Đề tài Môi trường vĩ mô và vi mô của công ty cổ phần dịch vụ tổng hợp Sài Gòn

Cả thế giới đang bước sang nền văn minh “thứ 3” theo cách gọi của các nhà khoa học: đó là nền văn minh tri thức công nghệ. Hàng loạt công nghệ mới ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm dịch vụ. Cách đây 30 năm, vi tính chỉ là một công cụ để tính toán thì ngày nay máy tính có thể thay con người làm việc độc lập Một số yếu tố về công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế: Thứ nhất là sự đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp vào công tác nghiên cứu và phát triển. Điều này có thể thấy rõ ở những nước có ít tài nguyên thiên nhiên và có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như Nhật Bản. Việc nghiên cứu được kết hợp giữa doanh nghiệp và chính phủ nhằm nghiên cứu đưa ra các công nghệ mới, vật liệu mới sẽ có tác động tích cực tới nền kinh tế. Thứ hai là tốc độ và chu kỳ của công nghệ: đó là sự thay thế các công nghệ mới trong một khoảng thời gian rất ngắn và tốc độ thay thế là rất cao, đời sau có thể hiện đại hơn đời trước gấp nhiều lần.

doc20 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1314 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Môi trường vĩ mô và vi mô của công ty cổ phần dịch vụ tổng hợp Sài Gòn, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐỀ TÀI: Môi trường vĩ mô và vi mô của công ty cổ phần dịch vụ tổng hợp Sài Gòn Lời mở đầu Tính cấp thiết của việc nghiên cứu Một doanh nghiệp trong bất kỳ một nền kinh tế và chu kỳ kinh tế nào đều chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của các nhân tố bên trong và bên ngoài: đó là môi trường vĩ mô và vi mô của doanh nghiệp. Nó thường ảnh hưởng tới doanh nghiệp một cách khách quan và doanh nghiệp phải có những chiến lược để tận dụng hết những thuận lợi cũng như hạn chế được một cách tối đa những tiêu cực mà nó mang lại. Các nhân tố trên thay đổi cùng với sự phát triển và thay đổi của nền kinh tế, vì vậy các doanh nghiệp phải nghiên cứu và tìm hiểu một cách kỹ lượng về sự tác động của các nhân tố bên ngoài: vĩ mô và vi mô để tìm cho doanh nghiệp mình một hướng đi đúng đắn và một vị trí bền vững trong mọi điều kiện kinh tế. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu của đề tài nhằm đưa ra những cơ sơ lý luận về môi trường vĩ mô và vi mô của doanh nghiệp, áp dụng vào doanh nghiệp cụ thể để thấy được những tác động của những nhân tố đó tới doanh nghiệp và nền kinh tế, đưa ra những giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy doanh nghiệp cũng như nền kinh tế phát triển. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng và phạm vi nghiên cứu nghiên cứu chính là môi trường vĩ mô và vi mô của công ty cổ phần dịch vụ Sài Gòn. Kết cấu Vấn đề cần nghiên cứu được trình bày thành bốn phần: Lời nói đầu Chương 1: Tổng quan chung về môi trường vĩ mô và vi mô của một doanh nghiệp Chương 2: Phân tích môi trường vĩ mô và vi mô của công ty cổ phần dịch vụ tổng hợp Sài Gòn Chương 3: Giải pháp Chương 1 Tổng quan chung về môi trường vĩ mô và vi mô của doanh nghiệp Khái niệm chung về môi trường vĩ mô của một doanh nghiệp Một cách khái quát nhất, môi trường vĩ mô bao gồm những nhân tố có ảnh hưởng trực tiếp và chung nhất đến các ngành kinh tế, các yếu tố này là các yếu tố bên ngoài doanh nghiệp và ngành, do đó doanh nghiệp và ngành phải chịu tác động của nó đem lại như một yếu tố khách quan, dựa trên đó để đưa ra các quyết định, chính sách phù hợp với doanh nghiệp của mình. Để nghiên cứu môi trường vĩ mô của một doanh nghiệp, người ta thường sử dụng mô hình PEST- mô hình tốt nhất và phổ biến nhất cho đến nay nghiên cứu về môi trường vĩ mô doanh nghiệp. PEST là từ viết tắt của bốn chữ cái đầu của 4 yếu tố bên ngoài khách quan bao quát và đầy đủ nhất tác động vào doanh nghiệp: P – Political Factors ( thế chế - luật pháp ) E – Economic Factors ( kinh tế ) S – Socio-cultural Factors ( văn hóa xã hội ) T – Technological Factors ( công nghệ ) Các yếu tố thể chế - pháp luật ( Political Factors) Có thể nói đây là yếu tố có tầm ảnh hưởng lớn tới tất cả các ngành kinh doanh của một quốc gia hay vùng lãnh thổ. Mỗi một quốc gia hay vùng lãnh thổ đều có pháp luật hay sự can thiệp của nhà nước và mọi thành phần kinh tế, mọi chủ thể trong nền kinh tế đều phải tuân theo. Nó ảnh hưởng một cách toàn diện và sâu sắc tới hoạt động cũng như những quyết định của bất kỳ một doanh nghiệp thuộc bất kỳ một ngành nào, mỗi một ngành hay một lĩnh vực đều có luật điều chỉnh hành vi của các chủ thể tham gia. Sự can thiệp của nhà nước có thể thông qua những công cụ sau: Thứ nhất là sự bình ổn chính trị: thể chế nào có sự