Để tiếp tục thu hút thúc đẩy giải ngân và nâng cao sử dụng hiệu quả vốn đầu tư chúng ta cần phải triển khai một số các biện pháp sau:
Thứ nhất, giải pháp về chính sách pháp luật: tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đồi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của WTO.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các sự án xây dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học,.) cho người lao động làm việc trong các khu công nghệ cao, khu công nghệ, khu chế xuất.
Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường, thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất,giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai can nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN
Thứ hai, giải pháp về quy hoạch. đẩy nhanh tiến độ xây dựng phê duyệt các quy hoachj còn thiếu; rà soát định kỳ để bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác đinh hoặc xây dựng dự án. Hoàn chỉnh các công tác quy hoạch đất công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến đọ giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư; rà soát kiểm tra điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là các địa phương ven biển nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
Thứ ba, giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng. Tiến hành tổng rà soát điều chỉnh, phê duyệt công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư tối đa các nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nàh nước, ưu tiên các lĩnh vực cấp thoát nước vệ sinh môi trường; hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cấp chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất điện từ các loại năng lượng mới như gió, thuỷ triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin.
Thứ tư, giải pháp về nguồn nhân lực. Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng cao tỷ lên người lao động qua đào tạo. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển các trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Nghiên cứu điều chỉnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch co cấu kinh tế. Thực hiện giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật lao động và thực tế cuộc sống để ngăn ngừa đình công bất hợp pháp, lành mạnh hoá quan hệ lao động.
Thứ năm, giải pháp về giải phóng mặt bằng. Uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không có khả năng triển khai hoặc không sử dụng hết đất đã được giao để cho các dự án đầu tư khác có lợi hơn. Đồng thời trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải toả và giao đất cho chủ đầu tư đúng cam kết, đặc biệt các dự án có quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân.
60 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2121 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa lãi suất vốn vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hách hàng là: 19%, 18,8% và 18% đối với Tổng Công ty lương thực miền Nam để thực hiện công tác thu mua lúa gạo ở khu vực Đồng bằng sông Cửu Long.
Một trong những ngân hàng “mạnh tay” trong việc giảm lãi suất cho vay lần này là Ngân hàng Liên Việt (LienVietBank). Ông Nguyễn Đức Hưởng, Tổng Giám đốc ngân hàng cho hay: “Hưởng ứng quyết định tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, “một quyết định: hai trong một” tốt cả vi mô lẫn vĩ mô”, kể từ ngày 1/9, LienVietBank sẽ hạ lãi suất cho vay ưu đãi xuống 19%/năm đối với khách hàng”.
Cũng kể từ ngày 1-9, Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) chính thức điều chỉnh giảm lãi suất cho vay VND, với mức giảm lớn nhất lên tới 1,525%/năm. Các khách hàng truyền thống, kinh doanh trong lĩnh vực trọng yếu, có tác động tích cực đến việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế sẽ được hưởng mức lãi suất ưu đãi là 19,475%/năm.
Ngay trong chiều 29-8, Techcombank đã áp dụng ngay chính sách lãi suất ưu đãi cho các doanh nghiệp nhập khẩu các nguyên vật liệu, trang thiết bị phục vụ mở rộng sản xuất kinh doanh. Mức lãi suất ưu đãi giảm so với trước đây từ 0,5% - 1% đối với cho vay VND. Ông Phạm Quang Thắng, Phó Tổng Giám đốc Techcombank chia sẻ: “Các chính sách của Ngân hàng Nhà nước thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc đẩy mạnh hỗ trợ thúc đẩy nền kinh tế, hỗ trợ các doanh nghiệp và ổn định thị trường. Chúng tôi ủng hộ chủ trương này bằng việc giảm một phần lãi suất cho vay áp dụng cho các doanh nghiệp sản xuất và xuất nhập khẩu, mặc dù bản thân các ngân hàng cũng còn nhiều khó khăn”.
Không chỉ đua nhau giảm lãi suất cho vay bằng VND, nhiều ngân hàng còn giảm mạnh lãi suất cho vay bằng USD như: Techcombank giảm từ 2 - 2,5%; BIDV áp dụng cho những khoản vay ngắn hạn mới, giảm tối đa là 1%, tối thiểu là 0,5%, xuống còn 6,5-7,5% tùy thời hạn. Chưa có quyết định cụ thể nhưng một số ngân hàng TMCP đang tính toán mức giảm lãi suất cho vay phù hợp với “sức khỏe” của chính mình.
Mặc dù có Ngân hàng tuyên bố đã 2 lần hạ lãi suất, nhưng mức giảm chung phổ biến vẫn chỉ từ 0,5% đến trên 1%/năm. Có vẻ như các NH vẫn đang thăm dò phản ứng của thị trường. Trong khi đó, qua một số nhận định của các chuyên gia trong lĩnh vực, Ngân hàng Nhà nước sẽ không tăng lãi suất cơ bản trong thời gian tiếp theo nhưng việc giảm lãi suất cũng chưa được rõ ràng. Có thể không giảm mạnh, nhưng giảm 0,5% chẳng hạn, từ 14% xuống 13,5% hoặc 13%.
Tổng kết các biến động của lãi suất năm 2008 được thể hiện trên biểu đồ sau:
2.2 Nguyên nhân biến động lãi suất trong năm 2008
a) Nguyên nhân của “cuộc đua” tăng lãi suất:
Do ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 nhu cầu về vốn tiền đồng tăng cao nhưng nguồn cung thì hạn chế, điều đó đã làm cho tiền đồng bị khan hiếm nghiêm trọng. Đồng thời trong thời gian này toàn bộ hệ thống ngân hàng đang gặp khó khăn về thanh khoản do NHNN thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ và đang phải vay mượn lẫn nhau trên thị trường liên ngân hàng với lãi suất rất cao có lúc lên quá 20%.
Do việc quản lý chính sách tiền tệ của NHNN chưa chặt chẽ.
Do cơ cấu tiền gửi của các ngân hàng chưa vững chắc: phần lớn vốn sử dụng để cho vay của các ngân hàng thương mại là từ nguồn tiền gửi của các tổ chức của các tổ chức và tiết kiệm từ dân cư. Tiết kiệm của dân cư tuy phải trả lãi suất cao hơn nhưng đặc điểm của nguồn vốn này là tương đối ổn định. Bên cạnh đo tiền gửi của các doanh nghiệp đặc biệt là công ty lớn cũng đều là nguồn vốn không kỳ hạn hoặc ngắn hạn bất cứ lúc nào cũng bị rút đột ngột chính vì vậy mà các ngân hàng luôn nơm nớp lo việc rut tiền đột ngột của khách hàng.
Sự biến động của giá dầu mỏ và giá vàng trên thế giới cũng ảnh hưởng lớn đến lãi suất VNĐ.
Sức ép cạnh tranh để giữ và phát triển nguồn vốn của các ngân hàng diễn ra rất gay gắt. Một số ngân hàng tuy không thiếu vốn nhưng họ vẫn phải tăng lãi suất vì sợ khách hàng rút tiền sang các ngân hàng khác gửi với lãi suất cao hơn.
Do sự ảnh hưởng của suy thoái kinh tế đến Việt Nam bắt đầu từ tháng 10/2008 đến nay NHNN liên tục 5 lần hạ lãi suất cơ bản: ngày 21/10: 13%/năm; 5/11: 12%/năm; 21/11: 11%/năm; 5/12: 10% ; 22/12 8,5%/năm; 1/2/2009 7%/năm. Lao vào cuộc hạ lãi suất cơ bản của NHNN các ngân hàng thương mại tiếp tục một cuộc đua lãi suất cho vay nhằm hỗ hỗ trợ các doanh nhgiệp tiếp cận với nguồn vốn gia tăng sản xuất kinh doanh để giúp cho nền kinh tế thoát ra khỏi tình trạng giảm phát. Đây được coi là phương thuốc hữu hiệu cho bệnh thiếu vốn của các doanh nghiệp trong thời gian này. Trong đó sàn lãi suất cho vay thấp nhất thuộc về các ngân hàng thương mại nhà nước như Viêtcombank, Agribank..
b) Nguyên nhân của hiện tượng lãi suất giảm:
Nửa cuối năm 2008 do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế toàn cầu nhằm giúp các doanh nghiệp tiếp cận với nguồn vốn mở rộng sản xuất kinh doanh nhằm giảm giá thành sản xuất kinh doanh, tạo việc làm và kích cầu tiêu dùng NHNN đã liên tục giảm lãi suất cơ bản nhằm chống lại tình trạng giảm phát của nền kinh tế.
