Đề tài Mối quan hệ tác động qua lại giữa môi trường du lịch và hoạt động du lịch

PHẦN MỞ ĐẦU Những thập kỷ gần đây, du lịch và ngành du lịch trở thành xu hướng chung của toàn cầu, chiếm vị trí chiến lược trong nền kinh tế quốc gia nhiều nước trên thế giới. Theo thống kê của Tổ chức Du lịch trên thế giới (UNWTO) và Hiệp hội Lữ hành quốc tế (WTTC)năm 2000 thu nhập ngành du lịch chiếm tới 10,7% GDP của toàn thế giới. ở Việt Nam năm 2007 thu nhập ngành du lịch lên đến 11%. Ước tính lượng du khách quốc tế năm 2010 là 1100 triệu lượt, năm 2020 đạt khoảng 1600 lượt triệu du khách. Đối với các quốc gia đang phát triển thì du lịch quốc tế có ý nghĩa hết sức quan trọng. UNWTO thống kê có tới 83% các quốc gia xếp du lịch là một trong năm ngành xuất khẩu lớn, và cứ ba nước thì có một nước coi du lịch là nguồn thu nhập ngoại tệ quan trọng. Cùng với sự phát triển của du lịch thế giới, ngành Du lịch Việt Nam ngày càng phát triển và đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Dự báo năm 2010 nước ta sẽ đón 5,5 - 6 triệu lượt du khách quốc tế và 25 -26 triệu lượt du khách nội địa, thu nhập từ du lịch đạt từ 4 - 4.5 tỷ USD. Việc phát triển du lịch nhanh chóng như vậy cũng nhờ vào những thế mạnh về nguồn tài nguyên du lịch cũng như những điều kiện thuận lợi mà môi trường du lịch của mỗi quốc gia tạo nên. Do đó mà môi trường du lịch có một vai trò vô cùng quan trọng trong quá trình phát triển ngành du lịch quốc tế cũng như du lịch nội địa. Bên cạnh những hiệu quả to lớn đã đạt được, ngành du lịch trên thế giới và nước ta cũng có tác động mạnh mẽ đến môi trường du lịch kể cả môi trường tự nhiên, môi trường nhân văn và môi trường kinh tế - xã hội. Vì vậy cần nghiên cứu tìm hiểu những tác động cụ thể của du lịch đến môi trường để có biện pháp, phương hướng phát triển thích hợp với hòan cảnh đất nước. Đồng thời có những biện pháp thích hợp để bảo vệ môi trường du lịch, phát triển du lịch bền vững trong tương lai. Đó là lý do tại sao chúng ta cần phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng về mối quan hệ tác động qua lại giữa môi trường du lịch và hoạt động du lịch. Tài liệu tham khảo 1. Ts.Trần Văn Thông - Tổng quan du lịch, Trường Đại Học Dân Lập Văn Lang ( Lưu hành nội bộ ), năm 2. Phạm Trung Lương - Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXB Giáo Dục, năm 2000 3. Bùi Thị Hải Yến - Quy hoạch du lịch,NXB Giáo Dục, năm2007 4. NXB Chính Trị Quốc Gia - Luật du lịch Việt Nam, , năm 2006 5. Lê Văn Thắng (chủ biên ) - Giáo trình du lịch và môi trường , NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2008 6. Quỹ bảo tồn tài nguyên thế giới.Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn tại Việt Nam 2002 – 2010. Dự án tăng cường công tác quản lý hệ thống khu bảo tồn tại Việt Nam 7. Lương Minh Trung - Môi trường du lịch 8. Nguyễn Minh Tuệ - địa lý du lịch, NXB Tp.Hồ Chí Minh, 1999 Và các trang web:  Vietnam Domains Registrar .VN ccTLD, web hosting, e-mail, VOIP, News  Vietnam Domains Registrar .VN ccTLD, web hosting, e-mail, VOIP, News  Hotel Vietnam, Vietnam Hotels Guide, Hotel Vietnam Travel, Vietnam Tour, Vietnam Voyage, Vietnam tours & Travel Information Luận văn dài 39 trang, chia làm 3 chương[/COLOR]

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2195 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Mối quan hệ tác động qua lại giữa môi trường du lịch và hoạt động du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hể gây sức ép lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên khi người ta tăng cường khai thác các vùng kể cả những vùng được coi là khan hiếm tài nguyên. Các nguồn tài nguyên chủ yếu có nguy cơ bị ảnh hưởng xấu do du lịch là đất, nước, sinh vật, khoáng sản,cảnh quan tự nhiên… 1.1.Tài nguyên nước và không khí: Ảnh hưởng tới nhu cầu và chất lượng nước: Du lịch là ngành công nghiệp tiêu thụ nước nhiều, thậm chí tiêu hao nguồn nước sinh hoạt hơn cả nhu cầu nước sinh hoạt của địa phương. Hoạt động du lịch gây ô nhiễm môi trường nước do chất thải Nước thải: Nếu như không có hệ thống thu gom nước thải cho khách sạn, nhà hàng thì nước thải sẽ ngấm xuống bồn nước ngầm hoặc các thuỷ vực lân cận (sông, hồ, biển), làm lan truyền nhiều loại dịch bệnh như giun sán, đường ruột, bệnh ngoài da, bệnh mắt hoặc làm ô nhiễm các thuỷ vực gây hại cho cảnh quan và nuôi trồng thủy sản. Rác thải: Vứt rác thải bừa bãi là vấn đề chung của mọi khu du lịch. Đây là nguyên nhân gây mất cảnh quan, mất vệ sinh, ảnh hưởng đến sức khoẻ cộng đồng và nảy sinh xung đột xã hội.Hoạt động của du khách: vứt rác bừa bãi ( khi qua phà, …), đổ các chất lỏng ( chất hyđocacbon khi bơi thuyền, đi xe máy…). Ô nhiễm nguồn nước xảy ra do các nguyên nhân khác nhau như do các chất thải rắn chưa được xử lý vào nguồn nước; do dầu mỡ, các chất hydrocacbon của các phương tiện giao thông thủy (tàu, thuyền du lịch, ca nô…). Ở Huế, chất lượng nước sông Hương khu vực quanh thành phố Huế qua khảo sát tháng 3/1998 của Trung tâm Môi trường biển chothấy các chất hữu cơ BOD đã vượt quá tiêu chuẩn nước loại B.Các thông số dinh dưỡng NH3 quá tiêu chuẩn nước loại A. Ở các bãi tắm nơi có hoạt động của tàu thuyền như Đồ Sơn, Bãi Cháy…, hàm lượng dầu trong nước biển thường cao hơn giới hạn cho phép. Việc thải bừa bãi vật liệu xây dựng, đất đá và các chất nạo vét, đặc biệt là những nơi chặt phá rừng ngập mặn để xây bến cảng, làm cho chất lượng nước giảm đi rất nhiều. • Ô nhiễm không khí: Tuy được coi là ngành "công nghiệp không khói", nhưng du lịch có thể gây ô nhiễm khí thông qua phát xả khí thải động cơ xe máy và tàu thuyền, đặc biệt là ở các trọng điểm và trục giao thông chính, gây hại cho cây cối, động vật hoang dại và cho cả con người. Lượng xe máy trên đường vào các khu du lịch, đặc biệt các điểm tham quan lễ hội rất lớn như ở cửa ra vào thành Đại nội( Huế).Hoạt động giao thông gây du lịch ra khói bụi ảnh hưởng đến các khu dân cư ven đường. Ô nhiễm không khí từ các loại máy xây dựng. Các công trình xây dựng nhà hàng khách sạn trước hết gây bụi bặm do vật liệu xây dựng sau đó còn làm mất cảnh quan tự nhiên, chặt phá cây xanh để lấy diện tích xây dựng. Việc tập trung các phương tiện giao thông khi thi công các công trình du lịch, sử dụng máy phát điện trên các công trường làm không khí nơi đó ô nhiễm nặng vì theo tính toán trong khí thải của máy phát điện, hàm lượng SO2 thường vượt quá giới hạn cho phép khoảng 516mg/m3 đối với máy loại 100-180KVA. Theo Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO), năm 2006, trên thế giới đã có khoảng 842 triệu chuyến du lịch được tổ chức và tới năm 2020, con số này sẽ có thể lên tới 1,5 tỷ chuyến. Trong khi đó, việc giao thông đi lại, chỗ ở và các hoạt động du lịch khác đã chiếm khoảng từ 4% đến 6% trong tổng số các kênh thải ra khí gaz gây hiệu ứng nhà kính. Môi trường tại các bãi biển du lịch như Long Hải (Bà Rịa-Vũng Tàu), Nha Trang (Khánh Hòa), Phan Thiết (Bình Thuận), Đồ Sơn (Hải Phòng)... đang bị ô nhiễm nặng đến mức báo động trong vòng vài năm gần đây, theo một đánh giá của Tổng cục Du lịch Việt Ước tính, đến năm 2020, lượng chất thải tăng nhanh ở vùng ven bờ với nitơ tổng số từ 26 tấn đến 52 tấn/ngày, tổng lượng amonia từ 15 tấn đến 30 tấn/ngày…Vài năm gần đây, tại vùng biển Nam Trung Bộ, đặc biệt là tại Khánh Hoà, Ninh Thuận, Bình Thuận, ven bờ biển xuất hiện các lớp nhầy màu xám đen dày cả gang tay, trộn với xác chết của sinh vật gây ô nhiễm nghiêm trọng. 