bình ổn cao, ít xung đột mâu thuẫn về chính trị, đảng phái sẽ có thể tạo điều kiện tốt nhất cho việc hoạt động kinh doanh và ngược lại. Thứ hai là chính sách về thuế: mọi ngành sản xuất kinh doanh đều phải chịu thuế tùy vào lĩnh vực kinh doanh: thuế xuất khẩu, nhập khẩu, tiêu thụ đặc biệt, giá trị gia tăng, thuế thu nhập. Các loại thuế này đều có ảnh hưởng tới doanh thu, lợi nhuận của doanh nghiệp. Thứ ba là các đạo luật liên quan: Luật đầu tư, luật doanh nghiệp, luật lao động, luật chống độc quyền, luật chống bán phá giá và hàng loạt các luật liên quan tới lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Thứ tư là các chính sách điều chỉnh gián tiếp hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, tác động tới nền kinh tế. Các chính sách này có thể tạo ra thuận lợi hoặc thách thức đối với doanh nghiệp: các chính sách thương mại, chính sách phát triển ngành, phát triển kinh tế, các chính sách điều tiết cạnh tranh, bảo vệ người tiêu dùng, bảo hộ hàng hóa trong nước, Các yếu tố kinh tế ( Economic Factors ) Các yếu tố kinh tế có thể tác động tới doanh nghiệp trong cả ngắn hạn và dài hạn. Các yếu tố kinh tế ở đây có thể bao gồm cả những tác động trực tiếp của chính phủ tới các ngành và cả nền kinh tế. Thứ nhất là tình trạng nền kinh tế trong nước và thế giới: bất cứ một nền kinh tế nào cũng như kinh tế thế giới đều có chu kỳ của nó. Hầu hết nền kinh tế của các nước trên thế giới bị ảnh hưởng bởi nền kinh tế của một số cường quốc kinh tế. Chu kỳ kinh tế của những cường quốc này có thể kéo kinh tế toàn cầu suy thoái hay hưng thịnh theo nó, điển hình là Mỹ. Thứ hai là các yếu tố liên quan tác động tới nền kinh tế: lạm phát, lãi suất, tỷ giá Lạm phát xảy ra ở hầu hết mọi nền kinh tế. Các chuyên gia ở một số nước phát triển cho rằng: một nền kinh tế luôn luôn phải có lạm phát và họ luôn giữ cho mức lạm phát của nền kinh tế là khoảng 2-3%. Điều này có ý nghĩa kích thích nền kinh tế. Bởi tăng trưởng kinh tế thường đi kèm với lạm phát, nhưng khi đó tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống, các vấn đề về an sinh xã hội được đảm bảo, tăng trưởng có xu hướng bền vững. Nhưng nếu tỷ lệ lạm phát cao, giá cả leo thang, đời sống người dân không được đảm bảo dẫn đến sự co hẹp về tiêu dùng ảnh hưởng tới sản xuất và đầu tư Mọi doanh nghiệp trong nền kinh tế đều quan tâm tới yếu tố lãi suất và yếu tố tỷ giá đặc biệt được các doanh nghiệp xuất nhập khẩu quan tâm. Lãi suất cao hay thấp đều tác động mạnh mẽ tới đầu tư, tới doanh nghiệp vì nó là một khoản chi phí vốn của doanh nghiệp. Yếu tố tỷ giá tác động tới các doanh nghiệp xuất nhập khẩu: tỷ giá thấp nghĩa là đồng tiền của một nước giảm giá tương đối so với đồng tiền của nước khác thì xuất khẩu của nước đó sẽ tăng và ngược lại. Thứ ba là các chính sách kinh tế của chính phủ như: chính sách tiền tệ và tài khóa thắt chặt hay mở rộng, luật tiền lương cơ bản, các chiến lược phát triển kinh tế của chính phủ, các chính sách ưu đãi cho các ngành: giảm thuế, trợ cấp Một nền kinh tế đang suy thoái, chính phủ sẽ thực hiện biện pháp kích cầu bằng chính sách tiền tệ hay tài khóa mở rộng. Còn nếu nền kinh tế phát triển quá nóng, lạm phát cao, chính phủ sẽ dùng biện pháp kiềm chế lạm phát. Nhưng mỗi biện pháp luôn cần sự khéo léo của chính phủ, chính sách nới lỏng quá dễ dẫn đến lạm phát còn chính sách thắt chặt quá dễ ảnh hưởng tới đầu tư và tiêu dùng, đó là một vòng luẩn quẩn nếu không khéo léo sẽ khó tránh khỏi. Thứ tư là các triển vọng kinh tế trong tương lai như: tốc độ tăng trưởng, mức gia tăng GDP, tỷ suất GDP trên vốn đầu tư. Điều này thể hiện mức độ tin tưởng vào nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp quyết định xem có nên đầu tư sản xuất hay không. Các yếu tố về văn hóa xã hội. Mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng, và những yếu tố này là đặc điểm của người tiêu dùng tại các khu vực đó, làm cho xã hội đó tồn tại và phát triển. Chính vì thế các yếu tố văn hóa thông thường được bảo vệ hết sức quy mô và chặt chẽ, đặc biệt là các giá trị văn hóa tinh thần. Có thể lấy một ví dụ: các doanh nghiệp humberger không thể tồn tại trên đất nước hồi giáo được bởi họ không ăn thịt lợn hay thịt bò. Tuy nhiên cùng với sự phát triển kinh tế mang tính toàn cầu hóa, sự giao thoa giữa các nền văn hóa là khó tránh khỏi, có thể sẽ làm thay đổi tâm lý tiêu dùng, lối sống và tạo ra triển vọng phát triển các ngành mới. Bên cạnh những yếu tố về văn hóa, các yếu tố về xã hội cũng tác động một cách đáng kể tới thị trường của doanh nghiệp. Những yếu tố về xã hội sẽ chia cộng đồng thành các nhóm khách hàng với những đặc điểm về tâm lý, thu nhập, tuổi thọ khác nhau: Tuổi thọ trung bình, tình trạng sức khỏe, chế độ dinh dưỡng, ăn uống Thu nhập trung bình, phân phối thu nhập Lối sống, học thức, các quan điểm về thẩm mỹ, tâm lý sống Điều kiện sống Trong những nước phát triển hiện nay, có những nhóm người có khả năng làm việc tốt, thu nhập và trình độ cao, điều kiện sống tốt nhưng họ lại thích lối sống độc thân, vì vậy một số hàng hóa và dịch vụ dành riêng cho người độc thân có thu nhập cao ra đời. Vì thế các yếu tố xã hội ảnh hưởng không nhỏ tới việc hình thành những ngành nghề mới. Các yếu tố về công nghệ ( Technological Factors ) Cả thế giới đang bước sang nền văn minh “thứ 3” theo cách gọi của các nhà khoa học: đó là nền văn minh tri thức công nghệ. Hàng loạt công nghệ mới ra đời và được tích hợp vào các sản phẩm dịch vụ. Cách đây 30 năm, vi tính chỉ là một công cụ để tính toán thì ngày nay máy tính có thể thay con người làm việc độc lập Một số yếu tố về công nghệ ảnh hưởng trực tiếp tới các doanh nghiệp cũng như nền kinh tế: Thứ nhất là sự đầu tư của chính phủ, doanh nghiệp vào công tác nghiên cứu và phát triển. Điều này có thể thấy rõ ở những nước có ít tài nguyên thiên nhiên và có điều kiện tự nhiên khắc nghiệt như Nhật Bản. Việc nghiên cứu được kết hợp giữa doanh nghiệp và chính phủ nhằm nghiên cứu đưa ra các công nghệ mới, vật liệu mới sẽ có tác động tích cực tới nền kinh tế. Thứ hai là tốc độ và chu kỳ của công nghệ: đó là sự thay thế các công nghệ mới trong một khoảng thời gian rất ngắn và tốc độ thay thế là rất cao, đời sau có thể hiện đại hơn đời trước gấp nhiều lần. Thứ ba là ảnh hưởng của công nghệ thông tin, internet tới hoạt động kinh doanh: điều này có thể minh họa qua sự phát triển của các công ty đa quốc gia hay xuyên quốc gia. Họ có thể điều hành hoạt động của các công ty con qua mạng net toàn cầu đảm bảo tính thống nhất và hiệu quả chung của toàn bộ tập đoàn. Bên trên là 4 yếu tố cơ bản của mô hình PEST trong phân tích môi trường vĩ mô, hiện nay mô hình này đã được mở rộng ra thành: PESLT – thêm yếu tố luật pháp, và STEEPLE ( nhân khẩu học, công nghệ, kinh tế, môi trường, chính sách, pháp luật, và đạo đức ) nhưng cơ bản vẫn giống mô hình gốc. Nó chỉ là sự mở rộng các yếu tố của mô hình gốc. Các yếu tố về hội nhập Ngoài ra trong mô hình PEST, người ta còn đề cập tới yếu tố hội nhập như là một yếu tố tất yếu hiện nay với mọi nền kinh tế. Toàn cầu hóa tạo ra sức ép cạnh tranh, các đối thủ đến từ mọi khu vực. Quá trình hội nhập sẽ khiến các doanh nghiệp phải điều chỉnh phù hợp với các lợi thế so sánh, phân công lao động của khu vực và thế giới. Quan trọng hơn khi hội nhập các rào cản về thương mại sẽ gần được tháo gỡ, các doanh nghiệp có cơ hội buôn bán với các đối tác ở cách xa khu vực địa lý, khách hàng của các doanh nghiệp lúc này không chỉ là thị trường nội địa mà còn các khách hàng đến từ khắp nơi. Yếu tố hội nhập này gắn liền với yếu tố về kinh tế: ảnh hưởng của chu kỳ kinh tế trong nước và thế giới. Khái niệm về môi trường vi mô của doanh nghiệp Môi trường vĩ mô và vi mô của doanh nghiệp đều là những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp tới doanh nghiệp, vĩ mô là những yếu tố chung nhất, nằm bên ngoài ngành và doanh nghiệp còn vi mô là những yếu tố mang tính đặc trưng ngành và mức độ ảnh hưởng mang những nét khác biệt của từng ngành. Nhà cung cấp Đối với một doanh nghiệp, số lượng và quy mô nhà cung cấp sẽ quyết định đến áp lực cạnh tranh, quyền lực đàm phán của họ đối với ngành. Nếu trên thị trường chỉ có một vài nhà cung cấp với quy mô lớn sẽ tạo áp lực cạnh tranh, ảnh hưởng lớn tới toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó khả năng thay thế sản phẩm của nhà cung cấp cũng như thông tin về nhà cung cấp cũng ảnh hưởng tới quyết định của doanh nghiệp khi lựa chọn nhà cung cấp Khách hàng Khách hàng là một phần không thể tách rời của công ty. Sự tín nhiệm của khách hàng là tài sản có giá trị nhất của công ty. Họ ảnh hưởng trực tiếp tới doanh thu và lợi nhuận của công ty. Họ có thể gây áp lực đối với doanh nghiệp về giá cả, chất lượng sản phẩm, dịch vụ đi kèm bởi sự cạnh tranh trong ngành thông qua quyết định mua hàng của họ. Bởi vậy một doanh nghiệp cần nắm bắt được những thông tin quan trọng về khách hàng như: Quy mô Tầm quan trọng Chi phí chuyển đổi khách hàng Thông tin khách hàng Chính những yếu tố trên sẽ quyết định xem doanh nghiệp nên sản xuất sản phẩm gì, hướng vào đối tượng nào, giá cả và dịch vụ đi kèm Đối thủ tiềm ẩn Đối thủ tiềm ẩn có thể là yếu tố làm giảm lợi nhuận của công ty do họ đưa vào khai thác những năng lực sản xuất mới với mong muốn dành được thị phần và các nguồn lực cần thiết. Tuy nhiên áp lực