Việt Nam luôn được đánh giá là một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và phân phối thu nhập tương đối công bằng. Từ những phân tích về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, có lẽ chúng ta nên có cách nhìn lại về tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam hiện nay. Tuy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, quy mô thu nhập kinh tế quốc dân cũng tăng lên nhưng tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng cao chưa phù hợp với mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm bất bình đẳng” và chưa thực hiện được mục tiêu tăng trưởng gắn với đảm bảo công bằng xã hội. Để giải quyết hợp lý mối quan hệ này, việc phân phối thu nhập cần có sự kết hợp giữa thị trường và Nhà nước. Nhà nước cần có những chính sách tích cực đảm bảo vừa tăng trưởng vừa giảm tình trạng bất bình đẳng thu nhập. Nhà nước có thể thông qua chính sách thuế để phân phối lại thu nhập, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt cần có những chính sách phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số bằng các chính sách phân phối hợp lý. Từ đó mới đảm bảo được nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững.
46 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2059 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập: thực trạng và giải pháp ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thu nhập
2.1.2.1. Bất bình đẳng chung
Thành quả tăng trưởng và phát triển kinh tế của Việt Nam đã đem đến cho người dân sự cải thiện về chất lượng cuộc sống nhưng đồng thời phân hóa giàu nghèo giữa các tầng lớp dân cư, giữa thành thị và nông thôn, giữa miền xuôi và miền núi lại đang tăng lên. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất trong tổng dân số cả nước ngày càng có xu hướng tăng cao, đã tăng từ 7,6 lần năm 1999 lên 8,1 lần năm 2000 và 8,4 lần năm 2006.
Hệ số chênh lệch giữa nhóm 20% dân số có thu nhập cao nhất và nhóm 20% dân số có thu nhập thấp nhất
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Trên cơ sở kết quả các cuộc điều tra mức sống gia đình do Tổng cục Thống kê tiến hành trong những năm qua có thể tính ra tỷ trọng thu nhập của 40% số hộ có thu nhập thấp nhất so với tổng thu nhập của tất cả các hộ dân cư như sau: Năm 1999 là 18,7%, năm 2002 là 17,98% và năm 2004 là 17,4%. Như vậy, sự bất bình đẳng về thu nhập ở nước ta tuy có tăng nhưng ở mức độ rất thấp và phân bố thu nhập trong các nhóm dân cư hiện nay ở nước ta là tương đối bình đẳng.
Cùng với sự gia tăng thu nhập thì chi tiêu của các nhóm dân cư trong xã hội cũng tăng lên và cũng phản ánh phần nào tình trạng trên. Trong khi các nhóm trung bình và gần giàu nhất không có sự thay đổi lớn về tỷ lệ tổng chi tiêu thì nhóm giàu nhất đang có mức chi tiêu ngày càng nhiều hơn về tỷ trọng còn nhóm nghèo nhất lại đang có xu hướng giảm bớt tỷ trọng chi tiêu. Tỷ trọng chi tiêu của nhóm người giàu nhất tăng từ 41,8% năm 1993 lên 43,3% năm 2006, trong khi đó tỷ trọng này của nhóm người nghèo nhất lại giảm từ 8,4% xuống còn 7,2% trong cùng thời kỳ. Điều này cho thấy một thực tế là sự chênh lệch về thu nhập tuyệt đối ở Việt Nam đang tăng lên nhanh. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, năm 1993 chi cho tiêu dùng bình quân đầu người của gia đình giàu nhất cao gấp 5 lần so với gia đình giàu nhất, thì năm 2004 tỷ lệ tăng lên thành 6,3 lần. Do vậy tỷ lệ chi tiêu bình quân đầu người của nhóm giàu nhất trong tổng chi tiêu dùng xã hội tăng từ 41,8% lên 44,7%, trong khi nhóm nghèo nhất lại giảm từ 8,4% xuống còn 7,1% trong cùng thời kỳ. Năm 2004, chi không phải ăn uống của nhóm hộ giàu nhất gấp 7,1 lần so với nhóm hộ nghèo nhất; trong đó chi về nhà ở, điện nước, vệ sinh gấp 9,3 lần; chi thiết bị và đồ dùng gia đình gấp 6,6 lần; chi y tế và chăm sóc sức khỏe gấp 4,6 lần; chi đi lại và bưu điện gấp 12,7 lần …. Hiện nay, mức sống và chi tiêu của những nhóm dân cư có thu nhập cao ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong việc định hướng thị trường tiêu dùng, với sự gia tăng mạnh mẽ của lượng ô tô nhập khẩu, các mặt hàng tiêu dùng xa xỉ, các dịch vụ giải trí cao cấp…, trong khi đó các hộ gia đình nghèo phải thắt chặt chi tiêu trong bối cảnh lạm phát tăng cao làm xói mòn không ít thu nhập của họ. Tuy nhiên, cũng cần phải nhìn nhận rằng bất bình đẳng này ở Việt Nam không phải là hiện tượng người giàu giàu lên, người nghèo nghèo đi mà là người giàu ngày càng giàu nhanh hơn người nghèo vì thực tế cho thấy ngay trong bối cảnh khoảng cách chênh lệch giàu nghèo doãng ra thì thu nhập bình quân đầu người của hộ nghèo đã tăng lên và tỷ lệ hộ nghèo đã giảm mạnh trong thời gian qua.
Tỷ trọng chi tiêu của các nhóm 20% ở Việt Nam
Năm
Phần năm giàu nhất
Phần năm gần giàu nhất
Phần năm trung bình
Phần năm gần nghèo nhất
Phần năm nghèo nhất
1993
41,78
21,56
15,99
12,27
8,41
1998
43,30
21,46
15,57
10,72
8,05
2002
45,90
20,60
14,60
11,20
7,80
2004
44,68
21,82
15,20
11,18
7,12
2006
43,30
22,30
15,80
11,50
7,20
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Điều tra mức sống dân cư từ 1993 đến 2006
Chúng ta cũng có thể xem xét thực trạng bất bình đẳng thu nhập qua hệ số Gini
Hệ số Gini theo chi tiêu: Theo tính toán của Tổng cục Thống kê Việt Nam, hệ số Gini chung của nước ta tăng từ 0,34 năm 1993 lên 0,35 năm 1998 và 0,37 năm 2002; 0,37 năm 2004 và 0,36 năm 2006 phản ánh sự chênh lệch giàu nghèo ngày càng doãng ra nhưng sự gia tăng giữa các năm không quá lớn và trong những năm gần đây dần dần đã đi vào ổn định. Xét hệ số Gini theo thu nhập có xu hướng này càng tăng nhanh hơn: tăng từ 0,34 năm 1993 lên 0,39 năm 1998 và 0,43 năm 2006. Như vậy, hệ số Gini của Việt Nam trong những năm vừa qua đã vượt qua giới hạn (0,2; 0,35) phản ánh tình trạng bất bình đẳng của Việt Nam đã gần qua ngưỡng tương đối bình đẳng và đáng báo động trong tương lai nếu nhà nước không có những chính sách ngăn chặn từ bây giờ.