1.2. Tác hại đến đa dạng sinh học: Làm nhiễu loạn sinh thái: Việc phát triển hoạt động du lịch thiếu kiểm soát có thể tác động lên đất (xói mòn, trượt lở), làm biến động các nơi cư trú, đe doạ các loài động thực vật hoang dại (tiếng ồn, săn bắt, cung ứng thịt thú rừng, thú nhồi bông, côn trùng...). Xây dựng đường giao thông và khu cắm trại gây cản trở động vật hoang dại di chuyển tìm mồi, kết đôi hoặc sinh sản, phá hoại rạn san hô do khai thác mẫu vật, cá cảnh hoặc neo đậu tàu thuyền... Một số hành động thái quá của du khách như chặt cây, bẻ cành, săn bắn chim thú tại những khu rừng tự nhiên cũng là nguyên nhân làm giảm sút cả số lượng và chất lượng sinh vật trong phạm vi khu du lịch. Các yếu tố ô nhiễm, như là rác thải và nước thải không được xử lý đúng mức sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến các hệ sinh thái ở dưới nước; việc gia tăng độ phú dưỡng ở các bồn chứa nước đã tạo điều kiện tích tụ nhiều bùn lầy, làm suy thoái chất lượng nước ảnh hưởng đến giới động vật haoang dã. Hoạt động của du khách có tác động lớn đến các hệ sinh thái.Các hoạt động du lịch dưới nước như nhặt sò, ốc, khai thác san hô làm đồ lưu niệm, đi trên bãi đá ngầm, đứng trên bãi san hô và thả neo tại những bãi đá san hô đều làm gia tăng việc hủy hoại bãi san hô, nơi sinh sống của các loài sinh vật ở dưới nước.Việc săn bắt chuyên nghiệp cũng làm giảm đi nhiều loài sinh vật đang có nguy cơ diệt vong. Du lịch bằng thuyền buồm cũng làm ảnh hưởng môi trường sống của các sinh vật biển.Hệ sinh thái rừng ngập mặn bị xâm phạm để xây bến bãi cho du khách. Nhu cầu của du khách về hải sản được coi là nguyên nhân chính tác động nạnh đến môi trường của tôm hùm và các loài hải sản có giá trị khác. Các hoạt động thể thao, đánh bắt cá của du khách tác động xấu đến việc bảo tồn, đặc biệt là các sinh vật quý đang cần được bảo vệ. Các khu rừng cấm và rừng nguyên sinh dễ bị tổn thương khi có nhiều du khách.Sự đi lại của xe, giẫm đạp lên cỏ, hái hoa quả bừa bãi, chặt cây leo núi ồ ạt…làm mất dần nhiều loài đông thực vật. 1.3. Tác hại đến tài nguyên thiên nhiên • Tài nguyên đất Tác động trực tiếp của du lịch đến nguồn tài nguyên đất thông qua việc sử dụng các đất để xây dựng các cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, cơ sở hạ tầng và sử dụng các vật liệu xây dựng. nếu việc sử dụng nguồn tài nguyên đất không có quy hoạch hợp lý thì việc phát triển du lịch một cách ồ ạt, đồng thời gia tăng các công trình du lịch, các cơ sở nghỉ ngơi sẽ làm giảm diện tích rừng do phá rừng lấy đất, giảm diện tích đất nông nghiệp, đất ngập mặn… gây ra xói mòn đất, sụp lở ven bờ, thoái hóa môi trường đất…làm thay đổi quá trình chu chuyển tự nhiên gây ra những ảnh hưởng nghiêm trọng khác tới môi trường. • Cảnh quan thiên nhiên và nhân tạo Do các yếu tố cảnh quan thiên nhiên hấp dẫn du khách đến tham quan du lịch ngày càng nhiều. nhưng nếu việc khai thác nguồn tài nguyên này thiếu quy hoạch và bảo vệ thì sẽ gây tác động xấu như làm suy thoái hệ sinh thái có giá trị ở những khu du lịch. Đặc biệt là những vùng nhạy cảm về mặt sinh thái như vùng rừng nhiệt đới, đầm lầy, vùng ngập mặn, các rạn san hô, trảng cỏ ven biển… Không chỉ vậy, việc xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật, cơ sở hạ tầng có liên quan đến việc khai thác vật liệu xây dựng như cát đá, ximăng … sẽ gây ra xói lở các đụn cát,bờ biển, xói mòn đất, làm suy thoái môi trường sống của sinh vật, làm mất mỹ quan phong cảnh…Ngoài ra, việc phát triển du lịch ở ven biển đông thời mở mang các bến cảng, làm đê chắn sóng sẽ làm thay đổi dòng nước, đường bờ biển, ảnh hưởng đến rạn san hô, ô nhiễm môi trường nước biển, tàn phá môi trường sống của nhiều loài sinh vật biển, hải sản do đánh bắt quá mức và sử dụng các chất độc hại đối với môi trường. Do việc xây dựng các công trình du lịch nếu không sự quy hoạch, những kiến trúc hiện đại, những khu nghỉ dưỡng lớn và cao tầng mọc lên ở các khu thiên nhiên làm phá vỡ kiến trúc truyền thống địa phương. Ngoài ra, việc phát triễn du lịch một cách tràn lan mất tổ chức cũng sẽ làm mất đi vẻ đẹp vốn có của cảnh quan mà thay vào đó là tình trạng lộn xộn, pha tạp, mất mỹ quan của những biển quảng cáo, những cơ sở thiếu thẩm mỹ, những hạ tầng kém chất lượng…gây suy thoái môi trường và cảnh quan. Ô nhiễm phong cảnh: Ô nhiễm phong cảnh có thể được gây ra do khách sạn nhà hàng có kiến trúc xấu xí thô kệch, vật liệu ốp lát không phù hợp, bố trí các dịch vụ thiếu khoa học, sử dụng quá nhiều phương tiện quảng cáo nhất là các phương tiện xấu xí, dây điện, cột điện tràn lan, bảo dưỡng kém đối với các công trình xây dựng và cảnh quan. Phát triển du lịch hỗn độn, pha tạp, lộn xộn là một trong những hoạt động gây suy thoái môi trường tệ hại nhất. Năng lượng: Tiêu thụ năng lượng trong khu du lịch thường không hiệu quả và lãng phí.Các nhà hàng sử dụng điện 24/24 giờ.Lượng xăng dầu sử dụng cho giao thông du lịch cao. Đất trồng trọt bị thu hẹp để sử dụng cho việc xây dựng nhà hàng, khách sạn, các khu vui chơi, giải trí. Tại Phú Yên, Việc xây dựng khu sinh thái, giải trí Thuận Thảo đã làm mất đi hàng ngàn ha đất vốn trước đây là một cánh đồng lúa xanh bát ngát. Hoạt động du lịch gây ra nhiều tác hại như: chất lượng nguồn nước bị giám sút, nước bị đục do nạo vét, thải bùn đất.Giải phóng mặt bằng san lấp làm tầng thổ nhưỡng thay đổi.Biến đổi các hệ sinh thái hải dương v.v… 1.4 Môi trường cảm giác Ô nhiễm tiếng ồn: Tiếng ồn từ các phương tiện giao thông và du khách có thể gây phiền hà cho cư dân địa phương và các du khách khác kể cả động vật hoang dại. Việc sử dụng máy phát điện trên các công trường thường gây tiếng ồn từ 54-85dBA, cao gấp 1,5 lần tiêu chuẩn cho phép. Hoạt động của các nhà hàng karaoke, các quán bả dịch vụ ăn uống, đặc biệt trong các trường hợp khi các cơ sở dịch vụ này kề sát nhau. Việc tập trung du khách vào mùa cao điểm làm đường sá tắc nghẽn, rác thải vứt bừa bãi, dơ bẩn, mùi hôi thối từ các chất thải của các khu du lịch, ồn ào… làm cho con người trở nên mệt mỏi, chất lượng cuộc sống giảm sút. 2. Tác động đến môi trường nhân văn Hoạt động du lịch đưa kinh tế Việt Nam hội nhập vào thế giới, thì cũng chính nó là nguyên nhân làm cho nhiều giá tri văn hóa tinh thần của quốc gia bị mai một, đảo lộn nếu không có biện pháp phòng ngừa và phát huy bản sác dân tộc. 2.1.Tác hại đến di sản “Dù du lịch có khả năng đóng góp cho việc thúc đẩy và bảo vệ các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, nhưng nếu không được kiểm soát thì nó cũng có thể tác động tiêu cực, làm xuống cấp nguồn lực rất có giá trị này”. Đó là ý kiến của bà Vibeke Jensen, Trưởng đại diện văn phòng UNESCO Hà Nội tại Hội nghị khu vực UNESCO- EIICHAP về “Bảo tồn Di sản văn hóa phi vật thể và Du lịch văn hóa bền vững: Cơ hội và thách thức” Điểu yếu: Thiếu qui hoạch.Theo bà Vibeke Jensen: “Đã có rất nhiều ví dụ cho thấy, do không được quy hoạch nên mặc dù có khả năng sinh lời trong thời gian ngắn nhưng về lâu dài, du lịch đã gây tổn hại cho nhiều di sản văn hóa và lịch sử, ảnh hưởng tới giá trị của các di sản đó”. 