Đầu năm 2009, sau những đợt giảm lãi suất của các ngân hàng đợt cuối năm 2008 có vẻ như các ngân hàng lại rục rịch thay đổi lãi suất, đặc biệt là tăng lãi suất huy động để thu hút vốn.
Thông báo của Ngân hàng Ngoài quốc doanh (VPBank) cho biết, ngân hàng này sẽ tăng mạnh lãi suất huy động VND ở hầu hết các kỳ hạn. Lãi suất huy động VND mới bắt đầu áp dụng từ tuần tới tại ngân hàng này được điều chỉnh tăng ở hầu hết các kỳ hạn, mức tăng thấp nhấp là 0,15%/năm (kỳ hạn 3 và 4 tháng), cao nhất là 1%/năm (kỳ hạn 36 tháng). Cụ thể, không kỳ hạn là 3%/năm, 1 tuần là 3,8%/năm, 1 tháng 6,8%/năm, 3 tháng 7,15%/năm, 6 tháng và 9 tháng là 7,3%/năm, 12 tháng và 24 tháng 7,6%/năm và cao nhất là 7,8%/năm ở kỳ hạn 36 tháng (lĩnh lãi cuối kỳ).
Ngân hàng Đại Dương (Ocean Bank) tiến hành điều chỉnh với các kỳ hạn từ 9 tháng trở lên, với mức tăng dao động trong khoảng 0,2-0,7%. Lãi suất cao nhất ở ngân hàng này là 8,2%, áp dụng với các kỳ hạn từ 12 tháng trở lên.
Ông Nguyễn Thanh Bình, Phó tổng giám đốc VPBank cho rằng: “việc điều chỉnh lãi suất để phù hợp với diễn biến thị trường, chuẩn bị nguồn vốn dồi dào, đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng.”Điều này, tỏ ra phù hợp với động thái của một số ngân hàng hồi đầu tháng 2/2009 khi quyết định tiếp tục giảm lãi suất cho vay nhưng không vội hạ lãi suất huy động vì tính toán rằng với chương trình kích cầu, hỗ trợ lãi suất... nhu cầu vốn sẽ tăng nhanh trở lại.
Trong khi đó, báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước cũng cho thấy, lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng có xu hướng tăng nhẹ ở hầu hết các kỳ hạn, tuy nhiên mức tăng không nhiều (chủ yếu dưới 0,1%/năm), riêng kỳ hạn 1 tháng có mức tăng nhiều nhất lên tới 0,85%/năm. Lãi suất giao dịch bình quân kỳ hạn 12 tháng cao nhất, lên tới 8,17%/năm.
Như vậy, nhu cầu vốn của ngân hàng đã "sống lại" sau một thời gian dường như "đóng băng" do khó giải ngân, ứ động vốn. Điều đáng chú ý, các ngân hàng thực hiện điều chỉnh lãi suất đều hướng tới các kỳ hạn dài có lãi suất càng cao.
Đây là điều đúng quy luật và xét về góc độ kinh doanh, các ngân hàng đã cho thấy sự ổn định trong thanh khoản của mình và có niềm tin vào khả năng kinh doanh dài hạn đối với khách hàng.
Ngân hàng Nhà nước vừa cho biết, xu hướng chung của lãi suất huy động trên thị trường vẫn tiếp tục tăng. Lãi suất huy động VND có kỳ hạn của các Ngân hàng Thương mại trong tuần tăng nhẹ với mức tăng từ 0,2-0,5%/năm, lãi suất huy động USD giảm nhẹ ở mức từ 0,1-0,25%/năm so với tuần trước.
Hiện lãi suất huy động bình quân đã lên mức 7,58%/năm cho kỳ hạn 12 tháng ở nhóm ngân hàng quốc doanh, còn nhóm cổ phần cao hơn, ở mức 7,74%. Lãi suất USD dao động từ 2,65% ở các ngân hàng quốc doanh đến 3,09% ở các ngân hàng cổ phần.
Tuy nhiên, lãi suất trên thị trường có vẻ nóng bỏng hơn. Hiện nay, Ngân hàng Habubank đã đẩy lãi suất lên 8,4%/năm. Nhưng đó chưa phải là mức cao nhất vì mới nhất, Sacombank đã công bố áp dụng mức lãi suất huy động cao nhất Một số ngân hàng khác như Việt Á có mức huy động từ 8,1 - 8,5%, NH Việt Nam Tín Nghĩa 8,2%... cho kỳ hạn 12 tháng.
Trong khi đó, lãi suất giao dịch bình quân bằng VND trên thị trường tiền tệ liên ngân hàng có xu hướng giảm ở hầu hết các kỳ hạn, dao động trong khoảng từ 0,1%/năm đến 0,4%/năm. Riêng lãi suất giao dịch bình quân kỳ hạn 6 tháng là 8,78%/năm, tăng 0,33%/năm so với tuần trước đó. Trong tuần không phát sinh giao dịch kỳ hạn 12 tháng.
Nguyên nhân của việc tăng lãi suất là các ngân hàng chuẩn bị nguồn vốn dồi dào cho nhu cầu vốn được sự báo sẽ tăng lên trong thời gian tới. Vì thế, việc điều chỉnh tăng được thực hiện ở hầu hết các kỳ hạn, nhất là các kỳ hạn trên 12 tháng.
III. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư:
1. Thực trạng tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư:
Khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài luôn có mức tỷ suất lợi nhuận cao hơn hẳn các khu vực kinh tế khác, những năm gần đây khu vực kinh tế này có mức tỷ suất lợi nhuận đều trên 10%, như: Toyota Việt Nam hơn 19% năm 2007, Canon Việt Nam 16.2% năm 2006, …
Trong khi đó các khu vực kinh tế Nhà nước và các thành phần kinh tế có sự góp mặt của Nhà nước lại tỏ ra hoạt động không mấy hiệu quả. Phần lớn các doanh nghiệp nhà nước có tỷ suất lợi nhuận thấp hơn so với các doanh nghiệp tư nhân hay doanh nghiệp nước ngoài cùng lĩnh vực. Năm 2008 , trong đợt kiểm toán 4 doanh nghiêp Nhà nước ta có lợi nhuận trước thuế của tổng công ty Hàng Hải có tổng vốn gần 26.000 tỷ trong đó vốn chủ sở hữu là trên 7.400 tỷ đồng lợi nhuận trước thuế là 13,6%. Đối với tổng công ty Truyền thông đa phương tiện, lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu là 17.3%. Tổng công ty địa ốc Sài Gòn lợi nhuậ trước thuế trên vốn chủ sở hữu là 20,3% và Tổng công ty Khánh Việt lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu là 24,7%. Trong đó có 45/49 doanh nghiệp của 4 tổng công ty trên là hoạt động có lãi. Với hiệu quả hoạt động như trên được các chuyên gia đánh giá là hiệu quả quá thấp. Bên cạnh những doanh nghiệp kinh doanh hiệu quả góp phần vào đẩy nhanh tốc độ phát triển của đất nước có không ít các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ với tỷ suất lợi nhuận âm.
Xem xét trên khía cạnh các ngành kinh tế, có thể dễ dàng nhận thấy sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận. Đối với một số hoạt động như: hoạt động văn hóa thể thao, nông nghiệp và lâm nghiệp, hoạt động khoa học và công nghệ .... tỷ suất lợi nhuận thu được từ các hoạt động này rất thấp. Trong khi ngành công nghiệp khai thác mỏ lại có tỷ suất lợi nhuận rất cao (tới trên 40%, theo số liệu của tập đoàn than khoáng sản Việt Nam, năm 2007 đạt 40.3%) hay hoạt động vận tải kho bãi và thông tin liên lạc cũng có mức tỷ suất lợi nhuận tương đối đều khoảng trên dưới 10% như: CTCP Container Việt Nam đạt 8.1 % năm 2007, CTCP hàng hải Đông Đô đạt 9.4% năm 2007.