2.1.2.2. Bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn
Tăng trưởng kinh tế đã kéo theo tình trạng bất bình đẳng giữa khu vực thành thị và nông thôn ngày càng tăng và sự gia tăng bất bình đẳng theo cả thu nhập và chi tiêu ở khu vực thành thị đều cao hơn so với khu vực nông thôn. Điều này có thể giải thích bởi một thực tế là ở mức xuất phát điểm thấp, khoảng cách về giàu nghèo thường nhỏ hơn so với những vùng có mức xuất phát điểm cao hơn. Tuy nhiên điều đáng quan tâm ở đây là tốc độ gia tăng bất bình đẳng ở khu vực nông thôn lại cao hơn so với khu vực thành thị. Có thể lý giải điều này một phần do vấn đề người dân không có đất và mất đất đồng nghĩa với việc họ mất đi nguồn thu nhập chính từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và hiện tượng di cư tìm việc làm từ nông thôn ra thành thị. Điều này đã góp phần làm tăng thu nhập và chi tiêu của những hộ nông thôn có người di cư ra thành thị so với những hộ không có người di cư. Theo số liệu khảo sát mức sống dân cư của Tổn cục Thống kê, từ năm 2002 đến 2006, trong khi thu nhập bình quân đầu người một tháng của dân cư khu vực thành thị tăng bình quân 14% /năm thì khu vực nông thôn tăng 16,8%/năm. Vì vậy khoảng cách giàu nghèo giữa khu vực thành thị và nông thôn năn 2002 là 2,26 lần, năm 2004 giảm xuống còn 2,16 lần và đến năm 2006 chỉ cong 2,09 lần.
Bất bình đẳng theo khu vực ở Việt Nam
Hệ số Gini theo thu nhập
1993
1998
2002
2004
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
0,34
0,38
0,33
0,39
0,41
0,34
0,42
0,41
0,36
0,423
0,41
0,37
Hệ số Gini theo chi tiêu
1993
1998
2002
2004
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
0,34
0,35
0,28
0,35
0,34
0,27
0,37
0,35
0,28
0,37
0,33
0,30
Tỷ lệ nghèo
1993
1998
2002
2004
Cả nước
Thành thị
Nông thôn
58,1
25,1
66,4
37,4
9,2
45,5
28,9
6,6
35,6
19,5
3,6
25,0
Chênh lệch tỷ lệ nghèo giữa nông thôn và thành thị (lần)
2,65
4,95
5,40
6,94
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Xét về bất bình đẳng trong chi tiêu giữa các hộ gia đình cho thấy: chênh lệch chi tiêu bình quân giữa các hộ gia đình thành thị và nông thôn cũng có sự gia tăng trong thời kỳ 1992-2004, đã tăng từ 1,91 lần năm 1993 lên 2,23 lần năm 1998 và 2,24 lần năm 2004 và tốc độ gia tăng chênh lệch giữa chi tiêu thành thị và thông thôn đã có xu hướng giảm dần qua các năm.
Chi tiêu bình quân của hộ gia đình khu vực nông thôn và thành thị (1.000 đồng, giá năm 1993)
1114
1472
1649
1945
2124
3280
3884
4359
0
500
1000
1500
2000
2500
3000
3500
4000
4500
5000
1993
1998
2002
2004
Nông thôn
Thành thị
Nguồn: Viện khoa học xã hội Việt Nam (2007)
Xem xét bất bình đẳng về tỷ lệ nghèo ở Việt Nam theo khu vực thành thị- nông thôn cho thấy khoảng cách giàu nghèo ở khu vực thành thị cao hơn và tăng lên, còn khu vực nông thôn thì thấp hơn và gần đây đã giảm nhẹ. Chênh lệch thu nhập giữa nhóm giàu và nghèo ở thành thị năm 2007 là 8,2 lần và ở nông thôn là 6,5 lần. Các vùng nông thôn là nơi có nhiều người nghèo sinh sống, mặc dù trong những năm gần đây tỷ lệ nghèo ở nông thôn có sự giảm xuống mạnh mẽ nhưng tỷ lệ nghèo ở nông thôn nước ta vẫn cao hơn nhiều so với thành thị. Năm 1993 tỷ lệ nghèo ở thành thị là 25,1% đến năm 2006 giảm xuống còn 3,9%, trong khi đó nông thôn năm 1993 là 66,4% và năm 2006 là 20,4%.
Tỷ lệ nghèo chung phân theo thành thị, nông thôn (%)
1998
2002
2004
2006
Tỷ lệ nghèo chung cả nước
37.4
28.9
19.5
16.0
Phân theo thành thị, nông thôn
Thành thị
9.0
6.6
3.6
3.9
Nông thôn
44.9
35.6
25.0
20.4
Nguồn: Niên giám thống kê Việt Nam
2.1.2.3. Bất bình đẳng theo vùng
Cùng với quá trình phát triển, lợi ích của tăng trưởng kinh tế được phân bổ không đồng đều, do đó một số vùng đã bắt đầu gia tăng sự bất bình đẳng, nhất là tại những vùng tăng trưởng kinh tế nhanh như vùng Đông Nam Bộ nơi tập trung những trung tâm đô thị lớn và năng động của đất nước như thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bà Rịa– Vũng Tàu… Bất bình đẳng đã tăng tương đối ở các vùng như miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên. Các vùng Nam Trung Bộ và đồng bằng sông Cửu Long không có sự thay đổi lớn về bất bình đẳng trong thời gian qua.
Hệ số Gini theo vùng
Vùng
1993
1998
2002
2004
Cả nước
Miền núi phía Bắc
Đồng bằng sông Hồng
Bắc Trung Bộ
Nam Trung Bộ
Tây Nguyên
Nam Bộ
Đồng bằng sông Cửu Long
0,34
0,25
0,32
0,25
0,36
0,31
0,36
0,33
0,35
0,26
0,32
0,29
0,33
0,31
0,36
0,30
0,37
0,34
0,36
0,30
0,33
0,36
0,38
0,30
0,37
0,34
0,36
0,31
0,34
0,36
0,38
0,31
Nguồn: Tổng cục Thống kê
2.1.2.4. Bất bình đẳng theo dân tộc
Tình trạng bất bình đẳng theo dân tộc cũng có sự gia tăng ở Việt Nam. Chênh lệch chi tiêu bình quân đầu người giữa nhóm dân tộc Kinh/Hoa và nhóm dân tộc thiểu số ngày càng doãng ra. Năm 1993, chi tiêu bình quân đầu người của người Kinh/Hoa chỉ gấp 1,72 lần của người dân tộc thiểu số thì đến năm 2004 đã tăng lên 2,15 lần. Và tốc độ tăng chi tiêu bình quân đầu người của nhóm dân tộc Kinh/Hoa và của nhóm dân tộc thiểu số cũng có sự khác nhau và ngày càng tăng. Trong thời kỳ 1993-2004, chi tiêu bình quân đầu người của nhóm dân tộc Kinh/Hoa tăng 98% thì đối với nhóm dân tộc thiểu số tốc độ tăng của thấp hơn nhiều, chỉ đạt 58%.
Chi tiêu bình quân đầu người theo dân tộc (1.000 đồng, giá năm 1993)
Nguồn: Viện khoa học xã hội Việt Nam (2007)
Mặc dù tỷ lệ nghèo của nhóm dân tộc thiểu số có sự giảm nhanh, 25 điểm phần trăm trong thời kỳ 1993- 2004, nhưng tốc độ giảm nghèo của nhóm này lại thấp hơn của nhóm người Kinh/Hoa. Chênh lệch tỷ lệ nghèo giữa hai nhóm dân tộc có xu hướng tăng liên tục, từ 32 điểm phần trăm năm 1993 lên 47 điểm phần trăm năm 2004.
Tỷ lệ nghèo và chênh lệch tỷ lệ nghèo theo dân tộc (%)
Nhóm dân tộc
1993
1998
2002
2004
Dân tộc thiểu số
86
75
69
61
Kinh/Hoa
54
31
23
14
Chênh lệch tỷ lệ nghèo giữa 2 nhóm
32
41
46
47
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Từ những đánh giá trên ta thấy Việt Nam đã và đang hướng tới “bất bình đẳng vừa”, đạt thành tích cao về xóa đói giảm nghèo với tỷ lệ nghèo giảm liên tục ở mức cao. Tuy nhiên xu hướng giảm tỷ lệ nghèo diễn ra đồng thời với gia tăng bất bình đẳng. Khoảng cách giàu nghèo không chỉ gia tăng ở tầm quốc gia mà còn giữa vùng và trong nội bộ mỗi vùng.
