• Các yếu tố kinh tế thế giới tác động mạnh mẽ đến kinh doanh của các doanh nghiệp ở mọi nước tham gia vào quá trình khu vực hoá và toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới. Khi tăng trưởng kinh tế sẽ bùng nổ về chi tiêu cho hàng hoá đem lại sự thoải mái về sức ép cạnh tranh trên thị trường. Ngược lại khi nền kinh tế có những dấu hiệu suy giảm thì cạnh tranh về giá trong các ngành bão hoà ngày càng gay gắt, nó tạo ra những thách thức và cơ hội cho các doanh nghiệp trên thị trường.
• Mức lãi suất, tỷ giá hối đoái đều có những tác động đến nhu cầu về sản phẩm của doanh nghiệp. Sự dịch chuyển tỷ giá hối đoái có tác động trực tiếp lên tính cạnh tranh của doanh nghiệp trong môi trường toàn cầu. Ví dụ như khi giá trị nội tệ thấp so với giá trị của các đồng tiền khác, các sản phẩm làm trong nước sẽ rẻ tương đối so với các sản phẩm của nước ngoài dẫn đến giảm mối đe doạ tư các đối thủ cạnh tranh nước ngoài tạo cơ hội tăng doanh số bán hàng.
32 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1127 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c yếu tố khác thuộc môi trường tổng quát. Những diễn biến của môi trường kinh tế bao giờ cũng chứa đựng những cơ hội và thách thức khác nhau đối với từng doanh nghiệp trong các ngành khác nhau và có ảnh hưởng tiềm tàng đến các chiến lược của doanh nghiệp.
Lãi suất và xu hướng của lãi suất trong nền kinh tế có ảnh hưởng tới hoạt động của các doanh nghiệp. Lãi suất tăng sẽ hạn chế nhu cầu vay vốn để đầu tư mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh ảnh hưởng tới mức lời của các doanh nghiệp. Đồng thời lãi suất tăng sẽ khuýên khích người dân gửi tiền vào các ngân hàng nhiều hơn và do vậy sẽ làm cho nhu cầu tiêu dùng giảm sút.
Lạm phát: đây cũng là nhân tố quan trọng cần phải được xem xét và phân tích kĩ trước khi quyết định đầu tư hay mở rộng sản xuất. Lạm phát quá cao sẽ không khuyến khích tiết kiệm tạo ra những rủi ro lớn cho sự đầu tư của các doanh nghiệp, sức mua của xã hội cũng bị giảm sút và làm nền kinh tế bị đình trệ. Trái lại việc giảm phát cũng làm cho nền kinh tế rơi vào trạng thái trì trệ. Việc duy trì một tỷ lệ lạm phát vừa phải có tác động khuyến khích đầu tư và kích thích sự tăng trưởng của nền kinh tế.
Nền kinh tế quốc dân tăng trưởng với tốc độ cao sẽ tác động đến nền kinh tế quốc dân tạo nhiều cơ hội cho đàu tư mở rộng hoạt động sản xúat kd của doanh nghiệp và khi nền kinh tế có những dấu hiệu suy thoái thì sẽ làm giảm chi phí tiêu dùng tăng lực lượng cạnh tranh trong ngành và thông thường sẽ gây nên cạnh tranh về giá.
Nhân tố luật pháp và quản lí nhà nước về kinh tế:
Chính trị là yếu tố đầu tiên mà các nhà đầu tư , nhà quản trị của các doanh nghiệp quan tâm phân tích nhằm dự báo mức độ an toàn trong các hoạt động tại khi vực nơi mà doanh nghiệp đang có mối quan hệ mua bán hay đầu tư. Các yếu tố như thể chế chính trị, sự ổn định hay biến động về chính trị tại quốc gia hay khu vực mà các doanh nghiệp đầu tư hay kinh doanh đều là những tín hiệu ban đầu giúp các nhà quản trị nhận diện được đâu là cơ hội đâu là nguy cơ để ra các quyết định đầu tư hay sản xuất kinh doanh.
Việc tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh hay không lành mạnh hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố luật pháp và quản lý nhà nước về kinh tế. Việc ban hành hệ thống luật pháp có chất lượng là điều kiện đầu tiên để đảm bảo môi trươờng kinh doanh bình đẳng cho các doanh nghiệp, buộc các doanh nghiệp phải kinh doanh chân chính có trách nhiệm với người tiêu dùng và xã hội. Tuy nhiên nếu hệ thống pháp luật không hoàn thiện cũng sẽ gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp tạo ra môi trường kinh doanh không lành mạnh. Chỉ cần một thay đổi nhỏ trong luật pháp như thuế, đầu tư sẽ ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Ví dụ như pháp lệnh Bưu chính viênc thông ra đời cho phép mọi thành phần kinh tế tham gia cung cấp các dịch vụ chuyển phát thư đã tạo cơ hội cho một số doanh nghiệp tham gia lĩnh vực cung cấp các dịch vụ viễn thông nhưng lại là một nguy cơ đối với VNPT khi phải đối mặt với rất nhiều đối thủ cạnh tranh trên thị trường.
Nhân tố kĩ thuật- công nghệ:
Đây là một yếu tố rất năng động chứa đựng rất nhiều cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp. Công nghệ bùng nổ liên tiếp, luôn mang trong nó sự phá huỷ và sự sáng tạo.
Trong xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế, với trình độ khoa học kĩ thuật hiện tại, hiệu quả của các hoạt động ứng dụng chuyển giao công nghệ đã đang và sẽ ảnh hưởng trực tiếp và mạnh mẽ đến hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp trong nước làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp một cách đáng kể.
Sự phát triển công nghệ gắn liền với công nghệ thông tin. Việc ứng dụng có chất lượng và hiệu quả công nghệ thông tin vào lĩnh vực thu thập xử lí lưu trữ truyền đạt thông tin kinh tế- xã hội sẽ nâng cao khả năng tiếp cận và cập nhập thông tin thị trường kinh tế . tạo điều kiện cho việc ra các quyết định kinh doanh đúng đắn.
Nhân tố tự nhiên
Điều kiện tự nhiên bao gồm vị trí địa lý, cảnh quan thiên nhiên, đất đai, sông núi, rừngcác điều kiện tự nhiên luôn là một nhân tố quan trọng trong cuộc sống con người đặc biệt nó là một nhân tố đầu vào hết sức cần thíêt cho một số ngành kinh tế quan trọng như nông nghiệp công nghiệptrong một số trường hợp thì điều kiện tự nhiên thuận lợi đã hình thành nên lợi thế cạnh tranh mạnh mẽ.
Vật chất của trái đất có loại hữu hạn có loại vô hạn có loại có thể tái tạo được và có loại không thể tái tạo được. Những nguồn tài nguyên hữu hạn như rừng để lấy gỗ, chúng ta đã mất rất nhiều năm để trồng cây lấy gỗ nhưng do việc chặt phá rừng bừa bãi không có những quy hoạch cụ thể đã tạo cho rất nhiều ngành của chúng ta lâm vào tình trạng thiếu trầm trọng những nguồn nguyên liệu đầu vào là những sản phẩm từ gỗ.
Phân tích môi trường cạnh tranh ngành:
Một ngành là một nhóm các công ty cung cấp các sản phẩm hay dịch vụ có thể thay thế chặt chẽ với nhau. Trong cạnh tranh các công ty trong ngành có ảnh hưởng lẫn nhau. Nói chung mỗi ngành bao gồm một hỗn hợp đa dạng các chiến lược mà các công ty theo đuổi nhằm tạo chỗ đứng trên thị trường đạt được mức thu nhập cao hơn trung bình.
Phân tích ngành và cạnh tranh ngành là việc làm sáng tỏ các vấn đề then chốt như các đặc tính kinh tế nổi bật của ngành, các lực lượng cạnh tranh đang hoạt động trong ngành ,bản chất và sức mạnh của mỗi lực lượng? ai là người có thể tạo ra các tác động làm thay đổi trong ngành
Khách hàng:
Khách hàng là những cá nhân hay tập thể, tổ chức có nhu cầu về sản phẩm hay dịch vụ mà doanh nghiệp đang cung cấp. Mối quan hệ giữa khách hàng và doanh nghiệp là mối quan hệ giữa người mua và người bán là mối tương quan về thế lực.Khách hàng là đối tương có ảnh hưởng rất mạnh đến sự phát triển hay tồn vong của doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường khách hàng là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp, mọi nỗ lực của doanh nghiệp đều hướng tới khách hàng nhằm thu hút được sự chú ý của khách hàng đến sản phẩm hay dịch vụ của mình.
