Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm ong ở Công ty ong Trung ương

Thị trường Mỹ cũng là thị trường lớn với diện tích rộng 9,3 triệu km2, dân số 262,8 triệu người. GDP trên đầu người 25.900USD. Ngày 12/7/1995 Mỹ tuyên bố bình thướng hoá quan hệ với Việt Nam. Kim ngạch buôn bán của Việt Nam đến Mỹ tăng nhanh, hàng năm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ trị giá 58,94 triệu USD. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ là gia vị, chè, cà phê, mật ong, theo danh mục mang mã số HS 090111 trong biểu thuế của chính phủ Hoa Kỳ. Do chính sách khuyến khích của Mỹ, các mặt hàng này được miễn thuế hoàn toàn. Mật ong của ta xuất sang Mỹ từ 1996 (60 tấn), năm 2001 (200 tấn). Công ty nên tìm mọi cách để tăng cường khối lượng xuất khẩu sang thị trường này. Đây là thị trường có lợi thế đối với sản phẩm ong Việt Nam. - Công ty cần phải tìm thêm các thị trường mới như: Đức, Canada, Newzealand, Đông Nam Á, Hàn Quốc, các nước ASEAN,. đặc biệt là khu vực ASEAN, đây là khu vực phát triển kinh tế năng động, khi xoá bỏ hàng rào thuế quan, sản phẩm đóng gói, lọ nhỏ chất lượng tốt lại phát huy tác dụng. - Đẩy mạnh các hoạt động Marketing: Làm tốt công tác quảng cáo, giới thiệu mặt hàng, công tác khuyến mãi, dịch vụ sau bán hàng, nhằm mục đích để khách hàng hiểu biết một cách đầy đủ về các sản phẩm của Công ty, đồng thời khuyến khích khách hàng, tạo tâm lý thoải mái của khách hàng khi mua hàng của Công ty, góp phần tăng thêm hiệu quả bán hàng.

doc80 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1238 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm ong ở Công ty ong Trung ương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty năm 1996 - 2001 STT Chỉ tiêu 1996 1997 1998 1999 2000 2001 Cơ cấu (%) Giá xuất tại cảng (USD/tấn) Cơ cấu (%) Giá xuất tại cảng (USD/tấn) Cơ cấu (%) Giá xuất tại cảng (USD/tấn) Cơ cấu (%) Giá xuất tại cảng (USD/tấn) Cơ cấu (%) Giá xuất tại cảng (USD/tấn) Cơ cấu (%) Giá xuất tại cảng (USD/tấn) I Mật ong bình quân 630,2 730,0 568,7 798,36 1194,05 1239,90 Mật loại A 0,50 1250 1,80 1400 1,50 1000 2,48 1200 5,79 1450 3,76 1450 Mật loại B 27,50 840 47,70 640 79,10 600 83,43 820 86,80 1200 91,39 1250 Mật loại C 36,90 670 35,30 660 14,50 500 13,41 630 6,85 1000 4,30 1000 Mật loại D 34,70 420 14,60 500 1,40 470 - 0 - 0 - - II Phấn hoa, SC, sáp ong 0,40 20,500 0,6 12154 3,50 7137 0,68 13850 0,56 18980 0,54 13900 III Bình quân sản phẩm 709,60 798,54 798,59 887,11 1265,65 1308,26 4-/ Kết quả sản xuất kinh doanh của công ty ong TW 1999 - 2001 Biểu 11 phản ánh tình hình sản xuất kinh doanh của công ty qua 3 năm 1999 - 2001. Nhìn vào số liệu trên ta thấy rằng: - Doanh thu qua 3 năm tăng mạnh, năm 1999 tổng doanh thu 8562,7 triệu đồng, năm 2000 là 15.098,87 triệu đồng tăng so với 1999 là 1,76 lần. Năm 2001 doanh thu tăng vọt, đạt doanh thu 25.039,65 triệu, tăng so với năm 1999 là 2,92 lần và so với năm 2000 là 1,65 lần. Chỉ số doanh thu bình quân 