Điều tra tỷ suất lợi nhuận giữa các ngành ,các khu vực qua một số năm:
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sản xuất kinh doanh(%)
2000
2001
2002
2003
TỔNG SỐ
3.739
3.777
4.320
4.535
Chia theo khu vực và thành phần kinh tế
1. Khu vực doanh nghiệp nhà nước
2.351
2.453
2.900
2.768
+ DN nhà nước Trung ương
2.271
2.397
2.756
2.595
+ DN nhà nước Địa phương
2.873
2.816
3.696
3.81
2. Khu vực doanh nghiệp ngoài nhà nước
1.798
2.277
2.311
2.146
+ DN Tập thể
3.888
3.207
3.725
2.205
+ DN Tư nhân
4.262
3.302
3.330
2.766
+ Công ty Hợp doanh
1.291
-2.314
5.843
0.27
+ Công ty Trách nhiệm hữu hạn tư nhân
0.432
1.202
1.242
1.536
+ CT cổ phần có vốn Nhà nước
4.721
4.803
4.529
3.53
+ CT cổ phần không có vốn Nhà nước
0.748
1.213
1.854
1.79
3. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
8.971
8.740
9.991
+ 100 % vốn nước ngoài
-0.200
-0.250
1.828
+ DN liên doanh với nước ngoài
14.367
15.249
17.245
Chia theo ngành SXKD chính
Nông nghiệp và Lâm nghiệp
0.890
-0.254
2.483
Thuỷ sản
6.730
5.404
6.628
Công nghiệp khai thác mỏ
45.737
46.973
44.016
Công nghiệp chế biến
2.752
3.252
4.034
Sản xuất & phân phối điện, khí đốt và nước
1.781
2.762
3.039
Xây dựng
1.720
2.055
1.626
Thương nghiệp, sửa chữa xe có động cơ, mô tô, xe máy, đồ dùng gia đình
0.221
-0.007
0.394
Khách sạn và nhà hàng.
-3.396
-2.062
0.359
Vận tải, kho bãi và thông tin liên lạc.
10.329
11.535
12.982
Tài chính, tín dụng.
1.054
0.885
1.109
Hoạt động khoa học và công nghệ.
2.559
-0.114
1.507
Các hoạt động liên quan đến kinh doanh đến tài sản, dịch vụ tư vấn
1.459
2.679
2.213
Giáo dục và đào tạo.
5.121
15.342
6.296
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội.
11.699
13.144
1.789
Hoạt động văn hoá và thể thao.
-0.947
-1.550
0.613
(nguồn Tổng cục thống kê )
Theo số liệu ước tính thì năm 2006, tỷ suất lợi nhuận của một số ngành trung bình như sau: điện lực 29%, dầu khí 16%, dược phẩm 40%, cao su 33%, thực phẩm 17%.
Tỷ suất lợi nhuận của các hoạt động kinh doanh tài sản dịch vụ tư vấn đang còn ở mức thấp : năm 2000 tỷ suất lợi nhuận trên vốn kinh doanh là 1,459 %, năm 2001 là 2,679 % , năm 2002 là 8,307 %...
Ngành tài chính tín dụng năm 2000 có tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu là 1,054%, năm 2002 là 1,109 % . Tuy nhiên những năm gần đây tỷ suất lợi nhuận của ngành này lại khá cao, như : năm 2007 Ngân hàng Á Châu có tỷ suất lợi nhuận là 8,1%, Gpbank đạt 19.4%...
Trong cùng một ngành các doanh nghiệp cũng có sự chênh lệch về tỷ suất lợi nhuận, như trong lĩnh vực tài chính và các hoạt động liên quan mà điển hình là các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán.
Bảng . Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán năm 2006 (ĐVT: %)
Doanh nghiệp
Tỷ suất lợi nhuận năm 2006
CTCP chứng khoán Hải Phòng
11.04%
CTCP chứng khoán Bảo Việt
14.3%
CTCP chứng khoán Kim Long
5.8%
Nguồn: www.vietstock.com.vn
Đặc biệt, trong năm tài chính khó khăn 2008 các doanh nghiệp kinh doanh chứng khoán thua lỗ khá nặng nề: CTCK Kim Long (KLS) quý III/2008 lãi 3,7 tỷ đồng nhưng kết thúc năm 2008 công ty công bố thua lỗ 347 tỷ đồng, KLS đã phải chấp nhận bán lỗ một số khoản tự doanh; không chấp nhận bán lỗ tài sản CTCK Hải Phòng phải trích lập quỹ dự phòng cho khoản đầu tư tài chính khiến cho quý IV/2008 công ty lỗ gần 34 tỷ đồng, luỹ kế cả năm công ty lỗ 120 tỷ đồng.
Mặc dù hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhìn chung đều có mức tăng trưởng khá mạnh nhưng hiệu quả kinh doanh vẫn còn thấp. Xét năm 2006 tổng doanh thu thuần đạt 2.553.086 tỷ đồng tăng 27,03% so với năm năm 2005, bình quân giai đoạn 2002 - 2006 tăng 28,72%/năm. Trong các ngành sản xuất - kinh doanh chính, công nghiệp tăng bình quân 31,26%, xây dựng: 29,51%, thương nghiệp 24,23%, vận tải 31,76%, khách sạn - nhà hàng 26,26%, các dịch vụ khác 39,96%. Tuy nhiên tỷ suất lợi nhuận trên vốn bình quân năm 2006 đạt 4,42%, so với mức 4,85% năm 2005. Thậm chí, một số doanh nghiệp nhà nước còn có tỷ suất lợi nhuận âm.
2. Những nguyên nhân cơ bản:
Do hoạt động sản xuất kinh doanh của chính mỗi doanh nghiệp: khả năng quản lý điều hành, các chiến lược phát triển, chiến lược maketting, thị phần … đó là những tiền đề để có một mức tỷ suất lợi nhuận cao.
Do chính sách nhà nước áp dụng đối với mỗi thành phần, mỗi ngành kinh tế là khác nhau, được thể hiện rất rõ đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Do vai trò và vị trí của mỗi ngành trong nền kinh tế khác nhau, mỗi ngành có sự đóng góp khác nhau trong tổng sản phẩm quốc nội và giữ vai trò khác nhau trong tăng trưởng kinh tế.
Do đặc thù của từng ngành, có ngành có những lợi thế riêng như ngành chế biến xuất khẩu nông sản, thủy hải sản, ngành dệt may xuất khẩu. Và ngược lại có những ngành có nhiều bất lợi như các ngành sản xuất hàng hóa công cộng.
IV. Mối quan hệ giữa lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư và quy mô vốn đầu tư trong thời gian qua:
1. Lãi suất ảnh hưởng đến tỷ suất lợi nhuận:
Việc tăng cao của lãi suất trong năm 2008 vừa qua đã ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của các ngân hàng. Từ góc độ của hệ thống ngân hàng nói riêng và hệ thống thị trường tài chính nói chung, giá vốn sẽ tăng thì huy động vốn sẽ tăng. Thêm vào đó các ngân hàng bị buộc phải từ bỏ các khoản thu từ phí suất mà thực chất là một cách tăng lãi suất theo cung cầu thị trường, nên sẽ gặp khó khăn hơn về doanh thu. Mặc dù lãi suất cho vay ra chỉ có thể tăng thêm 3% nhưng lãi suất huy động cũng có thể tăng tương ứng như thế do áp lực cạnh tranh nên chênh lệch lãi suất danh nghĩa hầu như không đổi. Trong khi đó phần doanh thu “mềm” từ phí suất, đôi khi lên tới 4- 5% bị cắt đứt hẳn sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng.
Trước đây các ngân hàng chỉ chú trọng vào các hoạt động kinh doanh chính là cho vay với tỷ lệ dư nợ trên thị trường chiếm trên 50% tổng tài sản. Tuy nhiên trong thời gian vừa qua cùng với việc gia tăng lãi suất các ngân hàng đã lãi suất và suy thoái kinh tế thế giới các ngân hàng đã phải thay đổi cơ cấu bảng cân đối tài sản.
Tỷ lệ dư nợ giảm tương đối, ví dụ Techcombank chỉ chiếm 44% tổng tài sản (TTS) so với 52% TTS năm 2007, đạt 26.023 tỉ đồng. Dư nợ của Sacombank cũng chỉ chiếm 50% TTS thay cho 55% năm 2007... Mặc dù các ngân hàng đã áp dụng các biện pháp thắt chặt tín dụng , giảm tỷ lệ dư nợ chọn lọc các khách hàng tốt để giảm thiểu rủi ro nhưng tỷ lệ nợ xấu vẫn có xu hướng gia tăng. Tỷ lệ nợ xấu của Eximbank đã tăng lên mức tương đối cao 4,7% so với 0,9% năm 2007, Techcombank cũng tăng từ 1,5% năm trước lên 2,6% năm 2008. Các ngân hàng khác cũng không nằm ngoài xu hướng nợ xấu gia tăng khi khủng hoảng kinh tế bao phủ nên các doanh nghiệp, khi các doanh nghiệp vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh và trả nợ ngân hàng. Tỷ lệ nợ xấu là thước đo danh mục cho vay của ngân hàng khi tỷ lệ này tăng chứng tỏ danh mục cho vay càng rủi ro... Để đề phòng trường hợp rủi ro do nợ xấu tăng cao các ngân hàng phải lập trích quỹ dự phòng rủi ro nhiều hơn: Techcombank lập trích quỹ dự phòng rủi ro 807 tỷ đồng cho năm 2008, Eximbank 502 tỷ đồng...