Nhu cầu của khách hàng là phạm trù không giới hạn, doanh nghiệp nào biết khai thác và biến nhu cầu của họ thành cầu thì doanh nghiệp đó nắm chắc phần thắng trong tay và ngược lại. Do đó khi tìm hiểu về môi trường kinh doanh để hoạch định các kế hoạch, chiến lược thì thông tin về khách hàng luôn được các nhà quản trị chú trọng thu thập phân tích và tìm hiểu đầu tiên.
Đối thủ cạnh tranh hiện tại:
Số lượng quy mô và sức mạnh của từng đối thủ cạnh tranh hiện tại đều có ảnh hưởng đến chiến lược của doanh nghiệp. Mức độ cạnh tranh cao thì dẫn đến mức giá cạnh tranh giảm, dẫn đến lợi nhuận của doanh nghiệp cũng giảm. Nếu ngành có tốc độ tăng trưởng cao thì mức độ cạnh tranh lại không gay gắt vì chiếc bánh thị phần đã đủ chỗ cho các đối thủ. Ngược lại khi tốc độ tăng trưởng của ngành chậm lại sẽ biến cuộc cạnh tranh của doanh nghiệp thành chiếm giữ giành giât thị phần.
Theo M.Porter thì các vấn đề sau sẽ ảnh hưởng đến sự cạnh tranh của các đối thủ: số lượng, mức độ tăng trưởng, chi phí lưu kho, chi phí cố định khi các nhà quản trị nhận diện rõ về đối thủ cạnh tranh về thế và lực của đối thủ thì sẽ có những biện pháp thích hợp trong việc đầu tư hay sản xuất kinh doanh
Các đối thủ tiềm ẩn:
Đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn là những doanh nghiệp mới xuất hiện hoặc sẽ xuất hiện trên khu vực thị trường mà doanh nghiệp đã và sẽ hoạt động. Tác động của các doanh nghiệp này đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đến đâu hoàn toàn phụ thuộc vào sức mạnh cạnh tranh của các doanh nghiệp đó như quy mô công nghệsự xuất hiện các đối thủ mới này còn làm thay đổi sức cạnh tranh trong ngành , gia tăng mức độ cạnh tranh của ngành.
Các nhân tố tác động đến quá trình tham gia thị trường của các đối thủ mới như các rào cản gia nhập thị trường, hiệu quả kinh tế của quy mô, bất lợi về chi phí do các nguyên nhân khác, sự tiếp cận các đường dây phân phối, các chính sách thuộc quản lý vĩ mô.
Sức ép từ nhà cung cấp:
Các nhà cung cấp hình thành các thị trường cung cấp các yếu tố đầu vào khác nhau bao gồm cả người bán thiết bị sản xuất, người bán nguyên nhiên liệu đầu vào, những người cấp vốn cho doanh nghiệp
Tính chất của cac nhà cung cấp khác nhau sẽ có ảnh hưởng mức độ khác nhau tới hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể xem nhà cung cấp như là một nguy cơ cho doanh nghiệp khi họ đòi tăng giá hoặc giảm chất lượng sản phẩm cung cấp thông qua đó làm sụt giảm lợi nhuận của doanh nghiệp cách đáng kể. Chính vì vậy các nhà quản trị phải xem xét cập nhập thường xuyên thông tin dữ liệu của nhà cung cấp để có những định hướng chiến lược lâu dài dảm bảo cho quá trình sản xuất diêcn ra bình thương liên tục đảm bảo chất lượng của sản phẩm.
Sản phẩm thay thế:
Các doanh nghiệp trong một ngành phải cạnh tranh với các doanh nghiệp thuộc ngành khác mà sản phẩm của họ có khả năng thay thế sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Các sản phẩm thay thế hạn chế mức lợi nhuận tiềm năng của một ngành bằng cách đặt ngưỡng tối đa ho mức giá thấp nhất mà các doanh nghiệp sản xuất có lãi. Khi giá của sản phẩm chính tăng sẽ khuyến khích xu hướng sử dụng sản phẩm thay thế điều đó dẫn đến sự cạnh tranh trên thị trường,tạo sức ép đối với doanh nghiệp .
Để giảm sức ép của sản phẩm thay thế doanh nghiệp cần phải luôn chú ý đến khâu đầu tư đổi mới kĩ thuât công nghệ có các giải pháp đồng bộ nâng cao chất lượng sản phẩm của mình để cạnh tranh với các sản phẩm thay thế, luôn chú ý cho việc khác biệt hoá sản phẩm trong từng giai đoạn cụ thể, phù hợp với từng đối tượng khách hàng.
Tác động của môi trường nội bộ doanh nghiệp:
Môi trường nội bộ doanh nghiệp bao gồm hệ thống các yếu tố hữu hình và vô hình tồn tại trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp có ảnh hưởng trực tiếp đến tiến trình quản trị chiến lược. Mỗi doanh nghiệp có môi trườgn nội bộ khác nhau, có điểm mạnh điểm yếu thay đổi trong từng thời kì. Phân tích môi trường nội bộ doanh nghiệp để bíêt mình biết người qua đó các nhà quản trị chiến lược có cơ sở xác định nhiệm vụ đề xuất các mục tiêu hình thành các chiến lược nhằm thích nghi với môi trường kinh doanh
Tác động Marketing:
Marketing là quá trình kế hoạch hoá và thực hiện các ý tưởng liên quan đến việc hình thành xác định giá cả, xúc tiến và phân phối hàng hoá đến tay người tiêu dùng. Nội dung cụ thể của nó phụ thuộc vào các đặc điểm kinh tế- kĩ thuật của doanh nghiệp . Mục tiêu của nó là thoả mãn các nhu cầu mong muốn của khách hàng bên trong và bên ngoài doanh nghiệp, đảm bảo cung cấp sản phẩm đúng chất lượng thời gian, yêu cầu , giá cả
Nó được coi như là con mắt của doanh nghiệp hiện nay, đóng vai trò rất quan trọng đối với các hoạt động của doanh nghiệp.
Tác động của khả năng sản xuất nghiên cứu và phát triển:
Khả năng sản xuất là nhân tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp . Khả năng sản xuất tập trung vào các vấn đề như năng lực sản xuất, quy mô cơ cấu trình độ kĩ thuậtNó tác động trực tiếp đến chi phí kinh doanh, thời hạn sản xuất đáp ứng nhu cầu về sản phẩm tạo ra lợi thế cạnh tranh cho doanh nghiệp.
Hoạt động nghiên cứu và phát triển là hoạt động có mục đích sáng tạo ra sản phẩm dịch vụ mới nhằm khác biệt hoá sản phẩm cải tiến áp dụng các trang thiết bị hiện đại nhằm nâng cao năng suất
Nếu doanh nghiệp quan tâm đúng mức và thích hợp các nhân tố trên sẽ nâng cao năng suất của doanh nghiệp, tạo ra những sự khác biệt về sản phẩm qua đó sẽ thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng nâng cao uy tín thương hiệu của doanh nghiệp tạo ra lợi thế cạnh tranh tốt.
Nguồn nhân lực:
Nguồn nhân lực là một trong các yếu tố rất quan trọng và quýêt định của mỗi doanh nghiệp. Trực tiếp tham gia vào quá trình sản xuất ra sản phẩm, dịch vụ. Chính vì vậy doanh nghiệp luôn cần chú trọng để đảm bảo số lượng lao động, lực lượng đội ngũ quản lý, tạo cho họ niềm tin vào doanh nghiệp, hứng khởi sáng tạo trong lao động quản lý thì doanh nghiệp chắc chắn sẽ thu được nhiều lợi ích như tăng năng suất, đảm bảo chất lượng sản phẩm, tiến độ sản phẩm
Cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp:
Là tổng hợp các bộ phận khác nhau có mối liên hệ và quan hệ phụ thuộc , được chuyên môn hoá được giao những trách nhiệm quyền hạn nhất định được bố trìd theo từng cấp nhằm thực hiện chức năng quản trị doanh nghiệp.
Tác động mạnh mẽ đến hoạt động lao động sáng tạo của đội ngũ lao động, đảm bảo sự cân bằng giữa doanh nghiệp với môi trường bên ngoài cũng như cân đối hiệu quả của môi trường bên trong doanh nghiệp, Chính vì vậy cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp không nên quá cồng kềnh tạo ra sự khó kiểm soát trong doanh nghiệp
Tóm lại để quản lý doanh nghiệp có hiệu quả các nhà quản trị không thể chỉ quan tâm tới môi trường bên ngoài mà cần nắm bắt cốt lõi về các nguồn lực của doanh nghiệp cả về hữu hình và vô hình. Qua đó có các biện pháp thích hợp để tận dụng điểm mạnh hạn chế các điểm yếu của doanh nghiệp nhằm khai thác các cơ hội bên ngoài và hạn chế các đe doạ của thị trường mang lại.
CHƯƠNG 2
PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP SẢN XUẤT GIẤY VIỆT NAM
Ngành giấy Việt Nam trong 20 năm qua đã đạt tốc độ tăng trưởng hàng năm 15%-16%, sản lượng từ 80.000 tấn/năm đã tăng lên tới 824.000 tấn/năm. Năm 2005 khả năng đáp ứng tiêu dùng trong nước của toàn ngành giấy là 61,92%, trong đó giấy in báo đáp ứng 68,42%, giấy in và viết 89,29%, giấy bao bì (không tráng) 71,50%, giấy tráng 5,75% và giấy lụa 96,97%.Hiện nay sản xuất bột giấy ở Việt Nam mới đáp ứng được 37% nhu cầu, còn lại vẫn phải nhập khẩu. Có rất nhiều nguyên nhân của môi trường kinh doanh .
Môi trường vĩ mô :
Môi trường quốc tế
Trước đây cơ chế kinh tế của nước ta là cơ chế đóng của các đơn vị kinh tế ít chịu ảnh hưởng của môi trường Nhưng khi Vịêt Nam mở cửa tham gia vào môi trường quốc tế đã tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức đối với các doanh nghiệp của nước ta nói chung và các doanh nghiệp sản xuất giấy nói riêng. Ngành giấy là một trong những ngành được bảo hộ đầu tiên chịu áp lực cạnh tranh lớn khi bước vào hội nhập. Và thực tế hơn một tuần sau ngày áp dụng mức thuế mới theo AFTA, khoảng cách về giá giữa giấy nội và giấy ngoại đã kéo dài hơn.Trong các mặt hàng giấy đang được sản xuất trong nước hiện nay, hai loại giấy in và giấy viết từ nhiều năm nay luôn chiếm tỷ trọng cao. Chính vì vậy, từ bao lâu nay đây là hai mặt hàng trong ngành giấy được bảo hộ với mức thuế nhập khẩu khá cao 50%, làm cho hàng ngoại dù chất lượng khá cao cũng rất khó có thể cạnh tranh. Tuy nhiên, từ mốc thời điểm 1-7, khi mức thuế nhập khẩu được giảm xuống còn 20%, cuộc cạnh tranh về giá giữa giấy nội và giấy ngoại đã thật sự diễn ra không cân sức. Trong đó, thực chất là "cuộc chiến" giữa các nhà máy giấy trong nước với ngành giấy của hai nước Indonesia và Thái Lan.
Bà Trịnh Mỹ Ngọc - giám đốc Công ty thương mại Khải Hoàn, một trong những doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng giấy có tầm cỡ ở TP Hồ Chí Minh - cho biết hiện nay giá loại giấy viết của Nhà máy giấy Tân Mai định lượng 58-80g/m2 có giá bán 13,5 triệu đồng/tấn. Trong khi đó cùng chủng loại này, giá giấy của Thái Lan và Indonesia (đã bao gồm tất cả loại thuế, phí) đang được chào bán chỉ dao động khoảng 12,7- 13 triệu đồng/tấn so với trước đây khoảng một tháng, giá giấy của họ trên 14 triệu đồng/tấn, và dự kiến sự chênh lệch về giá giữa giấy nội và giấy ngoại sẽ tiếp tục mở rộng. Ngoài ưu thế giá cạnh tranh, về mặt chất lượng giấy của Indonesia, Thái Lan cũng hơn hẳn giấy trong nước về độ sáng trắng hơn, hút ẩm thấp hơn...
Và khi Việt Nam ra nhập tổ chức thương mại thế giới WTO thì các doanh nghiệp sản xuất giấy gặp rất nhiều khó khăn khi cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài khác. Trong một tương lai gần nếu các doanh nghiệp không có các biện pháp tích cực nhằm nâng cao chất lượng giấy hạ giá thành sản phẩm thì chúng ta rất dễ dàng đánh mất thị trường cho các đối thủ khác bởi các rào cản thương mại mang tính bảo hộ sẽ bị dỡ bỏ. Bên cạnh đó, môi trường đầu tư thông thoáng và cởi mở hơn, sẽ thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào sản xuất giấy. Những sản phẩm giấy có chất lượng cao, giá cả phù hợp sẽ có cơ hội phát triển, một số nhà máy giấy 100% vốn nước ngoài với quy mô trung bình 100.000 tấn/năm cũng sắp đi vào hoạt động...Điều này sẽ tạo ra khó khăn cho các cơ sở sản xuất giấy của Việt Nam. Nhất là với những cơ sở nhỏ, sản xuất manh mún, công nghệ lạc hậu và đặc biệt là các cơ sở sản xuất giấy bao bì sẽ không thể tồn tại được bởi chất lượng không đáp ứng được nhu cầu.Đặc biệt những biến động thường xuyên của thị trường thế giới đã tác động trực tiếp đến Việt Nam khoảng cuối năm 2007 những tháng giữa năm 2008 làm cho giá vật tư, nguyên liệu có những biến đổi lớn từng ngày và có những đột biến làm cho các doanh nghiệp giấy gặp rất nhiều khó khăn. Thứ trưởng Bộ Thông tin & Truyền thông Đỗ Quý Doãn cho biết: Khó khăn lớn nhất hiện nay là việc giá giấy tăng cao chưa từng thấy ở Việt Nam. Từ đầu năm đến nay đã có tới 6 lần tăng giá với tỉ lệ tăng lên tới gần 50%.
Khu vực hoá và toàn cầu hoá là xu hướng tất yếu mà mọi doanh nghiệp, mọi ngành mọi chính phủ phải tính đến. Môi trường kinh tế quốc tế đã tạo ra cho các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam những cơ hội và thách thức lớn.
Môi trường kinh tế quốc dân:
Trước những chính sách bình ổn kinh tế của chính phủ Việt Nam đã và đang mang lại hiệu quả đáng kể. Sự thành công của nền kinh tế Việt Nam sau hơn 20 năm đổi mới được đánh giá rất cao: Việt Nam đã chuyển mình để trở thành một trong những nền kinh tế có tốc độ tăng trường GDP bình quân hàng năm thuộc loại cao nhất thế giới (gần 7,5 %/năm) trong suốt 2 thập kỉ qua và là một quốc gia có tình hình chính trị an ninh ổn định đạt được những tiến bộ nhất định về xã hội giáo dục. Chính điều đó đã thu hút các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư trực tiếp vào Việt Nam : Theo Bộ Công nghiệp, các dự án do nhà đầu tư nước ngoài đang nghiên cứu hoặc chuẩn bị triển khai có tổng công suất không dưới một triệu tấn bột và gần 600.000 tấn giấy mỗi năm. Có thể kể ra một số dự án như : dự án của LEE & Man công suất 350.000 tấn giấy và 150.000 tấn bột, dự án của Vina Kraft 220.000 tấn giấy/năm và dự án của Sojitz, Nhật đang nghiên cứu khả thi có công suất 600.000 tấn bột giấy ở Tây Nguyên. Ngoài ra, còn hàng loạt dự án khác của các nhà đầu tư trong nước, gồm Tổng công ty Giấy Việt Nam (Vinapimex), Công ty Giấy Vĩnh Phú, Công ty Bao bì Phú Giang, Công ty Bình An... với công suất từ 50.000-250.000 tấn giấy, bột giấy cho mỗi dự án.