2.2.Tác động đến ngôn ngữ: Trong quá trình phát triển du lịch, việc học tập tiếng nước ngoài sẽ tạo điều kiện tốt để học tập, hội nhập và phát triển . Đó là một trong những quy luật tất yếu của xã hội. nhất là trong du lịch , khi người ta phải tiếp xúc với nhiều người nước ngoài ngày càng nhiều và thường xuyên hơn Do vậy mà việc biết nhiều ngôn ngữ luôn là điều kiện thuận lợi để chúng ta tiếp cận khoa học công nghệ tiên tiến cũng như những tri thức của nhân loại. Tuy nhiên, việc học ngoại ngữ tràn lan và tư tưởng sùng ngoại đã làm cho không ít người sử dụng những ngôn ngữ lai căng, làm mất đi sự trong sáng của Tiếng Việt. đặt biệt là thế hệ trẻ, thường dùng những ngôn ngữ mà họ cho rằng rất “teen”,rất tiến bộ mà không nghĩ rằng nhhững ngôn ngữ đó sẽ làm ảnh hưởng đến cả nền ngôn ngữ nước nhà. Chíh vì vậy mà nhà nước mà đặt biệt là ngành giáo dục cũng như du lịch cần có những biện pháp thích hợp vừa tiếp thu những tinh hoa văn hóa nhân loại đồng thời bảo vệ sự trong sáng của tiếng Việt 2.3Nghệ thuật truyền thống Đã phân nửa thế kỷ đất nước ta thực hiện công cuộc bảo tồn và phát triển văn hóa nghệ thuật truyền thống theo phương châm khoa học hóa, hiện đại hóa để hội nhập với thời đại. Gần đây, sau những sự kiện các di sản âm nhạc cổ truyền lần lượt được và đang đề nghị để được tôn vinh là Di sản văn hóa thế giới, nhiều người mới nhìn lại toàn cảnh bức tranh âm nhạc dân tộc, mới giật mình thấy rằng nhiều giá trị tốt đẹp, nhiều bản sắc quý giá đã bị thất truyền. Đâu rồi những giá trị kinh điển của âm nhạc cổ truyền?Có lẽ chưa bao giờ người ta nhắc nhiều đến vấn đề giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc như hiện nay. Trên tất cả các phương tiện thông tin đại chúng, ở tất cả các cuộc hội thảo, tọa đàm đều thấy xuất hiện ngày càng nhiều những tiếng kêu cứu trước thực trạng một số loại hình văn hóa truyền thống đang rơi vào khủng hoảng trầm trọng. Ở mọi phương diện của văn hóa nghệ thuật, các giá trị hiện đại phương Tây đang tràn ngập và lấn lướt, thậm chí đè bẹp các giá trị truyền thống dân tộc. Trong bối cảnh đó, các loại hình âm nhạc cổ truyền dân tộc cũng không tránh khỏi sự mất mát của riêng mình. Nhiều vốn liếng tinh hoa của âm nhạc truyền thống đã đội nón ra đi theo các nghệ nhân về nơi đất lạnh. Một số loại hình thì bị đứt đoạn, sự tồn tại hiện nay chỉ còn là những mảnh vỡ. Một số khác lại đang được phát huy, phát triển theo cái cách mà dù không nói ra, song nhiều nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật cho rằng hoặc rất xa rời với nguyên gốc hoặc thụt lùi, đi xuống. Nhạc sĩ Đặng Hoàng Loan, nguyên Phó viện trưởng Viện âm nhạc Việt Nam kể: Ngót 8 năm trước, Viện âm nhạc tiến hành một cuộc điền dã sưu tầm chèo Khuốc và chèo Sáo đền ở Thái Bình những mong cố gắng giữ lại được đôi ba “mảnh vỡ” của chèo cổ “xịn” làm vật chứng cho một quá khứ sáng tạo với những thành công lớn lao của ngành sân khấu dân gian. Thật tiếc (hay là thật may mắn!?) lần ấy, Viện âm nhạc chỉ (hay là còn kịp!?) thu lượm được 3 mảnh chèo bao gồm: Múa đèn đeo vai, Múa tắm tiên, Hề canh điếm. Phần lớn di sản chèo còn lại đều đã bị “hiện đại hóa”, bị “kịch bản và đạo diễn hóa” cả rồi.Quả thật, đọc đi đọc lại các vở diễn của Nhà hát Chèo Trung ương từ khi thành lập cho đến nay chỉ thấy có một vở do các nghệ nhân làng chèo tự dựng, đó là vở Quan âm – Thị Kính, kịch bản do cụ Trần Huyền Trân chỉnh lý. Còn lại tất tần tật các vở như Lưu Bình Dương Lễ, Súy Vân (tên cổ là Kim Nham), Trinh Nguyên, Đôi ngọc truyền kỳ (tên cổ là Trương Viên), Từ Thức... đều có tên người làm kịch bản, người đạo diễn, người viết nhạc, người làm mỹ thuật. “Chèo nhà hát” ngày nay đã khác chèo sân đình xưa rất nhiều, không còn là sân khấu ứng diễn giữa khán giả và nghệ nhân nữa mà đã trở thành sân khấu của tác giả kịch bản và đạo diễn. Không còn tính truyền miệng và lối trình diễn ngẫu hứng như nó vốn có tự thuở nào. Đành rằng trong thời đại mới, cần phải cải biên, cải tiến, phát triển cho phù hợp. Đành rằng sự cải biên, cải tiến, phát triển ấy cũng có nhiều mặt tốt. Song điều này cũng khiến cho những người có tấm lòng với âm nhạc cổ truyền dân tộc cảm thấy mất mát và tiếc nuối. Người ta ước gì lối diễn ngày xưa vẫn được lưu giữ: Hát chèo không có phông cảnh, không có bài trí, không có mở màn hạ màn gì hết. Đào kép cứ tuần tự từ trong buồng trò vén màn ra hát. Khán giả thuộc lòng tuồng tích nên thấy vai nào ra là biết ngay vai gì, hiểu ngay đã đổi màn đổi cảnh... Có như vậy con cháu ngày nay mới có thể hiểu được những sáng tạo của cha ông trong trường kỳ lịch sử vĩ đại như thế nào. Sự đứt đoạn truyền thống tương tự cũng diễn ra trong các ngành tuồng, cải lương, ca trù, hát xẩm... Kết quả bảo tồn và phát huy giá trị truyền thống của các loại hình này ở thế hệ tiếp nối được các nhà chuyên môn đánh giá là suy giảm cả về chất và lượng. Nhiều nghệ sĩ tuồng bây giờ không biết đọc bản cổ nhạc theo hệ thống hò – xự – xang... mà chỉ biết hệ thống đồ – rê – mi... Phong cách nghệ thuật tuồng Bắc (vốn được coi là cổ hơn tuồng Nam) đã tan vỡ, cũng chỉ còn lại vài mảnh vụn. Hàng trăm vở tuồng cổ với nhiều dạng thức khác nhau đã một đi không trở lại. Nghệ sĩ tuồng bây giờ thuộc rất ít các pho diễn cổ... Lối “kịch bản và đạo diễn hóa”, “văn công hóa” còn ăn sâu vào các làn điệu dân ca, các hình thức diễn xướng dân gian khác. Xin đơn cử thể loại hát quan họ. Ngoài lối hát cổ (hát đôi, có giọng chính, giọng luồn với các kỹ thuật vang, rền, nền, nảy, không có nhạc cụ đệm và sinh hoạt theo canh hát) của các cụ được tiếp nối bởi một số ít những người đứng tuổi, được gọi là “quan họ làng”, hiện nay còn có “quan họ đài”, “quan họ đoàn” với một lối hát khác mang tính trình diễn sân khấu (hát đơn từng tiết mục và có nhạc đệm). Mà chính hình thức hát kiểu mới này mới là hình thức đang được truyền bá rộng rãi và được nhiều người biết đến. Những sự biến tấu, biến dạng như vậy đang diễn ra hằng ngày kéo theo nhiều giá trị kinh điển, cổ truyền cứ dần dần bị lấn lướt, bị mai một đi, và một lúc nào đó sẽ hoàn toàn thất truyền.Chọn hướng đi nào cho cổ nhạc? Cách đây chưa xa, Viện âm nhạc Việt