Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng – phát triển

 Lao động và việc làm • Thực hiện các chính sách khuyến khích đẩy mạnh phát triển sản xuất, tạo việc làm mới; chú trọng khuyến khích phát triển ngành công nghiệp nhẹ, công nghiêp chế biến, các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều lao động, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. • Tập trung vốn Quỹ cho vay giải quyết việc làm cho các dự án thu hút nhiều lao động; sắp xếp và đổi mới, phát triển mạng lưới dạy nghề. • Đưa xuất khẩu lao động thành một chương trình lớn, đồng bộ theo hướng mở rông sự tham gia của các thành phần kinh tế.  Phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội • Đây mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc, làm phong phú nền văn hoá của cả nước, đồng thời kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam, đấu tranh chống khuynh hướng lợi dụng văn hoá để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. • Bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hóa, thuần phong mĩ tục tốt đẹp của dân tộc

doc102 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1670 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa đầu tư với tăng trưởng – phát triển, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
giai đoạn (Đơn vị: nghìn tỷ) Vốn đầu tư 1991-1996 1996-2000 2000-2005 Tổng 235 400 958,4 Miền núi phía Bắc - 30,4 78,6 Đồng bằng sông Hồng - 102 234,8 Bắc Trung Bộ - 77,2 76,7 Duyên hải miền Trung 118,8 Tây Nguyên - 19,6 49,8 Đông Nam Bộ - 112 253,9 Đồng bằng sông Cửu Long - 58,8 145,7 Mức đầu tư vào các vùng kinh tế giai đoạn 2001-2005 (Đơn vị : 1000 tỷ đồng, giá năm 2000) Vùng 2001 - 2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng 840 145,6 163,3 170,3 176,8 184,0 Miền núi phía Bắc 68,9 11,6 13,1 14,0 14,9 15,5 Đồng bằng Sông Hồng 205,8 35,2 39,8 41,7 43,6 45,4 Bắc Trung Bộ 67,2 11,2 12,9 13,5 14,4 15,3 Duyên hải miền Trung 104,2 17,2 19,9 21,3 22,3 23,6 Tây Nguyên 43,7 7,1 8,2 8,9 9,5 10,0 Đông Nam Bộ 222,5 41,6 44,7 45,1 45,1 46,0 Đồng bằng S.Cửu Long 127,7 21,7 24,7 25,9 27,1 28,2 Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê Chính sách đầu tư được điều chỉnh theo chủ trương phát triển vùng lãnh thổ có trọng điểm. Tỷ lệ đầu tư phân theo vùng kinh tế Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê Về mức đầu tư: Tổng mức đầu tư trong cả nước cũng như các vùng liên tục tăng, thời kỳ sau gấp 1,5 - 2,5 lần thời kỳ trước như trên hai bảng 6 và 7. Đây là thời kỳ, chúng ta thực sự tiến hành đổi mới, khuyến khích mọi nguồn vốn đầu tư để tận dụng mọi nguồn lực của xã hội.. Về cơ cấu đầu tư: Mức đầu tư vào các vùng khác nhau cũng khác nhau. Vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Đông Nam Bộ được ưu tiên đầu tư đến trên 50% tổng vốn đầu tư của cả nước do đây là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cũng như đã có sẵn những điều kiện kinh tế, xã hội để phát triển. Dải đất hẹp miền Trung cũng được dành tới 20% vốn đầu tư do đây là vùng đất giữ vị trí chiến lược, nối hai đầu đất nước. Nhưng không vì ưu tiên phát triển các vùng kinh tế trọng điểm mà chúng ta không chú trọng các vùng khác. Hàng năm, một lượng vốn không nhỏ vẫn được đầu tư phát triển cho các vùng kinh tế miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long. b. Sự thay đổi trong cơ cấu kinh tế vùng Chính sách đầu tư trên đã có những tác động đến cơ cấu kinh tế vùng, lãnh thổ của nước ta như sau: Thứ nhất, nhờ nguồn vốn đầu tư, các vùng đã phát huy được thế mạnh, có điều kiện để khai thác và sử dụng ưu thế của mình, giúp tăng trưởng kinh tế khu vực, có thể xem xét một số khu vực sau: Khu vực vực Đồng bằng Sông Hồng: Có lợi thế về vị trí địa lý, tiếp giáp với các tỉnh phía Bắc, là cầu nối Đông Nam Á và Bắc Á, là trung tâm của đất nước. Đã thu hút được nguồn vốn đầu tư lớn thứ 2 trong cả nước. Vốn đầu tư phát triển cho vùng vào năm 1991-1995 là 26,9%; năm 1996-2000 là 25,5% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước. Nguồn vốn đó đã được đầu tư vào các dự án: Phát triển dịch vụ, khoa học kỹ thuật, công nghệ thông tin, công nghiệp… thúc đẩy sự phát triển của khu vực. Khu vực miền núi phía Bắc: Có nhiều tài nguyên thiên nhiên phong phú là mái nhà xanh của Đồng Bằng Bắc Bộ, có nhiều đồi núi, sông ngòi. Tuy nhiên kinh tế Tây Bắc vẫn phát triển chậm so với nhiều vùng trong cả nước. Hiện nay nhà nước khuyến khích đầu tư vào khu vực này, nguồn đầu tư vào khu vực ngày càng nhiều hơn. Giai đoạn 1991-1995 vồn đầu tư phát triển cho vùng là 7,3%, giai đoạn 1996-2000 là 7,6% tổng vốn đầu tư phát triển của cả nước. Nhờ vậy, nhiều nhà máy, khu du lịch được xây dựng, phát triển dần nâng cao đời sống nhân dân, phát triển kinh tế, thu hút nhiều hơn nguồn vốn đầu tư (tốc dộ tăng vốn đầu tư bình quân hàng năm nhanh nhất là ở miền núi phía Bắc 19% năm, các vùng khác khoảng từ 15-17%). Khu vực duyên hải Miền Trung: Có nguồn đầu tư phát triển giai đoạn 1996-2000 là 11,6% tổng số vốn đầu tư phát triển của cả nước, đầu tư đảm bảo cho việc khai thác thiên nhiên,… khu công nghiệp được hình thành và hoạt động có hiệu quả, nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế. Vùng Tây Nguyên: Tuy nguồn đầu tư vào vùng còn ít so với các khu vực khác, nhưng vẫn có xu hướng gia tăng vốn đầu tư. Từ 4,4% giai đoạn 1991-1995 đến 4,9% giai đoạn 1996-2000, đầu tư của Trung ương trên địa bàn vùng có tốc độ tăng rất lớn trong thời kỳ 1992-1994, đầu tư nước ngoài cũng đã tập trung ở Tây Nguyên (1995 có 23 dự án đầu tư nước ngoài). Nhờ những nguồn đầu tư này đã giúp cho vùng có điều kiện phát triển kinh tế, giao thông, thông tin, nhiều khu vực dân cư đã có điện, có ti vi…, thu ngân sách của vùng năm 1995 tăng 3,7 lần so với năm 1991. Thu nhập GDP/người thời kỳ 1990-1994 đã tăng từ 51 USD/người năm 1990 lên 166 USD/người năm 1994. Tuy nhiên, nguồn đầu tư vào vùng còn là quy mô nhỏ, cơ sở hạ tầng vẫn còn yếu kém, chi nhiều hơn thu, cơ cấu kinh tế còn chậm đổi mới. Vùng còn khó khăn cũng có những tiến bộ, mức sống của bộ phận đáng kể nông dân được nâng lên. Theo con số tổng hợp, từ năm 1992-1998 tổng vốn ngân sách nhà nước hỗ trợ cho nhiệm vụ phát triển miền núi khoảng 3000-3200 tỷ đồng. Nhiều mặt kinh tế xã hội của miền núi đã có sự chuyển biến tốt, dân trí được nâng cao, hầu hết các xã miền núi có cơ sở y tế, trường học… Tổng sản phẩm quốc dân phân theo vùng kinh tế (Đơn vị tính: %) Cơ cấu vùng lãnh thổ GDP (%) 1990 1995 2000 Động thái cơ cấu vùng 1991 - 1995 1991- 1995 1996-2000 - Miền núi - Trung du phía Bắc 12,1 8,9 7,5 -4,7 -3,3 -1,4 - ĐB Sông Hồng 18,6 20,5 20,3 +1,7 +1,9 -0,2 - DH miền Trung 17,5 17,1 16,0 -1,5 0,4 -1,1 - Tây Nguyên 3,2 2,8 3,6 +4,4 -0,4 +0,8 - Đông Nam Bộ 24,6 31,5 32,3 +7,7 +6,9 +0,8 - ĐBS Cửu Long 23,8 19,2 20,2 -3,6 -4,6 +1,0 Thứ hai, mức độ đóng góp của các vùng tạo ra GDP của cả nước thay đổi theo chiều hướng vai trò của vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ ngày càng tăng, tỷ trọng của các vùng khác được ổn định như ta thấy trong bảng 9. Trong đó, Đông Nam bộ được đánh giá là tăng nhanh nhất, sau đấy là đồng bằng sông Hồng. Vùng Tây Nguyên tuy có tốc độ tăng đứng thứ ba cả nước, nhưng lại bấp bênh. Thứ ba, hình thành khu công nghiệp, vùng kinh tế trọng điểm: Việc dồn 70-75% vốn đầu tư của cả nước cho ba vùng kinh tế trọng điểm đã ghi nhận được kết quả: Đây là những vùng kinh tế đóng góp nhiều nhất cho tổng sản lượng quốc dân cũng như thu ngân sách của nhà nước. Đóng góp của 3 vùng kinh tế trọng điểm cho nền kinh tế (Đơn vị: %) Cơ cấu GDP của 3 vùng KTTĐ so với cả nước 1995 1999 Vùng KT trọng điểm phía Bắc 14,10 13,80 Vùng KT trọng điểm miền Trung 4,10 4,20 Vùng KT trọng điểm phía Nam 30,60 31,10 Tổng 3 vùng 48,80 49,10 Cơ cấu công nghiệp 3 vùng KTTĐ so với cả nước Vùng KT trọng điểm phía Bắc 14,80 16,50 Vùng KT trọng điểm miền Trung 3,40 3,60 Vùng KT trọng điểm phía Nam 45,10 45,80 Tổng 3 vùng 63,30 65,90 Cơ cấu thu Ngân sách 3 vùng KTTĐ so với cả nước Vùng KT trọng điểm phía Bắc 21,40 20,20 Vùng KT trọng điểm miền Trung 3,70 3,90 Vùng KT trọng điểm phía Nam 51,00 52,30 Tổng 3 vùng 76,10 76,40 Năm 2000 ba vùng kinh tế trọng điểm tập trung phần lớn tiềm lực phát triển công nghiệp của cả nước đã đạt được những kết quả lớn trong sản xuất công nghiệp: Tại các vùng kinh tế trọng điểm đã phát triển 51 khu công nghiệp và khu chế xuất với hàng trăm các xí nghiệp công nghiệp đầu đàn có công nghệ hiện đại (cả nước có 67 khu công nghiệp, khu chế xuất). Có các đô thị lớn, đặc biệt là thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội là các trung tâm cung cấp dịch vụ cho các vùng và cả nước. Các hoạt động dịch vụ quan trọng từ đây lan toả đi nhiều nơi như thương mại, xuất nhập khẩu, tài chính - tiền tệ, vận tải, du lịch... đã góp phần tích cực vào sự phát triển chung của cả nước. Phần lớn dự án FDI tập trung ở các vùng phát triển kinh tế trọng điểm (84% tổng vốn đầu tư). Tuy nhiên, xu hướng thu hút FDI đang từng bước lan ra các vùng khác ngoài cùng trọng điểm. Nếu trong những năm đầu khi có vốn đầu tư, thì đến hết năm 2000 các tỉnh phía Bắc đã thu hút được khoảng 30% số dự án với trên 35% vốn đầu tư. Đến nay, đã có 59 trong tổng số 61 tỉnh và thành phố trực thuộc trung ương đã có dự án đầu tư nước ngoài. Đóng góp của vùng kinh tế trọng điểm trong ngành công nghiệp (Đơn vị: %) Nguồn: www.mpi.gov.vn Ngành Công suất Sản lượng Xi măng 46.5 51.5 Thép 7302 76.5 Lắp ráp ô tô 85 73.3 Công nghiệp điện tử 100 100 Sành sứ thủy tinh 51 58 Gạch ceramic 85.3 96.8 Vải dệt >70 70 Sản phẩm may mặc >80 >80 Sản lượng bia 70 79 Thứ tư, giao lưu kinh tế giữa các vùng được cải thiện tốt hơn, thị trường chung của cả nước đã hình thành. Tuy nhiên tính hoàn thiện của thị trường ở các vùng rất khác nhau. Ở các vùng kinh tế trọng điểm thị trường phát triển toàn diện hơn, trong đó thị trường vốn, lao động, bất động sản phát triển 2.1.4. Những ảnh hư ởng đến cơ cấu thành phần kinh tế Căn cứ vào nguyên lý chung và điều kiện cụ thể của Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam xác định: nền kinh tế trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội Việt Nam có sáu thành phần: Kinh tế nhà nước Kinh tế tập thể Kinh tế cá thể Kinh tế tư bản tư nhân Kinh tế tư bản nhà nước Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài Đánh giá chung, trong giai đoạn 1996-2005 cơ cấu thành phần kinh tế đã có sự dịch chuyển theo hướng sắp xếp lại và đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, kinh tế ngoài quốc doanh và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là chủ yếu. a. Chính sách đầu tư theo thành phần kinh tế Để xem xét tác động của đầu tư đến chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, trước hết chúng ta xem xét cơ cấu vốn đầu tư theo thành phần kinh tế: Mức đầu tư của nền kinh tế cũng như của từng thành phần trong các năm liên tục tăng. Trong đó, đầu tư khu vực nhà nước có lượng tăng nhiều nhất, nhưng tốc độ tăng nhanh nhất lại là khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Ta có thể thấy rõ điều đó qua bảng và số liệu và hình 4. Cơ cấu đầu tư tuy chưa có nhiều biến đổi, nhưng đã có những dấu hiệu tích cực: phần vốn đầu tư của thành phần kinh tế kinh tế nhà nước dần giảm tỷ trọng, thay vào đó là tỷ trọng vốn của thành phần kinh tế ngoài nhà nước đang dần tăng lên. Điều đó thể hiện chúng ta đang ngày huy động được nhiều nguồn lực của đất nước. Ngoài ra, các chính sách đầu tư đã ngày càng được mở rộng: Cơ chế bao cấp trong đầu tư đã từng bước được hạn chế; đa dạng hóa các thành phần kinh tế tham gia đầu tư; tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, tạo lợi thế so sánh với các quốc gia trong khu vực và trên thế giới trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư trực tiếp và gián tiếp từ nước ngoài. Bãi bỏ các quy định áp đặt về tỷ lệ xuất khẩu, tỷ lệ nội địa hóa, giá trị công nghệ chuyển giao, nguyên tắc nhất trí trong Hội đồng quản trị đối với Doanh Nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nới lỏng, tiến tới xóa bỏ quy định về việc góp vốn, mua cổ phần của Doanh Nghiệp Việt Nam đối với nhà Đầu tư nước ngoài. Thực hiện thủ tục đăng ký kinh doanh cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đơn giản như cho các doanh nghiệp trong nước. Giảm dần diện dự án phải cấp phép đầu tư. Cơ cấu đầu tư theo thành phần kinh tế Năm Kinh tế Nhà nước Kinh tế ngoài nhà nước Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 1996 49,1 24,9 26,0 1998 55,5 23,7 20,8 2000 59,1 22,9 18,0 2002 56,3 26,2 17,5 2004 53,6 30,9 15,5 2005 52,2 32,1 15,7 Mức vốn đầu tư phân theo thành phần kinh tế (Đơn vị: tỷ đồng) Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê b. Những thay đổi trong cơ cấu kinh tế thành phần Sự thay đổi trong công tác đầu tư đã tác động đến cơ cấu thành phần kinh tế, trên 3 khía cạnh: tỉ trọng đóng góp của các khu vực vào GDP; cơ cấu lao động trong các khu vực và đóng góp của từng khu vực trong ngành nghề. Cơ cấu tổng sản phẩm trong nước theo thành phần kinh tế theo (Đơn vị: %) Thành phần 1996 1998 2000 2002 2004 2005 Kinh tế Nhà nước 39.93 40.00 38.52 38.38 39.10 38.42 Kinh tế ngoài Nhà nước 52.68 49.98 48.20 47.86 45.76 45.68 Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài 7.39 10.03 13.27 13.76 15.13 15.89 Nguồn: Tổng hợp số liệu của Tổng cục Thống kê Thứ nhất, ta nghiên cứu sự hoạt động của các thành phần kinh tế và đóng góp của các thành phần vào GDP. Theo bảng 12, cơ cấu thành phần kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng: giảm dần tỷ trọng đóng góp vào GDP của khu vực kinh tế Nhà nước: 39,93% năm 1996 xuống 38,42% năm 2005, tỷ trọng đóng góp vào GDP của phần kinh tế có yếu tố nước ngoài có xu hướng tăng: 7,39 % năm 1996 lên 15,89% năm 2005. Điều đó phản ánh tác động của đầu tư đến cơ cấu thành phần kinh tế: tỉ trọng vốn đầu tư cho khu vực kinh tế Nhà nước trong giai đoạn 1996-2000 tăng, nhưng từ 2001 dến 2005 có xu hướng giảm: từ 59,8% năm 2001 xuống 52,2% năm 2005. Khu vực kinh tế Nhà nước, sau thời gian bị chao đảo khi chuyển sang cơ chế thị trường đã sớm được phục hồi và phát triển có hiệu quả hơn. Các doanh nghiệp Nhà nước đảm nhiệm những sản phẩm và dịch vụ quan trọng Khu vực ngoài quốc doanh, đặc biệt là kinh tế tư nhân, được hình thành và ngày càng mở rộng phạm vi hoạt động sang rất nhiều lĩnh vực của nền kinh tế. Hiện khu vực này đang được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm. Hàng vạn doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn ra đời với quy mô nhỏ và vừa là chủ yếu, nhưng cũng có một số doanh nghiệp có quy mô tương đối lớn, sử dụng nhiều lao động. Khu vực này tỏ ra là khu vực có năng lực sử dụng vốn để tạo ra GDP cao hơn cả: chênh lệch tỷ trọng GDP và tỷ trọng vốn đầu tư luôn luôn "dương" (20% - 25%) trong khi chỉ số này luôn luôn "âm" ở cả hai khu vực còn lại (kinh tế nhà nước và khu vực đầu tư nước ngoài). Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, tuy tỷ trọng vốn đầu tư có xu hướng giảm: từ 26% năm 1996 xuống và 15,7% năm 2005, nhưng tỷ trọng GDP lại có xu hướng tăng lên: 7,39% năm 1996 lên 15,89% năm 2005. Điều đó chứng tỏ, khu vực này đã phát huy tác dụng của vốn đầu tư từ những năm trước và năng lực xuất khẩu của họ đã tăng lên. Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phát triển khá nhanh, chủng loại sản phẩm ngày càng đa dạng, phong phú, chất lượng tăng nhanh, đóng góp đáng kể vào mục tiêu tăng trưởng, vào việc nâng cao trình độ công nghệ và trình độ quản lý của nền kinh tế. Giá trị sản xuất của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bình quân 10 năm qua tăng 22,30%, trong đó thời kỳ 5 năm (1991-1995) tăng bình quân 24,20%, thời kỳ 5 năm (1996-2000) tăng bình quân 20,40%. Thứ hai, nghiên cứu tỉ trọng đóng góp của các thành phần kinh tế trong các ngành. Trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp, kinh tế nhà nước chiếm 2/3 và kinh tế dân doanh chiếm 1/3. Khu vực doanh nghiệp Nhà nước chỉ tăng 9,4% trong khi khu vực ngoài Nhà nước tăng 22%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng 19,5%. Trong tổng giá trị của ngành dịch vụ, khu vực Nhà nước chỉ chiếm 12,5% do chỉ tăng 9,5%, còn khu vực ngoài Nhà nước đó chiếm tới 84,9% do tăng tới 22,2%, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài mới chiếm 2,6% nhưng đó tăng 20,3%. Xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước tăng 20,7%, trong khi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đã tăng tới 26,9%; tỷ trọng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài cao hơn nhiều so với khu vực kinh tế trong nước (58,2% so với 41,8%). Ngược lại xu hướng trên, trong nông nghiệp, thành phần kinh tế hoạt động chủ yếu là các thành phần kinh tế trong nước kinh tế Nhà nước chiếm dưới 3%, khoảng 97% là kinh tế dân doanh (kể cả kinh tế tập thể). Lĩnh vực nông nghiệp còn lạc hậu, tỷ suất lợi nhuận thấp nên mức đầu tư của nước ngoài vào lĩnh vực này còn nhỏ, chưa đáng kể. Đây là điểm mà trong thời gian tới, chúng ta phải lưu ý. Thứ ba, xét tỷ trọng lao động của các khu vực, khu vực doanh nghiệp ngoài quốc doanh là thành phần có nhiều lao động tham gia nhất. Điều này hợp với quy luật phát triển, vì đây là thành phần kinh tế nhanh nhạy và có ảnh hưởng lớn tới thị trường. Tuy nhiên, nó cũng phản ánh những tồn tại hiện nay: khi mà thành phần này có nhiều lao động nhưng đóng góp vào GDP lại chưa tương xứng, mới chỉ 20-30 %, khiến cho thu nhập người lao động ở đây cũng không cao, đời sống còn bấp bênh. Cơ cấu lao động theo thành phần kinh tế (Đơn vị: Nghìn người) Thành phần 2000 2001 2002 2003 2004 Sơ bộ 2005 Tổng 37609,6 38562,7 39507,7 40573,8 41586,3 42709,1 Kinh tế Nhà nước 3501,0 3603,6 3750,5 4035,4 4108,2 4127,0 Kinh tế ngoài Nhà nước 33881,8 34597,0 35317,6 36018,5 36847,2 37905,9 Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 226,8 362,1 439,6 519,9 630,9 676,1 Những dữ liệu trên chỉ ra rằng, cơ cấu thành phần của nước ta hiện nay đang đi đúng hướng như chính sách đầu tư đã hoạch định. Đó là một thành tựu của nước ta thời kỳ đổi mới. 2.2. Ảnh hưởng của hạn chế trong hoạt động đầu tư đến cơ cấu kinh tế 2.2.1. Ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế ngành Trong 10 năm qua, dưới tác động của đầu tư về cơ bản cơ cấu ngành đã chuyển dịch theo xu hướng hợp lý. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều vấn đề bất cập. Thứ nhất, nếu đánh giá một cách tổng quát: cơ cấu ngành kinh tế của Việt Nam năm 2005 chỉ tương đương với cơ cấu ngành kinh tế của các nước phát triển vào những năm 80 và hiện vẫn tụt hậu so với năm 2003 của những nước này. Thứ hạng các nhóm ngành kinh tế của Việt Nam trong tương quan so sánh với các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới như sau: Thứ hạng các nhóm ngành kinh tế của Việt Nam Chỉ tiêu Thứ hạng của Việt Nam Khu vực Đông Nam Á Châu Á Thế giới Nông - lâm nghiệp, thuỷ sản 4/10 16/38 47/162 Công nghiệp xây dựng 4/10 10/38 32/162 Dịch vụ 7/10 - 30/162 Có thể nói, quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta còn nhiều manh mún, tự phát, chưa thực sự diễn ra theo quy hoạch chiến lược tổng thể, có tầm nhìn xa và lộ trình hợp lý, cơ cấu chuyển dịch chưa đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do việc đầu tư vào các dự án không sát thực tế, không phổ biến; cùng với công tác quy hoạch còn kém hiệu quả, cơ chế công cụ để điều hành quy hoạch còn thiếu, chưa rõ ràng. Trong giai đoạn 1996-2005, chúng ta đã có những chính sách đầu tư phát triển các ngành bước đầu theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, tuy nhiên vẫn chủ yếu chú trọng tăng tỷ trọng công nhiệp và dịch vụ mà chưa chú ý nhiều tới mục tiêu chuyển dịch theo hiện đại hoá. Thứ hai, xét một cách cụ thể hơn: Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế có xu hướng chậm, chưa phát huy được thế mạnh, lợi thế so sánh của