Nền kinh tế Việt Nam tiềm ẩn những bất ổn do quá trình hội nhập sâu rộng với nền kinh tế toàn cầu, độ mở của nền kinh tế lớn với tổng kim ngạch xuất khẩu tương đương 170% GDP, chỉ số giá tiêu dùng có xu hướng tăng nhanh và cao hơn trước, lạm phát cũng tăng nhanh. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp giấy của Việt Nam, làm giá nguyên vật liệu, giá vật tư có những thay đổi lớn từng ngày và có những biến động đột biến làm doanh nghiệp Theo Bộ Công nghiệp, do cung lớn hơn cầu, tình hình tiêu thụ giấy in, giấy viết vẫn rất chậm, đặc biệt là giấy sản xuất trong nước. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu đầu vào như bột giấy, xăng dầu... tăng cao, giá bán sản phẩm lại không tăng tương ứng. Ngành giấy Việt Nam hiện lại phải nhập khẩu một số lượng lớn giấy loại để làm nguyên liệu, trong khi giá giấy thế giới tiếp tục giữ ở mức cao. Chính việc nhập khẩu trên 325.000 tấn giấy (tăng 32% so với cùng kỳ) trong 7 tháng đầu năm đã gây ra sức ép cạnh tranh rất lớn. Đó là nguyên nhân khiến nhiều doanh nghiệp ngành giấy bị lỗ. 6 tháng đầu năm ngoái, các doanh nghiệp sản xuất giấy cũng gặp tình trạng tương tự. Do giá bột giấy trên thị trường thế giới tăng mạnh từ 60-100 USD/tấn, cùng với giá các nguyên liệu đầu vào sản xuất giấy cũng tăng đã làm cho nhiều doanh nghiệp (nhất là những doanh nghiệp phụ thuộc vào bột giấy nhập khẩu) gặp khó khăn.
Về công nghệ, ngành giấy Việt Nam còn lạc hậu và ở trình độ rất thấp. Sản xuất bột giấy là khâu có ảnh hưởng mạnh nhất tới môi trường. trình độ công nghệ giấy hiện nay là rất thấp, đầu tư phân tán, quy mô nhỏ, thiết bị giấy ở các cơ sở ngoài một vài công ty lớn có thiết bị của G7, còn lại thiết bị chủ yếu mang thương hiệu Đài Loan, Trung Quốc. Năng suất lao động và hiệu quả kinh doanh thấp, giá thành cao, chất lương không hoàn hảo. Thương hiệu, uy tín và khả năng cạnh tranh sản phẩm kém. Đội ngũ nhân lực có tỷ lệ đào tạo chính quy bài bản ít, năng lực quản lý, điều hành chưa cao, thiếu khả năng thích ứng với công nghệ mới và quy mô sản xuất lớn.
Theo số liệu điều tra, hiện có khoảng 870.000ha rừng trồng sản xuất và 3,1 triệu ha đất có khả năng trồng rừng đủ điều kiện để phát triển ngành công nghiệp giấy Nhưng trên thực tế, vùng nguyên liệu giấy vẫn có năng suất, chất lượng thấp, hầu hết năng suất bình quân chỉ đạt 40-45m3/ha. Đó là do đất đồi núi không tập trung, địa bàn khó khăn, thường ở vùng sâu và xa..., dân trí thấp. Trồng rừng nguyên liệu giấy lại có chu kỳ kinh doanh dài, rủi ro lớn. Việc quy hoạch đất trồng rừng nguyên liệu giấy thường có sau khi đã quy hoạch các cây nông công, nghiệp khác.Tại Tổng công ty Giấy Việt Nam, rừng trồng nguyên liệu hiện chiếm tỷ lệ đáng kể trong chương trình phát trển rừng toàn quốc. Dự kiến đến 2010, tổng công ty phải trồng trên 600.000ha rừng, chiếm 60% tổng diện tích rừng sản xuất cả nước phải nhập những giống cây có hàm lượng bột cao, chất lượng tốt trên cơ sở điều kiện tự nhiên tương đồng với Việt Nam.
Các ảnh hưởng của nhân tố kinh tế, nhân tố luật pháp và quản lý nhà nước về kinh tế đã tạo được cho doanh nghiệp sản xuất giấy Việt Nam một môi trường kinh doanh lành mạnh, thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước đầu tư vào sản xuất kinh doanh giấy. Bên cạnh đó thì các yếu tố về kĩ thuật công nghệ, điều kiện tự nhiên đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam.
Môi trường cạnh tranh ngành:
Trong môi trường ngành em xin nêu thực trạng của các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam theo mô hình lực lượng của M.Porter về khách hàng, đối thủ cạnh tranh trong ngành, về nhà cung cấp nguyên liệu.
Khách hàng:
Năm 2006, sản lượng của ngành giấy đạt 997,4 ngàn tấn, tăng 10,2% so với năm 2005. Tuy nhiên do nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm giấy tăng mạnh (khoảng 1,57 triệu tấn) nên để đáp ứng nhu cầu, ngành giấy đã tích cực mở rộng, xây dựng các cơ sở mới, gia tăng sản lượng. Hiệp hội Giấy cũng dự báo, nhu cầu giấy tiêu dùng năm 2009 sẽ lên tới 2,7 triệu tấn, tăng 21% so với năm 2008. Trong khi đó, năng lực sản xuất dù tăng tới 24% nhưng cũng chỉ đạt 1,617 triệu tấn. Như vậy, để đáp ứng nhu cầu, ngành Giấy sẽ phải nhập khẩu trên 1 triệu tấn giấy, tăng khoảng 16%, nhập khẩu 191.000 tấn bột, tăng 19,31%. Hiện nay, ngành giấy chỉ mới đáp ứng được 71,9% nhu cầu về in báo, 88,4% giấy in và viết, 55% làm bao bì lớp mặt, 43,5% làm bao bì lớp giữa, 7,3% giấy tráng phấn, 97,6% giấy tissue và 100% giấy vàng mã, còn lại phải nhập khẩu.
Trước điều kiện hội nhập nền kinh tế thế giới, các doanh nghiệp giấy Việt Nam đang đứng trước nguy cơ mất ngay các khách hàng nội địa do yêu cầu về chất lượng của giấy cũng như giá thành rẻ. Để đáp ứng những đòi hỏi của khách hàng các doanh nghiệp đã có những biện pháp thích hợp như công ty giấy Tân Mai với chất lượng giấy in báo truyền thống, chiếm khoảng 45% trong tổng sản lượng của Công ty và luôn tự hào là sản phẩm giấy in báo duy nhất được sản xuất tại Việt Nam với chất lượng in tương đương giấy báo cùng loại trong khu vực. Ngoài giấy in báo, Tân Mai còn sản xuất một số sản phẩm khác như: giấy in, giấy viết, giấy photocopy với các độ trắng từ 80-95ISO và cung cấp hơn 45.000 tấn cho thị trường trong nước, riêng dòng sản phẩm giấy trắng cao cấp 90-95ISO chuyên dùng sản xuất các ấn phẩm cao cấp được thị trường đánh giá rất cao về chất lượng và đang thay thế dần nguồn sản phẩm giấy cao cấp ngoại nhập. Sản phẩm giấy Photocopy văn phòng của Tân Mai xuất hiện khắp các gian hàng giấy văn phòng phẩm tại hệ thống siêu thị Metro cả nước. Ngoài ra thông qua các nhà chuyên sản xuất giấy tập văn phòng, Giấy Tân Mai cũng được xuất khẩu qua Mỹ dưới hình thức tập vở Ngoài ra các doanh nghiệp sản xuất giấy khác như Tổng công ty giấy Bãi Bằng cũng có rất nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giấy về độ trắng, độ dày, đồng thời giảm chi phí kinh doanh nhằm hạ giá thành sản phẩm thoả mãn không chỉ người tiêu dùng trong nước mà còn cả thị trường thế giới.