Nam có tổ chức một cuộc hội thảo với chủ đề “âm nhạc cổ truyền dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa” với sự tham gia của hơn 100 đại biểu đến từ các nước ASEAN, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản... Sau 2 ngày thảo luận rất gay gắt cuối cùng vẫn tồn tại hai luồng ý kiến trái chiều về vấn đề ứng xử thế nào với âm nhạc cổ truyền trong xu hướng toàn cầu hóa. Phái kế thừa bao gồm cả các đại biểu của Trung Quốc và Nhật Bản cho rằng: Sự biến đổi truyền thống là hợp lý. Nếu truyền thống gắn được với nhu cầu của xã hội thì truyền thống sẽ tồn tại, bằng không sẽ mất đi. Dẫn chứng là sự thành công của các dàn nhạc dân tộc kiểu mới ở Trung Quốc hay sự kết hợp dàn nhạc truyền thống Okinawa của Nhật và dàn nhạc hiện đại của Mỹ. Phe bảo tồn, trái lại, yêu cầu giữ nguyên trạng những giá trị âm nhạc cổ truyền. Thậm chí nhiều đại biểu còn kết án mọi sự pha trộn truyền thống – hiện đại thiếu cẩn trọng đều là “đánh mất bản sắc dân tộc của mình một cách thiển cận”. Có lẽ để dung hòa hai luồng ý kiến trên, nhạc sĩ Đặng Hoành Loan cho rằng: Nghệ thuật của quá khứ đã trải qua bao thăng trầm còn tồn tại đến ngày nay là những nghệ thuật đã đạt đến đỉnh cao. Và đó là di sản văn hóa của cả quốc gia chứ không chỉ riêng vùng miền nào. Trách nhiệm của con người, của xã hội hiện đại là phải bảo vệ nó. Tuy nhiên, xu hướng cải tiến, cách tân các loại hình nghệ thuật truyền thống hiện nay là một xu hướng tất yếu nhằm đáp ứng nhu cầu của con người trong thời đại mới. Thực tế là một số sự cải tiến, cách tân đã hấp dẫn được khán giả đồng thời vẫn chuyển tải được những câu chuyện đương thời vào đó. Chúng ta có thể thay đổi sân khấu nhưng vẫn giữ nguyên những vai diễn và mảng diễn của các nghệ nhân. Chúng ta cũng hoàn toàn có thể khôi phục lại những vở chèo, tuồng, những điệu hát cổ nhưng là dưới con mắt đương đại và ánh đèn đương đại... Tất cả những điều này đòi hỏi một tầm nhìn vĩ mô của những nhà quản lý văn hóa, làm công tác văn hóa. Nếu nhất thiết phải cải tiến, phải cách tân thì cần có sự chọn lọc khắt khe cải tiến chỗ nào, cách tân những gì sao cho dung hòa, cân xứng cả truyền thống và hiện đại đồng thời vẫn bảo tồn được một cách đầy đủ nhất ở mức có thể những tinh hoa vốn cổ. Chỉ có như vậy chúng ta mới có cơ sở để tin rằng nền âm nhạc Việt Nam sẽ trường tồn và phát triển, sẽ hòa nhập mà không hòa tan. Bà Dương Bích Hạnh, đại biểu đến từ Sapa, Việt Nam kể: Những cuộc gặp gỡ giữa khách du lịch và người H’mông ở Sapa đã “giới thiệu” nguồn thu nhập mới cho người H’mông- từ những bộ quần áo cũ- sản phẩm thủ công truyền thống mà họ đang giữ trên xà nhà. Những cuộc “tiếp xúc” này, đã giúp người H’mông biết làm kinh tế; “biết” đưa những chất liệu ngoại nhập vào các sản phẩm đồ dùng hàng ngày như túi, mũ, áo, chăn và vỏ gối để dùng, bán cho khách du lịch kiếm được khá nhiều tiền. Nhiều phụ nữ H’mông vốn trước đây sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp thì nay đã bỏ đồng án, việc nhà để trở thành những người buôn bán. Thấy nguồn lợi từ kinh doanh sản phẩm truyền thống mà người H’mông thu được, mới đây nhiều doanh nghiệp có đủ lợi thế (vốn, mặt bằng) đã đầu tư kinh doanh bằng việc mở ra nhiều điểm buôn bán lớn tại những khu phố sầm uất, bắt mắt mà người H’mông không thể theo kịp. Việc làm này vô tình đẩy người H’mông trở thành “những vị khách” ngay bên sản phẩm của mình. Một nhân tố khác làm ảnh hưởng đến việc kinh doanh hàng thủ công ở Sapa, theo bà Dương Bích Hạnh là “vấn đề quản lý của chính quyền địa phương liên quan đến địa điểm mua bán, gây bất lợi cho hoạt động mua bán của chủ nhân đích thực sản phẩm”. Ngoài nghiên cứu điển hình về trường hợp của người H’mông ở Sapa của bà Dương Bích Hạnh, tại hội nghị còn có 10 nghiên cứu điển hình khác từ Malaysia, Philippines, Thái-lan, Lào, Trung Quốc... Hầu hết các nghiên cứu đều chỉ ra được những biểu hiện “xói mòn”, “xuống cấp” cùng thảo luận tập trung 3 chủ đề: hàng thủ công trong bối cảnh du lịch văn hóa bền vững; Nghệ thuật biểu diễn trong bối cảnh du lịch văn hóa bên vững; Di sản văn hóa phi vật thể trong bối cảnh du lịch môi trường, nông nghiệp và sinh thái. Các chủ đề sẽ được thảo luận theo nhóm để giải quyết các vấn đề có liên quan đến Di sản văn hóa phi vật thể như quyền làm chủ của cộng đồng; sự “ngô nghê hoá” trong cách biểu đạt di sản; sự tách rời bối cảnh của di sản; sự phân cách di sản vật thể và phi vật thể; tác động của du lịch đối với di sản văn hóa phi vật thể; sự chuyển giao di sản văn hóa phi vật thể. Hội thảo quốc tế về bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể. Du lịch tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa người H’Mông, nhiều di sản văn hóa vật thể và phi vật thể truyền thống bị biến dạng, nghèo nàn hoặc bị đóng giả, lợi dụng phục vụ mục đích “thương mại hóa”, tạo nhiều nguồn thu. Điển hình là du khách ồ ạt đến xem các sinh hoạt giao duyên của trai gái H’Mông, Dao tối thứ bảy khiến cho các sinh hoạt giao duyên biến mất. chợ phiên ở vùng cao không chỉ là nơi trao đổi hàng hóa mà còn là nơi giao lưu tình cảm. chợ là nơi gặp mặt của người yêu. Người H’Mông ở SaPa đi chợ phải đi từ chiều hôm trước. buổi tối trước phiên chợ là ngày hội của nam nữ thanh niên. Họ thổi sáo, gẩy đàn môi, hát giao duyên. Nhưng từ đầu thập kỉ 90 của thế kỉ 20, dòng người du lịch ồ ạt đổ về xem sinh hoạt “chợ tình”. Những tình cảm sâu kín của nam nữ thanh niên luôn bị chụp ảnh, quay phim, hoặc trở thành một trò vui kỳ lạ cho du khách. Sinh hoạt giao duyên buổi tối trước hôm chợ không còn diễn ra ở thị trấn. Trước nhu cầu của du khách, một số người đóng giả sinh hoạt văn hoá giao duyên bằng múa khèn, thổi sáo. Các sinh hoạt này mang nặng tính chất thương mại, trở thành một sản phẩm làm giả để thu tiền. Người H’Mông có nghề thổ cẩm tinh xảo. Một tấm thổ cẩm được sản xuất phải qua nhiều công đoạn dệt, nhuộm, tạo hoa văn công phu. Dệt xong tấm vải lanh, người H’Mông phải nhuộm từ 12 đến 15 lần mới tạo thành tấm vải bền màu. Nhưng muốn tạo sự láng bóng của vải, người H’Mông còn phải bôi sáp ong lên vải và lăn trên phiến đá. Người lăn đứng trên phiến đá dùng chân day đi day lại, cho đến khi vải mềm, ánh bóng màu tím than. Tạo được vải, phụ nữ H’Mông còn phải áp dụng cả ba thủ pháp nghệ thuật in sáp ong, thêu, ghép vải tạo hoa văn. Các mẫu hoa văn truyền thống giàu tính biểu tượng phản ánh cả tín hiệu văn hoá tộc người, lịch sử di cư. Nhưng hiện nay, do nhu cầu cần “nhanh, nhiều, rẻ” nên người H’Mông dùng máy khâu thêu hoa văn. Các mô típ hoa văn đơn giản đã thay thế hoa văn đặc sắc cổ truyền. Vì vậy giá trị nghệ thuật trong thổ cẩm H’Mông bị mai một, đứt đoạn với truyền thống. Các hoạ tiết hoa văn giàu tính biểu tượng đã nhường chỗ cho các hoa văn đơn giản loè loẹt phổ biến khắp từ Côn Minh Vân Nam Trung Quốc đến Hà Nội. Bản sắc nghệ thuật thổ cẩm H’Mông đang có nguy cơ suy