2.2. Đánh giá mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam
2.2.1. Thành tựu về tác động của tăng trưởng kinh tế đối với công bằng xã hội
2.2.1.2. Thu nhập thực tế bình quân đầu người tăng
Trong quá trình phát triển, nước ta đã đạt được những thành quả quan trọng về tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội. Kết quả của tăng trưởng kinh tế làm cho thu nhập thực tế bình quân đầu người có sự gia tăng liên tục. Theo số liệu của Tổng cục Thống kê, thu nhập bình quân một người một tháng của nhóm thu nhập cao nhất năm 2003-2004 tăng 304,4 nghìn đồng, nhưng nhóm thu nhập thấp chỉ tăng 34,1 nghìn đồng, bằng 11% của nhóm thu nhập cao nhất. Từ năm 1999, thu nhập thực tế bình quân đầu người đã tăng 1,51 lần. Khu vực thành thị và nông thôn đều có sự gia tăng thu nhập, tuy nhiên chênh lệch thu nhập bình quân giữa thành thị và nông thôn vẫn ở mức hầu như không đổi, khoảng 2,1 lần. Chênh lêch giữa vùng có thu nhập cao nhất là Đông Nam Bộ với vùng có thu nhập thấp nhất là Trung du và miền núi phía Bắc là khoảng 2,6 lần.
Thu nhập thực tế bình quân đầu người
Đơn vị: (1000 đồng/ người/ tháng)
1999
2002
2004
2006
Cả nước
295
356
484
636
Phân theo thành thị và nông thôn
Thành thị
517
622
815
1058
Nông thôn
225
275
378
506
Phân theo vùng
Đồng bằng Sông Hồng
282
358
498
666
Trung du và miền núi phía Bắc
199
237
327
442
Bắc Trung Bộ và Duyên hải miền Trung
299
268
361
476
Tây Nguyên
345
244
390
522
Đông Nam Bộ
571
667
893
1146
Đồng bằng Sông Cửu Long
342
371
471
628
Nguồn: Niên giám Thống kê
2.2.1.2. Tỷ lệ nghèo giảm
Tăng trưởng nhanh đã góp phần làm tăng mức GDP bình quân đầu người hàng năm từ 114 USD năm 1990 lên 397 USD năm 2000 và 809 USD năm 2007. Điều này đã góp phần giảm tỷ lệ nghèo của Việt Nam. Từ năm 1998 công tác xóa đói giảm nghèo đã trở thành Chương trình mục tiêu quốc gia. Tỷ lệ nghèo đói có xu hướng giảm liên tục ở mức cao trong cả nước; tỷ lệ nghèo- tính bằng số người sống dưới mức 1USD/ngày– đã giảm từ khoảng 37,4% năm 1998 giảm xuống còn 13,5% vào năm 2008, trong vòng 10 năm (1998- 2008) số hộ nghèo đã giảm khoảng 42 vạn hộ nghèo. Điều này chứng tỏ ngay cả bộ phận dân cư nghèo nhất cũng dần dần cải thiện được mức sống.
Tỷ lệ nghèo 2004 - 2008
Năm
1998
2002
2004
2006
2007
2008
Tỉ lệ nghèo (%)
37.4
28.9
19.5
16
14,8
13,5
Nguồn: Tổng Cục Thống kê
Trong thời gian qua, tình trạng đói nghèo đã giảm đi ở cả khu vực nông thôn và thành thị nhưng tỷ lệ nghèo nông thôn cao hơn rất nhiều so với khu vực thành thị. Năm 1998, khoảng 45,5% dân số nông thôn được coi là nghèo, đến năm 2006 con số này giảm xuống còn 20,4% nhưng cao hơn nhiều so với thành thị (3,9%).
Đặc biệt, tỷ lệ người nghèo là người dân tộc thiểu số rất cao. Tốc độ giảm nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số chậm hơn người Kinh và người Hoa; tỷ lệ nghèo của đồng bào dân tộc thiểu số từ 86,4% năm 1993 giảm xuống còn 52,3% vào năm 2006 (trên 7 triệu người), trung bình mỗi năm giảm 2,4%, trong khi đó tỷ lệ nghèo của người Kinh và Hoa là 53,9% năm 1993 giảm còn 10,3% vào năm 2006 trung bình mỗi năm giảm 3,15%.
Tỷ lệ hộ nghèo phân theo dân tộc
1998
2002
2004
2006
Người Kinh– Hoa
31.1
23.1
13.5
10.3
Đồng bào dân tộc thiểu số
75.2
69.3
60.7
52.3
Nguồn: Bộ lao động Thươg binh xã hội
Chất lượng cuộc sống người dân ở các xã nghèo được nâng cao. Thu nhập bình quân của 20% nhóm nghèo nhất năm 1994 là 63.000 đồng/người/tháng đến năm 2001 đạt 107.000 đồng/người/tháng và tăng lên 184.300 đồng/người/tháng vào năm 2006. Cùng với việc cải thiện đáng kể về mức sống được thể hiện qua chi tiêu các hộ gia đình gia tăng,các chỉ tiêu phi thu nhập phản ánh các khía cạnh về mặt xã hội của cuộc sống trong mỗi hộ gia đình cũng được cải thiện đáng kể trong những năm qua.
2.2.1.3. Về vấn đề giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp đã đạt được những thành tựu to lớn
Hằng năm nước ta có khoảng 1,7 triệu người bước vào độ tuổi lao động, số lượng lao động tăng hằng năm khoảng 2%/ năm. Năm 2000 nước ta có 37,6 triệu lao động, năm 2005 là 42,5 triệu và năm 2006 là 43,35 triệu. Số lao động được giải quyết việc làm bình quân hằng năm khoảng 1,5 đến 1,6 triệu người. Tỷ lệ thất nghiệp thành thị giảm từ 5,88% năm 1996 xuống còn 5,31% năm 2005 và đến năm 2006 còn 4,82%. Tuy nhiên, vùng nông thôn tỷ lệ thiếu việc làm vẫn ở mức khá cao, nhất là ở khu vực đồng bằng.
2.2.1.4. Về đầu tư cho lĩnh vực giáo dục đào tạo cũng đã được quan tâm
Tỉ lệ nhập học ròng đã tăng lên đối với tất cả các cấp. Đặc biệt là tỉ lệ nhập học ở cấp trung học phổ thông đã tăng mạnh, từ 7,2% năm 1993 lên đến 63% trong năm 2004, tức là tăng gần 9 lần. Tỉ lệ này đối với cấp trung học cơ sở cũng được cải thiện một cách đáng kể, tăng 3 lần trong khoảng thời gian 11 năm. Tỉ lệ nhập học ở cấp tiểu học cũng đã đạt được tỉ lệ cao trong năm 1993 và tiếp tục tăng lên qua các năm sau. Đến năm 2000, Việt Nam đã hoàn thành mục tiêu phổ cập giáo dục tiểu học. Còn về xóa mù chữ, tỷ lệ biết chữ trong dân số từ 10 tuổi trở lên tăng từ 86,6% năm 1993 lên 93,1% năm 2006.
Hệ thống giáo dục công lập và ngoài công lập phát triển mạnh mẽ. Cả nước trong năm học 2007- 2008 có gần 40 ngàn cơ sở giáo dục công lập, tăng 6000 cơ sở so với năm học 2000- 2001, chiếm trên 90% cơ sở giáo dục cả nước. Chi ngân sách nhà nước cho giáo dục là rất lớn và tăng liên tục qua các năm. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, năm 2006 chi ngân sách nhà nước cho giáo dục đào tạo là 37.332 tỷ đồng, chiếm khoảng12,12% tổng chi ngân sách nhà nước; năm 2007 tăng lên 53,774 tỷ đồng và năm 2008 là khoảng 58.162 tỷ đồng.