của các đối thủ tiềm ẩn này tới ngành có thể giảm do các rào cản gia nhập ngành: Kỹ thuật Vốn Các yếu tố thương mại: hệ thống phân phối, thương hiệu, hệ thống khách hàng Các nguồn lực đặc thù: nguyên liệu đầu vào (bị kiểm soát), bằng sáng chế, phát minh, nguồn nhân lực, sự bảo hộ của chính phủ Đối thủ cạnh tranh Các đối thủ cạnh tranh đang kinh doanh trong ngành trực tiếp cạnh tranh với nhau tạo nên một mức độ cạnh tranh nhất định trong ngành. Các yếu tố có thể làm tăng áp lực cạnh tranh trên các đối thủ: i. Tình trạng ngành: nhu cầu, tốc độ tăng trưởng, số lượng đối thủ cạnh tranh ii. Cấu trúc ngành: ngành tập trung hay phân tán. Ngành phân tán là ngành có nhiều doanh nghiệp cạnh tranh nhau nhưng không có doanh nghiệp nào có đủ khả năng chi phối các doanh nghiệp còn lại. Còn ngành tập trung là ngành chỉ có một hoặc một vài doanh nghiệp nắm giữ vai trò chi phối. iii. Các rào cản rút lui: rào cản về công nghệ, vốn đầu tư, ràng buộc với người lao động, ràng buộc với chính phủ, các bên liên quan, ràng buộc chiến lược kế hoạch. Một doanh nghiệp cần nghiên cứu các vấn đề trên để thấy được điểm mạnh và yếu của đối thủ, khả năng rút lui chuyển đổi, và đối thủ đang cạnh tranh như thế nào. Sản phẩm thay thế Sản phẩm thay thế là các sản phẩm có cùng công dụng như sản phẩm của ngành, tức là có khả năng thỏa mãn cũng một nhu cầu của khách hàng. Có thể thấy những áp lực cạnh tranh chủ yếu của sản phẩm thay thế đó là sự thỏa mãn cao hơn cùng với các nhân tố về giá, chất lượng, văn hóa, thị hiếu Tuy nhiên sản phẩm thay thế cũng gặp những rào cản có thể là chi phí chuyển đổi, điều này thường được người tiêu dùng rất quan tâm. Chi phí chuyển đổi đôi khi còn chứa đựng những yếu tố về chi phí và cơ hội cao hơn gấp nhiều lần so với sự ưu đãi về giá cả của nó. Chương 2 Môi trường vi mô và vĩ mô của công ty cổ phần dịch vụ Sài Gòn 2.1. Tổng quan chung về công ty Công ty Cổ phần Dịch vụ Tổng hơp Sài Gòn, tên tiếng anh là Saigon General Corporation, tên viết tắt và giao dịch là Savico, tiền thân là Công ty Dịch vụ Quận I được thành lập từ năm 1982, hoạt động trong các lĩnh vực Dịch vụ - Thương mại – Đầu tư 1992 – 1998: hoạt động nền tảng của công ty là dịch vụ, công ty mở rộng sang đầu tư, xuất nhập khẩu, thương mại như lắp ráp, kinh doanh xe gắn máy, ô tô, taxi.. 1998-2004: Savico chính thức trở thành thành viên của Tổng công ty Bến Thành, công ty đã tập trung chuyển hướng dần qua đầu tư tài chính và các ngành như ngân hàng, bưu chính viễn thông và tổ chức hệ thống bán lẻ những sản phẩm cao cấp như ô tô, xe máy, điện tử, mắt kính, đồ thời trang 2004 tới nay: công ty được cổ phần hóa và chính thức đi vào hoạt động có giấy phép đăng ký kinh doanh và hiện nay công ty tập trung phát triển ở 3 lĩnh vực: đầu tư tài chính, dịch vụ bất động sản và hệ thống bán lẻ cao cấp. 2.2. Môi trường vĩ mô của doanh nghiệp 2.2.1. Các yếu tố thể chế - pháp luật Cùng với xu hướng hội nhập toàn cầu, là thành viên của nhiều tổ chức quốc tế, Việt Nam đang thực hiện những đổi mới về thể chế pháp luật để phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế trong nước cũng như thế giới. Thứ nhất về sự ổn định chính trị. Việt Nam được biết đến là một nước ít có sự bất ổn hay xung đột về đảng phái bởi ở Việt Nam Đảng Cộng sản là Đảng duy nhất lãnh đạo. Nếu nhìn sang nước láng giềng như Thái Lan, sự bất ổn tranh chấp Đảng phái liên miên khiến nền kinh tế bị ảnh hưởng nghiêm trọng, tăng trưởng chậm lại, kinh tế sụt giảm. Tuy nhiên sự ổn định khi xét về mặt tranh chấp đảng phái chỉ là sự ổn định chính trị trong ngắn hạn - theo các chuyên gia và tổ chức quốc tế xếp hạng về sự ổn định chính trị. Một đất nước muốn có sự ổn định chính trị trong dài hạn chỉ khi niềm tin của người dân với Chính phủ được nâng cao, thông qua giải quyết các vấn đề như: việc làm, an sinh xã hội, cơ chế thực sự đổi mới và minh bạch. Hiện nay sự ổn đinh về chính trị của Việt Nam trong dài hạn vẫn có nguy cơ bị đe dọa khi nạn tham nhũng ở Việt Nam vẫn chưa được khắc phục. Theo xếp hạng của Diễn đàn kinh tế thế giới 2008, chỉ số về năng lực canh tranh của Việt Nam giảm, Việt nam tụt 6 bậc so với 2006 và một trong những nguyên nhân ảnh hưởng mạnh mẽ là tham nhũng hoành hành làm xói mòn uy tín chính quyền, đe dọa sức mạnh của chính phủ. Hơn nữa cũng theo một tổ chức xếp hạng khác, hệ thống tư pháp Việt Nam đứng cuối cùng trong bảng xếp hạng Châu Á. Các đặc điểm có thể giải thích băng một nguyên nhân khá phổ biến ở Việt Nam đó là sự “đứng trên luật” của một số cơ quan đứng đầu nhà nước. Điều này ảnh hưởng mạnh mẽ và không tốt tới các doanh nghiệp và nền kinh tế trong nước. Thứ hai về các chính sách