Các đối thủ cạnh tranh tiềm ẩn và hiện tại:
Các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam đang đứng trước rất nhiều đối thủ cạnh tranh không chỉ trong và ngoài nước. Khi Việt Nam gia nhập WTO, rất nhiều dự án lớn của các tập đoàn giấy hàng đầu thế giới đã vào Việt Nam xem đây là một thị trường hết sức tiềm năng. Nếu như từ 2000 đến 2006, mới chỉ có một công ty 100% vốn FDI là Công ty New Toyo (Nhật Bản) đầu tư vào Việt Nam thì trong hai năm qua, nhiều dự án khởi công, góp phần đưa ngành này đã cân đối hơn giữa bột và giấy; giữa giấy thành phẩm thông dụng và giấy phục vụ sản xuất công nghiệp. tháng 9/2006 Công ty Chánh Dương (Đài Loan) đã đưa dây chuyền sản xuất với công suất 100 nghìn tấn giấy bao bì/năm đi vào hoạt động. Tiếp đó, ngày 5/7/2007, có thêm một dự án của Thái Lan động thổ và ngày 6/8/2007, khởi công dự án Lee & Man (Hồng Công) được trên diện tích 200 ha tại Khu công nghiệp Sông Hậu, tỉnh Hậu Giang. Dự án này được coi là lớn nhất từ trước tới nay với tổng mức đầu tư 1,2 tỷ USD. Giai đoạn I, dự án cho sản lượng 330 nghìn tấn bột tẩy trắng và 420 nghìn tấn giấy mỗi năm. Đồng thời, cũng trong 2007, Chính phủ đã cho phép Nhà máy giấy Bãi Bằng mở rộng giai đoạn II với công suất 250 nghìn tấn bột giấy/năm. Ngoài các dự án trên, còn có hàng loạt dự án khác đã khởi công hoặc cấp chứng nhận đầu tư. Trong đó, phải kể đến dự án Vina Kraff 220 nghìn tấn giấy/năm, dây chuyền máy seo 150 nghìn tấn/năm của giấy An Bình. Đến năm 2008 hàng lạot dự án được thực hiện như: Dự án nâng cấp 2 máy xeo giấy hiện nay tăng công suất lên 30% dự kiến hoàn thành năm 2009; Dự án Bột tái sinh khử mực (DIP) của Cty Giáy Tissue Sông Đuống sẽ hoàn thành tháng 10/2008. Cty Giấy Tân Mai cũng đang có kế hoạch đầu tư các Nhà máy sản xuất bột giấy và giấy tại các tỉnh Kon Tum, Lâm Đồng, Quảng Ngãi và Đồng Nai có tổng công suất 480.000 tấn giấy và 430.000 tấn bột/năm với tổng vốn đầu tư thực hiện cả 4 dự án khoảng 6.070 tỷ đồng. Cụ thể: Dự án đầu tư Nhà máy bột giấy và giấy Tân Mai - Tây Nguyên công suất 130.000 tấn giấy, 100.000 tấn bột giấy hoàn thành năm 2012; Nhà máy giấy Tân Mai - Miền Đông công suất 150.000 tấn giấy in báo/năm dự kiến năm 2010 sẽ hoàn thành; Dự án Nhà máy bột giấy Tân Mai - Lâm Đồng công suất 200.000 tấn bột dự kiến năm 2010 sẽ hoàn thành. Dự án Nhà máy bột giấy và giấy Tân Mai – Quảng Ngãi công suất 200.000 tấn giấy và 130.000 tấn bột sẽ hoàn thành năm 2011. Đặc biệt, Cty TNHH Lee & Man Hậu Giang cũng đang đầu tư nhà máy công suất 330.000 tấn bột, 420.000 tấn giấy làm bao bì. Cty CP giấy An Hòa đầu tư dây chuyền sản xuất 130.000 tấn bột; Cty CP giấy Sài Gòn - Bình Định công suất 140.000 tấn bột; Cty CP Giấy và Bột giấy Việt - Lào - Hà Tĩnh công suất 130.000 tấn bột/năm. Các nhà máy đều đi vào hoạt động năm 2010 và rất nhiều dự án khác. Riêng Tập đoàn APP (nhà máy sản xuất giấy lớn thứ 3 Châu Á) đang xin được đầu tư nhà máy sản xuất bột công suất 1 triệu tấn/năm kết hợp vói trồng rừng nguyên liệu Một số dự án khác đang trong giai đoạn nghiên cứu khả thi như Nhà máy Giấy Sài Gòn sản xuất giấy tissue và giấy bao bì, tráng phấn, giấy bao xi măng; dự án giấy Sojitz của Nhật Bản có công suất 600 nghìn tấn/năm kết hợp tạo vùng nguyên liệu ở Lào và Tây Nguyên...
Các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam đang bị mất thị phần trong nước do chất lượng của giấy cũng như giá thành khó có thể cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài. Có thể thấy rõ qua bảng sau:
Sản lượng, nhập khẩu, thị phần của ngành giấy Việt Nam trên thị trường nội địa (2001 - 2005)
Năm
2001
2002
2003
2004
2005
Sản lượng
420.107
538.213
642.000
753,19
824.000
Nhập khẩu
290.000
371.551
425.000
484.000
657.000
Thị phần
0,5916
0,5916
0,6017
0,6032
0,5564
( Nguồn Tổng Công ty giấy Việt Nam )
Tóm lại trong điều kiện hội nhập,mở cửa thị trường giảm các loại thuế,các chính sách hỗ trợ của chính phủ thì các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam đang gặp rất nhiều đối thủ cạnh tranh lớn mạnh trên thị trường trong và ngoài nước.
2.3. Nguồn cung ứng nguyên vật liệu:
Ngành giấy Việt Nam đang gặp khó khăn lớn, đó là mất cân đối nghiêm trọng giữa khâu sản xuất bột giấy và sản xuất giấy. Hiện nay, tổng công suất sản xuất giấy là 1.166.550 tấn/năm, trong khi đó tổng công suất sản xuất bột giấy chỉ đạt 312.830 tấn/năm. Như vậy, năng lực sản xuất bột giấy chỉ bằng 27% so với năng lực sản xuất. Năm 2005, toàn ngành giấy sản xuất được 250.000 tấn bột giấy, 824.000 tấn giấy và phải nhập khẩu 129.000 tấn bột giấy, 650.000 tấn giấy. Trong khi đó, giá bột giấy trên thị trường thế giới biến động rất khó lường gây bị động cho các doanh nghiệp sản xuất giấy của nước ta. Theo Tổng công ty Giấy Việt Nam (Vinapimex), thời gian qua giá bột liên tục biến động và hiện đang đứng ở mức cao, tương đương gần 17 triệu đồng/tấn. Diễn biến này tạo thuận lợi cho một số doanh nghiệp tự sản xuất được bột giấy trong nước với giá rẻ. Một cán bộ của Vinapimex nói: “Nhờ đó mà các công ty giấy Tân Mai, Bãi Bằng đã thanh toán hầu hết lượng giấy tồn kho trước đây”. Nhưng nó lại gây không ít khó khăn cho các công ty phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu nhập khẩu. “Giá nguyên liệu đầu vào cao như vậy, nhiều doanh nghiệp sẽ không thể chịu đựng nổi khi mà mặt bằng giá giấy viết, giấy in thành phẩm ở trong nước hiện chỉ hơn 13 triệu đồng/tấn. Theo Hiệp hội Giấy Việt Nam năm 2007 giá bột giấy tăng trên 15% so với năm 2006, trong khi đó giá giấy thành phẩm chỉ tăng khoảng 5%.Theo ông Vũ Ngọc Bảo, Tổng Thư ký Hiệp hội Giấy và Bột giấy Việt Nam, mặc dù năm 2008 sản xuất giấy cả nước tăng trưởng cao nhất trong vòng 20 năm qua (tăng 18% so với năm 2007 trong khi năm 2007 đã tăng 16,84%) nhưng do nhu cầu tiêu thụ mạnh nên ngành giấy vẫn phải nhập siêu khá cao. Ứớc tính năm 2008 cả nước sẽ nhập khẩu 160.000 tấn bột giấy và 1.093.300 tấn giấy, tăng lần lượt là 45% và 27% so với năm 2007. Do vậy, tương lai của những đơn vị lệ thuộc hoàn toàn vào nguồn bột nhập khẩu càng trở nên bấp bênh hơn. Hiện nay, lượng nguyên liệu sản xuất trong nước mới đáp ứng được hơn một phần ba nhu cầu trong nước, chủ yếu tập trung vào hai công ty Tân Mai và Bãi Bằng. Các chuyên gia trong ngành giấy cho rằng, ngành giấy sẽ khó mà phát triển chừng nào chưa khắc phục được tình trạng phụ thuộc này.
Bên cạnh đó doanh nghiệp chưa có các biện pháp kích thích người dân đầu tư trồng rừng. Vì thế mới dẫn đến thực trạng là “nguyên liệu ngành giấy chạy qua chế biến gỗ” hay có những nơi chuyển qua trồng cao su vì trồng cây nguyên liệu giấy bán cho nhà máy thu nhập tổng cộng 25 triệu đồng/ha, trong đó chi phí đầu tư cho cả chu kỳ cũng xấp xỉ 20 triệu đồng. Thế nhưng, nếu đem trồng cao su sau 6 năm đưa vào khai thác thì cứ mỗi năm sau đó đã có thu nhập 35 triệu đồng/ha”.
Tóm lại các doanh nghiệp sản xuất chưa tự chủ được nguồn nguyên liệu đầu vào dẫn đến khó khăn về nhập khẩu trong tình hình kinh tế hiện nay. Các nhân tố thuộc môi trường cạnh tranh ngành đã có những tác động tích cực và tiêu cực đến sự phát triển của các doanh nghiệp sản xuất giấy trong nước đem lại cho doanh nghiệp những cơ hội cũng như đứng trước những thách thức khi mà Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Môi trường nội bộ của các doanh nghiệp sản xuất giấy Việt Nam :
3.1 . Hoạt động Marketing:
Điểm qua toàn bộ các doanh nghiệp sản xuất giấy các loại tại Việt Nam, chúng ta có thể thấy được ngay rằng hầu như toàn bộ các đơn vị này đều không có bộ phận marketing riêng biệt và chuyên nghiệp. Nhìn lại chặn đường phát triển của ngành giấy Việt Nam nói chung và của từng doanh nghiệp nói riêng thì chúng ta cũng ít nhiều thông cảm với tình trạng này. Nếu trước đây, các doanh nghiệp luôn phải vật lộn từng ngày để tiêu thụ khi chất lượng thấp nhưng giá bán lại cao. Muốn tồn tại, trước hết doanh nghiệp phải tìm kiếm nguyên vật liệu đầu vào giá rẻ, từng bước ổn định chất lượng và tạo mối quan hệ than thiết với khách hàng. Nhưng những năm gần đây, tình hình đã đổi chiều khi lượng sản xuất không đủ để giao cho khách hàng và các nhà máy luôn trong tình trạng nợ khách hàng. Và cứ như vậy, vai trò của marketing đã không được chú trọng trong công tác sản xuất – kinh doanh. Theo nhận định của một số chuyên gia thì Marketing sẽ chiếm một vị trí tối quan trọng trong sự sống còn của các doanh nghiệp ngành giấy, vì bộ phận này sẽ có nhiệm vụ đi trước từ 10 – 15 năm và giúp định hướng thị trường, khách hàng cho từng doanh nghiệp, tránh những rủi ro trong đầu tư. Như vậy ngành giấy Việt Nam hiện nay đang còn thiếu “đôi mắt” và chúng ta có nhìn nhận để đôi mắt này hoạt động một cách tích cực, hiệu quả hay không còn phụ thuộc vào từng doanh nghiệp, từng tư duy cải tiến, đổi mới.
3.2. Tác động của khả năng sản xuất, nghiên cứu và phát triển
Đã từ lâu nay, trong ngành giấy vẫn diễn ra một nghịch lý là trong khi hàng năm nước ta xuất khẩu hàng trăm nghìn tấn mảnh gỗ nguyên liệu giấy mang lại giá trị thấp, thì lại phải bỏ ra một lượng lớn nguồn ngoại tệ để nhập khẩu bột giấy và giấy. Năm 2007, cả nước phải nhập khẩu hơn 820 nghìn tấn giấy các loại, tăng 16% so với năm 2006 và trên 130 nghìn tấn bột giấy. năm 2008 lượng giấy nhập khẩu sẽ lên tới khoảng 1 triệu tấn. Tính đến hết tháng 7/2008, cả nước đã nhập khẩu 118 nghìn tấn bột giấy và 585 nghìn tấn giấy các loại. Tuy nhiên, các loại giấy in, viết, giấy in báo vẫn không đáp ứng nổi nhu cầu. Nhìn chung, cho đến nay, ngành công nghiệp giấy và bột giấy của Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế cả về công suất, thiết bị và trình độ công nghệ, nhất là công nghệ tự động hóa trong sản xuất còn kém xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới nên chưa đủ khả năng cạnh tranh. Hiện nay, khó khăn lớn nhất của ngành sản xuất giấy nước ta là mất cân đối nghiêm trọng giữa khâu sản xuất bột giấy và sản xuất giấy. Năng lực sản xuất bột giấy mới chỉ đáp ứng được 1/2 nhu cầu sản xuất giấy. Do đó, ngành công nghiệp giấy luôn phải phụ thuộc vào nguồn nguyên liệu và giá cả bột giấy. Bột giấy nhập khẩu và các vật tư khác dùng sản xuất giấy tăng khoảng 15-20% và lãi suất vay vốn tín dụng hơn 20%, trong khi đó, giá bán giấy thành phẩm chỉ tăng từ 5-10% nên đã làm ảnh hưởng rất nhiều đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành giấy.
Một số doanh nghiệp lớn của chúng ta đã chú trọng tới công tác nghiên cứu và phát triển thị trường và sản phẩm nhằm nâng cao uy tín của thương hiệu giấy Việt Nam như công ty giấy Sài Gòn đã thực hiện nhiều công tác thị trường hịên đại, áp dụng nhiều biện pháp đồng bộ, đồng thời nghiên cứu thị trường quảng bá hình ảnh tham dự nhiều hội chợ hàng chất lượng cao xây dựng các mạng lưới phân phối, đại lý hiệu quả trên toàn quốc. Công ty Tân Mai là công ty giấy lớn thứ 2 ở Việt Nam (sau Bãi Bằng), sản lượng một năm vào khoảng 60 nghìn tấn bột giấy và 100.000 tấn giấy các loại. Riêng mặt hàng giấy in báo, Tân Mai là thương hiệu với sản lượng khoảng 60 nghìn tấn/năm. Hiện nay, Tân Mai còn vận hành dây chuyền sản xuất giấy tráng phấn của nhà máy giấy Bình An vừa được sáp nhập. Năm 2007 Tân Mai trình làng loại giấy chủng loại giấy cao cấp dùng để in lịch, tờ bướm quảng cáo - chủng loại mà trước nay vẫn phải nhập ngoại. Hiện nay công ty tự chủ được 55% nguyên liệu bột giấy cho sản xuất giấy, trong đó tự chủ được 100% nguyên liệu cho sản xuất giấy in báo.
3.3. Nguồn nhân lực của các doanh nghiệp sản xuất giấy:
Có lẽ, chưa bao giờ vấn đề nhân lực được các giám đốc doanh nghiệp quan tâm nhiều như hiện nay, bởi theo họ, sự thiếu hụt đội ngũ cán bộ có trình độ và lao động có tay nghề cao chính là một trong những cản ngại cơ bản để gia tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Nhiều ý kiến cho rằng, lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bởi chi phí lao động rẻ, trình độ dân trí của lao động Việt Nam cao, có truyền thống lao động cần cù, ham học hỏi, khéo tay, nhanh trí,.. Nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng chi phí lao động tuy rẻ nhưng năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và thấp (trên 60%), chủ yếu lại là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn kém. Do đó nếu so sánh lao động Việt Nam với lao động các nước trong khu vực thì có thể nói đây là điểm yếu của Việt Nam . Một lao động trong ngành giấy của Nhật Bản một năm sản xuất gần 806 tấn giấy thì của Việt Nam chỉ đạt 140 tấn. Chỉ những cơ sở lớn, công nhân mới được đào tạo bài bản, còn phần lớn là rời "tay cấy" ra đứng máy và trưởng thành trong thực tiễn.
Bên cạnh đó các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam đang rất thiếu nguồn nhân lực có trình độ quản lý cao để điều hành còn yếu và hạn chế về số lượng và chất lượng. Cung cách quản lý ở các cơ sở lớn vẫn mang dáng dấp kế hoạch hoá , còn ở các cơ sở nhỏ vẫn mang đậm tính chất gia đình.
Tóm lại nguồn nhân lực của Việt Nam nói chung và trong các doanh nghiệp sản xuất giấy nói riêng còn thừa về số lượng nhưng lại yếu kém về chất lượng. Chính nguồn nhân công giá rẻ này đã làm cho các doanh nghiệp bị hạn chế năng suất lao động, làm mất tính cạnh tranh so với các công ty nước ngoài.