Thực hiện chương trình miễn giảm học phí, trợ cấp giáo dục và học bổng cho các đối tượng chính sách xã hội, người nghèo và vùng khó khăn. Bên cạnh đó phát triển chương trình tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo ở bậc cao đẳng, đại học. Tính đến cuối năm 2007, Ngân hàng chính sách xã hội đã cho 165.554 học sinh, sinh viên nghèo vay vốn với tổng số dư nợ là 632,907 tỷ đồng.
2.2.1.5. Về y tế
Về hệ thống, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe và bảo hiểm y tế tạo điều kiện cho tất cả người dân có nhu cầu đều được thụ hưởng các dịch vụ khám, chữa bệnh ở các bệnh viện công và các bệnh viện ngoài công lập. Tỉ lệ các hộ gia đình có bảo hiểm y tế và có thẻ bảo hiểm y tế tăng lên nhanh chóng trong những năm gần đây: nếu năm 1998 chỉ có 16% số dân được bảo hiểm y tế thì con số này tăng lên 38%, tức là tăng gấp 2,5 lần. Từ năm 2000 đến năm 2005, tỷ suất tử vong ở trẻ sơ sinh đã giảm từ 36,7/1000 người xuống còn 17,8/1000 người; tuổi thọ đã tăng từ 67,5 năm lên 71,3 năm và những chỉ số y tế khác cũng được cải thiện đáng kể cho thấy thành tích của Việt Nam tương đối cao. Phát triển mạnh mẽ hệ thống y tế ngoài công lập, đổi mới hệ thống y tế công lập, mở rộng hệ thống y tế cộng đồng. Theo Tổng cục thống kê, năm 2007 cả nước có 13.438 cơ sở y tế, trong số đó lượng các trạm y tế xã, phường chiếm khoảng 80%. Tỷ lệ giường bệnh trên 10.000 dân là 16,3 giường.
2.2.1.6. An sinh xã hội được chú ý tăng cường
Về bảo hiểm xã hội, quy mô, đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội không ngừng tăng nhanh. Số liệu thống kê của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội cho thấy năm 2008 có hơn 8,5 triệu người, chiếm gần 20% lực lượng lao động tham gia bảo hiểm xã hội. Tính chung cho cả giai đoạn 2000- 2008, tốc độ tăng trung bình số lượng người tham gia hệ thống bảo hiểm xã hội khoảng 6%/ năm. Số lượng người thụ hưởng cũng tăng từ 1,9 triệu người lên 2,4 triệu người trong cùng giai đoạn. Về kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ, tỷ lệ người được tiếp cận, hưởng lợi từ nhóm chính sách hỗ trợ cũng tăng lên đáng kể. Chính sách có số lượng tham gia đông đảo nhất là tín dụng ưu đãi nhằm tạo việc làm, xóa đói giảm nghèo, tín dụng cho học sinh, sinh viên nghèo. Năm 2006, tỷ lệ hộ nghèo được vay theo chính sách này là 53,9%. Số hộ nghèo được hưởng lợi từ các chương trình 135, 143 vào khoảng 90,2%. Về ưu đãi xã hội nhằm đảm bảo mức trợ cấp ưu đãi phù hợp với sự phát triển kinh tế- xã hội, chế độ trợ cấp luôn được điều chỉnh khi mức sống trung bình của dân cư thay đổi hay trượt giá. Đối với người bị ảnh hưởng chất độc hóa học, đến thời điểm 2005 đã có 162.000 người hưởng chế độ ưu đãi. Nhà nước còn thực hiện chính sách ưu đãi xã hội đối với người có công với cách mạng, chính sách cho vay làm nhà ở đối với đồng bào dân tộc thiểu số và những gia đình có hoàn cảnh khó khăn.
Số hộ nghèo được hưởng lợi từ các hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo (%)
Ngành sản xuất kinh doanh chính của hộ
Tỷ lệ hộ được hưởng lợi
Tín dụng ưu đãi đối với người nghèo
Miễn giảm chi phí khám chữa bệnh
Miễn giảm học phí
Dạy nghề
Cấp đất
Cấp đất
Khuyến nông
Giúp đỡ nhà ở
Nước sạch
Nông nghiệp
91
42
82.7
54.5
4.3
5
24.3
11.9
11.8
Lâm nghiệp
991.7
32.2
82.4
46.3
2
1.8
15.8
17.7
8.9
Thủy sản
90.9
35.9
79.6
48.5
1.9
1
6
12.4
9.4
Công nghiệp
88.6
39.7
76.9
43.8
4.8
1.7
7.2
8.2
4.5
Xây dựng
92.5
34
81.7
48.4
4.8
2.4
10.1
5.7
2.6
Thương nghiệp
89.2
39.2
80.4
44.9
3.3
2
7
8.1
7.2
Dịch vụ
86.6
38.3
70.3
38.1
3.9
1.6
7.1
9.3
6.3
Khác
65.6
12.1
78.8
10
1.6
1.6
2.6
9.7
4.1
Nguồn: Tổng cục Thống kê, Điều tra mức sống dân cư
Các điều kiện cơ sở hạ tầng như điện, nước sạch và vệ sinh,… đều đã được cải thiện một cách đáng kể. Trong năm 1993, tổng số dân được sử dụng điện làm nguồn chiếu sáng chính chỉ có 48% thì đến năm 2004,tỉ lệ này tăng gần gấp đôi, tăng lên 94%. Còn tỉ lệ dân số được sử dụng nước sạch tăng lên 3 lần so với cùng thời kỳ, tăng từ 26% năm 1994 lên 88% năm 2004. Trong lĩnh vực vệ sinh tình hình cũng được cải thiện theo chiều hướng tích cực: tỉ lệ dân số có hố xí hợp vệ sinh tăng từ 10% năm 1993 lên 32% năm 2004. Điều này thể hiện Nhà nước cũng đã có những chính sách quan tâm hơn đến việc nâng cao đời sống của người dân.
Số liệu về sở hữu của các hộ gia đình đối với các mặt hàng tiêu dùng lâu bền như đài, tivi, xe đạp, xe máy… cũng khẳng định thêm về những cải thiện quan trọng trong mức sống của người dân.
Các chỉ tiêu phi thu nhập
1993
1998
2002
2004
Y tế
BHYT và thẻ bảo hiểm miễn phí
15.73
37.56
Cơ sở hạ tầng
% dân số nông thôn có trung tâm y tế công cộng
93
97
% dân số được sử dụng nước sạch
26.2
40.6
48.5
58.58
% dấn số có nhà vệ sinh đạt tiêu chuẩn vệ sinh
10.4
17
25.3
31.8
% dân số sử dụng điện là nguồn thắp sáng chính
49
78
87
93
Nguồn: TCTK, Điều tra mức sống dân cư 1993 đến 2004
2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân tác động tiêu cực của tăng trưởng kinh tế đối với bất bình đẳng thu nhập
2.2.2.1. Hạn chế của tăng trưởng kinh tế đối với bất bình đẳng thu nhập
Quá trình tăng trưởng kinh tế với phân phối thu nhập cũng bộc lộ những nguy cơ và thách thức lớn đối với sự phát triển bền vững của đất nước:
Tăng trưởng kinh tế nhanh và ở mức cao nhưng chất lượng tăng trưởng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp; người nghèo nhận được ít lợi ích từ tăng trưởng hơn so với người giàu điều đó càng làm gia tăng khoảng cách giàu nhèo trong cả nước
Theo đánh giá của Diễn đàn kinh tế thế giới, khả năng cạnh tranh và chất lượng của nền kinh tế Việt Nam năm 2006 đứng thứ 77 /125 nước được điều tra, giảm 3 bậc so với năm 2005. Hiệu quả kinh tế được thể hiện thông qua hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu vào của tăng trưởng, ở năng suất lao động hay giá trị gia tăng cho nền kinh tế, vấn đề cạnh trạnh của nền kinh tế. Các yếu tố vốn chiếm 57% và lao động chiếm 20% vẫn là yếu tố chính đóng góp cho tăng trưởng kinh tế; yếu tố khoa học và công nghệ tuy có tăng lên nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ. GDP bình quân đầu người thấp và tốc độ tăng chậm do dân số vẫn tăng cao, điều kiện để nâng cao mức sống của người nghèo, người có thu nhập thấp vượt qua ngưỡng một nước nghèo, đặc biệt đối với khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc còn khó khăn.Chất lượng tăng trưởng kinh tế thấp đã ảnh hưởng đến sự bất bình đẳng thu nhập.