thuế và đạo luật liên quan. Chính sách thuế của Việt Nam hiện nay khá rộng và điều chỉnh hầu hết các quan hệ kinh tế. Với những đổi mới trong chính sách thuế so với trước đây như VAT thay cho thuế doanh thu, khắc khục sự trùng lắp thuế, hay như sự ưu đãi về thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu. Thuế thu nhập doanh nghiệp đã giảm so với trước, hiện nay là 25%... Bên cạnh những chính sách về thuế thì các luật có liên quan tới ngành như: luật thương mại đã được sửa đổi và bổ sung thành luật thương mại 2005 – thay thế cho luật thương mại năm 1997. Luật mới có sự mở rộng về đối tượng thương nhân để bao trùm toàn bộ những chủ thể của hoạt động thương mại. Những đổi mới hoàn toàn phù hợp với luật dân sự 2005 và thực tiễn hoạt động thương mại tại Việt Nam, hài hòa nguyên tắc điều chỉnh hoạt động thương mại của Việt Nam với chuẩn mực quốc tế. Luật thương mại 2005 thừa nhận và thể chế những nguyên tắc như: bình đẳng thương mại, tự do tự nguyện thỏa thuận trong thương mại, thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu trong hoạt động thương mại....Và việc thừa nhận giá trị pháp lý của thông điệp dữ liệu thương mại là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai thương mại điện tử. Ngoài ra luật thương mại 2005 còn bổ sung thêm hai hình thức hoạt động: doanh nghiệp liên doanh và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, điều này hoàn toàn phù hợp với quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Sự bổ sung các hình thức khuyến mãi và nguyên tắc đấu giá cũng xuất hiện trong luật thương mại 2005 Có thể nói những đổi mới trong chính sách thuế và luật thương mại- liên quan trực tiếp tới các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thương mại như Savico nói riêng đã tạo thêm nhiều điều kiện thuận lợi nâng cao năng lực cạnh tranh và giúp doanh nghiệp phát triển. Thứ ba việc đổi mới các chính sách thương mại ở Việt Nam đã tác động một cách gian tiếp vào các doanh nghiệp thương mại. Trong năm 2009 này, Việt Nam tiếp tục đổi mới chính sách thương mại theo hướng tích cực và có lợi cho các doanh nghiệp theo đúng những cam kết quốc tế của Việt Nam. Việt Nam cam kết giảm thuế xuất nhập khẩu trên cơ sở không phân biệt đối xử và sẽ không gắn việc miễn giảm thuế với yêu cầu về xuất khẩu hay nội địa hóa, áp dụng các hàng rào kỹ thuật và giảm bớt các hàng rào phi thuế quan, dần tiến tới tự do hóa thương mại Bên cạnh những chính sách trực tiếp hướng vào thương mại thì Việt Nam vẫn còn khá hạn chế trong những chính sách bổ trợ quan trọng cho thương mại như chính sách cạnh tranh, chính sách điều tiết các lĩnh vực liên quan tới thương mại như: ngân hàng, vận tải, xúc tiến thương mại, chính sách về thủ tục giấy tờ đăng ký và vấn đề thương hiệu liên quan trực tiếp tới sự cạnh tranh để tìm kiếm thị trường trên trường quốc tế cũng quan trọng không kémHay nói một cách tổng quát nhất nhà nước chưa phát huy được chức năng tổ chức, quy hoạch và thiết kế chính sách, định hướng phát triển và quản lý cho thương mại phát triển. 2.2.2. Các yếu tố về kinh tế Bên cạnh những yếu tố về thể chế pháp luật thì các yếu tố về kinh tế tác động một cách trực tiếp và dễ nhận thấy hơn. Thứ nhất là tình trạng nền kinh tế Việt Nam và thế giới không chỉ ảnh hưởng tới doanh nghiệp thương mại mà còn ảnh hưởng tới tất cả các ngành khác. Kinh tế thế giới đang khủng hoảng, sự sụt giảm về tiêu dùng dẫn đến sự thiếu hụt thậm chí mất đi đầu ra với các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp xuất khẩu. Do sự suy thoái khiến tình trạng mất việc tăng cao, thu nhập người lao động bị ảnh hưởng trong đó những khoản chi thiết yếu của họ là không đổi nên nhu cầu tiêu dùng giảm sút là khó tránh khỏi. Thứ hai là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp tới nền kinh tế: lạm phát, các chính sách của chính phủ liên quan tới lãi suất, tỷ giá Ở Việt Nam, năm 2007 và 2008 với lạm phát ở mức hai con số đã ảnh hưởng trực tiếp tới sức mua của người tiêu dùng, đương nhiên sức tiêu thụ của doanh nghiệp bị giảm đáng kể, doanh nghiệp thương mại giảm sức mua sẽ ảnh hưởng tới sức sản xuất và đầu ra cho sản phẩm của những doanh nghiệp sản xuất, và sự phản ứng dây chuyền này sẽ lan rộng trong nền kinh tế bởi sự quan hệ mật thiết của các doanh nghiệp và các chủ thể khác trong nền kinh tế. Tiếp tới là chính sách tiền tệ thắt chặt của chính phủ nhằm kiềm chế lạm phát, đẩy lãi suất lên mức cao một cách không hợp lý khiến đầu tư bị giảm sút nghiêm trọng, bởi nhiều doanh nghiệp không thể đáp ứng nổi chi phí sử dụng vốn ở mức quá cao, và vòng luẩn quẩn bắt đầu xuất hiện, kiềm chế lạm phát không đúng mức sẽ làm đầu tư