1999 - 2001 tăng 1,7 lần. Biểu 11 TT Chỉ tiêu ĐV Năm 1999 2000 2001 1 Doanh thu Triệu đồng 8562,7 15098,87 25039,65 2 Nộp ngân sách Triệu đồng 418,15 357,26 320,65 3 Lợi nhuận Triệu đồng - 46,90 71,0 4 Thu nhập bình quân đồng 340.000 480.000 700.000 Nguồn: Phòng TCKT Công ty ong TW. - Các chỉ tiêu giao nộp ngân sách, thực hiện đầy đủ. Năm 1999, thực hiện nghĩa vụ với ngân sách 418,15 triệu đồng; năm 2000: 357,25 triệu đồng; năm 2001: 320,65 triệu đồng; chỉ tiêu giao nộp hàng năm giảm, chủ yếu do giảm thuế đặc biệt của gia, rượu vì doanh thu các mặt hàng này giảm mạnh. - Về lợi nhuận: Năm 1999 do mới có sự chuyển đổi về tổ chức, các đơn vị từ chỗ hạch toán độc lập, chuyển về hạch toán báo sổ Công ty, mọi vấn đề chưa đi sâu vào nền nếp, mặt khác do thời tiết cũng không thuận, giá mật ong thế giới giảm nên không có lãi. Năm 1998 nhờ doanh số xuất khẩu tăng, lãi 46,9 triệu. Năm 2001 lãi 71,0 triệu. - Thu nhập bình quân đầu người cũng được cải thiện, năm 1999: 340.000 đồng/tháng, năm 2001: 700.000 đồng/tháng. Với mức thu nhập này so với các công ty khác chưa phải là cao, nhưng cũng đánh dấu được bước tiến của công ty, việc làm của cán bộ công nhân viên ổn định, có thu nhập, đời sống được cải thiện, tăng sự đoàn kết và phấn khởi trong công ty. 5-/ Đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình xuất khẩu sản phẩm ong của công ty ong TW. Qua số liệu phân tích ở phần III. Đánh giá chung về tình hình sản xuất kinh doanh và tình hình xuất khẩu sản phẩm ong của công ty ong TW. Ta có thể rút ra các điểm mạnh yếu sau đây: 5.1 Điểm mạnh: a, Về sản xuất kinh doanh. - Sản xuất đã đi vào thể ổn định và có chiều hướng phát triển, số lượng và quy mô đàn ong hàng năm tăng đáng kể. Đặc biệt là công ty đã làm tốt công tác giữ giống quốc gia, quản lý chỉ đạo khoa học kỹ thuật toàn ngành, thúc đẩy sản xuất của ngành ong phát triển, hoàn thành tốt chức năng Bộ giao. - Khối lượng sản xuất và thu mua, chế biến sản phẩm ong hàng năm đều tăng, nhất là công tác thu mua, góp phần tăng được sản lượng xuất khẩu. Mở rộng được quy mô sản xuất, đa dạng hoá các mặt hàng như: rượu quả mật ong. Mở rộng được quy mô sản xuất, đa dạng hoá các mặt hàng như: rượu quả mật ong; các loại nước giải khát có chứa mật ong; bia hơi, các sản phẩm ong tự nhiên khác như: Sữa chúa, phấn hoa, sáp ong, kẹo ong,... Tuy rằng khối lượng các mặt hàng này chưa lớn, có mặt hàng bị chững lại hoặc giảm, nhưng đã góp phần tạo được công ăn việc làm, tăng thu nhập và cải thiện tốt được đời sống cán bộ công nhân viên. - Công ty đã đẩy mạnh được công tác tiêu thụ sản phẩm, doanh số bán ra hàng năm tăng, có lợi nhuận, hoàn thành các nghĩa vụ giao nộp ngân sách Nhà nước. b, Về xuất khẩu sản phẩm ong. - Nhờ chú trọng vào xuất khẩu, nên sản lượng xuất khẩu hàng năm tăng mạnh. Năm 1985 bắt đầu có sản phẩm xuất khẩu đạt 50 tấn, năm 2001 tổng khối lượng xuất khẩu đã đạt 930 tấn gấp 18,6 lần năm 1985. Đặc biệt tăng mạnh vào những năm 1999 - 