từng ngành. Kết quả là một số ngành, lĩnh vực có công nghệ lạc hậu, chi phí lớn, hiệu quả kinh tế thấp, tồn tại xu hướng phát triển hướng nội nhằm vào một số ngành được bảo hộ. Điều này làm giảm khả năng cạnh tranh trong tương lai của nền kinh tế trong quá trình hội nhập quốc tế. Một là, giữa các nhóm ngành kinh tế, mặc dù có sự tăng lên về tỉ trọng đóng góp của ngành công nghiệp, tuy nhiên sự gia tăng này còn chậm: 40,09% năm 2004 so với 36,73% năm 2000, tăng gần 10%, chưa tương xứng với sự gia tăng vốn đầu tư cho công nghiệp: năm 2004 so với năm 2000 tăng 92% (từ 59306 tỷ đồng lên 118300 tỷ đồng). Riêng ngành dịch vụ, tỉ trọng đóng góp vào GDP còn có xu hướng giảm nhẹ: 38,74% (2000) – 38,15% (2004), đến năm 2005 mới tăng trở lại. Trong giai đoạn 2001-2003, tốc độ giảm tỷ trọng nông nghiệp chậm hơn so với năm 1991-2001 (0,95 so với 1,3%), công nghiệp tăng chậm hơn (1,1% so với 1,3%) còn khu vực dịch vụ giảm nhanh hơn so với cùng giai đoạn 1991-2003 (0,17% so với 0,03%). Thậm chí, khu vực dịch vụ trong thực tế giảm nhẹ tỷ trọng từ 1996-2004, đến năm 2005 mới tăng trở lại 38,1% thấp xa so với tỷ trọng 44,1% năm 1995. Như vậy, về mặt lượng xu hướng chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế không mấy khả quan như mười năm trước đó, tốc độ dịch chuyển theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa của các khu vực đều có xu hướng chậm lại. Hai là, trong nội bộ các ngành kinh tế, xu hướng chuyển dịch vẫn còn chậm và còn chưa hợp lý, chưa phát huy hết tiềm năng để hình thành những ngành mũi nhọn, có năng suất và năng lực cạnh tranh cao. Trong ngành công nghiệp, sản xuất công nghiệp tăng chậm, tốc độ tăng bình quân toàn ngành hàng năm mới đạt 12,2 %, còn thiếu nhiều yếu tố cho phát triển lâu dài, cạnh tranh và hội nhập. Tỉ lệ các ngành, lĩnh vực công nghiệp có hàm lượng chất xám, hàm lượng khoa học công nghệ cao còn ít: tỷ lệ ngành công nghệ cao chỉ chiếm khoảng 20% (trong khi Philipin: 29,1%, Thái Lan 30,8%, Malayxia 51,15% và Singapo 73%). Việc hình thành và phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp nặng mà ta có điều kiện vẫn chưa thực hiện được. Do nước ta còn phải nhập khẩu nhiều nguyên vật liệu nên giá trị quốc gia trong sản phẩm còn thấp thể hiện qua công nghiệp bổ trợ và những phần đóng góp chính từ phía Việt Nam chỉ khoảng 20-25%. Mặt khác cơ cấu nội bộ ngành công nghiệp chậm chuyển dịch còn mất cân đối trong từng khâu sản xuất. Một trong những nguyên nhân chính là do chúng ta chỉ chú trọng đầu tư mở rộng, chỉ coi trọng quy mô mà chưa quan tâm đến đầu tư theo chiều sâu: nâng cao chất lượng sản phẩm, đổi mới công nghệ… Bên cạnh đó còn do công tác dự báo quy hoạch công nghiệp chưa tốt dẫn đến đầu tư dàn trải, theo phong trào, tập trung vào một số ngành như: mía đường, xi măng, rượu, bia… vừa gây lãng phí, kém hiệu quả vừa làm mất cung cầu thị trường. Việc phát triển các khu công nghịêp, khu chế xuất trong thời gian qua cũng đã bộc lộ một số hạn chế như: chất lượng quy hoạch còn thấp, tổ chức thực hiện quy hoạch chưa triệt để; hiệu quả sử dụng đất chưa cao; chất lượng lao động còn kém (mới có 4-5% lao động có trình độ đại học, trên đại học; 4-5% kỹ thuật viên; 30% công nhân kỹ thuật có qua đào tạo; còn lại hơn 60% là lao động giản đơn); đời sống của người lao động còn nhiều bức xúc; môi trường trong khu công nghiệp, khu chế xuất còn nhiều vấn đề phải quan tâm (chỉ có 33 khu công nghiệp, khu chế xuất xây dựng công trình xử lý nước thải tập trung). Trong ngành nông nghiệp, mức độ đầu tư cho nông nghiệp còn chưa thoả đáng, chủ yếu đầu tư cho một số lĩnh vực như: thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng… phục vụ sản xuất, chưa chú trọng cơ giới hoá, điện khí hoá nông nghiệp. Mặt khác, cũng chưa huy động được nhiều thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Do vậy, đóng góp vào GDP của khu vực nông nghiệp còn hạn chế, khoảng 20%, chưa đáp ứng yêu cầu tạo tiền đề vật chất cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chúng ta vẫn chưa huy động được nhiều thành phần kinh tế bỏ vốn đầu tư cho khu vực nông nghiệp, đặc biệt là nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Bên cạnh đó, cơ cấu sản xuất vẫn còn chuyển dịch chậm, còn nhiều hạn chế: nông nghiệp thuần tuý cơ bản vẫn chiếm tỉ trọng cao: năm 2005, trồng trọt, chăn nuôi chiếm khoảng 83,2%; lâm nghiệp: 10,5%; thuỷ sản: 6,3%. Sản xuất nông nghiệp tiềm ẩn nhiều yếu tố kém bền vững. Việc đổi mới các nông lâm trường, phát triển các hợp tác xã chậm và chưa phát huy vai trò thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển. Trồng rừng kinh tế phát triển chậm, còn nặng tính quảng canh. Thủy lợi vẫn nặng về xây dựng cơ bản. Việc nâng cao hiệu quả quản lý, sử dụng nước chậm được đổi mới. Việc triển khai thực hiện "Chương trình nâng cao tiềm lực khoa học công nghệ" của ngành vẫn chưa có chuyển biến đáng kể. Nhiều chương trình, đề tài chậm được triển khai. Phát triển nông thôn thiếu giải pháp đồng bộ, chưa huy động được sự tham gia của người dân... Trong ngành dịch vụ, nhận định chung là ngành dịch vụ còn phát triển chậm so với tiềm năng và nguồn lực bỏ ra. Vốn đầu tư cho ngành dịch vụ khá cao và khá ổn định, chiếm khoảng 50% tổng vốn đầu tư toàn nền kinh tế. Tuy nhiên tỉ trọng đóng góp của khu vực này vào GDP lại có xu hướng giảm: trung bình, thập niên 90s: 42,91%; những năm 2000s: 37-38 %. Ngành dịch vụ, hiệu quả kinh doanh còn thấp hay nói cách khác năng suất lao động của ngành dịch vụ không cao. Năng suất lao động bình quân của ngành dịch vụ năm 2002 được xác định là 26,98 triệu đồng/người, thấp hơn 15% so với năng suất lao động bình quân của ngành công nghiệp là 31,75 triệu đồng/người. Trong nội bộ ngành, nhóm ngành dịch vụ có nhu cầu cao, có tiềm năng phát triển như: ngành ngân hàng, tài chính… vẫn chưa được chú trọng. Trong quản lý Nhà nước, hành chính công còn bộc lộ nhiều yếu kém như: bộ máy quản lý cồng kềnh, quan liêu… 2.2.2. Ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế vùng Cơ cấu kinh tế của mỗi vùng tuy có chuyển biến nhưng bộc lộ nhiều yếu điểm: Sự phát triển của các vùng vẫn chủ yếu dựa vào cơ cấu sản xuất truyền thống, chưa tạo tiềm lực cho phát triển lâu dài và hiệu quả thấp; sản phẩm mới có chất lượng không nhiều, ở một số vùng sản xuất bị động với thị trường. Cơ cấu vùng chưa thực sự đi vào chuyên môn hoá sâu, còn có tình trạng dàn trải, cái gì cũng làm dẫn tới dư thừa công suất, sản phẩm khó tiêu thụ. Chưa có những chính sách chỉ rõ việc các vùng được khuyến khích hoặc hạn chế phát triển ngành nghề, sản phẩm gì. Hơn nữa, bản thân sự phân định các vùng trên cả nước, đã coi trọng yếu tố đơn vị hành chính các tỉnh hơn là các yếu tố tạo vùng. Trong chỉ đạo điều hành, chính phủ phải dựa vào các đơn vị hành chính trong vùng, do vậy rất ít khi ban hành chính sách cho các yếu tố tạo vùng và cho toàn vùng. Chẳng hạn, sau khi tách tỉnh, Bình Dương thuộc về khu kinh tế trọng điểm phía Nam, trong khi Bắc Ninh có nhiều yếu tố để đưa vào vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, nhưng không được điều chỉnh. Cơ cấu kinh tế chưa đủ sức tạo sản phẩm hội nhập thương mại quốc tế,xuất khẩu tăng chậm và chịu nhiều rủi ro. Chênh lệch vùng có xu hướng dãn ra: Tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ đã có sự phát triển hơn nhờ thu hút được nhiều nguồn lực từ bên ngoài bứt lên nhanh chóng, cao hơn hẳn các vùng khác, và ngược lại, vùng trung du miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Đồng bằng sông Cửu Long do nguồn nội lực hạn hẹp, kết cấu hạ tầng khó khăn, thu hút được rất ít nguồn lực bên ngoài, kinh tế phát triển chậm hơn mức trung bình cả nước. Đầu tư nước ngoài vào các vùng kinh tế có sự chênh lệch lớn. Các vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và phía Nam, tuy một số chi phí đầu tư cao hơn, nhưng do môi trường đầu tư thuận lợi, thu hồi vốn nhanh nên các dự án vào các vùng này nhiều hơn. Trong khi đó, các vùng khó khăn, vốn đã khó khăn thì lượng vốn đầu tư lại cũng ít nhất, và phần lớn là vốn ngân sách. Vùng Tây Nguyên (với 4 tỉnh) thu hút được số vốn đăng ký gấp 2,8 lần so với vùng trung du và miền nui Bắc Bộ (có 12 tỉnh) . Tỷ lệ đô thị hoá cũng sự chênh lệch rất lớn giữa các vùng về; năm 1999, tỷ lệ dân số đô thị ở ba vùng kinh tế trọng điểm là 45,07% trong khi vùng trung du và miền núi Bắc Bộ chỉ có 8%, Tây Nguyên 6,08% và đồng bằng sông Cửu Long 15,35%. Mức chênh lệch về trình độ phát triển và mức sống dân cư đang có chiều hướng không thu hẹp được mà còn doãng ra rộng hơn. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng năm 1993, 1999 và 2001-2002 ở khu vực thành thị tương ứng gấp khu vực nông thôn 2,34; 2,30 và 2,26 lần. Thu nhập bình quân 1 người 1 tháng ở 7 khu vực đều tăng so với năm 1999, trừ Tây Nguyên giảm 30,4% do giá cà phê và một số hàng nông sản giảm mạnh, đồng thời do bị ảnh hưởng lớn về hạn hán, lũ lụt. Tuy nhiên, thu nhập giữa các vùng có sự chênh lệch đáng kể. Số liệu từ năm 1994 đến 2002 cho thấy vùng có thu nhập bình quân đầu người cao nhất là Đông Nam Bộ, gấp 2,5 lần vùng có thu nhập bình quân đầu người thấp nhất là Tây Bắc. Thu nhập bình quân đầu người một tháng theo vùng Khu vực 1995 1999 2001-2002 2004 Thu nhập Mức chênh* Thu nhập Mức chênh Thu nhập Mức chênh Thu nhập Mức chênh Cả nước 206,1 7,0 295.0 7.6 356.8 8.1 484.4 a. Thành thị - nông thôn Thành thị 452,8 7,7 516.7 7.4 625.9 8.1 815.4 Nông thôn 172,5 5,8 225.0 6.36 271.9 6.0 378.1 b. Theo vùng Tây Bắc 160,6 5,7 210.0 6.8 195.9 6.0 265.7 Đông Bắc 160,6 5,7 210.0 6.8 269.2 6.0 379.9 ĐBSH 201,2 6,1 280.0 7.0 353.3 6.7 488.2 Bắc Trung Bộ 160,2 6,7 212.4 6.9 235.5 5.8 317.1 Duyên hải miền Trung 176,0 5,5 252.8 6.3 306.0 5.8 414.9 Tây Nguyên 241,1 12,7 344.7 12.9 239.7 6.8 390.2 Đông Nam Bộ 338,9 7,6 527.8 10.3 623.0 8.7 833.0 ĐBSCL 222,0 6,4 342.1 7.9 373.2 7.1 471.1 (*): chênh lệch giữa nhóm 20% hộ có thu nhập cao nhất với nhóm 20% số hộ có thu nhập thấp nhất (lần) Thu nhập: nghìn đồng Tốc độ tăng trưởng kinh tế chung của ba vùng kinh tế trọng điểm luôn luôn đạt cao hơn tốc độ tăng trưởng trung bình của cả nước, nhưng chưa đáp ứng đòi hỏi của nền kinh tế. Trong khi Chính phủ quyết định 3 vùng kinh tế trọng điểm phải có tốc độ tăng trưởng bằng 1,4 - 1,5 lần so với mức tăng trung bình của cả nước thì vừa qua chỉ tiêu này mới đạt khoảng 1,27 lần. Ba vùng kinh tế trọng điểm, có sự mất cân đối trong đầu tư. Vùng kinh tế trọng điểm Miền Trung chưa tạo lập được môi trường kinh doanh sôi động và cơ sở hạ tầng thuận tiện, do vậy đầu tư nước ngoài vào đây còn hạn chế. Vùng kinh tế trọng điểm phía Nam thu hút đầu tư nước ngoài đăng ký gấp 1,8 lần vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vì vậy mà kinh tế miền Trung có phần kém phát triển hơn hai vùng Bắc và Nam. Ảnh hưởng đến cơ cấu kinh tế thành phần Trong giai đoạn 1996-2005, chúng ta đã có những chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, đã tạo điều kiện cho chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế theo định hướng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước Xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên cơ cấu thành phần kinh tế ở nước ta vẫn còn nhiều hạn chế phải khắc phục để tạo điều kiện hội nhập với thế giới. Thứ nhất, các thành phần kinh tế phát triển chưa tương xứng với tiềm năng. Đặc biệt là thành phần kinh tế tư nhân, đây là thành phần có tiềm năng phát triển rất lớn. Thực tế các nước phát triển và quá trình đổi mới ở nước ta đã chứng minh sự đóng góp to lớn của thành phần kinh tế này. Thành phần kinh tế Nhà nước, hiệu quả đầu tư và sử dụng vốn giảm sút. Vốn đầu tư của khu vực nhà nước tăng từ 42% năm 1995 lên 59,8% năm 2001, nhưng tỷ lệ % đóng góp cho GDP giảm từ 40,18% năm 1995 xuống 39% năm 2001. Như vậy, phải chăng để duy trì vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước, dường như Nhà nước vẫn chọn phương cách dễ dàng nhưng kém hiệu quả là "lấy lượng bù chất". Thứ hai, hệ thống chính sách chưa tạo được đầy đủ môi trường hợp tác, cạnh tranh bình đẳng. Mặc dù, cơ chế bao cấp trong đầu tư đã từng bước được hạn chế, song vẫn còn có tư tưởng “bao cấp”, ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước, còn phân biệt đối xử, khiến các thành phần kinh tế e ngại, không dám đầu tư, dẫn đến hạn chế trong cơ cấu thành phần kinh tế. Thành phần kinh tế nhà nước mà đại diện là doanh nghiệp nhà nước số lượng vẫn còn nhiều, hoạt động với hiệu quả còn hạn chế: tỷ lệ có lãi mới chiếm 77,25% nhưng có tới 40% có mức lãi ngang bằng hoặc chỉ hơn lãi suất đi vay của các ngân hàng thương mại không đáng kể. Tổng số nợ phải trả tính đến đầu năm 2004 của các doanh nghiệp nhà nước là 207,8 nghìn tỉ đồng nếu trừ đi số nợ phải thu thì còn 111 nghìn tỷ đồng chiếm 58,6% tổng số vốn của nhà nước tại các doanh nghiệp này. Kinh tế tập thể số lượng và tỷ trọng về nhiều chỉ tiêu còn lớn. Thành phần kinh tế tư nhân tăng nhanh về số lượng đăng ký nhưng thực tế đưa vào hoạt động còn ít, quy mô còn nhỏ bé. Thành phần kinh tế có số vốn đầu tư nước ngoài còn gặp một số khó khăn như chính sách còn nhiều bất cập, chưa tạo môi trường công bằng cho các nhà đầu tư nước ngoài; thủ tục hành chính rườm rà… PHẦN III GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO KHẢ NẰNG SỬ DỤNG VỐN ĐẦU TƯ, THÚC ĐẨY TĂNG TRƯỞNG - PHÁT TRIỂN, TẠO TIỀN ĐỀ CHO VIỆC CỦNG CỐ, THÚC ĐẨY HƠN NỮA MỐI QUAN HỆ GIỮA ĐẦU TƯ VỚI TĂNG TRƯỞNG - PHÁT TRIỂN I. NHÓM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI ĐẦU TƯ 1. Nhóm giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư 1.1 Hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật về đầu tư nói riêng Quyết định đầu tư của nhà đầu tư là hướng về tương lai nên chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro đối với kinh doanh. Sự bất định về tương lai đã ảnh hưởng đến việc liệu doanh nghiệp có lựa chọn đầu tư hay không và lựa chọn như thế nào. Trong khi đó hành vi quản lí của các cơ quan nhà nước ảnh hưởng rất lớn đến môi trường đầu tư, đến chi phí, rủi ro, rào cản đối với cạnh tranh và ảnh hưởng đến hàng loạt các cơ hội đầu tư có thể mang lại lợi nhuận cho doanh nghiệp. Vì vậy các cơ quan quản lí cần phải đưa ra những cơ chế chơi rõ ràng và thực hiện cơ chế chơi một cách nghiêm túc, tin cậy. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, các quy định nhằm làm cơ sở pháp lí cho hoạt động của các công ty, doanh nghiệp đầu tư tại Việt Nam. Tuy nhiên cần phải đảm bảo sự nhất quán và tránh tình trạng thay đổi thường xuyên các quy định chính sách làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các công ty nước ngoài. Nếu nhất thiết phải thay đổi một chính sách nào đó, cần phải thông báo trước trong một khoảng thời gian đủ dài cho các nhà đầu tư, ngoài ra cần đơn giản hóa và đảm bảo tính minh bạch của thủ tục hành chính. Tính minh bạch, hợp lí và công bằng của các quy định được các nhà đầu tư cho là quan trọng hơn cả những ưu đãi về thuế. 1.2 Ổn định an ninh chính trị, an toàn xã hội Sự ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội là yêu cầu trước hết để các nhà kinh doanh yên tâm bỏ vốn đầu tư, có thể dự kiến và thực thi những dự án đầu tư dài hạn, giảm bớt rủi ro trong quá trình đầu tư. Ổn định chính trị, cải tiến thủ tục hành chính cũng như những nỗ lực cho việc nâng cấp cơ sở hạ tầng sẽ là những thuận lợi tạo ra sức hấp dẫn đầu tư đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Có ổn định chính trị mới làm các nhà đầu tư an tâm đầu tư, cơ sở hạ tầng phát triển, hành lang pháp lý phù hợp mới tạo sức hút cho các nhà đầu tư, đó là các điều kiện song hành. Nhận thức rõ được bài toán trên, Việt Nam đã và đang không ngừng cải thiện để tạo nên một môi trường đầu tư tốt, nhất là những nỗ lực trong việc ổn định an ninh chính trị. Theo GES (Growth Evironment Score- điểm số môi trường tăng trưởng) gồm 5 tiêu chí thì Việt Nam đứng thứ 1 về tiêu chí ổn định chính trị, đó là một tín hiệu đáng mừng. Tuy nhiên, môi trường đầu tư tại Việt Nam còn chưa thông thoáng và còn nhiều rủi ro. 1.3 Phát triển thị trường tài chính - Thông qua thị trường tài chính mà tiết kiệm được chuyển đến các nhà đầu tư . Với sự giúp đỡ của các trung gian tài chính, việc dẫn vốn được thực hiện thông qua 2 kênh: gián tiếp và trực tiếp . Kênh dẫn vốn gián tiếp thực hiện thông qua các trung gian tài chính như hệ thống ngân hàng, các quỹ tín dụng, các công ty bảo hiểm, các công ty tài chính, các quỹ đầu tư ...Kênh dẫn vốn trực tiếp được thực hiện thông qua thị trường chứng khoán - Trong một thị trường tài chính, sự vận hành của cả hai kênh dẫn vốn sẽ bổ xung cho nhau, tạo khả năng sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Trong điều kiện nước ta hiện nay, hệ thống tài chính cần phải tiếp tục phát triển và chuyển đổi phù hợp với cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước, nhằm biến hệ thống tài chính thành trung tâm thu hút và phân bổ các nguồn vốn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế xã hội và hội nhập quốc tế. 1.4 Các biện pháp khác Ngoài ra, để tăng cường lượng vốn đầu tư ở Việt Nam, cần chú ý đến các vấn đề như: - Tăng cường hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhằm thu hút lượng vốn đầu tư trong dân cư - Hoàn thiện, xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế như: vấn đề giao thông đô thị và chức năng đô thị, giao thông vận tải, điện lực, bưu chính viễn thông, môi trường đô thị... - Tăng lượng vốn đối ứng, nhằm thu hút vốn đầu tư nước ngoài - Các chính sách về lãi suất, về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế đánh vào lợi nhuận đầu tư... nhằm khuyến khích, gia tăng vốn đầu tư trong nền kinh tế.v.v... 2. Nhóm giải pháp nhằm tăng cường hiệu quả sử vốn đầu tư 2.1. Đầu tư vào các yếu tố đầu vào của sản xuất Từ các lý thuyết về đầu tư tác động tới sản luợng, về hàm sản xuất và thực trạng đầu tư tại Việt Nam qua các giai đoạn cho thấy, để phát huy hiệu quả của đầu tư trong nền kinh tế, cần phải có sự đầu tư đồng bộ giữa các nhân tố đầu vào của sản xuất, gồm: khoa học công nghệ, nguyên vật liệu, nguồn nhân lực... a. Khoa học công nghệ * Yếu tố KHCN cần được hiểu theo hai dạng: - Thứ nhất đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt những kiến thức khoa học, nghiên cứu đưa ta những nguyên lý thử nghiệm về cải tiến sản phẩm quy trình công nghệ hay thiết bị kĩ thuật. - Thứ hai, là sự áp dụng những kết quả nghiên cứu thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ phát triển chung của sản xuất. * Yếu tố KHCN được hiểu theo nghĩa toàn diện như thế đã được K.Marx xem như là ”chiếc đũa thần tăng thêm sự giàu có của cải xã hội”. Còn Solow thì cho rằng: ”tất cả các tăng trưởng bình quân đầu người có được trong dài hạn đều thu được nhờ tiến bộ kỹ thuật”. Samuelson khẳng định: ”khoa học công nghệ là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình tăng trưởng kinh tế bình vững”. Hệ thống những biện pháp kĩ thuật mới, toàn diện, đồng bộ hoặc riêng lẻ để áp dụng vào quá trình sản xuất có tác dụng biến đổi quy trình công nghệ kỹ thuật cũ, nâng cao năng suất kỹ thuật, giảm nhẹ lao động chân tay nặng nhọc, cải tiến chất lượng và hạ giá thành sản phẩm, tăng lợi nhuận và hiệu quả sử dụng gọi là tiến bộ kỹ thuật. Trong nền kinh tế toàn cầu hóa cạnh tranh ngày càng gay gắt, KHCN biến đổi liên tục, phát triển với tốc độ chóng mặt đóng vai trò quan trong việc tăng sản lượng của toàn bộ nền kinh tế cũng như của mỗi doanh nghiệp. Thực tế cho thấy nền kinh tế nói chung hay bất kì một doanh nghiệp nào nắm giữ được công nghệ kỹ thuật tiên tiến, hàng đầu thì sẽ tạo ra khối lượng sản phẩm lớn, chiếm giữ thị phần lớn gắn liền với doanh thu khổng lồ. b. Nguồn nhân lực Với dân số trên 80 triệu người năm 2005, trong đó số người trong độ tuổi lao động chiếm khoảng 55%, thì nguồn vốn nhân lực là lợi thế phát triển quan trọng của nước ta hiện nay. Đào tạo và phát