tàn, kho tàng hoa văn thổ cẩm H’Mông ở Sa Pa không còn nét độc đáo, mất tín hiệu văn hoá tộc người.Tương tự như vậy, các sản phẩm thủ công như chạm khắc bạc, làm đỗ gỗ, làm nhạc cụ .... cũng chạy theo số lượng, làm sản phẩm kém chất lượng, thậm chí còn là đồ giả bán cho du khách. Điển hình nhất là các đồ trang sức bằng bạc được thay thế bằng nhôm. Thậm chí, ở nhiều làng, người H’Mông không làm đồ chạm khắc bạc mà đi mua đồ trang sức của người Kinh ở miền xuôi đem bán kiếm lời. 2.4.Lối sống truyền thống: Mặt trái của toàn cầu hoá và hội nhập càng trở thành thách thức, thành sự “xâm lăng” văn hoá tự nhiên rất nhanh chóng bởi thời đại này là thời đại kết nối toàn cầu, thời đại của Internet, của những phương tiện kỹ thuật công nghệ cao. Thời đại mà khoảng cách không gian quá xa xôi giữa bên này hay bên kia bán cầu trở thành không còn ý nghĩa. Hoạt động du lịch càng mạnh mẽ thì càng thúc đẩy tính toàn cầu hoá hay hội nhập càng nhanh, trở nên đe doạ nền tảng văn hóa, bản sắc và những giá trị truyền thống, vừa là tinh hoa vừa là hồn cốt và đạo lý sống của mỗi đất nước, trong đó có đất nước ta nếu chúng ta không đủ mạnh, không đủ tâm và tầm để hướng đạo cho tuổi trẻ vừa biết cách thích ứng và tiếp nhận cái mới, cái văn minh, vừa biết “dị ứng” với cái xấu, cái độc hại. Cái gốc của nền tảng văn hoá ấy vẫn là giáo dục, trong đó đặc biệt giáo dục gia đình. Gia đình vốn là một môi trường giáo dục, một tế bào vừa non trẻ, vừa cỗi rễ của xã hội nhưng từ quá lâu rồi đã bị coi nhẹ, và bị lung lay nhiều nhất, rõ nhất trong thời kinh tế thị trường hiện nay. Ví dụ : Xì-căng-đan Vàng Anh-Hoàng Thuỳ Linh là câu chuyện vấp ngã đau đớn, bẽ bàng của một cô bé diễn viên trong đời sống xã hội thị trường tiêu dùng và thực dụng đầy phức tạp, nhưng lại đặt ra những vấn đề lớn hơn, và cũng đau hơn, sâu sắc hơn cho người lớn chúng ta, cho giáo dục mỗi gia đình, cho các nhà quản lý giáo dục, văn hoá và quản lý đất nước. Chế quản lý chặt chẽ hay sơ hở, là quản lý “cao tay” hay “kém cỏi” của mỗi quốc gia mà thôi. Ở ngay Hà Nội thôi, đâu đâu cũng có thể thấy nhà hàng khách sạn sang trọng, nhà nghỉ thư giãn, vũ trường gắn liền với tệ nạn thuốc lắc, ma túy, gái gọi... nhan nhản như nấm sau mưa, nhưng trường học luôn thiếu đất. Trẻ em, thanh niên luôn thiếu những nơi vui chơi, sinh hoạt lành mạnh. Trong cái “thế giới phẳng” này, mọi thông tin, hình ảnh, lối sống đa chiều đều có thể được thẩm thấu qua những bộ lọc - đầu óc với nhận thức non nớt, không được giáo dục và định hướng kỹ lưỡng, trong khi mức sống hưởng thụ của nhiều gia đình khá cao, thì scăngđan Hoàng Thùy Linh quả là cũng không quá khó hiểu. Ngày nay, sự “nuốt chửng” một quốc gia, một dân tộc bằng súng đạn, bằng chiến tranh giữa nước này với nước khác không mấy dễ dàng, trong mối quan hệ chằng chịt giữa lợi ích các quốc gia, các dân tộc. Nhưng sự “xâm lăng” văn hoá một cách từ từ, hoặc ngấm ngầm, hoặc công khai lại là một cách “nuốt chửng” bản sắc và hồn cốt một dân tộc, được bắt đầu bằng sự tấn công vào cách hưởng thụ và lối sống của lớp người trẻ tuổi, thế hệ vừa thích học đòi cái mới cái lạ, vừa đầy biến động trong nhận thức, tâm lý phát triển và cũng dễ đổ vỡ niềm tin. Trong hành trình hội nhập để phát triển, xin hãy tỉnh táo và chớ coi nhẹ sự quản lý văn hóa - lĩnh vực đa dạng, đa chiều đầy biến ảo... 2.5. Hành vi và giá trị hành vi: Bước vào thời kì hội nhập, Việt Nam đã tiếp nhận nhiều luồng tư tưởng, văn hóa khác nhau từ bên ngoài, một bộ phận thanh niên của chúng ta hiện nay xây dựng cho mình hoặc bị cuốn theo một lối sống không lành mạnh, trong đó có những biểu hiện của việc “xuống cấp về đạo đức”. những hình ảnh không hề phù hợp với văn hóa Việt Nam luôn tác động, gây nhiều ảnh hưởng xấu tới hành vi, truyền thống, lối sống của giới trẻ hiện nay. Chúng ta hội nhập để tiếp nhận thành tựu khoa học – kĩ thuật hiện đại. Bên cạnh đó, chúng ta cũng phải gìn, phát huy những giá trị truyền thống của dân tộc. 2.6. Tác động đến cộng đồng địa phương: 2.7. Tôn giáo Nhưng nguy cơ đứt đoạn văn hoá, đánh mất bản sắc văn hoá dân tộc còn diễn ra nghiêm trọng khi một bộ phận người H’Mông qua sự tuyên truyền của du khách chối bỏ tín ngưỡng truyền thống theo đạo Tin lành. Đạo Tin lành theo bước chân của du khách len lỏi đến các làng người H’Mông Sa Pa dẫn đến tình trạng gây mất ổn định trong một làng, một dòng họ. Mâu thuẫn giữa người theo đạo với người theo tín ngưỡng cổ truyền liên tiếp xảy ra ở khắp các làng H’Mông gắn với các điểm du lịch. Xu hướng đa dạng hóa tôn giáo, có thể nói xu hướng đa dạng hóa tôn giáo là hiệu ứng tất yếu của toàn cầu hóa. Không gian lãnh thổ mở rộng dần khiến con người không chỉ tiếp cận với một hoặc một số tôn giáo của dân tộc mình, mà còn biết tới tôn giáo khác; thậm chí không phải tiếp thu một cách thụ động mà còn chủ động tiếp thu với tính chất phê phán. Hậu quả tất yếu của đa dạng hóa tôn giáo là, nếu như tôn giáo truyền thống nào không đáp ứng được nhu cầu của quần chúng thì sẽ bị thay thế bởi một tôn giáo khác phù hợp hơn. Dẫn đến sự xuất hiện hàng loạt các tôn giáo mới với màu sắc rất khác nhau. Hiện tượng tín đồ khô đạo, nhạt đạo nảy sinh; tình trạng phân lập, tách biệt thành các giáo phái nhỏ hơn, thậm chí cá thể hóa hay trường hợp trong một con người song hành nhiều tôn giáo xuất hiện ở các nước phát triển. PHẦN III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP BẢO VỆ MÔI TRƯỜNG DU LỊCH I.Giải pháp tổ chức quản lý môi trường du lịch: 1.Cải tiến và hoàn thiện bộ máy tổ chức quản lý: • Giải pháp tổ chức quản lý môi trường du lịch phải có sự lien kết chặt chẽ giữ việc quy hoạch dự án du lịch và các cơ quan chức năng như Văn phòng chính phủ, Bộ Kế hoạch đầu tư, Bộ khoa học công nghệ, Bộ Tài nguyên và môi trường, Bộ Thương mại, Bộ Nông nghiệp, bộ Lâm nghiệp, Bộ Thủy sản, Bộ Xây dựng, Bộ Giao thong vận tải Viện Quy hoạch đô thị và nông thôn, Viện chiến lược, . . . • Sau khi nghiên cứu, xác định giá trị của tài nguyên chỉ định rõ nhiệm vụ quản lý bảo vệ và khai thác từ cấp cơ sở, đơn vị khai thác, địa phương sở hữu đến Bộ Tài nguyên và môi trường và các cơ quan chức năng liên quan. • Áp dụng các hình thức khen thưởng cho các đối tượng có vai trò tích cực, xử phạt các hành vi, hoạt động ảnh hưởng tiêu cực tác động đến tài nguyên và môi trường du lịch. 2. Phân rõ chức năng và nhiệm vụ cho từng cấp quản lý, các tổ chức xã hội: • Nhóm chuyên gia tư vấn: gồm các cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên nghiệp hang đầu trong bảo tồn , tiến hành đề xuất ý kiến , trợ giúp kỹ thuật bảo tồn. • Nhóm kỹ thuật quy hoạch : đảm nhiệm công tác quy hoạch, theo dõi, giám sát chỉ đạo việc quy hoạch. • Tổ ngoại vi: do các nhà sinh thái học, du lịch học, xã hội học, chuyên gia tổ chức du lịch trong và ngoài nước tham gia các công trình quy hoạch, bảo tồn tài nguyên môi trường du lịch. • Các cơ quan chức năng quản lý: gồm các Ủy ban nhân dân cấp xã phường, cho đến Bộ tài nguyên và môi trường, Bộ văn hóa thể thao và du lich, và các ban ngành đoàn thể có liên quan trong công cuộc quản lý, đầu tư tôn tạo và bảo tồn giá trị của môi trường du lịch. II. giáo dục ý thức bảo vệ môi trường du lịch: 1. Giáo dục trong trường học Đưa những vấn đề về tài nguyên, môi trường, văn hóa và xã hội vào các chương trình đào tạo để phát triển nguồn nhân lực của ngành. Trong quá trình đào tạo cần chú trọng nâng cao hiểu biết về bản chất phức tạp của du lịch hiện đại trong mối quan hệ với tài nguyên và môi trường, đề cao ý thức trách nhiệm và tự hào của mỗi người. 