởng cao nhưng về bản chất lợi nhuận ngành còn rất thấp. Sở dĩ có tình trạng như vậy là do chúng ta phải nhập đến 80% nguyên phụ liệu cho ngành, trong đó chủ yếu là nhập bông, sợi, vải. Điều này làm cho không ít doanh nghiệp Việt Nam chỉ “gia công” cho phía nước ngoài. Theo Tổng công ty Dệt may Việt Nam, dù doanh thu toàn ngành đạt cao nhưng phần thu về chúng ta chỉ chiếm khoảng 25- 30% nghĩa là trong số 1tỷ USD xuất khẩu, Việt Nam chỉ thu về được khoảng 240-300 triệu USD, còn lại là của phía nước ngoài; ngành da giày cũng trong tình trạng tương tự. Một ví dụ điển hình nữa là ngành thép, chúng ta chăng gia công cho ai, nhưng yếu tố cấu thành nên lợi nhuận chính là nguồn phôi thép phục vụ cho sản xuất thì chúng ta lại phụ thuộc vào thị trường thế giới. Sản xuất thép của Việt Nam năm 2007 đạt khoảng 4 triệu tấn, tăng 17% so với 2006. Theo dự báo năm 2008 thị trường thép Việt Nam tiếp tục tăng trưởng từ 17- 20%, trong đó sản xuất trong nước đạt khoảng 4,5 triệu tấn. Năm 2007, lượng phôi thép sản xuất trong nước sản xuất đáp ứng được 40%, dự tính năm 2008 phôi thép sản xuất trong nước chỉ đáp ứng được khoảng 50%, cỡ trên 2 triệu tấn, như vậy còn hơn 2 triệu tấn phôi phải nhập khẩu. Do nguồn cung phôi thép bị phụ thuộc dẫn đến giá thép thành phẩm luôn biến động, mà thị trường nhập khẩu cũng bị giới hạn gây rất nhiều khó khăn cho các nhà sản xuất thép Việt Nam. Không những thế phần thu về ngân sách cũng bị bó hẹp do phải chi để nhập phôi thép. Trong khi, theo tính toán của các nhà khoa học, nếu sớm đưa vào xây dựng khu liên hợp sản xuất phôi, thép... ở mỏ quặng sắt Thạch Khê_ Hà Tĩnh sẽ góp phần lớn cho việc chủ động nguồn nguyên liệu sản xuất thép ở Việt Nam (đồng nghĩa với việc giá trị tăng thêm của ngành cũng cao), song tất cả vẫn chỉ dừng lại ở báo cáo nghiên cứu khả thi. Ngay đến ngành dầu khí, một trong những ngành mũi nhọn có đóng góp lớn vào nền kinh tế nước nhà, xuất khẩu luôn đạt giá trị cao. Mặc dù là nước xuất khẩu dầu đứng thứ ba khu vực Đông Nam Á (sau Malaysia và Indonesia), nhưng cả năm 2007, lượng dầu thô khai thác đã giảm khoảng 1,5 triệu tấn so với kế hoạch, dẫn đến sản lượng dầu thô xuất khẩu chỉ đạt 15,3 triệu tấn. Tuy nhiên, do giá dầu tăng cao nên tổng giá trị xuất khẩu vẫn đạt tới 8,59 tỷ USD (tăng 21% so với kế hoạch là 7,11 tỷ USD). Tuy đạt giá trị cao nhưng Việt nam vẫn là nước xuất khẩu 100% là dầu thô, nên tính ra tiền xuất không đủ tiền nhập xăng, dầu cho việc tiêu dùng trong nước. Vì phải xuất khẩu dầu thô nên phần giá trị gia tăng chủ yếu nằm trong tay các công ty nước ngoài như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore... Vấn đề tồn tại thứ ba là trình độ quản lý vốn đầu tư, dự án đầu tư của các cán bộ trong doanh nghiệp còn thấp. Việc đào tạo kỹ năng quản lý cho các cán bộ còn nhiều hạn chế. Bên cạnh đó, tình trạng lãng phí, tham ô, hối lộ, tham nhũng còn diễn ra phổ biến. Điều này có thể thấy rõ trong lĩnh vực xây dựng cơ bản. Thống kê gần đây đã chỉ ra số vốn thất thoát trong đầu tư xây dựng cơ bản khoảng 10% tổng số đầu tư. Điều này đã làm tăng tỷ trọng chi phí trong tổng số vốn đầu tư, đẩy chi phí đầu tư lên cao. Một vấn đề nữa là cơ sở vật chất, trang thiết bị máy móc hầu hết là cũ nát và chắp vá, không tạo điều kiện để đầu tư chiều sâu có hiệu quả. Các thiết bị đo lường, thử nghiệm nói chung không đồng bộ, không có khả năng kiểm tra đánh giá đúng chất lượng các sản phẩm. Những cơ sở xây dựng từ trước phần lớn thiếu các thiết bị xử lý chất thải, khí thải và gây ô nhiễm môi trường xung quanh