Tuy doanh thu của các ngân hàng năm 2008 có sự gia tăng mạnh gấp hơn 2 lần năm 2007 nhưng chi phí vốn, chi phí hoạt động và chi phí dự phòng rủi ro cao đã làm lợi nhuận tăng không xứng. Tổng doanh thu năm 2008 của Sacombank đạt 9.010tỷ đồng, tăng 86% so với năm trước nhưng tổng chi phí là 7.825 tỷ đồng tăng 139% sovới năm 2007. Techcombank, Eximbank, Đông Á có mức tăng trưởng ấn tượng lần lượt là 216%, 215% và 98% nhưng tổng chi phí tăng phi mã 249%, 254% và 110. Chi phí lãi tăng cao hơn thu nhập lãi làm cho biên lãi thuần của các ngân hàng giảm đáng kể, xuống dưới mức 30% trong khi đó lợi nhuận của các ngân hàng năm 2007 hầu hết là trên 30%.
Sau một năm thử thách, tỷ suất lợi nhuận của các ngân hàng giảm đáng kể. Một số ngân hàng vẫn đạt được mức tỷ suất lợi nhuận cao nhưng một số các ngân hàng mặc dù đã giảm chỉ tiêu kinh doanh nhưng vẫn không đạt kế hoạch.
Việc lãi suất tăng cao trong năm 2008 đã khiến không ít các doanh nghiệp bị thua lỗ hoặc lợi nhuận giảm sút so với năm trước.
2.Tác động của tỷ suất lợi nhuận đến vốn đầu tư:
Trong thời gian vừa qua, tổng đầu tư toàn xã hội tăng nhưng tốc độ gia tăng quy mô đầu tư đối với từng ngành là không giống nhau do tỷ suất lợi nhuận mà mỗi ngành mang lại là khác nhau. Việc quy mô vốn đầu tư tăng lên dưới ảnh hưởng của tỷ suất lợi nhuận được giải thích qua nhứng nguyên nhân sau:
Nhìn chung trong thời gian qua, tỷ suất lợi nhuận của các ngành trong nền kinh tế đều ở mức khá cao so với lãi suất cho vay từ các ngân hàng. Dưới đây là số liệu về tỷ suất lợi nhuận của một số doanh nghiệp đại diện cho các ngành kinh tế:
- CTCP Đầu tư phát triển đô thị và khu công nghiệp Sông Đà 39,03 %
- CTCP Dược Hậu Giang 33,83 %
- CTCP Đầu tư phát triển công nghệ FPT 46,60 %
- CTCP Xuất nhập khẩu Thuỷ sản An Giang 20,28 %
- CTCP Sữa Việt Nam 27,38 %
Với mức tỷ suất lợi nhuận đạt được khá cao như vậy, các nhà đầu tư sẽ có thêm một căn cứ chắc chắn để tiếp tục đầu tư vào những ngành kinh tế của Việt Nam .
Tỷ suất lợi nhuận ở các ngành công nghiệp: công nghiệp nặng và công nghiệp nhẹ là cao so với mức tỷ suất lợi nhuận liên ngành, điều này dẫn tới tỷ trọng vốn đầu tư vào các ngành là rất lớn (Năm 2006 đã có 472 dự án được cấp phép đầu tư vào các ngành này với tổng số vốn đầu tư lên đến 4867230 nghìn USD).
Ngành ngân hàng – tài chính có mức độ rủi ro cao, bên cạnh đó đây là một trong những lĩnh vực đang được Nhà nước bảo hộ nên tỷ trọng đầu tư vào ngành này còn tương đối thấp (Năm 2006 chỉ có 2 dự án được cấp phép đầu tư với tổng số vốn đăng ký là 17 triệu USD từ nguồn vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài).
Tuy nhiên, trong những năm gần đây ngành ngân hàng luôn có tỷ suất lợi nhuận cao (ví dụ: GPBank 19,44% năm 2007), chính vì vậy mà số lượng cũng như quy mô các ngân hàng thương mại ở nước ta ngày càng tăng lên trong những năm gần đây. Kết thúc năm 2005 bình quân các ngân hàng thương mại cổ phần chia cho các cổ đông tăng
15-16% cao gấp gần 2 lần lãi suất tiết kiệm VNĐ kỳ hạn 1 năm. Dẫn đầu là Techcombank chia 36% so với mức của năm 2004 là 15%; ACB chia 28%; Sacombank chia với mức 23,8% so với mức của năm trước là 26%; Ngân hàng thương mại cổ phần Đông Á va Vpbank đều cùng chia với mức là 20% tăng 1,5 lần so với 2004... Chính vì vậy mà quy mô tài sản_ yếu tố quan trọng nhất phản ánh tập trung bao quát lớn nhất sự phát triển của một ngân hàng_ kết thúc năm 2005 bình quân các ngân hàng thương mại cổ phần có tốc độ tăng khoảng 49 – 50% so với cuối năm 2004. Đến cuối năm 2005 ngân hàng thương mại cổ phần Quốc tế - VBI có tốc đô tăng cao nhất đạt tổng tài sản 8.978,2 tỷ đồng tăng 119,2% so với năm 2004; Techcombank tăng trên 63%, OCB tăng 58.9%; ACB tăng 56,3%; VPBank tăng 55,0%...so với cuối năm 2004. Quy mô vốn điều lệ của hầu hết các ngân hàng đều có số vốn tăng gấp 2 đến 3 lần so với năm 2004; mạng lưới quy mô các chi nhánh ngân hàng cũng ngày càng được mở rộng.
Cơ cấu kinh tế nước ta đang có sự chuyển dịch hợp lý theo hướng CNH-HĐH: các ngành dịch vụ đang có sự phát triển mạnh mẽ, mang lại tỷ suất tỷ suất lợi nhuận cao.
Bảng vốn đầu tư phân theo ngành kinh tế theo giá thực tế:
(Tỷ đồng)
Ngành
2004
2005
2006
2007
Nông – lâm - ngư nghiệp
22.963
25.749
30.087
33.900
công nghiệp – xây dựng
124.372
146.104
170.935
226.907
Dịch vụ
143.628
171.282
203.690
260.893
Dễ thấy các ngành xây dựng cơ bản, xây dựng khu đô thị - khu chế xuất - khu công nghiệp…đóng 1 vai trò quan trọng trong tiến trình hội nhập kinh tế toàn cầu của Việt Nam . Vì vậy các ngành này đã nhận được sự quan tâm phát triển đặc biệt của Nhà nước và sự đầu tư từ nước ngoài.
Riêng năm 2008 vốn đầu tư nước ngoài trong các dự án tập trung chủ yếu vào các lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với 32,6 tỷ USD, chiếm 54,1% tổng số vốn đăng ký; dịch vụ 27,4 tỷ USD, chiếm 45,5%; nông lâm ngư nghiệp 252,1 triệu USD chiếm 0,4%.
Do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới các doanh nghiệp nước ta trong những tháng cuối năm 2008 và đầu năm 2009 tình hình sản xuất kinh doanh cũng như tiêu thụ hàng hóa của các doanh nghiệp giảm đi cùng với nó là tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp cũng giảm rõ rệt khiến cho số lượng doanh nghiệp có vốn đăng ký mới trong 3 tháng đầu năm 2009 giảm đi gần một nửa được 46,2% so với cùng kỳ. Số lượng doanh nghiệp mới ra đời cũng giảm đi 3,2%. Trong bối cảnh suy giảm như vậy không ít các doanh nghiệp đã buộc phải cắt giảm sản xuất và nhân công. Một số sản phẩm rơi vào cảnh sản xuất cầm chừng như giấy bìa các loại giảm tới 39,2%, phân hóa học 22,1% dầu thực vật tinh luyện giảm 14,5%... Giá trị sản xuất nông nghiệp 3 tháng đầu năm 2009 chỉ đạt 152,9 nghìn tỷ đồng, chỉ nhích hơn cùng kỳ năm ngoái 2,1%.
3.Lãi suất và quy mô vốn đầu tư:
Lãi suất là một biến số kinh tế nhạy cảm, một sự thay đổi của lãi suất làm thay đổi lớn đến hành vi tiêu dùng, tiết kiệm sản xuất của toàn xã hội. Về phương diện lý thuyết cũng như thực tiễn đã chứng minh sự thay đổi của lãi thực sẽ tác động đến giá cả, quy mô vốn đầu tư và sản lượng...