Giảm nghèo chưa bền vững, nguy cơ tái nghèo cao
Những thành tựu về tăng trưởng kinh tế tác động đến phân phối thu nhập công bằng hơn đã phần nào xóa đói giảm nghèo cho người dân nhưng còn thiếu tính bền vững, chủ yếu mới xóa tình trạng đói (nghèo về lương thực, thực phẩm), đa số hộ mới thoát nghèo còn nằm sát chuẩn nghèo, những cá nhân và hộ gia đình này rất dễ bị tổn thương nếu những cú sốc kinh tế xảy ra do các yếu tố bên ngoài hoặc trong nước gây ra nên nguy cơ tái nghèo cao, tỷ lệ tái nghèo lớn (7-10% trong tổng số hộ mới thoát nghèo). Mặt khác, không ít hộ có mức thu nhập thấp không ổn định nằm giáp ranh chuẩn nghèo đói cũng có nguy cơ tái nghèo đói cao (chiếm 70-80%).
Tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, tỷ lệ nghèo còn cao
Tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại do tác động của tăng trưởng kinh tế đến giảm nghèo giảm đi: hệ số co giãn giữa tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo giảm từ 1-0,7 giai đoạn 1992-1998 xuống còn khoảng 1-0,3 giai đoạn 1998-2005, đặc biệt là ở các vùng bị chia cắt địa lý, cơ sở hạ tầng còn yếu kém và dân trí chưa phát triển. Nghèo đói vẫn còn đang phổ biến, số hộ nghèo là dân tộc thiểu số đã giảm nhưng tỷ lệ trong tổng số hộ nghèo của cả nước vẫn tăng lên theo chuẩn nghèo mới của quốc gia đến cuối năm 2007, tỷ lệ hộ nghèo trong cả nước vẫn còn khoảng 14,87%; nhóm dân tộc có tỷ lệ nghèo cao là Vân Kiều (60,3%), Pakô (58,5%) và H’mông vào năm 2003. Tình trạng nghèo dai dẳng ở nông thôn phổ biến đối với người chỉ có việc làm nông nghiệp, thu nhập từ hoạt động nông nghiệp là chính. Đó cũng là hộ gia đình đông nhân khẩu và đông con, chủ hộ có trình độ học vấn thấp. Đối với những hộ nghèo này thì việc bứt phá xa khỏi ngưỡng nghèo là rất khó khăn và là thách thức lớn cho chính sách xóa đói giảm nghèo.
Những lợi ích mà quá trình tăng trưởng đem lại đã không được phân bố đồng đều giữa các tầng lớp dân cư trong xã hội, chênh lệch về thu nhập có xu hướng gia tăng
Một phần lớn thu nhập được chuyển sang cho những người sở hữu các nguồn lực khác ngoài lao động thay vì chuyển một phần thỏa đáng cho những người sở hữu sức lao động mà thiếu các nguồn lực khác. Do đó khoảng cách giữa nhóm người giàu và nhóm người nghèo ngày càng dãn ra và với tốc độ ngày càng nhanh hơn. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, hệ số chênh lệch về thu nhập giữa nhóm 20% giàu nhất và nhóm 20% nghèo nhất trong tổng số dân cư cả nước đã tăng từ 7,6 lần năm 1999 lên 8,1 lần năm 2002 và 8,3 lần năm 2004.
Những chính sách trợ cấp của Nhà nước chưa được thực hiện một cách hiệu quả
Theo Điều tra mức sống hộ gia đình năm 2006, chỉ một số gia đình nhận được các hình thức hỗ trợ, dạy nghề, khuyến nông, hay nước sạch. Rất ít hộ gia đình nghèo được tham gia nhiều hơn một chương trình trong chính sách. Điều này ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận các yếu tố sản xuất của người nghèo, nhất là tiếp cận các nguồn vốn chính thức, các dịch vụ tài chính, tín dụng,… và làm giảm tính tích cực của chủ trương chính sách của Nhà nước.
2.2.2.2. Nguyên nhân cơ bản dẫn tới sự tác động tiêu cực của tăng trưởng kinh tế đối với bất bình đẳng thu nhập
Một là: Do chuyển đổi từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, với các đặc điểm mới: kinh tế nhiều thành phần sở hữu, phân phối theo nguyên tắc thị trường… Nền kinh tế với nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất, phát triển kinh tế nhiều thành phần và sản xuất hàng hóa thì sự phân hóa giàu nghèo là một hiện tượng khách quan, có thể chấp nhận được vì cơ chế này tạo động lực cho mọi người làm việc, cống hiến tạo động lực cho tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, nguyên nhân trực tiếp của sự chênh lệch về thu nhập, sự phân hóa giàu nghèo là từ quan hệ phân phối thu nhập. Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã xác định: “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện phân phối chủ yếu theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác vào sản xuất kinh doanh và thông qua quỹ phúc lợi xã hội” (Văn kiện đại hội Đảng lần thứ IX). Điều đó có nghĩa là trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, để thực hiện nguyên tắc phân phối công bằng vẫn phải thừa nhận sự tồn tại như một tất yếu kinh tế của sự bất bình đẳng trong phân phối thu nhập và mức sống, chấp nhận sự chênh lệch trong thu nhập do năng suất và hiệu quả lao động, chấp nhận sự phân hóa giàu nghèo trong giới hạn cho phép.
Hai là: Bắt nguồn từ quy luật phát triển không đều giữa các vùng do phương thức sản xuất, nền văn hóa, phong tục, tập quán, lối sống, điều kiện địa lý khác nhau. Vùng có điều kiện kinh tế xã hội tự nhiên thuận lợi phát triển nhanh, năng suất lao động cao, hấp dẫn thu hút các nguồn vốn đầu tư thì tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh sẽ dẫn đến kết quả thu nhập của dân cư cao hơn so với những vùng khó khăn, kém phát triển hơn; trong khi đó khả năng cạnh tranh của nền kinh tế giữa các vùng là không như nhau nên sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các vùng càng lớn, các vùng chậm phát triển có nguy cơ tụt hậu.
Ba là: Mô hình tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực là yếu tố có ảnh hưởng trực tiếp mạnh nhất và lâu dài đến việc tạo lập công bằng xã hội. Trong những năm qua, Việt Nam tuyên bố theo đuổi mô hình tăng trưởng “thị trường- hướng về xuất khẩu”. Tuy nhiên, mô hình được triển khai trên thực tế lại lệch sang xu hướng “thị trường- thay thế nhập khẩu”. Gắn với mô hình đó là định hướng ưu tiên phân bổ nguồn lực: cho các ngành và dự án dùng nhiều vốn và ít tạo việc làm mới; cho các vùng có khả năng tăng trưởng cao (vùng trọng điểm); và cho các doanh nghiệp nhà nước. Định hướng đầu tư này phản ánh cách tư duy chính sách vẫn theo kiểu áp đặt, dựa mạnh vào sự lựa chọn nhà nước hơn là theo các tín hiệu và nguyên tắc thị trường. Cơ chế để thực hiện định hướng phân bổ nguồn lực như vậy chưa dựa trên một sự phân công chức năng hợp lý giữa Nhà nước và thị trường. Lợi ích của tăng trưởng không được phân bổ một cách rộng rãi cho các tầng lớp dân cư và gây ra tình trạng bất bình đẳng.