khá nặng. Do đó, hệ thống công nghệ thiếu phụ tùng thay thế, tổ chức cung ứng nguyên vật liệu kém hiệu quả, cứng nhắc nên hệ số sử dụng thiết bị rất thấp (25- 30%), suất tiêu hao nguyên vật liệu trên một đơn vị sản phẩm còn quá lớn (thường gấp 1,5- 2 lần so với mức chung cả thế giới). Nhiều tiêu chuẩn, quy phạm, quy trình kỹ thuật, định mức đã lỗi thời nhưng chưa được sửa đổi. Chắc chắn với một cơ sở vật chất như vậy sẽ không thể thúc đẩy việc đầu tư mở rộng sản xuất gây khó khăn cho đầu tư chiều sâu đổi mới, cải tiến kỹ thuật, tiến độ của việc đổi mới sẽ chậm. Do ảnh hưởng của cơ sở vật chất và trang thiết bị máy móc nói trên, theo tính toán chung, số hàng hoá trong nước vừa qua bị ứ đọng 40% do giá cao và chất lượng kém, 20% do không hợp nhu cầu tiêu dùng, 27% do không cạnh tranh nổi với hàng ngoại, 30% sản phẩm tiêu dùng truyền thống không còn phù hợp với nhu cầu tiêu dùng nữa. Và cuối cùng, đầu tư theo chiều sâu diễn ra chưa đều khắp và chưa có được định hướng vào những mục tiêu chiến lược phát triển của doanh nghiệp. Về cái gọi là “phát triển ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ và chất xám cao”, cũng như trong bản “Chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn 2020”, các nhà hoạch định chính sách, các nhà kinh tế cho rằng, khái niệm mà bản chiến lược đưa ra như trên vẫn còn khá mập mờ. Chẳng hạn, công nghiệp có công nghệ cao là thế nào? Công nghiệp dựa vào một số mũi nhọn là gì? Công nghệ cao hiểu theo cách là chúng ta nhập nhiều nhà máy hiện đại về, nhưng tri thức không có, thì cũng chẳng khác gì đặt các nhà máy ấy ở bất kỳ đâu trên thế giới. Là một nước nông nghiệp, lại giàu tài nguyên thiên nhiên, hiểu theo nghĩa nào đó thì nền công nghiệp chế biến của nước đó phải rất phát triển. Nhưng trên thực tế, nền công nghiệp chế biến của ta hiện nay vẫn quá lạc hậu và kém phát triển. Hầu hết các sản phẩm nông nghiệp xuất khẩu đều ở dạng sơ chế, gạo, cà phê, chè... Thế nhưng, dù trong chiến lược phát triển ngành công nghiệp cũng có nói đến vấn đề phát triển ngành công nghiệp chế biến để phát huy lợi thế, song giữa nói và làm dường như vẫn còn quá cách xa nhau. Việt Nam, trong suốt những năm qua, quanh đi quẩn lại cũng chỉ những ngành công nghiệp cơ bản; khai thác (than, dầu, khí, khoáng sản), công nghiệp tiêu dùng... Còn các sản phẩm công nghiệp chủ lực mang thương hiệu Made in Việt Nam có khả năng cạnh tranh quốc tế cao thì hầu như không có. Những cái tên Bình Tiên, Trung Nguyên, Vinamilk, Kinh Đô, cao su Sao Vàng... vẫn chỉ đếm trên đầu ngón tay. Vì vậy, đã đến lúc trong chiến lược phát triển công nghiệp giai đoạn 2006- 2010 và 2010- 2015, chúng ta cần có chính sách công nghiệp để tạo ra bước đột phá cho nền kinh tế Việt Nam. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP KẾT HỢP HÀI HÒA GIỮA ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG PHƯƠNG HƯỚNG NÂNG CAO HIỆU QUẢ ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU TRONG DOANH NGHIỆP. Phương hướng nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp Lựa chọn lĩnh vực đầu tư phù hợp với định hướng tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp Các doanh nghiệp nhà nước luôn có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Để doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thì phương hướng giải quyết như sau: tiếp tục đẩy mạnh công tác tổ chức, sắp xếp lại theo hướng hình thành các loại hình doanh nghiệp Nhà nước có nhiều chủ sở hữu- chủ yếu là công ty cổ phần; giảm số lượng doanh nghiệp nhỏ, thua lỗ và các