Trong thời gian từ 2004 – 2006: tình trạng lãi suất của các ngân hàng tăng cao đã gây ra những khó khăn cho các doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Từ giữa những năm 2004 đến năm 2006 cùng với xu thế tăng lãi suất của các nền kinh tế lớn, đặc biệt là Mỹ và xu thế kiềm chế lạm phát lãi suất của các ngân hàng không ngừng tăng cao. Trong vòng 1 năm từ 2005 đến 2006 Ngân hàng Nhà nước đã 3 lần tăng một số lãi suất chủ đạo là lãi suất tái cấp vốn và lãi suất chiết khấu hai lần tăng lãi suất cơ bản tiền đồng Việt Nam.
Cùng với việc gia tăng lãi suất của ngân hàng trong thời gian này đã có rất nhiều những tác động đa chiều: đối với hệ thống ngân hàng làn sóng tăng lãi suất của các ngân hàng thương mại đặc biệt là tăng lãi suất huy động đã giúp cho các ngân hàng thuận lợi hơn trong việc huy động vốn. Tuy nhiên lãi suất huy động tăng cao cũng đồng nghĩa với lãi suất cho vay cũng phải tăng theo. Lãi suất cho vay tăng cao làm cho hoạt động cho vay trở nên khó khăn hơn, đặc biệt cho vay bằng ngoại tệ. Trong 3 tháng đầu năm 2006 lượng tiền cho vay cuả các ngân hàng chỉ tăng khoảng 1,5% thấp hơn so với tốc độ huy động. Như vậy trong ngân hàng xuất hiện tình trạng dư thừa vốn nhưng lại “tắc” các kênh dẫn vốn.
Đối với các doanh nghiệp kinh doanh sản xuất, do lãi suất cho vay quá cao thậm chí vượt cả mức 10% tỷ lệ lợi nhuận trên vốn bình quân nên dẫn tới tình trạng các doanh nghiệp thay vì gõ cửa các ngân hàng đã tìm các cách huy động vốn thông qua các kênh khác trong đó có thị trường chứng khoán. Tình trạng lãi suất tăng cao kéo dài sẽ ảnh hưởng đến lợi nhuận của các doanh nghiệp tăng rủi ro bởi lẽ khả năng cung cấp các dịch vụ ngân hàng hiện đại của các ngân hàng trong nước trong thời gian này còn rất yếu kém nên hoạt động tín dụng vẫn là nguồn thu chủ yếu của các ngân hàng. Lợi nhuận giảm sút sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tăng vốn và khả năng cạnh tranh của các ngân hàng.
Đối với các doanh nghiệp và nhà đầu tư: tình trạng lãi suất tăng cao khiến cho các nhà đầu tư co cụm hoạt động sản xuất kinh doanh lại. Trong thời gian này nền kinh tế phát triển theo chiều rộng nên lợi nhuận trên vốn của các doanh nghiệp không cao, do đó khi lãi suất cao thì chi phí đầu vào tăng cao, giá thành sản xuất ngày càng cao trong khi việc tăng giá bán trong bối cảnh lạm phát là rất khó khăn nên điểm tất yếu là các doanh nghiệp không muốn mở rộng sản xuất kinh doanh. Trong khi đó các kênh đầu tư khác như bấ động sản lại đóng băng, vàng đang trong cơn bão giá, đồng USD không ổn định đã khiến các nhà đầu tư lựa chọn các kênh đầu tư khác hy vọng sẽ thu được lợi nhuận cao hơn. Có thể là nguyên nhân gây “sốt mạnh” trên thị trường chứng khoán trong thời gian này.
Đối với nền kinh tế, lãi suất tăng cao đã khiến cho chi phí đầu vào của nền kinh tế tăng cao và hiệu quả gián tiếp là giá thành cũng tăng lên theo, về ngắn hạn sẽ khiến giá thành của sản phẩm tăng và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế giảm. Về dài hạn, lãi suất tăng cao sẽ dẫn đến tình trạng “vãn hồi đầu tư” trong toàn nền kinh tế do các doanh nghiệp và các nhà đầu tư thu hẹp quy mô đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Hiện tượng tăng lãi suất trên lại tái hiện trong năm 2008 do nhà nước thực hiện chính sánh thắt chặt tiền tệ để chống lạm phát tăng cao, nó đã tác động không nhỏ tới việc tăng quy mô vốn và tình hình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp.
Đối tượng đầu tiên bị ảnh hưởng nhiều nhất là các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một phản ứng có thể của ngân hàng là họ sẽ ưu tiên cho những dự án, những khoản vay lớn hơn để giảm chi phí giao dịch tránh gây nhiều tổn thất đến lợi nhuận của chính họ. Do đó trong thời gian tới các doanh nghiệp nhỏ và vừa có thể khó tiếp cận tới nguồn vốn hơn.
Thấy rằng việc NHNN tăng mức lãi suất cơ bản, thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ nhằm kiềm chế lạm phát trong thời gian này là cần thiết, nhưng lẽ ra mọi thứ phải nên tuân theo quy luật thị trường một thời gian nữa. Bởi lẽ một lúc ban hành nhiều chính sách kiềm chế lạm phát như vậy sẽ gây sốc đối với các doanh nghiệp.
Cuộc đua tăng suất của các ngân hàng không chỉ các doanh nghiệp nhỏ chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực mà một số các” đại gia” cũng điêu đứng như sơn Kova, điện tử Tân Bình, dệt may Việt Nam... Chủ tịch hội đồng quản trị tập đoàn dệt may Việt Nam_ ông Lê Quốc Ân có nói: “việc tăng lãi suất chắc chắn sẽ khiến cho các doanh nghiệp dệt may nói riêng và doanh nghiệp cả nứơc nói chung gặp nhiều khó khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Đồng thời khi lãi suất tăng cao việc vay vốn của các doanh nghiệp sẽ phải chịu thêm nhiều phụ phí do các ngân hàng tự đặt ra với thực tế như vậy khó khăn của các doanh nghiệp sẽ thêm chồng chất”.
Trong thời gian qua các NHTM đua nhau tăng lãi suất đối với cả VND và ngoại tệ để bắt kịp với sự tăng lãi suất từ cục dư trữ liên bang Mỹ nhằm tránh tình trạng đào thoát vốn ra bên ngoài. Đây cũng chính là nhân tố khiến cho dòng vốn đầu tư nước ngoài trong năm qua đổ vào nước ta mạnh hơn các năm trước rất nhiều. Năm 2006, FDI đăng ký vào Việt Nam đạt 12004,0 triệu USD; năm 2007 đạt 21347,8 triệu USD; năm 2008 đạt 64000 triệu USD gấp hơn 3 lần năm 2007 và hơn 6 lần năm 2006. Riêng số vốn tăng thêm của các dự án đang hoạt động trong năm 2008 cũng đã bằng cả số vốn đăng ký mới năm 2000. Lượng vốn giải ngân năm 2008 cũng đạt con số khá ấn tượng 11,5 tỷ USD, mức cao nhất trong 22 năm qua. Năm 2008 cũng ghi nhận sự sự xuất hiện của hàng loạt dự án đầu tư lớn như dự án lọc hoá dầu Nghi Sơn Thanh Hoá, dự án thép ở Ninh Thuận và Hà Tĩnh... Sự gia tăng lượng vốn đăng ký đã làm tăng quy mô hoạt động của khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Với hơn 9.800 dự án còn hiệu lực với số vốn đăng ký gần 150 tỷ USD, năm qua hơn 4000 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tai Việt Nam đã đóng góp 40% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu trong cả nước. khối các doanh nghiệp này còn tạo ra trên 200.000 việc làm mới, nâng tổng số lao động trong các dự án FDI tăng lên gần 1,47 triệu người, góp phần giải quyết tình trạng việc làm vốn vẫn đang nóng bỏng tại Viêt Nam. Tuy nhiên việc giải ngân FDI vẫn còn nhiều thách thức lớn đối với hoạt động đầu tư nước ngoài do những “nút thắt cổ chai” về kết cấu hạ tầng, thiếu hụt năng lượng và chất lượng chưa được giải quyết.
Quý IV/ 2008 trước những biến động xấu của kinh tế thế giới, nền kinh tế nước ta có dấu hiệu chững lại của lạm phát, NHNN đã ra quyết định hạ lãi suất thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ nhằm ngăn những tác động tiêu cực từ những biến động xấu của nền kinh tế thế giới. Theo nhận xét của các chuyên gia kinh tế việc giảm lãi suất trong thời gian này là phù hợp và đồng điệu với các nước xung quanh, tác động vĩ mô của chính sách này có tính phòng vệ cao vì lạm phát có thể chuyển sang giảm phát.