2 . Giáo dục cộng đồng địa phương Thông báo cho cộng đồng địa phương về những lợi ích tiềm tàng cũng như những thay đổi tiềm ẩn do hoạt động phát triển du lịch gây nên, qua đó cùng cộng đồng địa phương xác định những phương án phát triển phù hợp, đảm bảo việc khai thác có hiệu quả những tiềm năng về tài nguyên, đem lại lợi ích cho người dân và sự phát triển bền vững của du lịch. Khuyến khích sự tham gia của cộng đồng địa phương vào việc triển khai thực hiện các dự án phát triển du lịch trên địa bàn của họ. Trao đổi thường xuyên với cộng đồng địa phương bằng nhiều hình thức như hội họp, gặp gỡ…ngay trong quá trình qui hoạch, lập dự án phát triển du lịch, bảo vệ môi trường du lịch để giúp người dân hiểu rõ trách nhiệm của mình trong việc bảo vệ môi trường du lịch. 3. Giáo dục du khách Hướng dẫn khách những điều cần làm và những điều không nên làm về phương diện môi trường ở những điểm tham quan du lịch. Làm cho khách du lịch nhận thức được những tác động tiềm tàng và trách nhiệm của họ đối với cộng đồng địa phương nơi họ đến. Cung cấp cho khách du lịch những thông tin đầy đủ nhất và không thiên lệch để họ có thể hiểu mọi khía cạnh môi trường có liên quan đến chuyến du lịch, giúp họ có được sự lựa chọn thích hợp. Cung cấp đầy đủ thông tin cho du khách về việc cần tôn trọng những di sản văn hóa và cảnh quan thiên nhiên, danh lam thắng cảnh, môi trường, thuần phong mỹ tục nơi đến du lịch. Thực hiện nội qui, qui chế của khu du lịch, điểm du lịch, đô thị du lịch, cơ sở lưu trú du lịch về việc bảo vệ môi trường du lịch. III. Giải pháp về qui tắc và luật du lịch Phát triển du lịch bền vững, theo qui hoạch, kế hoạch, bảo đảm hài hòa giữa kinh tế, xã hội và môi trường, phát triển có trọng tâm theo hướng du lịch văn hóa – lịch sử, du lịch sinh thái, bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị của tài nguyên du lịch, tạo điều kiện phát huy mọi nguồn lực, tăng cường đầu tư phát triển du lịch để đảm bảo du lịch là ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước là một trong những yêu cầu được đặt ra khi xây dựng luật du lịch năm 2005. Vấn đề bảo vệ môi trường du lịch là một trong những vấn đề được quan tâm trong luật du lịch. Điều 9 của luật du lịch qui định cụ thể: trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, ủy ban nhân dân các cấp, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, khách du lịch, cộng đồng dân cư địa phương và các tổ chức, cá nhân khác trong việc bảo vệ môi trường du lịch. Bảo vệ môi trường du lịch ( điều 9 của luật du lịch) Môi trường tự nhiên, môi trường xã hội nhân văn cần được bảo vệ, tôn tạo và phát triển nhằm bảo đảm môi trường du lịch xanh, sạch, đẹp,an ninh, an toàn, lành mạnh và văn minh. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình ban hành các qui định nhằm bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch. Ủy ban nhân dân các cấp có biện pháp để bảo vệ, tôn tạo và phát triển môi trường du lịch phù hợp với thực tế địa phương. Tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch trách nhiệm thu gom, xử lí các loại chất thải phát sinh trong quá trình hoạt động kinh doanh, khắc phục tác động tiêu cực do hoạt động của con người gây ra đối với môi trường, có biện pháp phòng chống tệ nạn xã hội trong chính sách kinh doanh của mình. Khách du lịch, cộng đồng dân cư địa phương và các tổ chức, cá nhân khác có trách nhiệm bảo vệ và giữ gìn cảnh quan môi trường, bản sắc văn hóa, thuần phong mỹ tục của dân tộc, có thái độ ứng xử văn minh, lịch sự nhằm nâng cao hình ảnh con người và du lịch Việt Nam. Trách nhiệm bảo vệ môi trường du lịch còn được qui định tại một số điều khác của luật như vấn đề qui hoạch du lịch theo qui định tại điều 18, qui hoạch phát triển du lịch phải đảm bảo nguyên tắc bảo vệ, phát triển tài nguyên du lịch và môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. điều 19 qui định trong qui hoạch du lịch phaỉ có nội dung đánh giá tác động môi trường và các giải pháp bảo vệ tài nguyên du lịch và môi trường. Trong các qui định về nhiệm vụ của khách du lịch, các tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch cũng đều có nghĩa vụ bảo vệ môi trường. Vấn đề bảo đảm an ninh, an toàn cho khách du lịch: Điều 45, 50, 52 luật qui định doanh nghiệp lữ hành có trách nhiệm mua lẻ bảo hiểm bắt buộc cho du khách là người Việt Nam đi du lịch nước ngoài…. IV.Giải pháp đánh giá tác động và giám sát môi trường du lịch: 1.Dự báo các chỉ tiêu cơ bản về hoạt động du lịch: Dự báo về nguồn khách du lịch : các chỉ tiêu dự báo về khách du lịch gồm tổng số lượt du khach trong và ngoài nước. Cơ cấu du khách quốc tế, số ngày lưu trú trung bình, tổng số ngày lưu trú của du khách trong nước và du khách quốc tế. Cơ cấu chi tiêu của du khách. Các thị trường mục tiêu và thị trường gửi khách. Dự báo về du khách quốc tế: Dự báo về du khách nội địa: Dự báo về chỉ tiêu doanh thu từ hoạt động kinh doanh du lịch:dư báo thu nhập từ du khách được tính bằng(dự báo thu nhập từ du khách quốc tế +dự báo thu nhập từ du khách nội địa)x 1,3 Dự báo thu nhập từ du khách quốc tế = dự báo số lượng du khách quốc tế x Dự báo số ngày lưu trú trung bình/ 1 khách x Mức chi tiêu 1 ngày / 1 du khách quốc tế. Dự báo thu nhập từ du khách nội địa = dự báo số lượng du khách nội địa x Dự báo số ngày lưu trú trung bình/ 1 khách x Mức chi tiêu 1 ngày / 1 du khách nội địa. Dự báo về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ du lịch: Dự báo về nhu cầu lao động Dự báo nhu cầu đầu tư: 2. Các giải pháp giảm thiểu tác động tiêu cưc đến môi trường: Tất cả mọi hoạt động của du lịch đều có tác động hai chiều đến tài nguyên và môi trường, để giảm thiểu các tác động tiêu cực, chúng ta phải áp dụng nhiều biện pháp bảo vệ và khôi phục các tài nguyên, tôn trọng giá trị nguyên thủy của nó. Thu hút cộng đồng vào bảo vệ môi trường sử dụng một phần vốn công ích và thu nhập cho du lịch đầu tư cho thu gom, xử lý chất thải, triển khai phát triển mô hình làng du lịch xanh và sạch. Đầu tư cho giáo dục du khách và cộng đồng về giá trị của tài nguyên du lịch nhằm bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa truyền thống, môi trường và du lịch, lôi cuốn cộng đồng vào các hoạt động kinh doanh du lịch và