2001. - Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu cũng được nâng lên. Nếu như trước những năm 1993 mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là mật ong, thì từ năm 1996 - 2001 đã có bốn mặt hàng xuất khẩu (trong đó có mật ong và 3 sản phẩm cao cấp: Sữa chúa, phấn hoa, sáp ong). Tuy khối lượng của 3 mặt hàng này chưa lớn nhưng cũng đánh dấu được bước tiến vượt bậc của công ty. - Chất lượng sản phẩm xuất khẩu cũng ngày càng nâng lên, mật ong có chất lượng tốt (loại A, B) ngày càng tăng. Nếu như năm 1996 loại A, B chỉ đạt 28% trong tổng lượng xuất khẩu của năm thì năm 2001 đã đạt xấp xỉ 95% tổng lượng xuất khẩu. Mật ong đã đạt tiêu chuẩn xuất khẩu, được khách hàng ưa chuộng, uy tín sản phẩm ngày một tăng, góp phần làm tăng được giá bán. - Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng do sản lượng, chất lượng giá xuất khẩu tăng. Chỉ số tăng bình quân 36,64%. Việc đẩy mạnh xuất khẩu đã góp phần tăng doanh thu, lợi nhuận, giải quyết được công ăn việc làm và cải thiện được đời sống cán bộ công nhân viên trong công ty, thúc đẩy và phát triển phong trào nuôi ong nhân dân, giải quyết được công ăn việc làm cho hàng ngàn hộ gia đình, hàng vạn lao động, góp phần vào công việc xoá đói giảm nghèo của Đảng và Chính phủ, đồng thời cũng nhờ vào phát triển sản xuất và xuất khẩu, ong phát triển tốt, tăng khả năng thụ phấn cho cây trồng, nâng cao được năng suất cây trồng; mang lại lợi ích đáng kể trong việc cải thiện đời sống và môi sinh. c, Về công tác khoa học - kỹ thuật. Đã áp dụng được nhiều phương pháp nuôi ong tiên tiến vào thực tế Việt Nam, chủ động hoàn toàn trong việc nhân giống, đảm bảo cung cấp đủ con giống cho các cơ sở và cho nhân dân, chủ động hoàn toàn trong việc trị bệnh ong, ngăn chặn dịch bệnh. d, Về hợp tác quốc tế. Ngày càng được mở rộng, hiện tại công ty đã có quan hệ với 30 nước và tổ chức quốc tế, hoàn thành nhiều chương trình, nhiều dự án KHKT về ong có kết quả. Đẩy mạnh giao lưu buôn bán quốc tế, mở rộng được thị trường, xâm nhập được nhiều thị trường lớn. Ngoài ra, hiện nay công ty còn có khả năng hợp tác chuyên gia với nhiều nước trên thế giới như: Nepal, Cenegan... Tóm lại, Kết quả sản xuất kinh doanh, xuất khẩu sản phẩm ong của công ty trong thời gian qua là kết quả đáng phấn khởi, công ty đã đứng vững trong cơ chế thị trường, luôn luôn là trụ cột của ngành ong. Đặc biệt nhờ vào đẩy mạnh xuất khẩu, kết quả đã làm cho doanh thu tăng, có lợi nhuận, hoàn thành các nghĩa vụ giao nộp ngân sách, lo được công ăn việc làm, cải thiện được đời sống cán bộ công nhân viên. 5.2 Một số tồn tại chủ yếu. a, Trong sản xuất kinh doanh. Sản xuất đã đi vào ổn định, có chiều hướng phát triển, song còn bộc lộ nhiều điểm yếu, cụ thể như sau: + Về sản xuất: Nhiều mặt hàng bị giảm mạnh như: Rượu quả mật ong; nước giải khát có chứa mật ong; bia hơi. Các sản phẩm ong tự nhiên khác quá ít, ví dụ: Rượu quả mật ong, từ năm 1989 - 1991, khối lượng xuất khẩu sang khu vực I (Liên Xô, Bungari...) rất