Việc giảm lãi suất cho vay đem lại hy vọng cho các doanh nghiệp đang cần thực hiện một kế hoạch đầu tư, và đặc biệt là giảm bớt gánh nặng cho những doanh nghiệp đang oằn lưng vì chi phí vốn vay nặng lãi. Đối với doanh nghiệp sử dụng đòn bẩy tài chính lớn đây rõ ràng là một tin tốt vì phần chi phí vay trong tổng chi phí sẽ giảm di đáng kể.
Ngay sau khi quyết định của NHNN có hiệu lực ngày 21/10/2008 các NHTM đồng loạt ra các quyết định giảm lãi suất của mình chứ không phải “nhìn trước ngó sau” xem các ngân hàng khác thế nào như mọi khi. Agribank quyết định đồng loạt giảm lãi suất với 2 đối tượng khách hàng truyền thống của mình là hộ sản xuất và các doanh nghiệp nhỏ. Các “anh lớn” trong giới ngân hàng cũng giảm lãi suất theo nhằm kích thích các doanh nghiệp đầu tư. Tiếp theo sau đó cho đến nay NHNN đã 5 lần hạ lãi suất cơ bản nhằm kích thích tiêu dùng đầu tư ngăn chặn suy thoái kinh tế.
Với lãi suất vay thấp hơn sẽ khuyến khích các doanh nghiệp đi vay với lãi suất thấp hơn tín dụng cung cấp ra cũng sẽ “nhẹ nhàng” hơn. điều này giúp cho các doanh nghiệp vượt qua khó khăn, duy trì giá trị sản xuất kinh doanh. Việc nới lỏng hơn chính sách tiền tệ cũng sẽ có tác dụng tích cực trong ngắn hạn mà còn có những dấu hiệu tốt trong dài hạn. Loạt tín dụng này không chỉ không chỉ đủ đáp ứng lượng vốn thiếu hụt trong thời gian hiện nay mà còn có thể dư vốn tạm thời.
Song thực tế, nhiều doanh nghiệp vẫn dè dặt, chưa có chuyển biến nào đáng kể trong đầu tư cũng như mở rộng sản xuất kinh doanh. Tình trạng này khiến cho nhiều người nghĩ đến còn có những thay đổi trong điều hành lãi suất của các ngân hàng, cả lãi suất cơ bản và lãi suất thương mại.
Quý I/2009 mặc dù đã có những chính sách giảm lãi suất kích cầu đầu tư và tiêu dùng của Nhà nước nhưng các doanh nghiệp vẫn sản xuất trong đình trệ do ảnh hưởng tiêu cực từ những đợt tăng lãi suất vài tháng trước đó đây cũng chính là nguyên nhân khiến cho lợi nhuận của các doanh nghiệp trong quý này tiếp tục giảm sút. Tình trạng dư thừa và dư thừa năng lực sản xuất đang diễn ra và tiếp tục trầm trọng hơn về nhiều mặt hàng cơ bản. Nhiều công ty ở các ngành như thép, cao su, điều, phân bón, ... vẫn đang ngậm nguyên liệu đầu vào giá caơ từ năm ngoái, trong khi mức tiêu thụ giảm đi đáng kể. Đây chính là nguyên nhân dẫn đến thua lỗ của nhiều công ty khiến nhà đầu tư lo ngại tình trạng thua lỗ nặng nề như năm trước tiếp tục lặp lại trong quý I năm nay.
Hiện nay tuy chính phủ đã có chính sách hỗ trợ lãi suất nhưng việc tiếp cận với lãi suất ưu đãi là khá khó khăn đối hầu hết các doanh nghiệp làng nghề họ đang phải ngừng sản xuất hoặc sản xuất cầm chừng: làng đồ gỗ mỹ nghệ Đồng Kỵ (Bắc Ninh) thua lỗ 20 triệu USD do ứ đọng sản phẩm, “ôm” nguyên liệu lúc giá cao. Có những doanh nghiệp hàng trăm công nhân bây giờ tan tác chỉ còn khoảng 7 – 8 người làm. Tại làng sắt Đa Hội (Bắc Ninh) số thép tồn đọng đã lên đến hàng trăm nghìn tấn... Ngoài ra theo số liệu thống kê mới nhất của 38 tỉnh thành cho thấy đã có 9 làng nghề chính thức phá sản, 124 làng nghề đang sản xuất cầm chừng do gặp khó khăn (chiếm khoảng 10% số làng nghề trong cả nước). Việc phá sản của các làng nghề khiến cho hàng ngàn người lao động bị mất việc khiến cho chuyện công ăn việc làm của người dân trở nên bức xúc hơn bao giờ hết. Vì vậy trong thời gian tới cần phải gấp rút tháo gỡ các khó khăn, giải ngân nhanh thủ tục đơn giản gọn nhẹ để cứu các làng nghề.
Không chỉ có các làng nghề bị phá sản trong thời gian qua mà có nhiều các doanh nghiệp cũng công bố chính thức ngừng hoạt động trong thời gian dài hoặc thu hẹp sản suất, đứng trước nguy cơ ngừng hoạt động. Nhiều doanh nghiệp công bố cắt giảm nhân công trong đó các doanh nghiệp FDI hoạt động trên các lĩnh vực xuất nhập khẩu, may mặc, điện tử là những doanh nghiệp cắt giảm nhiều nhất...3 công ty chính thức tuyên bố ngừng hoạt động đó là công ty Wei Xem Sin Đà Nẵng (100% vốn đầu tư của Đài Loan) đã chấm dứt hộp đồng với toàn bộ 101 lao động, công ty Kim Quốc Bảo (100% vốn của Đài Loan) chấm dứt toàn bộ hợp đồng với 1233 công nhân, công ty TNHH Việt Nam Knitwear (100%vốn đầu tư của Trung Quốc) chấm dứt hợp đồng với 893 lao động, công ty TNHH TKR Việt Nam chuyên sản xuất linh kiện điện tử (100% vốn Nhật Bản) cũng chấm dứt hợp đồng với 72 lao động....
Qua đó cho ta thấy ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu cùng với biến động bất thường của lãi suất đã làm cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam thu hẹp quy mô sản xuất mặc dù đã có nhiều những chính sách kính thích đầu tư của chính phủ.
Tuy nhiên ở ngành nào cũng có các doanh nghiệp vượt khó khăn để phát triển. Công ty Đạm Phú Mỹ với chiến lược đẩy nhanh tiêu thụ hàng tồn kho và hiện nay đang vào vụ hè thu nên không còn hàng tồn kho giá cao trong công ty đồng thời giá phân bón đang lên nên DPM không còn thua lỗ trong qúy I này nữa; một cổ phiếu thuộc hàng blue_chip là HPG của tập đoàn Hoà Phát từ tuần đầu tháng 2 đã tăng giá trở lại do thông tin lợi nhuận tháng 1 đạt 80 tỷ. Quý IV năm ngoái doanh nghiệp này cũng lỗ 200 tỷ đồng do giảm giá hàng tồn kho, nếu tiêu thụ hết hàng tồn kho thì khả năng lỗ của doanh nghiệp này là rất thấp vấn đề là lời ít hay nhiều phụ thuộc vào doanh số bán hàng mỗi tháng.
4.Quy mô vốn tác động đến lãi suất
Quy mô vốn đầu tư cũng có tác động trở lại với lãi suất. Quy mô vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên cũng khiến cho lãi suất trên thị trường tăng lên không ngừng. Sự phát triển của các dự án của Chính phủ, các dự án đầu tư và tăng trưởng kinh tế, tốc đô phát triển của các doanh nghiệp… là nguyên nhân gây ra việc tăng về tổng cầu vốn. Do đó các ngân hàng thương mại tăng cường huy động vốn để bơm cho nền kinh tế khi đó lãi suất sẽ co cơ hội tăng cao. Quy mô vốn đầu tư toàn xã hội tăng lên khiến lượng tiền đổ vào nền kinh tế cũng tăng làm cho tình hình lạm phát tăng cao do đó để điều chỉnh được lượng lãi suất thực đảm bảo thì lãi suất trên thị trường cũng phải tăng lên.