sụt giảm nghiêm trọng. Việt Nam hiện nay đang áp dụng chính sách tỷ giá vẫn mang tính cố định cao và thời gian gần đây, việc chính phủ giữ cho tiền đồng tăng giá so với đô la một cách tương đối, trong khi đô la lại đang xuống giá so với một số ngoại tệ mạnh khác như EURO, điều này đã ảnh hưởng tới những doanh nghiệp thương mại xuất khẩu nhập khẩu nói chung và Savico khi kinh doanh khá nhiều hàng nhập khẩu, doanh thu và lợi nhuận của doanh nghiệp sẽ bị giảm tương ứng. Thứ ba là triển vọng về kinh tế trong tương lai của Việt Nam. Việt Nam bằng các nỗ lực của mình hy vọng kinh tế trong nước sẽ phục hồi cùng kinh tế thế giới vào năm 2010 và sự gia tăng thu nhập bình quân đầu người tới ngưỡng 1000$ sẽ là cơ hội cho các doanh nghiệp tiếp tục những kế hoạch đầu tư dài hạn cho tương lai để phát triển và phục hồi khi nền kinh tế trở lại quỹ đạo tăng trưởng. 2.2.3. Các yếu tố về văn hóa xã hội. Việt Nam cũng giống như khá nhiều nước Châu Á khác có truyền thống văn hóa mang đậm nét Á Đông. Dân tộc Việt Nam với những lễ hội cổ truyền và những giá trị tinh thần lâu đời gắn với thói quen tiêu dùng. Tuy nhiên với sự hội nhập và phát triển, nền văn hóa Việt Nam đã có sự giao thoa khá nhiều so với các nền văn hóa khác. Có thể thấy trong một thời gian, các trào lưu văn hóa Hàn ảnh hưởng mạnh tới giới trẻ Việt Nam nhất là trong phong cách thời trang, các doanh nghiệp cần phải biết tận dụng trào lưu, hấp dẫn và thu hút khách hàng tới với họ. Tuy nhiên, xu hướng văn hóa tiêu dùng thường thay đổi và dễ bị đào thải nên các doanh nghiệp phải luôn chú trọng nắm bắt những xu hướng tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu thị trường kịp thời. Xét về mặt xã hội, về khía cạnh như tâm lý, giới tính, thu nhập, người Việt Nam có một số đặc điểm: thu nhập người Việt Nam tương đối thấp bởi Việt Nam vẫn là một nước đang phát triển, vậy những hàng hóa có thể đáp ứng được nhu cầu của họ: giá cả phải chăng, chất lượng tương đối. Điều này có thể thấy trong lĩnh vực kinh doanh xe máy, đó là những dòng xe máy giá rẻ chất lượng tốt của Honda đang chiếm lĩnh phần lớn thị trường Việt Nam, là cơ hội kinh doanh tốt cho những doanh nghiệp chuyên về dòng xe này. Tuy nhiên do kinh tế ngày càng phát triển, có một bộ phận người giàu lên nhanh chóng, họ lại ưa chuộng những mặt hàng cao cấp, thậm chí ưa chuộng hàng ngoại nhập, sự xuất hiện của những doanh nghiệp thương mại với những mặt hàng kiểu này sẽ đáp ứng trúng nhu cầu của khách hàng. 2.2.4. Các yếu tố về công nghệ Công ty Savico là công ty thương mại dịch vụ chủ yếu tập trung vào 3 lĩnh vực: đầu tư tài chính, dịch vụ bất động sản và hệ thống bản lẻ cao cấp. Vì vậy đối với Savico nói riêng và các công ty thương mại dịch vụ nói chung thì tài sản cố định về máy móc hay các tài sản khác liên quan tới công nghệ thường chiếm tỷ trọng nhỏ. Đó là một lợi thế lớn, họ có thể nhanh chóng thích ứng với sự biến đổi của công nghệ và các chu kỳ kinh tế, giảm được nhiều rủi ro tiềm ẩn trong kinh doanh so với các ngành phải đầu tư tài sản cố định với công nghệ cao. Sự phát triển và bùng nổ của công nghệ thông tin tại Việt Nam hiện nay luôn là cơ hội tốt với tất cả các doanh nghiệp trong việc nắm bắt thu thập các thông tin phục vụ cho sản xuất, kinh doanh và hợp tác của mình. 2.3. Môi trường vi mô của doanh nghiệp Bên cạnh những yếu tố về môi trường vĩ mô thì môi trường vi mô cũng tác động không nhỏ tới doanh nghiệp và mang tính chất đặc thù của lĩnh vực mà doanh nghiệp kinh doanh. 2.3.1. Nhà cung cấp Với lĩnh vực kinh doanh của doanh nghiệp: phân phối, bảo hành, bảo trì thì hiện nay những nhà cung cấp của doanh nghiệp trong lĩnh vực kinh doanh khá lớn bởi sự hội nhập và mở cửa của Viêt Nam. Hơn nữa với uy tín của mình, doanh nghiệp hoàn toàn có thể chủ động lựa chọn nhà cung cấp với những điều kiện đàm phán có lợi cho cả doanh nghiệp và bên cung cấp. Hơn thế, các hãng cung cấp cho Savico đều là những nhà cung cấp nổi tiếng thế giới với sự đảm bảo về chất lượng như: Toyota, Ford, GM-Daewoo hay Suzuki và các hãng xe máy như: Honda, SYM, Suzuki Ngoài ra các lĩnh vực khác của doanh nghiệp như: thời trang cao cấp, hệ thống bán lẻ tự động cũng có hệ thống các nhà cung cấp trong và ngoài nước rất lớn với các ưu đãi dành cho doanh nghiệp khi tiếp nhận hàng hóa của những nhà cung cấp này. 2.3.2. Khách hàng Với uy tín lâu năm của doanh nghiệp, doanh nghiệp đã có một lượng khách hàng quen lâu năm tin tưởng, đây là một thuận lợi lớn của doanh nghiệp, đảm bảo một phần doanh thu ổn định cho doanh nghiệp và cơ hội gia tăng lượng khách hàng. Điều này có được thông qua các giải thưởng mà doanh nghiệp đã đạt được có sự tham gia