doanh nghiệp thuộc các ngành, lĩnh vực mà nhà nước không cần nắm giữ 100% vốn; tập trung vào các ngành, lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế. Để các doanh nghiệp này đảm bảo nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đóng vai trò là đầu tàu của nền kinh tế, là công cụ quan trọng để định hướng XHCN. Hướng các doanh nghiệp nhà nước vào các ngành hàng quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Đó là: Những ngành đáp ứng nhu cầu chung của xã hội (xây dựng cơ sở hạ tầng, công nghệ, an ninh quốc phòng…) Những ngành cần sự kiểm tra, kiểm soát của nhà nước (in ấn, xuất bản, sản xuất thuốc tân dược…) Những ngành sản xuất TLSX (cơ khí, chế tạo, điện, sản phẩm phục vụ nông nghiệp…) Đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh: Nhà nước có những chính sách khuyến khích phát triển như cho vay vốn ưu đãi, giảm thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp để hướng vào sản xuất những mặt hàng phục vụ nhu cầu cấp thiết và đa dạng của đời sống xã hội. Tuy nhiên, cần thống kê, rà soát, sắp xếp lại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hiện có và thẩm tra kỹ lưỡng trước khi quyết định cho phép thành lập một doanh nghiệp mới nhằm loại bỏ những doanh nghiệp “hữu danh vô thực”, lợi dụng tư cách pháp nhân của doanh nghiệp được thừa nhận theo luật định để lừa đảo, trốn thuế… Tránh được những rủi ro đáng tiếc xảy ra khi cấp vốn và cho vay vốn đầu tư. Như vậy, phương hướng tiếp tục đẩy mạnh tổ chức, sắp xếp lại các doanh nghiệp theo hướng CNH-HĐH sẽ tạo điều kiện để phát huy hiệu qủa của hoạt động đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu. Triệt để khai thác các nguồn lực xã hội, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong các doanh nghiệp. Cùng với phương hướng nêu trên thì công tác tạo nguồn và huy động vốn là tiền đề vật chất để đầu tư chiều rộng, chiều sâu được tiến hành thuận lợi, đạt được mục tiêu và kết quả đã định. Đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp đòi hỏi lượng vốn lớn. Chính vì vậy, phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp là huy động vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau. Trong đó, nguồn vốn trong nước đóng vai trò quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng. Nguồn vốn trong nước: hướng tạo nguồn này là thực hành chính sách tiết kiệm trong sản xuất, tiêu dùng. Từ nguồn tích luỹ đó, chúng ta cần huy động và sử dụng thật hiệu quả để có thể phát huy vai trò quyết định của nguồn vốn này. Nguồn vốn nước ngoài: Nhà nước ta đã chủ trương thu hút các nguồn lực từ bên ngoài cho đầu tư phát triển đất nước. Các nguồn này không chỉ có vốn đầu tư mà cả công nghệ, kinh nghiệm quản lý nhằm tăng xuất khẩu, tạo việc làm, tăng thu cho ngân sách,…góp phần thu hẹp khoảng cách tụt hậu về kinh tế so với các nước trong khu vực. Đối với nguồn nhân lực có kỹ thuật và tay nghề cao cần thu hút vào những ngành, lĩnh vực có công nghệ cao. Bên cạnh đó, đối với nguồn nhân lực chưa có tay nghề cần thu hút vào các nghành nghề thủ công. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ KẾT HỢP ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU TRONG DOANH NGHIỆP Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu Để đưa ra các giải pháp và thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu thì cần có sự nỗ lực từ hai phía, đó là nhà nước và các doanh nghiệp. Với chức năng của mình nhà nước sẽ tạo mọi điều kiện cho doanh nghiệp phát triển, bên cạnh đó các doanh nghiệp cần phải nỗ lực hết mình nâng cao hiệu quả đầu tư. Về phía nhà nước Nâng cao chất lượng trong công tác xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển lâu dài trong cả nước, ngành, vùng. Việc nâng cao công tác xây dựng chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển lâu dài sẽ tạo phương hướng đúng đắn cho hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp. Hoàn thiện quản lý nhà nước về đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu cho các doanh nghiệp, các tổ chức quản lý nhà nước về đầu tư, thực hiện dự án đầu tư. Tổ chức quản lý sau dự án đầu tư. Hoàn thiện quản lý chất lượng xây dựng cơ bản trong quá trình đầu tư. Hoàn thiện cơ chế quản lý dự án đầu tư trong doanh nghiệp Quản lý nhà nước đối với sự triển khai và hoạt động của dự án đầu tư. Nhà nước cần quản lý chặt chẽ, giám sát hoạt động của mỗi dự án để định hướng và có biện pháp chi phối thông qua các công cụ điều tiết vĩ mô: thông tin thị trường, các chỉ tiêu kế hoạch… từ đó xây dựng chính sách đầu tư phù hợp, bảo đảm phân phối và sử dụng nguồn lực một cách có hiệu quả. Nhà nước cần ban hành quy định chi tiết, chặt chẽ về nội dung và các bước về thẩm định dự án ở các cấp. Nhà nước cần hoàn thiện hệ thống chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư, ngoài cái chung cần thông qua một số chỉ tiêu: việc làm do dự án tạo ra, việc làm do dự án liên đới mang lại (bởi vì trong quá trình xây dựng dự án mới sẽ tạo thêm việc làm nhưng đồng thời cũng làm nhiều lao động khác mất việc do các cơ sở sản xuất cũ không đủ sức cạnh tranh). Hoàn thiện cơ chế quản lý giá trong hoạt động đầu tư: hoàn thiện nội dung, phương pháp xác định các khoản mục chi phí trong giá dự toán cho phù hợp với những thay đổi về trình độ tổ chức, quản lý xây dựng cơ bản cũng như các chế độ chính sách kinh tế của Đảng và Nhà nước. Luôn có biện pháp điều chỉnh kịp thời, đúng đắn các chi phí trong dự toán cho phù hợp với sự biến động giá cả trên thị trường. Củng cố và phát triển các thị trường, nâng cao hiệu quả đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng Đối với thị trường lao động: thông qua chế độ chính sách tiền lương và phân phối thu nhập để điều hòa lao động phù hợp với cơ cấu ngành và vùng lãnh thổ. Đồng thời thu hút nguồn lao động có kỹ thuật cao vào các dự án đầu tư chiều sâu. Đối với thị trường công nghệ: xây dựng và phát triển năng lực công nghệ quốc gia thích nghi và đủ mạnh từ việc lựa chọn công nghệ kết hợp hiện đại hóa công nghệ truyền thống. Bên cạnh đó khuyến khích các doanh nghiệp, các công ty đa quốc gia thành lập các trung tâm R&D công nghệ hiện đại. Thị trường tư liệu xây dựng: tổ chức và quản lý tốt thị trường này để không xảy ra những đột biến về giá cả và khan hiếm giả tạo. Ngoài ra, cần nhanh chóng tạo điều kiện tiền đề cấn thiết để hình thành và phát triển thị trường thông tin, thị trường tài chính, thị trường vốn… Giải pháp huy động các nguồn vốn cho đầu tư Để huy động các nguồn vốn cho đầu tư chiều rộng và chiều sâu cần có một số giải pháp sau: Công khai các dự án đầu tư, đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp để thu hút các nguồn vốn đầu tư ngoài doanh nghiệp như phát hành cổ phiếu, trái phiếu thông qua thị trường vốn để huy động vốn. Tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh và thực sự bình đẳng giữa các thành phần kinh tế để cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh và nhân dân đỡ cảm thấy bị yên tâm khi bỏ vốn ra đầu tư phát triển sản xuất. Đưa ra chính sách khuyến khích, động viên, hỗ trợ thỏa đáng đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, các hộ cá thể vì các doanh nghiệp này mới ra đời còn non trẻ nhưng đầy tiềm năng phát triển. Đẩy mạnh các biện pháp để làm thông thoáng thị trường vốn, phát triển thị trường chứng khoán. Trước mắt cần liên kết các loại thị trường: thị trường liên ngân hàng, thị trường hối đoái, thị trường chứng khoán, tín phiếu kho bạc để thu hút nhanh nguồn vốn trong nhân dân. Xây dựng các kênh thông tin chính xác để các nhà đầu tư nước ngoài có thêm cơ sở để đầu tư vào trong nước. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến đầu tư. 1.2. Về phía doanh nghiệp Tiến hành xây dựng các chiến lược, kế hoạch phát triển lâu dài trong doanh nghiệp Thực trạng hiện nay, năng lực đổi mới công nghệ ở nước ta còn thấp vì vậy tại mỗi doanh nghiệp cần nâng cao năng lực đổi mới công nghệ thông qua việc tạo lập trong doanh nghiệp các trung tâm R&D. Đổi mới tư duy, phương pháp quản lý doanh nghiệp: để nâng cao phương pháp quản lý trong doanh nghiệp thì cần tăng cường liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp nước ngoài nhằm học hỏi phương pháp quản lý tiên tiến mang lại hiệu quả kinh doanh. Chú trọng vào việc nâng cao công tác đào tạo nguồn nhân lực, tuyển chọn và giữ chân nhân tài. Đổi mới cơ cấu đầu tư theo hướng tăng cường đầu tư chiều sâu để đổi mới máy móc thiết bị và quy trình công nghệ: tăng cường tỷ lệ vốn đầu tư vào việc mua sắm thêm máy móc thiết bị mới và công nghệ hiện đại nhằm mục đích là để tăng năng suất, chất lượng và giảm chi phí sản xuất, tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong nước và thị trường thế giới thông qua hoạt động xuất khẩu. Giải pháp này rất quan trọng đối với tất cả các ngành sản xuất công nghiệp từ chế tạo cơ khí đến lắp ráp điện tử, máy tính, ô tô, xe gắn máy, gia công hàng xuất khẩu (dệt, da giày), công nghiệp khai thác than, dầu khí… Ngoài ra, đối với các ngành nghề thủ công, các ngành nghề truyền thống cần tăng tỷ lệ nội địa hóa để tận dụng nguồn nhân lực và tiềm năng sẵn có trong nước, giảm giá nguyên liệu đầu vào, giảm giá thành sản phẩm đầu ra. Kết hợp hài hòa mối quan hệ giữa đầu tư chiều sâu và đầu tư chiều rộng trong doanh nghiệp Trên thực tế, trong chiến lược đầu tư của doanh nghiệp thường kết hợp hai hình thức đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Vì vậy, doanh nghiệp cần phải có các giải pháp nhằm tăng cường kết hợp hai hình thức đầu tư này một cách hiệu quả. Bên cạnh những biện pháp nhằm đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu riêng rẽ theo hướng hiệu quả hơn ở trên thì ta cần phải kết hợp hai hình thức đầu tư này một cách hợp lý để tăng cường ưu điểm của từng hình thức đầu tư.... Thông thường với mỗi doanh nghiệp sẽ đầu tư theo chiều rộng để tạo cơ sở vật chất sau đó khi đã có được cơ sở tốt để chiếm lấy thị phần, mở rộng thị trường thì doanh nghiệp sẽ tiếp tục có chiến lược đầu tư theo chiều sâu, đồng thời không ngừng củng cố mở rộng theo chiều rộng. Trong quá trình phát triển của một doanh nghiệp thì việc kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu hợp lý là rất quan trọng, nó giúp cho doanh nghiệp đứng vững trên thị trường. Từ thực trạng hiện nay, trình độ quản lý vốn đầu tư, dự án đầu tư của các cán bộ trong doanh nghiệp còn thấp. Để giải quyết tình trạnh này phía nhà nước và doanh nghiệp cần kết hợp để đào tạo ra những cán bộ có trình độ quản lý tốt qua các chương trình liên kết giữa doanh nghiệp và các trường đại học, dạy nghề. Nếu như cần thiết thì doanh nghiệp có thể tạo điều kiện cho cán bộ quản lý học tập ở nước ngoài. Trong cơ cấu doanh nghiệp hiện nay, đầu tư theo chiều rộng vẫn chiếm ưu thế hơn đầu tư chiều sâu. Giải pháp cho vấn đề này doanh nghiệp cần nghiên cứu chiến lược, mục tiêu rõ ràng, cụ thể để có một cơ cấu đầu tư chiều rộng và chiều sâu hợp lý để thích ứng với sự biến động của thị trường.Trước hết, doanh nghiệp nên lập các chiến lược đầu tư (ngắn hạn, trung hạn, dài hạn) rõ ràng, cụ thể để đảm bảo tính nhất quán, đồng thời giúp cho doanh nghiệp linh hoạt hơn với những biến động của thị trường. Trong môi trường kinh doanh cạnh tranh gay gắt hiện nay đòi hỏi doanh nghiệp phải hết sức nhạy bén với sự thay đổi và xu hướng của thị trường để đầu tư có trọng tâm, trọng điểm, xác định được thời điểm nào thì nên đầu tư chiều rộng, chiều sâu, hay kết hợp cả hai hình thức đầu tư trên. Mặt khác, xác định chính xác chu kỳ sống của sản phẩm cũng đóng vai trò quan trọng đối với hoạt động đầu tư của doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp xác định được nên đầu tư chiều rộng hay đầu tư chiều sâu phù hợp với nguồn lực của doanh nghiệp và nhu cầu của thị trường. Dựa vào đặc tính của một số sản phẩm mà doanh nghiệp quyết định đầu tư, một số sản phẩm đòi hỏi quy trình công nghệ thay đổi một cách nhanh chóng (ví dụ như sản phẩm điện thoại di động) thì doanh nghiệp nên đầu tư chiều sâu vào sản phẩm đó. Doanh nghiệp cần cân nhắc khi tiến hành đầu tư, lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp để đảm bảo sự đồng bộ giữa các yếu tố sản xuất, phát huy ưu điểm của hai hình thức đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM KẾT HỢP ĐẦU TƯ CHIỀU RỘNG VÀ ĐẦU TƯ CHIỀU SÂU ĐẠT ĐƯỢC HIỆU QUẢ CAO TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG Thực trạng công nghệ ở nước ta hiện nay còn rất lạc hậu mà một phần quan trọng là do sự yếu kém của khâu điều hành quản lý. Do vậy, đổi mới công nghệ cần phải gắn với trách nhiệm người điều hành quản lý. Nếu không, dù đổi mới nhiều lần, công nghệ vẫn lạc hậu, sản xuất vẫn đình trệ, khó khăn lại đổ lên đầu Nhà nước. Doanh nghiệp vẫn cần nhận thức rõ tầm quan trọng của việc đầu tư đào tạo đội ngũ cán bộ trong doanh nghiệp, đưa ra những chiến lược ưu đãi và giữ chân đối với nhân lực cấp cao là rất cần thiết, bởi đó chính là yếu tố tiên quyết giúp doanh nghiệp khẳng định vị trí của mình trên thị trường. Ngoài ra các doanh nghiệp cần gắn liền hoạt động đầu tư trong doanh nghiệp mình với các mục tiêu phát triển của đất nước và nhu cầu của thị trường để từ đó có cơ cấu đầu tư hợp lý, đạt hiệu quả cao. Bên cạnh đó, các cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần phải đổi mới cơ chế hành chính, hạn chế tối đa những thủ tục rườm rà trong khâu đầu tư, tạo lập được môi trường kinh doanh đầu tư thật sự thuận lợi cho chính các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bởi cơ chế, chính sách có tốt mấy mà không đến được với cộng đồng doanh nghiệp thì cũng chẳng có tác dụng gì. Hoạt động đầu tư chiều rộng hay chiều sâu cũng phải gắn liền với thực trạng nước nhà. Nước ta đang trong giai đoạn CNH-HĐH, việc xác định ngành công nghiệp mũi nhọn là hết sức quan trọng. Do vậy, cần đặc biệt tập trung vào ngành công nghiệp chế biến (chế biến nông, thuỷ sản và chế biến nguồn khoáng sản) để mang lại giá trị gia tăng cao. Đây chính Trong bối là nền công nghiệp mũi nhọn, có tiềm năng và lợi thế cạnh tranh nhất của Việt Nam. cảnh Việt Nam mới ra nhập Tổ chức Thương mại Thế giới, hội nhập kinh tế quốc tế vừa có cơ hội lớn, vừa phải đối đầu với thách thức không