Chương 3
Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp sản xuất giấy Việt Nam
1. Cơ hội và thách thức đối với các doanh nghiệp sản xuất giấy Việt Nam :
Cơ hội:
Với hơn 80 triệu dân thị trường Việt Nam chính là một thị trường rộng lớn và tiềm năng đối với các doanh nghiệp sản xuất giấy trong nước. Đời sống văn hóa , xã hội được cải thiện và nâng cao: mức tiêu dùng bình quân của người dân Việt Nam năm 2005 là 438.000đ/người tăng 2 lần so năm 2000. GDP bình quân đầu người đạt 640USD/năm điều này cho thấy nhu cầu tiêu thụ giấy tăng rất nhanh. nhu cầu tiêu thụ giấy năm 2005 : 1.481.000tấn , theo tốc độ phát triển có xét các yếu tố tích cực thì đến năm 2010 nhu cầu tiêu thụ giấy từ 1.550.000 – 1.600.000 tấn/ năm. Tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân: Từ các năm 2000 – 2005, GDP của nước ta đều tăng , đặc biệt năm 2005 tăng 8,4% dự báo năm 2006 – 2010 tăng 8 – 8,5%. Theo thống kê , GDP tăng 1% thì nhu cầu tiêu thụ giấy tăng 1,2 – 1,5%
Hiện nay do tình hình kinh tế suy thoái nên đầu tư của tất cả các ngành kinh tế đều gặp khó khăn và chựng lại thì ngành giấy, nhất là các dự án đầu tư sản xuất bột giấy, nên tranh thủ thời gian để đầu tư xây dựng thật nhanh bởi theo dự báo, đến cuối năm 2009 và đầu 2010 tình hình kinh tế sẽ phục hồi, khi đó các nơi bắt đầu triển khai đầu tư để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng mới thì ngành giấy đã có thể sẵn sàng tung sản phẩm ra thị trường. Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc đang có kế hoạch đóng cửa hàng loạt nhà máy giấy có công suất nhỏ, quy trình công nghệ sản xuất lạc hậu đang gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Điều này khiến cho thị trường bột giấy trên thế giới mất cân đối và các doanh nghiệp nên chú ý khai thác yếu tố này. Với giá như hiện nay sẽ là cơ hội để ngành giấy đầu tư vào sản xuất bột giấy do khả năng thu hồi vốn nhanh, vì thế các dự án cũng cần triển khai nhanh để tận dụng thời cơ.
Thách thức :
Hiện đa số các dây chuyền sản xuất giấy của Tổng công ty giấy Việt Nam đều đã quá cũ, Công ty giấy Tân Mai và Bãi Bằng có thiết bị với quy mô lớn nhất Việt Nam nhưng cũng là thiết bị thuộc thế hệ những năm 1970-1980. Hạn chế cạnh tranh lớn nhất của các nhà máy giấy hiện nay là suất đầu tư quá lớn nhưng công nghệ lại lạc hậu, năng suất thấp, sản phẩm còn đơn điệu về chủng loại và giá thành cao. Chất lượng sản phẩm thấp. Chỉ có một vài nhà máy lớn đảm bảo các chỉ tiêu chất lượng tương đương giấy ngoại. Tổng Công ty Giấy Việt Nam chỉ có Công ty Giấy Bãi Bằng và Công ty Giấy Tân Mai là đạt chứng chỉ ISO 9002.
Ngành giấy đang phải đối đầu với tình trạng thiếu bột giấy nghiêm trọng, kéo dài suốt gần 4 năm qua, nhất là bột hóa tẩy trắng dùng cho sản xuất các loại giấy cao cấp. Các nhà máy giấy phụ thuộc quá nhiều vào nguồn bột giấy nhập khẩu. Mỗi năm, Việt Nam phải nhập khẩu hơn 150.000 tấn bột giấy trong khi đó nguồn nguyên liệu dồi dào trong nước để sản xuất bột giấy thì chưa được khai thác là bao và Việt Nam chưa có công nghệ sản xuất bột giấy cao cấp. Không chỉ giá nhập khẩu bột giấy tăng mà giá các loại nguyên liệu hóa chất cho sản xuất giấy, giá nhiên liệu, điện, cước vận tải... cũng tăng mạnh làm cho giá thành sản xuất giấy tăng trung bình khoảng 15% (Công ty giấy Sài Gòn phải nhập khẩu 30% nguyên liệu, 70% nguyên liệu là giấy phế trong nước).
Công nghệ sản xuất giấy ở Việt Nam còn rất lạc hậu. Để sản xuất ra 1 tấn giấy thành phẩm phải sử dụng 30- 100 m3 nước trong khi các nhà máy giấy hiện đại trên thế giới chỉ sử dụng 7 – 15m3 /tấn. Chính điều này đã gây lãng phí nguồn nước ngọt, làm tăng chi phí xử lý nước thải đồng thời còn đưa vào sông ngòi lượng nước thải khổng lồ. Theo thống kê hiện cả nước có gần 500 doanh nghiệp đang sản xuất giấy nhưng trong đó chỉ có 10% doanh nghiệp đạt tiêu chuẩn môi trường cho phép còn lại hầu hết các nhà máy đều không có hệ thống xử lý hoặc có thì lại chưa đạt yêu cầu. Chính vì vậy các doanh nghiệp của chúng ta đứng trước thách thức là tăng năng suất sản xuất nhưng cũng đồng thời phải giải quyết tốt nhất bài toán về môi trường.
Thuế nhập khẩu giấy từ các nước ASEAN đã giảm từ 20%-30% xuống còn 10%-15% và sẽ tiếp tục giảm còn 5%-10% trong năm nay. Điều này làm cho giấy nhập khẩu sẽ tràn vào Việt Nam với giá bán giảm, tăng sức cạnh tranh trực diện với giấy sản xuất trong nước. Trong khi đó đối với nhiều công ty giấy lớn khác của Thái Lan, Indonesia... có thị phần tại Việt Nam cũng không giấu giếm chiến lược chiếm lĩnh thị trường giấy Việt Nam trong những tháng sắp tới
Sản lượng giấy năm nay của Việt Nam có thể đạt xấp xỉ một triệu tấn, bằng một phần chín so với Indonesia và chỉ tương đương công suất của một nhà máy ở Trung Quốc. Quy mô đã nhỏ, lại phân tán ở hàng chục cơ sở sản xuất khác nhau. Hiệp hội Giấy Việt Nam cho biết, số doanh nghiệp có năng lực sản xuất trên 10.000 tấn/năm chỉ đếm trên đầu ngón tay, hầu hết còn lại quy mô rất nhỏ, trong đó không ít đơn vị có sản lượng chưa đầy 1.000 tấn/năm. Tình trạng manh mún, nhỏ lẻ, trình độ công nghệ sản xuất dưới mức trung bình của thế giới... là những yếu tố chính làm cho ngành giấy Việt Nam trở nên yếu sức cạnh tranh. Sức cạnh tranh kém còn do các doanh nghiệp lại không thể hợp tác được với nhau.
Các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam đang đứng trước hàng loạt khó khăn và thách thức khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Từ những thuận lợi và khó khăn đối với các doanh nghiệp, em xin nêu ra một số kiên nghị sau:
2. Một số kiến nghị :
Nâng cao quy mô công suất trong các nhà máy sản xuất : đứng trước nhu cầu ngày càng tăng các nhà máy phải đáp ứng tốt nhất các nhu cầu của khách hàng tăng khả năng cạnh tranh trên trường quốc tế Về định hướng quy mô nhà máy sản xuất bột giấy và giấy, đối với nhà máy sản xuất giấy từ bột nhập hoặc giấy lề, giấy loại, sẽ có 2 loại quy mô nhà máy để phù hợp với quá trình phát triển ngành trong điều kiện đang bước vào hội nhập và huy động mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển ngành. Đối với loại quy mô vừa và nhỏ, định hướng quy mô các nhà máy sản xuất giấy vừa và nhỏ là từ 20.000 tấn/năm đến 50.000 tấn/năm, với điều kiện các nhà máy này phải đầu tư đồng bộ các hệ thống xử lý chất thải và bảo vệ môi trường. Đối với loại quy mô lớn, định hướng công suất nhà máy khoảng từ 100.000 - 150.000 tấn/năm trở lên, với các nhà máy lớn như vậy sẽ mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn và đảm bảo đáp ứng tốt các yêu cầu về bảo vệ môi trường. Đối với nhà máy sản xuất bột giấy, các nhà máy sản xuất bột giấy đòi hỏi vốn đầu tư khá lớn và chi phí đầu tư cho khâu xử lý môi trường khá cao. Do đó, yêu cầu phải tập trung sản xuất với quy mô đủ lớn để đảm bảo hiệu quả kinh tế và phát triển bền vững, vì vậy quy mô nhà máy sản xuất bột giấy khoảng từ 200.000 - 250.000 tấn/năm trở lên, công suất tối đa không hạn chế.