bình chọn của khách hàng và sự đánh giá của các tổ chức chuyên môn: i. Bộ công thương mạng www.vietnamenterprises.com.vn bầu chọn là doanh nghiệp “uy tín- chất lượng” trong nhiều năm ii. Cúp vàng sản phẩm việt uy tín chất lượng iii. Cúp vàng topten thương hiệu Việt iiii. Đạt giải thưởng thương hiệu mạnh của Cục xúc tiến thương mại và thời báo kinh tế VIệt nam Quy mô, thông tin khách hàng vô cùng quan trọng. Muốn có một lượng khách hàng lâu năm và trung thành với mình, doanh nghiệp phải biết họ cần gì, theo kịp với những nhu cầu và thị hiếu của họ. Với Savico nói riêng và các doanh nghiệp thương mại khác nói chung, mỗi doanh nghiệp đều có một nhóm đối tượng khách hàng mà họ nhắm vào. Vậy khi họ muốn chuyển đổi đối tượng khách hàng thì công ty sẽ phải tính toán chi phí chuyển đổi khách hàng, tính xem lợi nhuận có đủ bù đắp chi phí chuyển đổi bao gồm chi phí cơ hội mà họ mất đi không. 2.3.3. Đối thủ tiềm ẩn Hiện nay có rất nhiều đối thủ muốn tham gia vào lĩnh vực thương mại bởi những rủi ro mà nó mang lại ít hơn so với lĩnh vực sản xuất. Những đối thủ này có thể đáp ứng trúng nhu cầu thị trường với giá rẻ hơn, phục vụ và chăm sóc khách hàng tốt hơn, ví dụ một hệ thống tiêu biểu: hệ thống metro. Tuy nhiên các đối thủ muốn gia nhập sẽ gặp phải những rào cản lớn so với doanh nghiệp: Thứ nhất về vốn và kỹ thuật. Yếu tố kỹ thuật có thể không cản trở nhiều bởi những doanh nghiệp thương mại không cần nhiều. Nhưng cản trở về vốn khá lớn. Với Savico, vốn có thể thu hồi thậm chí tăng vốn và giảm khả năng mất vốn khi nó tham gia vào nhiều lĩnh vực kinh doanh Thứ hai về các yếu tố thương mại. Về hệ thống phân phối rộng khắp với hệ thống 5 công ty và các chi nhánh chuyên doanh ô tô được trải rộng từ Bắc tới Nam, có mặt ở các thị trường chủ lực là các thành phố lớn như Hà Nội, Đà Nẵng, Tp. Hồ Chí Minh, Cần Thơ Về thương hiệu: Savico là một thương hiệu mạnh với các giải thưởng về thương hiệu với hình ảnh về công ty với cung cách phục vụ và chăm sóc khách hàng tốt. Về khách hàng: như đã phân tích ở trên, công ty có uy tín với các khách hàng lâu năm, số lượng lớn. Thứ ba là các yếu tố về nguồn lực đặc thù. Về sự bảo hộ của nhà nước với ô tô lắp ráp trong nước thông qua thuế nhập khẩu có thể gây khó khăn cho Savico. Còn về nguồn nhân lực: với đội ngũ quản lý năng động, hiện đại đã xây dựng nên những nét đặc trưng trong văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp 2.3.4. Đối thủ cạnh tranh Hiện nay Savico đang có lợi thế về thị phần trong các mặt hàng ô tô như: sản lượng tiêu thụ ô tô Toyota của Savico chiếm 30% hệ thống tiêu thụ Toyota trên toàn quốc, Ford là 27%, GM – Daewoo là 6% và Suzuki là 10%. Cùng với khủng hoảng kinh tế, doanh số tiêu thụ ô tô của các hãng sụt giảm lớn, khiến cho các đại lý cũng lâm vào tình cảnh tương tự Các rào cản rút lui đối với các doanh nghiệp cạnh tranh cùng ngành với Savico, tức là các doanh nghiệp thương mại thường không lớn: Thứ nhất là về vốn đầu tư: thường nhỏ vì các doanh nghiệp thương mại thường đóng vai trò là đại lý, hàng của nhà sản xuất là hàng gửi bán, các doanh nghiệp thương mại ăn hoa hồng theo số lượng xe bán được. Thứ hai là về ràng buộc người lao động không lớn vì số lượng người lao động của doanh nghiệp thương mại là thấp, khác với doanh nghiệp sản xuất. Và một số ràng buộc khác như sự ràng buộc về phía chính phủ với các kế hoạch khá tương đồng nhau. Như vậy sự cạnh tranh giữa các đối thủ trong ngành của Savico với doanh nghiệp là tương đối lớn vì chúng có khá nhiều điểm tương đồng. 2.3.5. Sản phẩm thay thế Sản phẩm thay thế của Savico và các doanh nghiệp khác cùng lĩnh vực kinh doanh thường không có. Các sản phẩm như ô tô hay xe máy không giống như các sản phẩm về thực phẩm. Người ta có thể thay thế món ăn khi nó đắt hoặc không tốt cho sức khỏe bằng một món đồ ăn khác nhiều chất dinh dưỡng hơn, tốt cho sức khỏe hơn hoặc rẻ hơn. Nhưng với những sản phẩm phương tiện như ô tô xe máy, giá trị của chúng thường lớn và sử dụng được với thời gian dài, hơn nữa nó thường được sử dụng là phương tiện di chuyển cá nhân phổ biến ở Việt Nam khi phương tiện giao thông công cộng Việt Nam số lượng ít và chất lượng không tốt Chương 3: Giải pháp cho Savico 3.1. Vĩ mô Nhà nước cần nâng cao vai trò của mình trong việc cải thiện môi trường vĩ mô cho doanh nghiệp Thứ nhất đó là sự nâng cao hiệu quả các yếu tố về thể chế pháp luật sự bình ổn về chính trị, cần phát huy vai trò của Đảng lãnh đạo, sự thống nhất trong nội bộ Đảng, tránh mâu thuẫn đảng phái. Vấn đề chống tham nhũng luôn là vấn đề cấp bách và cần thiết để tăng tính ổn định về chính trị trong dài hạn Thứ hai về các chính sách và đạo luật