triển lực lượng lao động (LLLĐ) chuyên môn kỹ thuật có ý nghĩa quyết định để nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nhân lực của đất nước. Lao động là một yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất. Quá trình sản xuất muốn tiến hành được cần phải có ba yếu tố: người lao động- chủ thể sáng tạo, tư liệu lao động và đối tượng lao động. Thực tế nhiều nước cho thấy, sự giàu có của xã hội không những chỉ phụ thuộc vào tài nguyên thiên nhiên, mức độ trang bị tài sản cố định cho nền kinh tế mà còn phụ thuộc chủ yếu vào nhân tố con người. Đặc biệt trong thời đại ngày nay- nền kinh tế tri thức, tri thức của con người được xem như một trong những yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của toàn xã hội. Dù điều kiện của KHKT phát triển ở mức độ nào không có con người sản xuất cũng không thể tiến hành được, vì con người là chủ thể của quá trình sản xuất kinh doanh. Trước đây, chúng ta chỉ quan niệm lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như yếu tố vốn và được xác định bằng số lượng nguồn lao động của mỗi quốc gia. Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía cạnh phi vật chất của lao động, gọi là vốn nhân lực, đó là các lao động có kỹ năng sản xuất, lao động có thể vận hành được máy móc thiết bị phức tạp, những lao động có sáng kiến và phương pháp mới trong hoạt động kinh tế. Việc hiểu lao động theo hai nội dung có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc phân tích lợi thế và vai trò của yếu tố này trong tăng trưởng kinh tế của các nước phát triển và đang phát triển. Hiện nay tăng trưởng của các nước đang phát triển được đóng góp bởi quy mô, số lượng lao động, yếu tố vốn nhân lực còn có vị trí chưa cao do trình độ và chất lượng lao động ở các nước này còn thấp. Đầu tư vào nguồn nhân lực gồm có các nội dung: Đầu tư cho hoạt động đào tạo để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng sản xuất phù hợp với dây truyền công nghệ. Đầu tư cho công tác bảo hiểm, đặc biệt chú trọng bảo hiểm xã hội, tạo tâm lý an tâm cho người lao động, giúp cho họ tập trung vào sản xuất, nâng cao năng suất sản lượng. Đầu tư vào dụng cụ bảo đảm an toàn lao động cho công nhân, tạo môi trường sản xuất, tránh được tai nạn đáng tiếc ảnh hưởng đến sản xuất. Chế độ trả lương cho người lao động, khen thưởng nhằm khuyến khích, động viên cho người lao động. c. Máy móc thiết bị Máy móc thiết bị là yếu tố trực tiếp tạo ra sản phẩm. Bất kỳ một cơ sở sản xuất kinh doanh nào khi tiến hành sản xuất đều phải mua sắm và lắp đặt hệ thống máy móc thiết bị. Nó có vai trò quyết định đến chất lượng, số lượng sản phẩm sản xuất ra. Do đặc điểm của máy móc thiết bị là giá trị bị hao mòn dần (trong đó có cả hao mòn hữu hình và vô hình). Do đó khi quyết định đầu tư mua sắm thiết bị, doanh nghiệp cần phải xem xét các yếu tố về tuổi thọ, sự thay đổi của KHCN, sự phù hợp với trình độ chuyên môn của công nhân…Từ đó lựa chọn máy móc thiết bị phù hợp với mục tiêu của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đầu tư mua mới, doanh nghiệp cần đầu tư vào quỹ khấu hao để định kỳ tiến hành sửa chữa, bảo dưỡng máy móc thiết bị duy trì sản xuất nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm. Việc đầu tư vào máy móc thiết bị phải tiến hành song song với trang bị KHKT phù hợp cùng với việc đào tạo đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn phù hợp để vận hành máy móc thiết bị vào sản xuất. 2.2 Xây dựng chiến lược, chủ trương đầu tư hợp lý, phù hợp với mục tiêu và định hướng phát triển của đất nước Chiến lược là cơ sở quan trọng để lập các quy hoạch và kế hoạch, đặc biệt là các quy hoạch và kế hoạch đầu tư của DNNN. Chiến lược đúng, chủ trương đầu tư đúng là điều kiện quan trọng để nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư của ngành và doanh nghiệp. Ngược lại chủ trương đầu tư sai sẽ không có hiệu quả đầu tư hoặc hiệu quả đầu tư rất thấp kém. 2.3 Kiểm tra, giám sát hoạt động đầu tư - Cần tăng cường công tác kiểm tra giám sát và đánh giá dự án. Tăng cường công tác kiểm tra giám sát khối lượng công việc thực hiện, giá trị công trình, giám sát kỹ thuật, tiến độ thi công, chất lượng công trình... là những giải pháp quan trọng đảm bảo tiến độ thi công, chất lượng công trình và do đó, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư. - Việc kiểm tra, thanh tra tài chính cần được đẩy mạnh. Có kế hoạch kết hợp giữa thanh tra nhà nước, thanh tra tài chính và thanh tra của các Bộ, ngành, địa phương để mở rộng diện thanh tra và tránh sự chồng chéo, phiền hà. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác thanh tra cả về chuyên môn, nghiệp vụ, tinh thần trách nhiệm. Tiếp tục tăng cường vai trò kiểm soát chi của Kho bạc Nhà nước trên cơ sở giảm bớt các thủ tục hành chính và đảm bảo tính hiệu quả - Phát huy tính tự giác và sự tham gia của cán bộ, công chức và người dân trong giám sát các hoạt động, sử dụng ngân sách Nhà nước. Mọi hành vi gây thất thoát và lãng phí đều có các biểu hiện và hiệu quả của nó mà những người có liên quan rất dễ nhận ra , chẳng hạn, việc trang bị xe vượt định mức, việc xây dựng nhà máy ở vùng thiếu nguyên liệu...đều có thể ngăn chặn được nếu có cơ chế khuyến khích cán bộ, công chức và người dân phát hiện và xử lý sớm. Còn mở rộng hình thức các công ty tư vấn và giám sát độc lập trong xây dựng cơ bản để ngăn ngừa có hiệu quả tình trạng tham nhũng và lãng phí. II. NHÓM GIẢI PHÁP ĐỐI VỚI TĂNG TRƯỞNG - PHÁT TRIỂN Nhóm giải pháp về kinh tế Để tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng của nền kinh tê nhằm đầu tư có hiệu quả trong nền kinh tế, trong thời gian tới Việt Nam cần: Tăng cường và phát triển sản xuất kinh doanh và thực hành tiết kiệm cả trong sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội. Có các biện pháp hữu hiệu để sử dụng hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. Đây vừa là mục tiêu, vừa là điều kiện để phát triển và là cơ sở đảm bảo việc gia tăng khả năng huy động các nguồn vốn. Đối với tất cả các nguồn vốn đầu tư, phải xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài. Với vai trò trung tâm điều chỉnh và định hướng quá trình đầu tư phát triển của nền kinh tế, hiệu quả nguồn vốn đầu tư nhà nước phải đặc biệt chú trọng. Các dự án sử dụng vốn nhà nước phải được đánh giá trên các tiêu chuẩn hiệu quả, phải được quản lý chặt chẽ nhằm đảm bảo thời hạn xây dựng, giá cả và chất lượng công trình. Cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế về quản lý đầu tư. Tiếp tục cải cách doanh nghiệp nhà nước, tăng cường tính hiệu quả đầu tư của khu vực kinh tế này Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây them gánh nặng nợ nần không trả được. Phải sử dụng nguồn vốn ODA có hiệu quả trên cơ sở kiểm tra, quản lý chặt chẽ, chống lãng phí, tiêu cực. Cần có nhận thức và hiểu đúng đắn về vốn ODA. Không nên coi đó là nguồn viện trợ thuần túy, dẫn đến sử dụng kém hiệu quả, lãng phí, không trả được nợ và cuối cùng là bị lệ thuộc vào nước ngoài. Cần phải quán triệt quan điểm mà đại diện Chính phủ Việt Nam phát biểu tại Hội nghị các nhà tư vấn tài trợ lần đầu tiên được tổ chức tại Paris: “Điều quan trọng là các nguồn vốn bên ngoài được sử dụng hiệu quả, chính phủ chịu trách nhiệm điều phối và sử dụng vốn nước ngoài với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam sẽ là người chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này không được sử dụng có hiệu quả”. Lẽ dĩ nhiên, nguồn vốn này sử dụng không hiệu quả thì không chỉ sẽ chồng chất gánh nặng nợ nần mà còn khó có thể huy động được thêm các nguồn vốn mới. Để tăng cường tính hiệu quả của nền kinh tế, cần phải tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư của nhà nước, đầu tư từ khu vực kinh tế tư nhân. Xây dựng một hệ thống luật pháp thong nhất và bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, xóa bỏ tư tưởng bao cấp về vốn đầu tư, khuyến khích khu vực kinh tế tư nhân bỏ vốn tham gia đầu tư. Phải lấy hiệu quả kinh tế làm thước đo của các hoạt động đầu tư. Nhóm giải pháp về xã hội Giáo dục, đào tạo, phát triển nguồn nhân lực: Tiếp tục đổi mới giáo dục - đào tạo một cách có hệ thống và đồng bộ, thực hiện chuẩn hoá, hiện đại hoá, mở rộng hợp tác quốc tế, nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực nhằm tiếp cận trình độ giáo dục tiên tiến của khu vực và thế giới Mở rộng quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp: tuyển sinh đại học cao đẳng tăng trung bình 10-12%/ năm; tuyển mới trung học chuyên nghiệp tăng 15%/ năm; dạy nghề cho khoảng 7,5-8 triệu lao động; tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đạt 40% tổng lao động xã hội. Thực hiện đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục góp phần tích cực hướng nghiệp cho học sinh và phù hợp với điều kiện thực tiễn của Viêt Nam. Tăng cường hiệu quả giáo dục lý luận Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để hình thành nhân cách con người mới Việt Nam. Tiếp tục tăng đầu tư cho giáo dục – đào tạo đảm bảo đạt tỷ lệ 20% tổng chi ngân sách nhà nước trước năm 2010 từ 2-3 năm. Khoa học và công nghệ: Lấy chất lượng sản phẩm, hiệu quả, sức canh tranh của nền kinh tế làm mục tiêu chủ yếu của hoạt động khoa học và công nghệ, tạo bước phát triển mới, hiệu quả trong nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất kinh doanh. Đẩy mạnh việc đổi mới công nghệ trong các doanh nghiệp, tạo nhu cầu thực sự thúc đẩy chuyển giao và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào sản xuất và đời sống. Sớm hình thành các tổ chức nghiên cứu, đổi mới, sáng tạo công nghệ ở khu vực doanh nghiệp. Sớm ban hành và thực thi có hiệu quả Luật sở hữu trí tuệ và Luật chuyển giao công nghệ. Ưu tiên phát triển nghiên cứu và ứng dụng công nghệ cao có trình độ tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực; trước hết là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, tự động hoá, công nghệ vật liệu. Xây dựng chiến lược, chính sách đào tạo và phát triển nguồn nhân lực khoa học công nghệ, tăng nhanh số lượng và chất lượng các phát minh sáng chế, phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Xây dựng chiến lược hội nhập quốc tế về khoa học công nghệ, rút ngắn khoảng cách với khu vực và thế giới. Khuyến khích tổ chức, cá nhân nước nước ngoài đầu tư phát triển khoa học công nghệ tại Viêt Nam Tài nguyên môi trường và phát triển bền vững Hoàn thiện và tăng cường năng lực hoạt động của cơ quan quản lý Nhà nước về tài nguyên và bảo vệ môi trường. Tăng cường công tác pháp chế; lồng ghép nội dung quản lý vào các chiến lược quy hoạch, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội. Triển khai và thực hiện các đề án, chương trình tổng thể về điều tra cơ bản, quản lý khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường theo hướng phát triển bền vững. Thực hiện nguyên tắc “người gây ra ô nhiễm phải xử lý ô nhiễm” hoặc phải chi trả cho việc xử lý ô nhiễm. Khuyến khích và tăng cường hợp tác với nước ngoài về kỹ thuật điều tra cơ bản, quản lý và sử dụng có hiệu quả cao các nguồn vốn ODA, FDI… Lao động và việc làm Thực hiện các chính sách khuyến khích đẩy mạnh phát triển sản xuất, tạo việc làm mới; chú trọng khuyến khích phát triển ngành công nghiệp nhẹ, công nghiêp chế biến, các doanh nghiệp dân doanh, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng nhiều lao động, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Tập trung vốn Quỹ cho vay giải quyết việc làm cho các dự án thu hút nhiều lao động; sắp xếp và đổi mới, phát triển mạng lưới dạy nghề. Đưa xuất khẩu lao động thành một chương trình lớn, đồng bộ theo hướng mở rông sự tham gia của các thành phần kinh tế. Phát triển văn hoá - nền tảng tinh thần của xã hội Đây mạnh công tác bảo tồn, kế thừa, phát huy các giá trị tốt đẹp, truyền thống văn hoá dân tộc, làm phong phú nền văn hoá của cả nước, đồng thời kiên trì củng cố và nâng cao tính thống nhất trong đa dạng của văn hoá Việt Nam, đấu tranh chống khuynh hướng lợi dụng văn hoá để chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc. Bảo tồn và phát triển các giá trị di sản văn hóa, thuần phong mĩ tục tốt đẹp của dân tộc Danh mục tài liệu tham khảo PGS. TS. Nguyễn Bạch Nguyệt & TS. Từ Quang Phương – Giáo trình kinh tế đầu tư, nxb Thống kê, Hà Nội, 2004. Chất lượng tăng trưởng kinh tế, một số đánh giá ban đầu cho Việt Nam - Nguyễn Thị Tuệ Anh & Lê Xuân Bá (file PDF), Hà Nội, 2005. Việt Nam 2007 – 2010, ADB - Chiến lược chương trình Quốc Gia. GS. TS. Vũ Thị Ngọc Phùng – Giáo trình kinh tế phát triển, NXB Lao động – Xã hội, 2005. PGS. TS. Nguyễn Thị Cành, sách chuyên khảo các mô hình tăng trưởng và dự báo kinh tế lý thuyết và thực nghiệm, NXB Đại học quốc gia thành phố HCM, 2004. Robert B.Eketund, Robert F.HeBert, Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống kê, Hà Nội. Niên giám thống kê 2004, NXB Thống kê, Hà Nội, 2005. Kinh tế Việt Nam 2004, Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương CIEM, NXB Chính trị Quốc gia, 2004. Môi trường đầu tư tốt hơn cho mọi người, báo cáo phát triển Thế giới, NXB Văn hoá thông tin, 2005. Kinh tế Việt Nam, từ đổi mới đến hội nhập, Phạm Đỗ Chí và Phạm Quang Diệu. Trang web:

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12507.doc
Tài liệu liên quan