bảo tồn tài nguyên du lịch Cần xây dựng và triển khai các luật du lịch và các qui định trong việc phối hợp chặt chẽ giữa các ban ngành, các cấp quản lý, các tổ chức xã hộ trong việc bảo tồn, khai thác gía trị tài nguyên. Có kế hoạch phân vùng chức năng trên địa bàn để xác định khu vực bảo vệ, và khu vực tham quan của danh thắng, khu di tích lịch sử, khu dự trữ sinh quyển, các vườn quốc gia.Có thời gian để khôi phục tài nguyên hợp lý. Tăng cường công tác thống kê, và áp dụng các phương pháp tiên tiến của khoa học kĩ thuật trong việc bảo tồn và phát huy tài nguyên du lịch. V. Giải pháp tăng cường đầu tư trong đào tạo và sử dụng nguồn nhân lực du lịch Trong đào tạo du lịch, bên cạnh các bài giảng về lý thuyết, cần tăng cường thực hành, tổ chức nhiều chuyến đi thực tế, lý luận có gắn liền với thực tiễn thì lý luận đó sẽ không phải là lý thuyết suông. Cần nâng cao cơ sở vật chất trong môi trường đào tạo.Cơ sở vật chất càng đầy đủ, tiện nghi thì việc tiếp thu bài học sẽ tốt hơn.Trong thời gian gần đây, một số trường đã hướng đầu tư vào cơ sở vật chất để nâng cao đào tạo. Trong đó, Saigontourist đã có đề án xây dựng khách sạn, làm nơi thực tập cho học sinh Trường Trung học Nghiệp vụ Du lịch Khách sạn TPHCM. Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về nguồn nhân lực trong du lịch, các trường đào tạo về lĩnh vực du lịch được xây dựng.Trong những năm qua ngành Du lịch đã quan tâm đến việc phát triển nguồn nhân lực phục vụ du lịch. Nếu như trước năm 1990, cả nước chỉ có 3 trường đào tạo công nhân khách sạn du lịch tại Hà Nội, Vũng Tàu, TP.HCM thì hiện nay cả nước có trên 40 trường Đại học có khoa du lịch, khoảng 40 trường cao đẳng du lịch, 43 trường Trung cấp du lịch. Ngoài ra còn có nhiều trung tâm đào tạo nghề và trung tâm giáo dục thường xuyên tổ chức đào tạo các nghề về phục vụ bàn và nấu ăn. Hàng năm đào tạo hàng chục ngàn học sinh và sinh viên làm việc trong ngành Du lịch. Đào tạo một nhân viên du lịch không chỉ là việc đào tạo kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ mà bên cạnh đó phải đào tạo cả vấn đề đạo đức nghề nghiệp cho họ. Theo ông Steven Chua, Chủ tịch thường trực Viện đào tạo du lịch Shatec - Singapore, lớp người trẻ hiện nay rất có tư duy, cách nghĩ, cách làm rất khác với hệ thống chuẩn mực trước đây. TS Steven cho rằng, đào tạo một nhân viên du lịch để phục vụ khách hàng trong giai đọan hiện nay, không thể chỉ đào tạo cho họ kỹ năng nghề mà còn là đào tạo một lối sống, đào tạo về mặt con người khi anh ta trở về gia đình và hòa nhập với xã hội. Hình thức đào tạo không phải là giảng viên nói gì thì trò nghe lấy mà chúng ta phải tạo điều kiện cho người học phát huy cảm nghĩ, khả năng sáng tạo của mình. Theo TS. Michael Heah, Chủ tịch Corporate Coach Academy, Malaysia cho rằng, rõ ràng lớp trẻ hiện nay có những khác biệt rõ rệt với thế hệ trước. Điều đó cần được chấp nhận, thích nghi và tạo điều kiện để lớp người lao động mới có thể phát huy hết năng lực sáng tạo của họ, kể cả những sáng tạo phá vỡ nguyên tắc truyền thống. Rất có thể những sáng tạo của họ có thể tạo nên những hệ thống nguyên tắc mới, tạo nên sự thay đổi đáng kể cho sự phát triển của doanh nghiệp. Bên cạnh đó phải nâng cao tầm quan trọng về việc học ngoại ngữ cho học viên để đáp ứng nhu cầu gủa du khách quốc tế. Tạo cơ hội cho học viên trao đổi, học hỏi, giao lưu với các nước bạn để bổ sung kiến thức thực tế. Trong lĩnh vực du lịch, đến nay Singapore đã giúp Việt Nam đào tạo gần 2.000 cán bộ, nhân viên du lịch và đầu tư khoảng 1,28 tỷ USD vào gần 20 dự án du lịch tại Việt Nam. Trong sử dụng nguồn nhân lực Sử dụng lao động phải dựa trên nguyên tắc tác động lẫn nhau, tức là phải có sự tác động 2 chiều giữa nhà tuyển dụng và nhười được tuyển dụng. Về vấn đề này, TS. Steven Chua cho rằng, để phát huy hết khả năng của nguồn nhân lực, các DN cần tạo ra mối tương tác giữa người sử dụng lao động. Nghĩa là, không chỉ có DN tuyển dụng, đánh giá nhân viên mà nên tạo điều kiện để nhân viên đánh giá DN, nói lên lý do tại sao họ chọn DN cuả mình mà không phải là DN khác, những khó khăn của họ ở DN trước khi đến với bạn là gì... Trong mỗi lĩnh vực chuyên trách, chúng ta cần đưa ra tiêu chuẩn tuyển chọn khác nhau.Chẳng han như: cán bộ quản lý, những hướng dẫn viên du lịch của các công ty du lịch lữ hành, những nhân viên phục vụ buồng, bàn, bar, lễ tân… ở các công ty khách sạn, nhà nghỉ. Đội ngũ trên cần được tuyển chọn đào tạo và bồi dưỡng để có trình độ cao, thuần thục về nghiệp vụ, và biết sử dụng ngoại ngữ… Ở các nhà bảo tàng, nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhiều điểm di tích lịch sử cách mạng khác còn có cả đội ngũ những người chuyên trách thuyết minh; đội ngũ này rất cần thiết và đòi hỏi có trình độ chuyên môn cao, truyền đạt hấp dẫn, độc đáo về trang phục, duyên dáng về hình thức, giọng nói dịu dàng sâu lắng để lưu lại trong lòng du khách những ấn tượng tốt đẹp và làm tôn cao giá trị của di tích lịch sử, văn hóa. Trong sử dụng lao động, cần huy động tổng hợp mọi nguồn lực phục vụ du lịch.Cụ thể là những người góp phần quảng bá cho du lịch: Họ là những nhà báo, nhà văn, nhà thơ, những nhạc sĩ, ca sĩ, họa sĩ, nhà nhiếp ảnh… với những tác phẩm, bài ca, giới thiệu về quê hương.Đối với “du lịch về nguồn” thì những nhân chứng lịch sử là một “nguồn nhân lực đặc biệt quý”.Ví dụ như, Du khách đến thăm Nhà tưởng niệm Chủ tịch Hồ Chí Minh tại xóm Đèo De, xã Phú Đình (Định Hóa) mà lại được gặp gỡ và nghe chính các cụ, những người dân bản đã ở gần hay được tham gia phục vụ Bác Hồ. Bên cạnh đó, cần huy động nguồn nhân lực của ngành thủ công mỹ nghệ thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau để các cơ sở sản xuất được nhiều sản phẩm mặt hàng lưu niệm, các gia đình làm chè có nhiều loại trà ngon, các nhà hàng làm ra các đồ ẩm thực đặc sản địa phương; để đến tham quan nơi đâu, du khách cũng có thể mua được những quà lưu niệm ở nơi mà họ đang du lịch.. VI. Hợp tác quốc tế trong bảo vệ môi trường du lịch : Do ngành du lịch liên quan rất chặt chẽ giữa các nước trên thế giới. Chính vì vậy mà cần có sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia nhằm phát triển du lịch một cách bền vững cũng như bảo vệ môi trường chung của thế giới .nhận ra tầm quan trọng của việc hợp tác quốc tế trong phát triển du lịch, nhà nước đã ban hành bộ luật du lịch trong đó có những điều quy định cụ thể về việc hợp tác quốc tế trong phát triển du lịch. Cụ thể như sau : “Chương IX Điều 83. Chính sách hợp tác quốc tế về du lịch Nhà nước đẩy mạnh hợp tác quốc tế về du lịch với các nước, các tổ chức quốc tế trên cơ sở bình đẳng, cùng có lợi; phù hợp với pháp luật mỗi bên, pháp luật và thông lệ quốc tế nhằm phát triển du lịch, gắn thị trường du lịch Việt Nam với thị trường du lịch khu vực và thế giới, góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc. Điều 84. Quan hệ với cơ quan du lịch quốc gia của nước ngoài, các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực 1. Cơ quan quản lý nhà nước về du lịch ở trung ương theo chức năng và trong phạm vi phân cấp thực hiện quyền và trách nhiệm đại diện cho Việt Nam trong hợp tác du lịch song phương, đa phương với cơ quan du lịch quốc gia của nước ngoài và trong các tổ chức du lịch quốc tế và khu vực. 2. Việc đặt văn phòng đại diện của cơ quan du lịch của nước ngoài, của tổ chức du lịch quốc tế và khu vực tại Việt Nam được thực hiện theo quyết định của Thủ tướng Chính phủ. Chương X Thanh tra du lịch, giải quyết yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch Điều 85. Thanh tra du lịch 1. Thanh tra du lịch thực hiện chức năng thanh tra chuyên ngành về du lịch. 2. Tổ chức và hoạt động của thanh tra chuyên ngành về du lịch được thực hiện theo quy định của pháp luật. Điều 86. Giải quyết yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch 1. Yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch phải được tiếp nhận và giải quyết kịp thời theo quy định của pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của khách du lịch. 2. Tại đô thị du lịch, khu du lịch và nơi có lượng khách du lịch lớn thì cơ quan nhà nước về du lịch cấp tỉnh tổ chức việc tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch. 3. Yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch được gửi đến tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch hoặc tổ chức tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch quy định tại khoản 2 Điều này để giải quyết hoặc chuyển đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết. Trường hợp tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch, tổ chức tiếp nhận yêu cầu, kiến nghị của khách du lịch quy định tại khoản 2 Điều này không giải quyết hoặc khách du lịch không đồng ý với việc giải quyết đó thì có quyền khiếu nại hoặc khởi kiện theo quy định của pháp luật. Chương XI : Điều khoản thi hành Điều 87. Điều khoản thi hành 1. Luật này có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2006. 2. Pháp lệnh du lịch ngày 08 tháng 02 năm 1999 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực. 3. Khu du lịch quốc gia, đô thị du lịch được công nhận, cơ sở lưu trú du lịch được xếp hạng, tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch được cấp giấy phép kinh doanh lữ hành quốc tế, hướng dẫn viên du lịch được cấp thẻ hướng dẫn viên trước khi Luật này có hiệu lực thi hành mà không trái với quy định của Luật này thì vẫn có hiệu lực thi hành; trường hợp không có đủ các điều kiện theo quy định của Luật này thì phải điều chỉnh cho phù hợp. Điều 88. Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật này. Luật này được Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14 tháng 6 năm 2005.” Bên cạnh đó, nhà nước ta cùn khẳng định rằng “Việt Nam cần tăng cường củng cố và mở rộng hợp tác song phương và hợp tác đa phương với các tổ chức quốc tế, các nước có khả năng và kinh nghiệm phát triển du lịch. Thực hiện tốt hợp tác du lịch với các nước đã thiết lập quan hệ hợp tác, nhất là hợp tác du lịch Việt Nam - Lào - Campuchia, Việt Nam - Lào - Thái Lan, Việt Nam - Lào - Campuchia- Thái Lan - Myanmar; tiểu vùng Mêkông mở rộng, hợp tác du lịch sông Mêkông - sông Hằng. Thực hiện các cam kết và khai thác quyền lợi trong hợp tác du lịch với Tổ chức Du lịch thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu á - Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội du lịch Châu Á - Thái Bình Dương (PATA) và Hiệp hội du lịch Đông Nam á (ASEANTA), Liên minh châu Âu (EU). Chuẩn bị điều kiện để hội nhập ở mức cao với du lịch thế giới khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi để thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các khu du lịch, các dự án tạo sản phẩm du lịch đặc thù, chất lượng cao. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ODA cho phát triển nguồn nhân lực, công nghệ và bảo vệ môi trường du lịch. (Theo quyết định của thủ tướng chính phủ - phê duyệt chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 -2010) Chủ động tham gia hợp tác song phương, đa phương, khai thác tốt quyền lợi hội viên và thực hiện các nghĩa vụ của mình. Chuẩn bị các điều kiện để hội nhập du lịch ở mức cao, trước hết là chuẩn bị các điều kiện để khai thác những yếu tố về du lịch trong việc thực thi Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ và cũng như khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO). Hướng dẫn và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xây dựng kế hoạch, giải pháp để thực hiện cam kết quốc tế trong du lịch nói riêng và trong hợp tác kinh tế quốc tế nói chung, nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường, tăng thị phần trên thị trường truyền thống và khai thông, nâng dần vị thế trên thị trường mới. Khuyến khích và tạo điều kiện để hỗ trợ doanh nghiệp Việt Nam đầu tư du lịch ra nước ngoài. Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ du lịch với các nước để vừa tranh thủ vốn đầu tư, công nghệ, kỹ thuật, kinh nghiệm quản lý..., vừa tiếp tục tạo lập và nâng cao hình ảnh và vị thế của du lịch Việt nam ở khu vực và trên thế giới. VII. Kiến nghi cụ thể đối với các cấp từ trung ương tới địa phương Tăng cường hơn nữa việc kiểm tra việc thực hiện các luật về bảo vệ môi trường du lịch. Đặc biệt là luật bảo vệ tài nguyên du lịch tự nhiên Nghiêm cấm các hoạt đọng xây dựng nhà hang kkhách sạn ảnh hưởng tới cảnh quan tự nhiên. Có biện pháp đốc thúc xây dựng các công trình du lịch cũng như cơ sở hạ tầng một cách nhan chóng và có chất lượng tốt, đạt đúng tiêu chuẩn tạo cảnh quan đẹp, phù hợp với hoàn cảnh xung quanh. Xây dựng theo quy hoạch tránh xây dựng tràn lan. Phát triển lloại hình du lịch vì người nghèo. Chia sẻ lợi ích hợp pháp với cộng đồng dân địa phương .Đảm bảo việc bảo vệ, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống. Có chính sách định hướng rõ cho phát triển du lịch Tài liệu tham khảo 1. Ts.Trần Văn Thông - Tổng quan du lịch, Trường Đại Học Dân Lập Văn Lang ( Lưu hành nội bộ ), năm 2. Phạm Trung Lương - Tài nguyên và môi trường du lịch Việt Nam, NXB Giáo Dục, năm 2000 3. Bùi Thị Hải Yến - Quy hoạch du lịch,NXB Giáo Dục, năm2007 4. NXB Chính Trị Quốc Gia - Luật du lịch Việt Nam, , năm 2006 5. Lê Văn Thắng (chủ biên ) - Giáo trình du lịch và môi trường , NXB Đại Học Quốc Gia Hà Nội, 2008 6. Quỹ bảo tồn tài nguyên thế giới.Chiến lược quản lý hệ thống khu bảo tồn tại Việt Nam 2002 – 2010. Dự án tăng cường công tác quản lý hệ thống khu bảo tồn tại Việt Nam 7. Lương Minh Trung - Môi trường du lịch 8. Nguyễn Minh Tuệ - địa lý du lịch, NXB Tp.Hồ Chí Minh, 1999 Và các trang web: - www.moitruongdulich.com.vn - www.vqg.com.vn - www.vietnamtourism.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doctac_dong_cua_du_lich_den_moi_truong_4204.doc