lớn đạt 500.000 đến 800.000 lít/năm, nay giảm đáng kể, năm 2001 chỉ còn sản xuất được 70.000 lít, xu thế còn giảm nữa vì chất lượng không cạnh tranh nổi. Bia hơi và mới sản xuất được hai năm 1999 - 2000 nay đã phải ngừng sản xuất do lỗ nặng. Nước giải khác từ chỗ phát triển mạnh vào giai đoạn 1997 - 1999 nay cũng giảm dần, năm 2001 chỉ còn 50.000 lít, khả năng những năm tới không sản xuất nữa. Các mặt hàng khác như: Sữa chúa, phấn hoa, sáp ong, mật ong đóng chai bán lẻ, các sản phẩm chế biến từ mật ong (mật ong nghệ, mật ong gừng, mật ong sâm nhung...) sản xuất với khối lượng rất ít, không tăng lên được. + Về nuôi ong: Quy mô, số lượng đàn có tăng, nhưng tăng chạm, nhất là số đàn ong sản xuất có nhiều bất hợp lý trong giá cả, trong sử dụng vốn trợ giống, có chỗ làm cho người nuôi ong thiếu tin tưởng, sự hợp tác của các nhà nuôi ong với công ty còn kém hiệu quả. + Cơ sở vật chất hạ tần, kho tàng bến bãi, máy móc thiết bị, tuy có hiện đại so với ngành ong, nhưng so với thế giới quá nghèo nàn lạc hậu, phía Bắc hầu như chưa có thiết bị nào phục vụ cho sản xuất xuất khẩu. + Tổ chức quản lý: Tỷ lệ cán bộ gián tiếp so với trực tiếp còn cao, chưa cân xứng, cán bộ các cơ sở còn non kém cả trình độ quản lý lẫn khoa học kỹ thuật. Một số đơn vị lúng túng về cả định hướng sản xuất lẫn cung cách làm ăn, không theo kịp với cơ chế thị trường, nhiều năm bị thua lỗ. Công tác khoán quản, định mức vật tư, định mức sản phẩm, chi phí sản xuất chưa đi vào nền nếp, chắp vá, năng suất lao động thấp, chừng mực nào đó còn có bất hợp lý về thu nhập của người lao động và của các đơn vị trong công ty. Việc quản lý tem nhãn: Tình trạng tem nhãn quá hạn sử dụng lưu hành phổ biến trên thị trường, tạo điều kiện cho tư thương có thể bán mật của cơ sở khác, nhưng mang nhãn mác công ty, có hiện tượng mật ong giả, mật ong kém phẩm chất trà trộn vào, ảnh hưởng xấu đến uy tín sản phẩm của công ty. + Thị trường nội địa bị bỏ ngỏ, hệ thống các cửa hàng, các đại lý bán lẻ phần lớn rơi vào tay tư nhân, do tư nhân quản lý nhưng vẫn mang tên quầy hàng của công ty. Hình thức mẫu mã bao gói chưa hấp dẫn, chất lượng chưa được nâng lên, cung cách bán hàng thiếu linh hoạt, tạo điều kiện cho các công ty bạn chiếm mất thị trường. b, Trong hoạt động xuất khẩu. + Sản lượng xuất khẩu: hàng năm tăng nhưng chưa tương xứng với tiềm năng hiện nay. Theo dự báo trữ lượng mật ở phía Nam hiện nay là rất lớn, khoảng 5000 tấn/năm. Trong lúc đó sản lượng cao nhất của công ty năm 2001 đạt 930 tấn là quá ít ỏi. Không tăng được khối lượng xuất khẩu đồng nghĩa với không tăng được doanh thu, lợi nhuận... + Về chất lượng mật xuất khẩu: Trong những năm 1996 - 2001 có nâng lên, song so với mật ong thế giới thì chưa đạt yêu cầu, các chỉ số hoá lý còn cao, dễ bị lên men, sản phẩm xuất khẩu chủ yếu ở dạng bán thành phẩm, hoặc sơ chế, không có sản phẩm thành phẩm. Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là mật ong chiếm 97% đến 99%, các mặt hàng khác: Phấn hoa, sữa ong chúa, sáp ong chiếm tỷ lệ quá ít. Mật ong xuất khẩu chủ yếu theo kiểu đóng thùng 300kg/thùng, chưa có loại mật ong đặc sản, cao cấp theo hình thức lọ nhỏ. Bao bì đóng gói chủ yếu tận dụng bao bì cũ của các cơ sở thực phẩm khác chưa đảm bảo vệ sinh thực phẩm, chưa an toàn trong bảo quản và vận chuyển. Khi thu mua, còn có hiện tượng mật ong giả, mật ong kém chất lượng trà trộn vào. Ví dụ: vụ mật ong xuất khẩu năm 2001 đã có không ít khách hàng khiếu nại về mặt chất lượng. + Về thị trường xuất khẩu: Được mở rộng nhưng chưa ổn định, bấp bênh, một số thị trường truyền thống như: Nhật Bản, Đài Loan có xu hướng giảm mạnh. Thị trường Đài Loan đã ngừng nhập từ năm 1998. Một số thị trường khác bấp bênh như Indonesia, Malaysia... Nguồn nguyên liệu cung cấp trong nước chưa ổn định, thu mua không đủ xuất khẩu, tình trạng tranh mua, tranh bán, ép giá nâng giá, cạnh tranh thiếu lành mạnh diễn ra nhiều năm, sự hợp tác giữa các công ty trong ngành kém. 5.3 Nguyên nhân yếu kém. - Nguyên nhân khách quan. + Do tác động nhiều mặt của cơ chế thị trường đã ảnh hưởng không ít đến hoạt động công ty, nhiều đơn vị không chịu nổi với cơn lốc thị trường, thiếu năng động sáng tạo, thiếu nhạy bén cho nên làm ăn chao đảo, lúng túng. Mặt khác những tiêu cực của cơ chế thị trường như lối sống thực dụng, chạy theo đồng tiền làm nảy sinh nhiều tiêu cực, bất chấp tất cả, dẫn đến ý thức trách nhiệm không cao, hiện tượng man trá trong chất lượng đã nảy sinh, ví dụng mật ong giả, kém phẩm chất... + Sự biến động thất thường của thời tiết cũng là một nguyên nhân làm cho chất lượng bị kém. Nước ta nằm vào vùng nhiệt đới, nóng và ẩm, vi sinh vật dễ phát triển. Mật ong do tác dụng của nhiệt độ cao làm cho độc tố (HMF) tăng lên. Bảo quản lâu ngày trong điều kiện nóng ẩm dễ bị lên men chua. Các sản phẩm khác như: Phấn hoa phải bảo quản trong điều kiện khô ráo, sữa chúa phải bảo quản ở điều kiện < 80C, nếu không dễ bị sâu mọt, nhiễm khuẩn, làm mất phẩm chất sản xuất. + Các cơ chế chính sách của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu nhất là thủ tục hải quan, thủ tục hành chính giấy tờ còn rườm rà. Tất cả các điều này có tác động nhất định đến công tác xuất khẩu. - Nguyên nhân chủ quan. + Việc bố trí lao động, bố trí cán bộ không khoa học, chưa có sự chú trọng đến cơ sở. Việc đào tạo bồi dưỡn năng lực cán bộ có làm nhưng chưa thường xuyên, nhất là năng lực quản lý kinh tế, kiến thức pháp luật kinh doanh. Đa số cán bộ có trình độ chuyên môn, nhưng trình độ quản lý rất yếu. Điều này có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng kinh doanh của các đơn vị. + Trong sản xuất chưa chú trọng phát triển các mặt hàng phụ trợ, coi nhẹ các mặt hàng nội địa, định hướng cho việc phát triển các mặt hàng này chưa rõ, chưa có quy hoạch, chủ yếu vẫn do các đơn vị tự phát, thiếu sự đầu tư vào việc phát triển các mặt hàng này, kết quả làm cho sản lượng, doanh số các mặt hàng giảm trầm trọng. + Trong thu mua, chính