liên quan. Chính sách thuế cần được điều chỉnh một cách hợp lý để đáp ứng 2 mục đích: vừa là nguồn thu quan trọng của ngân sách, vừa mang tính chất khuyến khích doanh nghiệp tăng trưởng và phát triển. Các đạo luật liên quan được quốc hội thông qua cần phải lấy ý kiến của các chuyên gia trong từng lĩnh vực để chúng có thể phát huy được tác dụng vốn có của chúng. Ngoài ra cũng cần xem xét phát triển hệ thống luật Việt Nam phù hợp với luật quốc tế để mỗi doanh nghiệp hay cả nền kinh tế thực sự được hội nhập. Các chính sách tác động một cách gián tiếp vào doanh nghiệp cũng phải phù hơp với tình hình Việt Nam: chính sách thương mại cần phát triển theo hướng tự do hóa thương mại, dỡ bỏ những hàng rào thuế quan không cần thiết theo đúng cam kết của Việt Nam khi tham gia vào WTO, đồng thời việc đẩy mạnh các luật chống bán phá giá, luật cạnh tranh...cũng chính là để bảo vệ cho những doanh nghiệp trong nước. Khi kinh tế phát triển, đời sống người dân lên, họ càng quan tâm tới chất lượng hàng hóa cũng như sức khỏe, sự phát triển những hiệp hội chuyên môn đánh giá như: hiệp hội người tiêu dùng là hết sức cần thiết và phù hợp với thế giới. Thứ ba đó là các chính sách kinh tế tác động trực tiếp vào các doanh nghiệp và nền kinh tế của chính phủ. Trong những thời kỳ kinh tế khó khăn, khủng hoảng, vai trò của nhà nước quan trọng hơn bao giờ hết. Nhà nước cần có các chính sách kinh tế điều tiết: chính sách tài khóa, tiền tệ...phù hợp tác động tới cung cầu hàng hóa thị trường, lãi suất, tỷ giá...nhằm thúc đẩy doanh nghiệp phát triển và kinh tế tăng trưởng bền vững. Trong giai đoạn Việt Nam hiện nay, có lẽ thiếu vốn không phải là vấn đề sống còn với doanh nghiệp mà là thị trường, chính sách kích cầu “bù lãi suất” của chính phủ dường như là “kích cung”, chính sách này chưa đáp ứng trúng đích nhu cầu của doanh nghiệp. Khác với Việt Nam, Đức đã trợ giúp trực tiếp cho người tiêu dùng một khoản tiền để họ có thể mua ô tô, kích thích nền kinh doanh ô tô phục hồi, kéo theo sự phát triển của các ngành khác, chính sách của họ đã hướng tới đúng cái khó khăn của doanh nghiệp hiện nay. Thứ tư là các yếu tố về văn hóa xã hội. Những chính sách về hội nhập và mở cửa văn hóa là những chính sách quan trọng, làm sao không làm mất đi bản sắc dân tộc trong khi tiếp nhận những giao thoa văn hóa. Những chính sách về phát triển con người, chăm sóc sức khỏe cộng đồng tác động tới tuổi thọ, sự cân đối về giới, sự giáo dục nâng cao tư tưởng, thẩm mĩ, nhận thức của người dân đối với các sản phẩm, lĩnh vực tiêu dùng mớithuận lợi cho sự gia nhập thị trường của những ngành mới đối với Việt Nam Thứ năm là các yếu tố công nghệ. Nhà nước hiện nay đã có những chính sách về công nghệ đối với mọi ngành nghề, nhưng vẫn cần sự đồng bộ phối hợp thực hiện của các ngành. Ngoài ra đối với những ngành có tốc độ đào thải công nghệ cao, nhà nước cần hỗ trợ kinh phí nhất định để thúc đẩy doanh nghiệp phát triển. Thứ sáu, khi kinh tế trong nước bị tác động bởi chu kỳ kinh tế thế giới, cả nhà nước và doanh nghiệp cần phải tìm được hướng đi đúng cho mình, thường là tìm thị trường đầu ra cho sản phẩm khi sức tiêu dùng toàn cầu giảm sút. Thậm chí điều này còn phụ thuộc khá lớn vào chính phủ của nước đối tác trong vấn đề kích cầu, tạo đầu ra cho sản phẩm trong nước. 3.2. Vi Mô Thứ nhất đối với nhà cung cấp, doanh nghiệp cần nâng cao vị thế và uy tín của mình đối với các nhà cung cấp lớn và có thương hiệu mạnh qua việc thực hiện tốt việc tăng doanh số bán hàng Thứ hai về khách hàng, doanh nghiệp phải luôn nắm được các thông tin một cách đầy đủ về khách hàng: quy mô, thị hiếu, tâm lý, thu nhậpđể có thể hướng sản phẩm của mình vào đối tượng thích hợp. Muốn làm tốt điều trên, doanh nghiệp cần thực hiện việc điều tra và dự báo thị trường tốt và chính xác Thứ ba về đối thủ tiềm ẩn: doanh nghiệp cần phát huy những thế mạnh của mình so với các đối thủ tiềm ẩn, nhằm làm gia tăng rào cản gia nhập ngành với các đối thủ, bằng việc tạo lòng tin với khách hàng, phát triển hệ thống bán hàng rộng khắp, tạo thương hiệu đủ mạnh đối với thị trường. Thứ tư về đối thủ cạnh tranh, doanh nghiệp chủ động cạnh tranh lành mạnh thông qua những dịch vụ sau bán hàng, nhằm thỏa mãn nhu cầu khách hàng ở mức cao hơn: dịch vụ chăm sóc khách hàng, ưu đãi về mua bán với số lượng lớn hay thanh toán trước hạn, các khuyến mãi vào các dịp lễ tết Không những vậy doanh nghiệp còn cần tạo niềm tin với người lao động. có chính sách khuyến khích người lao động giỏi làm việc, có các chiến lược và kế hoạch hợp lý cho việc phát triển trong tương lai.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc6148.doc
Tài liệu liên quan