Hoàn thiện những cơ sở sản xuất hiện tại, khai thác tối đa các nguồn vốn hiện có đầu tư vào công nghệ máy móc nâng cao chất lượng sản phẩm. Đầu tư nhà xưởng, trang thiết bị, phương tiện quản lý phù hợp. Cần thì trang bị ở mức hiện đại nhất (phần mềm quản lý), chưa cần thì ở mức vừa phải (máy xeo giấy tissue) đủ đảm bảo phẩm cấp sản phẩm theo yêu cầu của thị trường. Nhiều kỹ thuật cao được ứng dụng có hiệu quả: hệ thống điều phối ở khâu chuẩn bị bột, kiểm tra chất lượng trên máy xeo, sử dụng phần mềm quản trị tiên tiến trên thế giới
Phát triển lực lượng lao động về chất lượng: Công tác đào tạo nhân lực phải được làm bài bản với mục tiêu cụ thể cho ngày nay và cho ngày mai: chú trọng đào tạo cán bộ quản lý ở trình độ Đại học, trên đại học, ở trong nước, ở nước ngoài; ngoài ra còn tổ chức bồi dưỡng những kiến thức mới về phương pháp luận, kỹ năng quản lý. Công nhân được đào tạo về chuyên ngành giấy, về an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, chất lượng sản phẩm... Có biện pháp cụ thể thu hút nhân tài phục vụ cho công ty. Phải có các chính sách đãi ngộ, đào tạo thêm thoả đáng để có một đội ngũ cán bộ, công nhân viên tương đối hoàn hảo, đồng bộ đảm bảo thực hiện được nhiệm vụ quản lý, quản trị doanh nghiệp.Coi trọng và hợp tác chặt chẽ với tổ chức công đoàn. để chăm lo tới đời sống tinh thần và vật chất của công nhân viên vì người lao động là nguồn lực chính tạo ra sự phồn vinh của doanh nghiệp. Được giác ngộ đầy đủ, được chăm sóc chu đáo, luôn được đào tạo nâng cao tay nghề, người lao động sẽ coi doanh nghiệp là sự nghiệp của chính mình, sẽ ra sức lao động sáng tạo, tạo ra nguồn lực để phát triển doanh nghiệp.
Chuyển hướng sản xuất các loại giấy chuyên dụng, đa dạng hóa sản phẩm: Đối với các cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ, nên chuyển hướng sản xuất các loại giấy chuyên dụng như giấy tráng phủ các loại, giấy lọc, giấy vệ sinh, tissue, tã lót cho trẻ em, các đồ dùng bằng giấy (cốc, đĩa, hộp đựng thức ăn, trang trí nội thất, đồ chơi trẻ em, hàng thủ công mỹ nghệ). Vì trong tương lai, các cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ sẽ kém sức cạnh tranh với các doanh nghiệp lớn về chất lượng sản phẩm và giá thành. Vì vậy, đa dạng hóa sản phẩm theo hướng trên sẽ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, chiếm lĩnh những mảng còn trống trên thị trường mà các doanh nghiệp lớn không làm được.
Để tồn tại và phát triển, các cơ sở sản xuất quy mô vừa và nhỏ nên tập hợp lại, cùng góp vốn đầu tư xây dựng các cơ sở sản xuất mạnh đủ sức cạnh tranh trên thị trường đã có sự biến chuyển hẳn về chất.Đặc trưng của ngành Giấy là vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn dài, hiệu quả kinh tế không cao. Các doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ không đủ tiềm lực tài chính để đầu tư xây dựng mới các nhà máy có quy mô lớn. Trong khi đó, nhà máy có quy mô nhỏ sẽ hạn chế về khả năng cạnh tranh, gây ra ô nhiễm môi trường. Vì vậy, các doanh nghiệp này nên mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước đã có hoặc sắp xây dựng để cùng sản xuất kinh doanh, bán cổ phần, cổ phiếu trong nhân dân, vay vốn trong dânhoặc các doanh nghiệp nhỏ nên sáp nhập lại với nhau để tạo lợi thế cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Tránh tình trạng sản xuất nhỏ lẻ manh mún, mang tính chộp giật thúc đẩy sự phát triển của toàn bộ ngành giấy Việt Nam hịên nay.
Đẩy mạnh trồng rừng, bảo vệ rừng, quy hoạch khai thác hàng năm, sử dụng các loại cây phi gỗ và phế liệu các ngành công nông nghiệp: Ngoài nguyên liệu gỗ được cung cấp từ các vùng nguyên liệu quy hoạch, cần tăng cường sử dụng các loại cây phi gỗ và phế liệu các ngành công nông nghiệp. Đây là giải pháp nhanh và mang lại hiệu quả cao nhằm đối phó với nguy cơ thiếu nguyên liệu trong tương lai.
Tăng cường sử dụng giấy loại tái chế: Trong khi xu thế của ngành giấy trong khu vực và trên thế giới ngày càng tăng cường mức sử dụng giấy loại tái chế thì sự chuyển biến của Việt Nam trong vấn đề này còn hạn chế. Tỷ trọng sử dụng giấy loại làm nguyên liệu sản xuất giấy của Việt Nam còn thấp, nói chung chưa đến 40% và vẫn thường nhằm vào lượng giấy thu hồi trong nước là chính. Lượng giấy thu hồi này không nhiều, vì lượng sử dụng của Việt Nam còn thấp. Tăng nhanh mức sử dụng giấy loại tái chế là mảng công việc có ý nghĩa nhiều mặt.
Đẩy mạnh công tác bảo vệ môi trường. các doanh nghiệp không nên chỉ quan tâm tới số lượng chất lượng giấy mà còn phải có những kế hoạch, biện pháp, có hướng đầu tư thích hợp để bảo vệ môi trường.
Tóm lại : các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam đang có rất nhiều cơ họi và thách thức khi gia nhập sân chơi chung của thế giới nhưng nếu chúng ta có những biện pháp thích hợp sản phẩm giấy Việt Nam sẽ nâng cao được năng lực cạnh tranh, thoả mãn không chỉ nhu cầu trong nước mà có thể xuất khẩu tạo được niềm tin của người tiêu dùng vào thương hiệu giấy của Việt Nam trên thị trường trong và ngoài nước.
Kết luận
Việt Nam từng bước hội nhập với nền kinh tế thế giới và chúng ta đã có được thành công ban đầu như tỉ lệ tăng trưởng cao và bền vững, môi trường kinh doanh đang được cải thiện đáng kể, sự khủng hoảng tài chính thế giới... . Những tín hiệu đó đã ảnh hưởng trực tiếp đến các doanh nghiệp sản xuất nói chung và đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam nói riêng. Nội dung đề án của em nhằm nêu ra thực trạng của các doanh nghiệp sản xuất giấy của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và đưa ra một số kiến nghị nhằm nâng cao năng suất sản xuất đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp Việt Nam.
Trong quá trình thực hiện đề án này, em xin chân thành cảm ơn TS Trần Việt Lâm đã có những chỉ bảo tận tình và cụ thể giúp em hiểu rõ hơn vấn đề và có những định hướng đúng đắn.cho mình hoàn thành được đề án.
Mục lục
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Giáo trình Chiến lược kinh doanh và phát triển doanh nghiệp , NXB Lao động xã hội 2002.
Giáo trình Quản trị kinh doanh, NXB Đại học Kinh Tế Quốc Dân 2007.
Giáo trình Quản trị chiến lược, NXB Thống kê 2000.
PGS – TS Lê Thế Giới, Nguyễn Thanh Liêm (chủ biên) :Quản trị chiến lược , NXB Thống kê 2007.
TS Dương Ngọc Dũng : Lý thuyết cạnh tranh theo lý thuyết của Michael Porter, NXB Tổng hợp Tp HCM.
Toàn cảnh kinh tế Việt Nam NXB Chính trị Quốc Gia 2007.
Báo Nhà Quản Lý số 61 tháng 7/ 2008.
Báo Kinh Tế Việt Nam số 28, 29 tháng 6/2008.
Báo Kinh Tế Thế giới số 29 tháng 7/2008.
Báo Nhịp cầu đầu tư.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5996.doc