sách đầu tư, chính sách giá cả thiếu uyển chuyển, đôi lúc còn mất lòng tin của khách hàng, công tác kiểm tra chất lượng, các điểm thu mua thiếu cả cán bộ kiểm tra lẫn dụng cụ kiểm tra, việc quản lý thiếu chặt chẽ, nên sản lượng, chất lượng thu mua chưa đạt yêu cầu. + Thiết bị công nghệ quá nghèo nàn, lạc hậu và yếu, chưa tương xứng với yêu cầu xuất khẩu hiện nay, chưa có các thiết bị đạt trình độ tiên tiến của thế giới. Đây là điều quyết định nhất đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm xuất khẩu, đòi hỏi công ty phải có đầu tư nhiều vào lĩnh vực này mới có thể đáp ứng được. + Công tác quản lý chưa được tăng cường, buông lỏng quản lý, kể cả quản lý sản xuất lẫn quản lý chất lượng, chưa làm tốt công tác định mức, khoán quản. + Chưa chú trọng đến thị trường nội địa, không có biện pháp quản lý, không có quy hoạch, để mất thị trường. + Sản phẩm chậm được đổi mới, hình thức bán hàng thiếu linh hoạt, chưa chú trọng đến công tác quảng cáo, dịch vụ sau bán hàng, tham gia hội chợ,... Trên đây là toàn bộ các tồn tại và nguyên nhân yếu kém, công ty cần phải quan tâm trong giai đoạn tới, nhằm đưa hoạt động của công ty đi vào nề nếp và hiệu quả hơn. Phần III Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty ong trung ương I-/ Phương hướng chung về hoạt động xuất khẩu đến năm 2005 Để tăng nhanh quy mô và năng lực xuất khẩu. Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng lần thứ VIII đã nêu rõ: “Đẩy mạnh xuất khẩu coi hướng ưu tiên là trọng điểm của nền kinh tế đối ngoại. Tạo nên các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu trên thị trường, giảm tỷ trọng sản phẩm thô và sơ chế, tăng tỷ trọng chế biến sâu và tinh trong hàng xuất khẩu. Tăng nhanh xuất khẩu và dịch vụ, nâng cao tỷ trọng trong phần giá trị gia tăng trong giá trị hàng hoá xuất khẩu. Giảm dần nhập siêu, ưu tiên việc nhập khẩu để phát triển phục vụ xuất khẩu, hạn chế nhập những mặt hàng tiêu dùng chưa thiết yếu. Điều chỉnh cơ cấu thị trường để vừa hội nhập với khu vực, vừa hội nhập với toàn cầu, xử lý đúng đắn giữa ta và các đối tác”. Trên cơ sở phương hướng đường lối cơ bản đó. Để đẩy mạnh được công tác xuất khẩu, mục tiêu chủ yếu của Công ty Ong trung ương trong công tác xuất khẩu giai đoạn 2002 - 2005 là: 1-/ Về sản lượng, chất lượng và kim ngạch xuất khẩu - Về sản lượng Phải tập trung mọi cố gắng để tăng nhanh được sản lượng xuất khẩu. Cụ thể: Trong giai đoạn 2002 đến năm 2005 phải đưa ra được tốc độ tăng trưởng bình quân về sản lượng xuất khẩu ong từ 18,6% trong giai đoạn 1996 - 2001 lên 25%. Trước mắt năm 2002 phải đạt 1200 tấn, năm 2002 đạt 2200 tấn, đến năm 2005 là 2750 tấn. - Về chất lượng sản phẩm ong xuất khẩu Mục tiêu là phải tăng nhanh được chất lượng. Phấn đấu trong giai đoạn 2002 - 2005 không còn sản phẩm xuất khẩu loại C (loại sơ chế), 80% sản phẩm xuất khẩu dạng bán thành phẩm, 20 sản phẩm ong đạt thành phẩm. - Về kim ngạch xuất khẩu Trên cơ sở tăng chất lượng sản phẩm, tăng giá bán