Bốn là: Quá trình công nhiệp hóa, đô thị hóa nhanh chóng, thiếu quy hoạch và chính sách điều tiết chưa hợp lý đã dẫn đến sự tăng trưởng quá nóng và phát sinh nhiều vấn đề xã hội phức tạp. Tình trạng bất bình đẳng và phân hoá giàu- nghèo có phần gia tăng trong thời gian qua ở nước ta phản ánh một xu hướng tất yếu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình công nghiệp hoá kéo theo việc ứng dụng công nghệ mới và cách thức trong tổ chức sản xuất, chỉ những người lao động được đào tạo và có tay nghề mới đáp ứng những công việc phức tạp và trong thời gian qua số lượng lao động có chất lượng chưa nhiều, từ đó gây ra tình trạng thất nghiệp cho những lao động có trình độ thấp. Do có việc làm mới, số người này có thu nhập cao hơn nhiều so với số động lao động giản đơn và vì thế sự bất bình đẳng tăng lên. Đồng thời quá trình đô thị hóa đã gây nên tình trạng di cư lao động từ nông thôn ra thành thị tìm vệc làm tạo nên bất ổn định về phân bố dân số, phân hóa giàu nghèo giữa thành thị và nông thôn.
Năm là: Do quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. Nền kinh tế mở đã có nhiều tác động tích cực đến nền kinh tế, tạo ra những lợi thế và phát triển cho một số vùng, một số ngành và một bộ phận lớn dân cư, nhưng do nền kinh tế nước ta mở cửa ồ ạt, nguồn vốn nước ngoài đầu tư không đồng đều giữa các vùng, các ngành đã tạo ra sự chênh lệch về thu nhập giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng miền, giữa các ngành công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ, giữa lao động có kỹ năng và lao động có tay nghề thấp; từ đó tạo nên bất bình đẳng nghiêm trọng.
Sáu là: Do có một nhóm người giàu lên nhanh chóng nhờ đặc quyền tiếp cận với các nguồn lực phát triển hoặc bằng những hành vi phạm pháp như tham nhũng, buôn lậu, trốn thuế,… trong khi một bộ phận dân cư khác lại nghèo đi do không có cơ hội làm giàu, nhà nghèo lại đông con,… tạo ra sự bất bình đẳng gia tăng. Cơ chế xin- cho, bao cấp, bảo hộ nhà nước, cộng thêm vào đó là môi trường kinh doanh không bình đẳng, cơ hội phát triển của tư nhân bị hạn chế, hình thành các nhóm lợi ích mạnh, làm méo mó quy hoạch và định hướng phát triển. Tình trạng ngân sách đầu tư vào các công trình quốc gia, các dự án đầu tư công bị bớt xén nghiêm trọng. Các nguồn trợ cấp, bảo trợ xã hội, ủng hộ người nghèo, các dân tộc thiểu số đều chia phần cho các lãnh đạo còn những người nghèo chỉ nhận được một phần nhỏ….
PHẦN III
GIẢI PHÁP KẾT HỢP TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VÀ PHÂN PHỐI THU NHẬP CÔNG BẰNG
3.1. Quan điểm của Đảng và Nhà nước về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
Trước đổi mới, vấn đề quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội chưa được đề cập một cách thỏa đáng trong nhận thức, lý luận. Do chế độ tập trung quan liêu, bao cấp kéo dài, các vấn đề xã hội cũng được kế hoạch hóa và thực hiện qua các chỉ tiêu pháp lệnh như chỉ tiêu tổng biên chế, quỹ lương, tuyển dụng lao động, các chỉ tiêu về kinh phí, vật tư,... cho phát triển sự nghiệp (văn hóa, giáo dục, y tế,…). Quan niệm về công bằng xã hội thường bị đồng nhất với cào bằng bình quân. Quan hệ giữa tiến bộ kinh tế và công bằng xã hội chưa được xem xét một cách khoa học. Khi chuyển sang cơ chế thị trường, mặt trái của cơ chế này tác động mạnh đến các lĩnh vực xã hội, công bằng xã hội đòi hỏi phải có nhận thức mới về tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội.
Đại hội VI của Đảng, lần đầu tiên đưa ra thuật ngữ "chính sách xã hội", đặt đúng vị trí, vai trò của chính sách xã hội: "Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người: điều kiện lao động và sinh hoạt, giáo dục và văn hóa, quan hệ gia đình, quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc".
Tuy nhiên, phải đến năm 1991, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, được Đại hội VII của Đảng thông qua, vấn đề kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội mới được đặt trong nội dung, phương hướng của chính sách xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: "Chính sách xã hội đúng đắn vì hạnh phúc con người là động lực to lớn phát huy mọi tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội”. Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội. Chính sách xã hội bảo đảm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất của mọi thành viên trong xã hội về ăn, ở, đi lại, học tập, nghỉ ngơi, chữa bệnh và nâng cao thể chất”.
Văn kiện Đại hội VII của Đảng đã cụ thể hóa thêm: "Mục tiêu của chính sách xã hội thống nhất với mục tiêu phát triển kinh tế, đều nhằm phát huy sức mạnh của nhân tố con người và vì con người. Kết hợp hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa, xã hội, giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần của nhân dân. Coi phát triển kinh tế là cơ sở và tiền đề để thực hiện các chính sách xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế". Cũng từ đấy, chính sách xã hội được xác định ở nhiều lĩnh vực, cụ thể là: những chính sách bảo đảm việc làm đầy đủ, hợp lý cho người lao động và cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động; từ kết quả của phát triển kinh tế mà nâng cao điều kiện sinh hoạt vật chất và văn hóa tinh thần cho nhân dân; giải quyết đúng, phù hợp về tiền lương và thu nhập đối với người lao động; tổ chức bảo trợ xã hội bao gồm bảo hiểm xã hội đối với người lao động trong và sau quá trình lao động, đối với người có công với cách mạng, cứu trợ xã hội đối với những người gặp hoàn cảnh khó khăn,…
Tại Đại hội VIII, nhận thức lý luận về kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội được xác định rõ trong 5 quan điểm để hoạch định hệ thống chính sách xã hội: Thứ nhất, tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển. Công bằng xã hội phải thể hiện ở cả khâu phân phối hợp lý tư liệu sản xuất lẫn ở khâu phân phối kết quả sản xuất, ở việc tạo điều kiện cho mọi người có cơ hội phát triển và sử dụng tốt năng lực của mình. Thứ hai, thực hiện nhiều hình thức phân phối, lấy phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đồng thời phân phối dựa trên mức đóng góp các nguồn lực khác vào kết quả sản xuất kinh doanh và phân phối thông qua phúc lợi xã hội, đi đôi với chính sách điều tiết hợp lý, bảo hộ quyền lợi của người lao động. Thứ ba, khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực xóa đói giảm nghèo; thu hẹp dần khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng, các dân tộc, các tầng lớp dân cư. Thứ tư, Phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc "uống nước nhớ nguồn", "đền ơn đáp nghĩa", nhân hậu, thủy chung. Thứ năm, các vấn đề chính sách xã hội đều giải quyết theo tinh thần xã hội hóa. Nhà nước giữ vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức trong xã hội, các cá nhân và tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn đề xã hội". Cũng từ Đại hội VIII, Đảng ta đã tách nội dung "chính sách giải quyết một số vấn đề xã hội" theo nghĩa hẹp của thuật ngữ "chính sách xã hội", bên cạnh các chính sách cụ thể đối với các giai cấp, các tầng lớp, các dân tộc, tôn giáo,...
Tại Đại hội IX của Đảng, quan điểm về kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ và công bằng xã hội được nêu rõ: "Đường lối kinh tế của Đảng ta là: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp… tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội… ". Gắn bó các yếu tố kinh tế - xã hội, đặt nội dung "giải quyết tốt các vấn đề xã hội" trong tổng thể "Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế - xã hội" đã thể hiện một bước phát triển mới trong nhận thức, lý luận của Đảng ta về sự kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội. Về chính sách xã hội đã được cụ thể hóa thêm: "Thực hiện chính sách xã hội hướng vào phát triển và lành mạnh hóa xã hội, thực hiện công bằng trong phân phối, tạo động lực mạnh mẽ phát triển sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội, thực hiện bình đẳng trong các quan hệ xã hội, khuyến khích nhân dân làm giàu hợp pháp". Và một số chính sách được đề cập đến gồm: giải quyết việc làm, cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động; cải cách cơ bản chế độ tiền lương của cán bộ, công chức theo hướng tiền tệ hóa đầy đủ tiền lương; thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo; thực hiện các chính sách ưu đãi xã hội, chính sách dân số nhằm chủ động kiểm soát quy mô và nâng cao chất lượng dân số; thực hiện đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, thực hiện công bằng xã hội trong chăm sóc sức khỏe, chính sách trợ cấp, bảo hiểm y tế cho người nghèo...
Trên cơ sở khái quát những thành tựu và hạn chế của hơn 20 năm đổi mới, trong đó có thành tựu và hạn chế của việc xây dựng và phát triển các vấn đề xã hội, Đại hội X của Đảng khẳng định quan điểm “Kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trong phạm vi cả nước, từng lĩnh vực, địa phương; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển, thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế…”. Nội dung chủ yếu của quan điểm Đại hội X là: Thứ nhất, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội trên bình diện cả nước cũng như từng lĩnh vực, địa phương. Sự kết hợp này đảm bảo tính đồng bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân, mọi vùng miền; khắc phục tình trạng phân hóa, bất bình đẳng do các khuyết tật của cơ chế thị trường và những phát sinh do nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi gây ra. Thứ hai, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách phát triển. Khuyến khích mọi người làm giàu theo luật pháp, thực hiện có hiệu quả các chính sách xoá đói giảm nghèo. Tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên thoát đói nghèo vững chắc ở các vùng nghèo và các bộ phận dân cư nghèo. Xây dựng hoàn chỉnh hệ thống chính sách bảo đảm dịch vụ công cộng thiết yếu, bình đẳng cho mọi người dân về giáo dục và đào tạo, chăm sóc sức khoẻ, văn hoá- thông tin, thể dục thể thao, tạo việc làm...
3.2. Giải pháp kết hợp tăng trưởng kinh tế và đảm bảo thu nhập phân phối bình đẳng
3.2.1. Nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam
Việt Nam hiện nay đang ở giữa thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 sẽ trở thành một nước công nghiệp. Để đảm bảo một tốc độ tăng trưởng nhất định và bền vững thì cần nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế. Do đó nước ta cần tập trung thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, Chuyển đổi quá trình tăng trưởng từ chỗ chủ yếu dựa vào tăng vốn đầu tư mà phần lớn là ngân sách nhà nước và các tập đoàn, tổng công ty nhà nước sang quá trình tăng trưởng dựa trên cơ sở tăng mạnh vốn đầu tư của khu vực dân doanh để khai thác tiềm năng của đất nước.
Thứ hai, Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ. Trong chuyển dịch cơ cấu kinh tế thì đặc biệt chú trọng đến việc tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến trong cơ cấu công nghiệp và xây dựng; chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa quy mô lớn; xây dựng cơ cấu kinh tế nông thôn: tăng dần tỷ trọng công nghiệp chế biến, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ để giải quyết lao động dư thừa ở nông thôn. Tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế- xã hội ở nông thôn, nhất là vùng sâu, vùng xa.
Thứ ba: Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, coi đây là nhân tố quyết định tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Đầu tư nâng cao chất lượng nguồn nhân lực thực chất chính là tăng cường đầu tư cho giáo dục- đào tạo. Đào tạo phải gắn với nhu cầu của thực tiễn. Tiếp tục chuẩn hóa và đổi mới nội dung, chương trình đào tạo, giáo trình của các cơ sở đào tạo để tăng khả năng thực hành cho người học, đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động trong nước và thế giới.
Thứ tư: Tăng cường đầu tư cho khoa học, công nghệ nhằm nâng cao trình độ khoa học, công nghệ, nâng cao năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn. Cần đầu tư có trọng tâm để tạo sự bứt phá của một số công nghệ cao có tác động tích cực đến sức cạnh tranh và hiệu quả của nền kinh tế.
Thứ năm: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thông qua việc rà soát lại hệ thống các văn bản pháp quy để chỉnh sửa và bổ sung theo hướng tạo lập điều kiện thông thoáng, rõ ràng, minh bạch, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; tạo lập môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi cho sự phát triển các loại thị trường, hoạt động đầu tư và hoạt động kinh doanh để các yếu tố sản xuất được sử dụng một cách hiệu quả nhất.
3.2.2. Xây dựng và thực hiện mô hình tăng trưởng công bằng, vì người nghèo
Mô hình này phải đảm bảo thu nhập của người nghèo tăng nhiều hơn so với thu nhập trung bình của xã hội và góp phần giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn quy định. Trong mô hình này cần phát huy vai trò của khu vực tư nhân trong đầu tư tăng trưởng, nâng cao năng suất lao động, tạo việc làm và mở rộng sự tham gia của các đối tác xã hội trong công cuộc xóa đói giảm nghèo. Bên cạnh đó, mô hình tăng trưởng phải vừa đảm bảo duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, ổn định, vừa phải đạt được trên diện rộng có lợi cho người nghèo. Các chính sách của Nhà nước phải hướng vào việc khuyến khích, tạo cơ hội để người nghèo và các nhóm yếu thế trong xã hội tham gia hưởng lợi từ tăng trưởng kinh tế. Điều này có thể thực hiện thông qua các chính sách trợ giúp về phát triển cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất, đất đai, vốn tín dụng, khuyến nông, tiêu thụ sản phẩm. Người nghèo và các nhóm yếu thế cũng cần được tạo cơ hội được tham gia vào các hoạt động lập kế hoạch phát triển kinh tế, giảm nghèo cho bản thân và địa phương. Mặt khác, nguồn thu nhập chính của đại bộ phận người nghèo và người yếu thế là từ nông nghiệp. Do vậy, cải thiện năng suất và tốc độ tăng trưởng nông nghiệp là một giải pháp quan trọng để xóa đói, giảm nghèo. Nhà nước có thể thực hiện điều này thông qua đầu tư công nghệ cho nông nghiệp, phát triển các doanh nghiệp nhỏ và vừa ở nông thôn.