nhỏ. Trong đó cơ hội thu hút nguồn vốn đầu tư sẽ nhiều hơn, thế nhưng cơ hội không tự nó biến thành lực lượng vật chất trên thị trường mà tuỳ thuộc vào khả năng tận dụng cơ hội của chúng ta. Thách thức tuy là sức ép trực tiếp nhưng tác động của nó đến đâu còn tuỳ thuộc vào nỗ lực vươn lên của chúng ta. Cơ hội và thách thức không phải “nhất thành bất biến” mà luôn vận động, chuyển hoá và thách thức đối với ngành này có thể là cơ hội cho ngành khác phát triển. Tận dụng được cơ hội sẽ tạo ra thế và lực mới để vượt qua và đẩy lùi thách thức, tạo ra cơ hội mới lớn hơn. Ngược lại, không tận dụng được cơ hội, thách thức sẽ lấn át, cơ hội sẽ mất đi, thách thức sẽ chuyển thành những khó khăn dài hạn rất khó khắc phục. Và ở đây, nhân tố chủ quan, nội lực của đất nước, tinh thần tự lực tự cường của toàn dân tộc là quyết định nhất. KẾT LUẬN Qua phân tích lý luận và thực tế nước ta đã cho thấy các doanh nghiệp đã và đang nhìn nhận một cách đúng đắn hơn về mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu. Tuy còn một số vấn đề phải bàn thêm xong đề tài nghiên cứu trên đã giải thích hầu hết các khía cạnh về đầu tư đầu tư chiều rộng, đầu tư chiều sâu và mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu cả về mặt lý luận và thực tiễn nước ta. Bằng các số liệu cập nhập mới nhất, đầy đủ cùng sự phân tích có tính lôgíc và cơ sở khoa học, đề tài đã đi sâu phân tích mối quan hệ biện chứng giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Mối quan hệ này được thể hiện đó là: đầu tư chiều rộng sẽ tạo điều kiện tiền đề, cơ sở vật chất ban đầu cho đầu tư chiều sâu; đầu tư chiều sâu tiếp tục tạo tiền đề cho đầu tư chiều rộng ở những phương diện mới; đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu không tách rời nhau, đan xen, bổ sung cho nhau…Bên cạnh những thành tựu đạt được trong các năm qua từ việc kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu ở nước ta vẫn còn một số tồn tại như: đầu tư chiều sâu chưa gắn kết và làm cơ sở cho sự mở rộng sản xuất; cơ cấu đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu trong doanh nghiệp nhà nước còn nhiều bất cập; trình độ quản lý vốn đầu tư, dự án đầu tư của các cán bộ trong doanh nghiệp nhà nước còn thấp gây ra thất thoát, lãng phí nguồn vốn đầu tư từ ngân sách; đầu tư chiều sâu diễn ra chưa đều khắp và chưa có định hướng đúng đắn vào những mục tiêu chiến lược phát triển của doanh nghiệp…Như vậy, từ thực tế mối quan hệ giữa đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu nền kinh tế nước ta cho thấy một số doanh nghiệp lợi dụng lợi thế của việc kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Nhưng mặt bằng chung các doanh nghiệp thì vấn đề này còn một số bất cập cần được khắc phục. Vì vậy, những giải pháp được đưa ra không chỉ từ phía cơ quan quản lý nhà nước mà còn xuất phát từ phía các doanh nghiệp tạo điều kiện phát huy đầy đủ ưu thế của việc kết hợp đầu tư chiều rộng và đầu tư chiều sâu. Có như vậy, nền kinh tế nước ta mới có thể tăng trưởng, phát triển một cách bền vững trong quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ như hiện nay. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương, Giáo trình Kinh tế đầu tư, Đại học kinh tế quốc dân, 2007. PGS. TS Nguyễn Bạch Nguyệt, giáo trình lập dự án đầu tư, nhà xuất bản thống kê, 2005. www.bacninh.gov.vn www.tbic.vn www.news.vibonline.com.vn www.haiquanbinhduong.gov.vn www.vneconomy.vn www.doanhnghiep24g.com.vn www.neu.edu.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc24690.doc
Tài liệu liên quan