Thực tế trong những năm gần đây Chính phủ nước ta luôn đặt mục tiêu tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước với tốc độ tăng trưởng ấn tượng ( năm 2007 8,44%...). đặc biệt trong năm 2008 nước ta đặt ra mục tiêu tăng trưởng 9%, với bản chất là một nước phát triển theo chiều rộng nước ta cần một lượng vốn rất lớn để đạt được mục tiêu tăng trưởng đó. Chính vì vậy mà trong năm 2008 cùng với những biến động của thị trường thế giới, lạm phát của năm 2007 kéo sang cả năm 2008 chúng ta đã phải chứng kiến cảnh lãi suất ngân hàng leo thang từng ngày (theo bảng số liệu về biến động của lãi suất cơ bản chương 1). Sau đó do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế thế giới và việc lãi suất gia tăng trước đó đã khiến cho việc sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp khó có thể mở rộng, quy mô vốn hẹp dần, Chính phủ lại ra quyết định hạ lãi suất để kích cầu đầu tư và tiêu dùng.
5. Thực trạng về mối quan hệ giữa lãi suất, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư.
Như chương một chúng tôi đã đề cập đến mối quan hệ của lãi suất tỷ suất lợi nhuận của vốn đầu tư ta có: khi tỷ suất lợi nhuận tăng dẫn tới quy mô vốn đầu tư tăng sau đó là lãi suất sẽ tăng lên theo và ngược lại. Cũng như khi lãi suất tăng dẫn tới quy mô vốn giảm và tỷ suất lợi nhuận giảm. Điều này đã được thực tế kiểm chứng trong những năm qua. Đặc biệt trong năm 2008_một năm đầy biến động của thị trường trong nước cũng như thị trường thế giới.
Năm 2008, chi phí đầu vào, chi phí vốn tăng lên do tác động của lãi suất tăng cao cùng với tác động của suy thoái kinh tế, khiến cho các doanh nghiêp gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, quy mô của các doanh nghiệp không được mở rộng, hàng hoá sản xuất ra khó tiêu thụ làm cho lợi nhuận của nhiều công ty bị giảm sút. Đặc biệt từ quý IV/2008, lợi nhuận của các doanh nghiệp giảm mạnh so với quý III hoặc cùng kỳ năm trước: lợi nhuận của công ty cao su Tây Ninh giảm 31,5% so với quý III, lợi nhuận sau thuế của tập đoàn Hoà Phát âm 232 tỷ đồng. Với ngành phân bón công ty Vật tư Kỹ thuật Nông nghiệp Cần Thơ (TSC) lỗ gần 53 tỷ đồng. Tổng công ty cổ phần hoá chất và Phân đạm Phú Mỹ(DPM) lỗ gần 87 tỷ đồng. Trong quý IV/2008 TSC phải dành gần 32 tỷ đồng để trả lãi ngân hàng cho các hợp đồng tín dụng trước đó: công ty cổ phần thuỷ điện Cần Đơn lỗ 15,6 tỷ đồng do chi phí tài chính tăng tới 21tỷ đồng; chi phí vay của cổ phần Alphanam tăng hơn 200% so với cùng kỳ năm 2007, góp phần làm lợi nhuận sau thuế của công ty mẹ âm 7,5 tỷ đồng... Gánh nặng hàng tồn kho cũng đã khiến cho lợi nhuân của các doanh nghiệp đi xuống: CTCP Nam Việt lỗ 131 tỷ đồng, công ty cổ phần Phích nước Rạng Đông lỗ gần 8 tỷ đồng, nhiều doanh nghiệp ngành thép với khối lượng hàng tồn kho lớn cũng chịu thua thiệt nặng nề, công ty cổ phần kim khí Tp Hồ Chí Minh lỗ 25 tỷ đồng trong quý IV/2008...
Chương IIIGiải pháp giải quyết các vấn đề lãi suất tiền vay, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư trong công tác quản lý và điều hành hoạt động đầu tư ở Việt Nam.
1. Giải pháp đối với các chính sách thu hút và quản lý hoạt động đầu tư.
Để tiếp tục thu hút thúc đẩy giải ngân và nâng cao sử dụng hiệu quả vốn đầu tư chúng ta cần phải triển khai một số các biện pháp sau:
Thứ nhất, giải pháp về chính sách pháp luật: tiếp tục rà soát pháp luật, chính sách về đầu tư, kinh doanh để sửa đồi các nội dung không đồng bộ, thiếu nhất quán, bổ sung các nội dung còn thiếu và loại bỏ các điều kiện áp dụng ưu đãi đầu tư không phù hợp với cam kết của WTO.
Ban hành các ưu đãi khuyến khích đầu tư đối với các sự án xây dựng công trình phúc lợi (nhà ở, bệnh viện, trường học,...) cho người lao động làm việc trong các khu công nghệ cao, khu công nghệ, khu chế xuất...
Thực hiện các biện pháp thúc đẩy giải ngân; không cấp phép cho các dự án công nghệ lạc hậu, dự án tác động xấu đến môi trường, thẩm tra kỹ các dự án sử dụng nhiều đất,giao đất có điều kiện theo tiến độ dự án, tránh lập dự án lớn để giữ đất, không triển khai can nhắc về tỷ suất đầu tư/diện tích đất, kể cả đất KCN
Thứ hai, giải pháp về quy hoạch. đẩy nhanh tiến độ xây dựng phê duyệt các quy hoachj còn thiếu; rà soát định kỳ để bổ sung, điều chỉnh các quy hoạch đã lạc hậu nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhà đầu tư trong việc xác đinh hoặc xây dựng dự án. Hoàn chỉnh các công tác quy hoạch đất công bố rộng rãi quy hoạch, tạo điều kiện đẩy nhanh tiến đọ giải phóng mặt bằng các dự án đầu tư; rà soát kiểm tra điều chỉnh quy hoạch sử dụng đất một cách hiệu quả, nhất là các địa phương ven biển nhằm bảo đảm phát triển kinh tế và môi trường bền vững.
Thứ ba, giải pháp cải thiện cơ sở hạ tầng. Tiến hành tổng rà soát điều chỉnh, phê duyệt công bố các quy hoạch về kết cấu hạ tầng đến năm 2020 làm cơ sở thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Tranh thủ tối đa các nguồn lực để đầu tư tối đa các nguồn lực phát triển cơ sở hạ tầng, đặc biệt là nguồn vốn ngoài ngân sách nàh nước, ưu tiên các lĩnh vực cấp thoát nước vệ sinh môi trường; hệ thống đường bộ cao tốc; nâng cấp chất lượng dịch vụ đường sắt; sản xuất điện từ các loại năng lượng mới như gió, thuỷ triều, nhiệt năng từ mặt trời; các dự án lĩnh vực bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin...
Thứ tư, giải pháp về nguồn nhân lực. Đẩy nhanh việc triển khai kế hoạch tổng thể về đào tạo nhằm nâng cao tỷ lên người lao động qua đào tạo. Theo đó, ngoài việc nâng cấp đầu tư hệ thống các trường đào tạo nghề hiện có ngang tầm khu vực và thế giới, sẽ phát triển các trung tâm đào tạo từ các nguồn vốn khác nhau. Nghiên cứu điều chỉnh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao động theo tốc độ chuyển dịch co cấu kinh tế. Thực hiện giải pháp nhằm đưa Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật lao động và thực tế cuộc sống để ngăn ngừa đình công bất hợp pháp, lành mạnh hoá quan hệ lao động...
Thứ năm, giải pháp về giải phóng mặt bằng. Uỷ ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương cần chỉ đạo các cơ quan chức năng tiến hành ngay các thủ tục thu hồi đất và thu hồi giấy chứng nhận đầu tư đối với các dự án không có khả năng triển khai hoặc không sử dụng hết đất đã được giao để cho các dự án đầu tư khác có lợi hơn. Đồng thời trong phạm vi thẩm quyền của mình, chủ động tổ chức việc đền bù giải toả và giao đất cho chủ đầu tư đúng cam kết, đặc biệt các dự án có quy mô lớn mà chủ đầu tư sẵn sàng giải ngân.
Thứ sáu, giải pháp về xúc tiến đầu tư. Nghiên cứu đề xuất chính sách vận động thu hút đầu tư đối với các tập đoàn đa quốc gia cũng như có chính sách riêng đối với từng tập đoàn và các đối tác trọng điểm như các quốc gia thành viên EU, Hoa Kỳ, Nhật Bản... nhanh chóng hoàn thiện việc xây dựng thông tin chi tiết về dự án đối với các danh mục quốc gia kêu gọi đầu tư nước ngoài giai đoạn 2006 – 2010 để làm cơ sở co các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án này. Triển khai nhanh chóng thành lập bộ phận xúc tiến đầu tư tại môt số địa bàn quan trọng...