3.2.3. Cần có những chính sách cho vấn đề di dân
Việc di dân từ nông thôn ra thành thị trong tiến trình đô thị hóa để cải thiện thu nhập là vấn đề phổ biến không chỉ ở Việt Nam mà còn ở các nước đang phát triển. Cần phải thừa nhận thực tế rằng di cư ra thành thị cho phép người nghèo có thể kiếm được thu nhập cao hơn so với những hạn chế về trình độ học vấn và kỹ năng của họ. Nhưng vấn đề phát sinh là khả năng tiếp cận các dịch vụ xã hội và sản xuất của họ vào đời sống thành thị lại bị hạn chế. Những hiện tượng này dẫn đến hậu quả xã hội là vấn đề nghèo tương đối ngày càng nghiêm trọng và phân hoá giàu nghèo gia tăng ở khu vực thành thị. Do đó, Nhà nước cần phải thực hiện những chính sách có mục tiêu để hạn chế những mặt tiêu cực và bảo vệ những người di dân từ những rủi ro. Nhà nước cần phải xóa bỏ những hạn chế tiếp cận dịch vụ công chính đáng của người nhập, đồng thời cần nhanh chóng có giải pháp cho vấn đề nhà ở, điều kiện sinh hoạt,… đảm bảo cho những người di cư có cơ hội được hưởng một cuộc sống chấp nhận được.
3.2.4. Thực hiện chính sách an sinh xã hội đối với những khu vực kém phát triển và đối với người nghèo
Thực tế, khi mối quan hệ giữa tăng trưởng và bất bình đẳng càng gắn kết thì vai trò của chính sách xã hội đối với quá trình tăng trưởng và giảm bất bình đẳng cần đặc biệt chú trọng hơn. Các chính sách xã hội của Nhà nước cần hướng tới xây dựng hệ thống an sinh xã hội đa tầng, linh hoạt, bao gồm hệ thống bảo hiểm xã hội; thị trường lao động tích cực và thụ động; trợ giúp xã hội; chương trình giảm nghèo..., và trong quá trình thực hiện cần đặc biệt chú trọng đầu tư vào các khu vực kém phát triển, quan tâm đến người nghèo. Điều này có thể thực hiện thông qua nhiều kênh: các chương trình trợ giúp về phát triển cơ sở hạ tầng, các trợ giúp về tín dụng, đất đai, dạy nghề, tạo việc làm, truyền đạt kinh nghiệm sản xuất; các ưu đãi về y tế, giáo dục, văn hóa, nhà ở; cân đối các khoản giải ngân ODA cũng cần hướng đến các tỉnh vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn. Do vậy, trong quá trình tăng trưởng kinh tế, cần kiểm soát thường xuyên, chặt chẽ các chỉ tiêu phát triển xã hội, trong đó trọng tâm là xóa đói giảm nghèo, giảm bất bình đẳng và nhấn mạnh ngày càng nhiều hơn đến yêu cầu giải quyết các nội dung này trong các chính sách và giải pháp tăng trưởng.
3.2.5. Việt Nam cần phải cải cách chính sách phân phối tài sản, thu nhập trong nền kinh tế theo hướng phải đảm bảo công bằng, hướng đến người nghèo
Nhà nước cần đưa ra và áp dụng các biện pháp để hạn chế tình trạng bất bình đẳng tài sản từ những hoạt động không phải từ sản xuất kinh doanh như: thực hiện bắt buộc về kê khai tài sản đối với cán bộ công chức; nghiên cứu và áp dụng các loại thuế thừa kế tài sản, thuế tài sản, thuế vốn… trong thời gian tới. Đối với tiếp cận nguồn lực cho phát triển kinh tế, cần sớm khắc phục tình trạng thiếu công bằng trong việc tiếp cận và sử dụng nguồn lực, đặc biệt là các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty nhà nước đang dễ tiếp cận và trên thực tế đang nắm giữ và sử dụng khối lượng nguồn lực rất lớn, nhưng kết quả hoạt động đem lại không ngang tầm, thậm chí hiệu quả đang thấp nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác. Thực hiện tốt những điều chỉnh quyết liệt, công khai minh bạch đối với "nhóm lợi ích" này là biện pháp hữu hiệu để sớm tạo ra sự bình đẳng thực sự giữa các chủ thể kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Thực tế cho thấy, sự bình đẳng về cơ hội quan trọng hơn sự bình đẳng về thu nhập. Do vậy, Nhà nước cần bảo vệ các quyền đảm bảo cho mọi người có cơ hội như nhau trong việc sử dụng cơ hội phát triển và đạt được thành công.
3.2.6. Cần tăng cường vai trò của Nhà nước trong các chính sách định hướng phát triển kinh tế thị trường đảm bảo tăng trưởng bền vững đồng thời giảm bất bình đẳng thu nhập
Để thực hiện được tăng trưởng kinh tế đi đôi với đảm bảo công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường, vai trò quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô của Nhà nước là hết sức quan trọng. Nhà nước phải biết tận dụng mặt mạnh của cơ chế thị trường để giải phóng, phát triển sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Đồng thời Nhà nước phải kết hợp sử dụng có hiệu quả các công cụ pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, sức mạnh của khu vực kinh tế Nhà nước để khắc phục những thất bại của cơ chế thị trường nhằm thúc đẩy cơ chế tăng trưởng bền vững, đảm bảo công bằng xã hội và bảo vệ lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân.
KẾT LUẬN
Việt Nam luôn được đánh giá là một nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh và phân phối thu nhập tương đối công bằng. Từ những phân tích về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn, có lẽ chúng ta nên có cách nhìn lại về tình trạng bất bình đẳng thu nhập ở Việt Nam hiện nay. Tuy nền kinh tế tăng trưởng nhanh, quy mô thu nhập kinh tế quốc dân cũng tăng lên nhưng tình trạng bất bình đẳng trong phân phối thu nhập cũng cao chưa phù hợp với mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam: “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với giảm bất bình đẳng” và chưa thực hiện được mục tiêu tăng trưởng gắn với đảm bảo công bằng xã hội. Để giải quyết hợp lý mối quan hệ này, việc phân phối thu nhập cần có sự kết hợp giữa thị trường và Nhà nước. Nhà nước cần có những chính sách tích cực đảm bảo vừa tăng trưởng vừa giảm tình trạng bất bình đẳng thu nhập. Nhà nước có thể thông qua chính sách thuế để phân phối lại thu nhập, thu hẹp khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn, đặc biệt cần có những chính sách phát triển kinh tế ở các vùng dân tộc thiểu số bằng các chính sách phân phối hợp lý. Từ đó mới đảm bảo được nền kinh tế Việt Nam tăng trưởng bền vững.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Đảng Cộng sản Việt Nam. “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI”. Nhà xuất bản Sự thật, H.1987.
Đảng Cộng sản Việt Nam. “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII”. Nhà xuất bản Sự thật, H.1991.
Đảng Cộng sản Việt Nam. “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H.1996.
Đảng Cộng sản Việt Nam. “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX”. Nhà xuất Chính trị Quốc gia, H.2001.
Đảng Cộng sản Việt Nam. “Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X”. Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, H.2006.
GS.TS Hoàng Đức Thân. “Thực trạng tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở nước ta”. Tạp chí Kinh tế Phát triển.
Lê Quốc Hội. “Mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bất bình đẳng thu nhập: lý thuyết và thực tiễn ở Việt Nam”. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, số 380, tháng 1- 2010.
Lê Quốc Hội. “Tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: Thực trạng và khuyến nghị”. Tạp chí Kinh tế Phát triển.
Nguyễn Thị Châm, Nguyễn Văn Hoàng. “Kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng và tiến bộ xã hội ở Việt Nam”.
Nguyễn Văn Thường. “Giáo trình kinh tế Việt Nam”. Nhà xuất bản Đại học Kinh tế Quốc dân.
Niên giám Thống kê, Tổng cục Thống kê qua các năm.
PGS. TS Nguyễn Văn Công. “Nguyên lý kinh tế học vĩ mô”. Nhà xuất bản Lao động, năm 2006.
TS. Nguyễn Văn Hậu. “Về tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam hiện nay”. Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 18, tháng 7- 2009.
MỤC LỤC
Trang
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 31767.doc