Thứ bảy, các giải pháp khác. tiếp tục nâng cao hiệu quả việc chống tham nhũng, tiêu cực, tình trạng nhũng nhiễu đối với nhà đầu tư. Đề cao tinh thần trách nhiệm cá nhân trong sử lý công việc, thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở các cơ quan nhà nước. Duy trì mối quan hệ thường xuyên giữa lãnh đạo chính phủ, các bộ ngành với các nhà đầu tư, đặc biệt là diễn đàn doanh nghiệp hàng năm để xử lý các vấn đề khó khăn trong các dự án trong tiến trình hoạt động, đảm bảo các dự án thực hiện đúng tiến độ hiệu quả nhằm tiếp tục củng cố lòng tin vào các nhà đầu tư trong nước cũng như nước ngoài.
2. Các giải pháp liên quan đến lãi suất
Hiện nay trong tình trạng suy thoái kinh tế toàn cầu nền kinh tế nước ta cũng bị ảnh hưởng đáng kể. Để ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng kinh tế nước ta trong thời gian tới nước ta cần phải tiếp tục điều hành chính sách nới lỏng tiền tệ một mặt để kiềm chế lạm phát và ngăn chặn kinh tế suy thoái.
NHNN tiếp tục hoàn thiện điều hành linh hoạt chính sách tền tệ cũng như nghiệp vụ của NHNN. Khi ra quyết định chức năng nên lấy ý kiến của chuyên gia trong và ngoài nước để tránh được những ảnh hưởng xấu đến doanh nghiệp cũng như đời sống của người dân.
NHNN cần siết chặt việc cấp phép thành lập mới ngân hàng đảm bảo an toàn cho toàn bộ hệ thống ngân hàng tránh tình trạng thành lập ngân hàng tràn lan gây ảnh hưởng đến hệ thống tín dụng trong nước.
Nâng cao chất lượng nghiệp vụ, trình độ quản trị điều hành của các ngân hàng thương mại, tổ chức tín dụng, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hệ thống tín dụng. Xử lý hài hoà các mối quan hệ tín dụng đảm bảo quyền lợi của người gửi tiền, NHTM và người vay vốn
NHNN nên tăng cường hơn nữa khâu kiểm tra, thanh tra đảm bảo chất lượng tín dụng nhất là lĩnh vực đầu tư bất động sản, đảm bảo an toàn hoạt động phòng ngừa rủi ro nhất là rủi ro công nghệ rủi ro đạo đức và công nghệ mới.
NHNN khi đưa ra chính sách thì không nên ban hành nhiều chính sách cùng một lúc nên đưa ra từng chính sách để thị trường có thể phản ứng kịp với sự thay đổi của lãi suất.
Việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc phải có sự cân nhắc rõ ràng, kỹ lưỡng. Bởi lẽ việc nâng cao tỷ lệ dự trữ bắt buộc cũng đồng nghĩa với việc các ngân hàng buộc phải cho vay ít hơn. Ai cũng hiểu việc nâng dự trữ bắt buộc nhằm giảm thiểu rủi ro các ngân hàng nhưng nà chức trách quên một điều là cơ chế vốn hoạt động cần thông thoáng thì mới có thể thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp phát triển. Qua đó tăng cường tiêm lực cho nền kinh tế.
3.Các giải pháp về tỷ suất lợi nhuận
Tỷ suất lợi nhuận là cơ sở để các nhà đầu tư ra quyết định, ở bất kỳ ngành nào nhà đầu tư cũng lựa chọn những ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Chính vì vậy nhiệm vụ đầu tiên của các doanh nghiệp là phải nâng cao tỷ suất lợi nhuận.
Các giải pháp vĩ mô
Chính phủ thực hiện việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và các cơ quan chức năng trong công tác quản lý thực hiện vốn đầu tư hạn chế tình trạng thất thoát vốn và lãng phí trong đầu tư.
Điều chỉnh mạnh mẽ, hợp lý cơ cấu kinh tế tăng tỷ trọng các ngành có lợi nhuận cao, giảm tỷ trọng các ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp.
Hoàn thiện hệ thống các mối quan hệ kinh tế, tăng cường sự liên kết giữa các ngành, các doanh nghiệp.
Các giải pháp cho các doanh nghiệp
Lợi nhuận là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp, phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu quả sản xuất kinh doanh kể từ khi bắt đầu tìm kiếm nhu cầu thị trường, chuẩn bị và tổ chức quá trình sản xuất kinh doanh, đến khâu tổ chức bán hàng và dịch vụ thị trường. Nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh. Lợi nhuận của hãng chịu tác động của nhiều nhân tố. Vì vậy muốn tăng lợi nhuận của vốn đầu tư ta cần phải tác động tổng hợp đến các nhân tố của nó.
Ta có: Lợi nhuận = Doanh thu – Chi phí.
Như vậy để tối đa hoá lợi nhuận ta có thể dùng các biện pháp tối đa hoá doanh thu hoặc tối thiểu hoá chi phí bằng các biện pháp sau: sử dụng tối đa công suất của các nguồn lực, giảm chi phí sản suất kinh bằng các biên pháp như cải tiến công nghệ, nâng cao trình độ người lao động...
Tăng hiệu suất sử dụng vốn: xúc tiến bán hàng dể nhanh chóng tiêu thụ được nhiều sản phẩm, cắt giảm lượng hàng tồn kho, hợp lý hoá cơ cấu chi phí trong doanh nghiệp.
KẾT LUẬN
Việt Nam đang từng bước hội nhập với kinh tế thế giới, mở ra nhiều cơ hội và không ít thách thức cho các doanh nghiệp trong nước. Để giữ vững địa vị và phát triển tại sân nhà, các doanh nghiệp không những cần duy trì, sử dụng tốt số vốn ban đầu mà còn cần phải tìm kiếm nguồn vốn bổ sung từ bên ngoài. Vì thế, tăng cường mở rộng quy mô vốn đầu tư trong toàn bộ nền kinh tế không chỉ là việc làm hết sức cần thiết, đó còn là một trong những ưu tiên hàng đầu.
Trong đề tài này, chúng tôi đã đưa ra những quan điểm cơ bản về mối quan hệ giữa lãi suất tiền vạy, tỷ suất lợi nhuận và quy mô vốn đầu tư, qua đó vận dụng cho thực tiễn Việt Nam để đưa ra các giải pháp nhằm làm tăng khả năng huy động vốn. Đã có rất nhiều tài liệu nghiên cứu nói lên mối quan hệ giữa ba yêu tố trên là một mối quan hệ tác động qua lại khăng khít chặt chẽ, chúng tôi chỉ khẳng định lại một lần nữa kết luận trên. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót nhưng chúng tôi hy vọng rằng với bố cục trình bày rõ ràng và thông tin thực tế đáng tin cậy, chúng tôi đã đem đến một cái nhìn tổng quan hơn về quy mô vốn đầu tư dưới tác động của hai nhân tố : lãi suất vốn vay và tỷ suất lợi nhuận.
Chúng tôi, những người thực hiện đề tài này mong muốn rằng quy mô vốn đầu tư ở Việt Nam sẽ càng được mở rộng, vốn được sử dụng ngày càng hiệu quả, và mục đích sử dụng ngày càng được nâng cao. Không những góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên thế giới trong tương lai gần mà còn góp phần cải thiện và nâng cao đời sống xã hội.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Kinh tế đầu tư, Đại học Kinh tế Quốc dân
Giáo trình Tài chính tiền tệ, Đại học Kinh tế Quốc dân
Giáo trình Tiền tệ và ngân hàng, Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh
Giáo trình Lịch sử các học thuyết kinh tế, Đại học Kinh tế Quốc dân
Giáo trình Kinh tế vĩ mô 2, Đại học Kinh tế Quốc dân.
Gi áo tr ình Lý thuy ết tổng quát v ề vi ệc làm lãi su ất và tiền t ệ, J.M.Keysnes.
Tạp chí kinh tế phát triển.
T ạp chí ngi ên cứu kinh tế.
T ạp chí kinh tế v à dự báo.
T ạp chí nghiên c ứu kinh tế.
Bộ kế hoạch và đầu tư: www.mpi.org.vn
Viện nghiên cứu kinh tế quản lý trung ương: www.vnep.org.vn
Trung tâm thông tin và dự báo kinh tế quốc gia: www.ncseif.gov.vn
Trường Đại học Kinh tế quốc dân: www.neu.edu.vn
Tin tức kinh doanh và tài chính: www.vneconomy.com.vn
Ngân hàng thế giới: www.worldbank.org.vn
Bộ công thương: www.moi.gov.vn
Tổng cục thống kê: www.gso.gov.vn
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn
Báo Đầu tư
Cục Đầu tư nước ngoài
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 22387.doc