sản phẩm. Phấn đấu nâng giá mật ong xuất khẩu từ 1239USD/tấn (năm 2001) lên 1550USD/tấn năm 2005. Từ chỗ nâng được sản lượng, chất lượng, giá bán - tăng được kim ngạch xuất khẩu, phấn đấu đến năm 2005 kim ngạch xuất khẩu phải đạt 4262,5% triệu USD tăng 3,6 lần so với năm 2001. Biểu 12 - Mục tiêu xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty trung ương năm 2005 TT Chỉ tiêu Đơn vị tính Thực hiện 2001 Thực hiện 2002 Kế hoạch 2004 Kế hoạch 2005 1 Sản lượng mật ong Xuất khẩu: Tấn 930,00 1200,00 2200,00 2750,00 Trong đó: Mật ong thành phẩm 20,00 400,00 550,00 2 Kim ngạch xuất khẩu 1000USD 1135,00 1560,00 3190,00 4262,00 3 Giá bình quân USD/tấn 1239,00 1300,00 1450,00 1550,0 (Nguồn: Phòng kế hoạch tổng hợp Công ty Trung ương) 2-/ Thị trường Xuất khẩu Phương châm là củng cố thị trường hiện có, mở thêm được các thị trường mới, cụ thể trú trọng đến thị trường EU, Mỹ, Đông Nam á, với mục đích phải tăng được thị phần của Công ty trên thị trường quốc tế. Cụ thể về thị trường hiện ở biểu 13. Biểu 13 - thị trường và sản lượng của Công ty ong TW đến năm 2004 Tên thị trường 2001 2002 2004 SL (tấn) Giá BQ USD SL (tấn) Giá BQ USD Trị giá 1000 USD SL (tấn) Giá BQ USD Trị giá 1000 USD 1./ Nhật 40 708 70 910 63,7 100 1000 100,00 2./ Hà Lan 350 1250 360 1295 466,2 500 1600 800,00 3./ Mỹ 200 1250 400 1400 560,0 750 1664 1248,00 4./ Anh 300 1250 250 1290 322,5 450 1650 742,00 5./ TT khác 40 1200 120 1230 147,6 200 1500 300.00 6./ Tổng cộng 930 1239 1200 1300 1560,0 2200 1450 3190 3-/ Về loại hình sản phẩm xuất khẩu Phương hướng: Phải đa dạng hoá loại hình sản phẩm. Mật ong là sản phẩm chủ yếu, sau đó là sáp ong, phấn hoa, sữa chúa, phải nâng được các loại sản phẩm này trong cơ cấu mặt hàng từ 0,5% trong giai đoạn 1996 - 2001 lên 2% trong giai đoạn 2002 - 2005. - Ngoài sản phẩm ở dạng rời đóng thùng như hiện nay phải phấn đấu để có sản phẩm loại đặc sản đóng trong lọ nhỏ 450g đến 1000g/ lọ và phải phấn đấu loại hình sản phẩm tương ứng với các loại hình thị trường, ứng với các thị trường khác nhau có loại sản phẩm khác nhau, thoả mãn nhu cầu thị hiếu của khách hàng. II-/ Một số biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty ong trung ương - Căn cứ vào thực trạng về tình hình sản xuất kinh doanh và xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty Ong TW giai đoạn 1996 - 2001. Căn cứ vào phương hướng sản xuất kinh doanh xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty Ong TW giai đoạn 2002 - 2005. Để nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty Ong TW, hoàn thành tốt các mục tiêu phương hướng đã đề ra. Em mạnh dạn đưa ra một số biện pháp chủ yêu sau đây: 1-/ Biện pháp thứ nhất: Nghiên cứu và làm tốt công tác thị trường xuất khẩu, tăng nhanh được thị phần của Công ty trên thị trường Quốc tế Thị trường xuất khẩu là một yếu tố quyết định đến việc nâng cao sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Do vậy, trong thời gian tới để làm tốt công tác thị trường hoàn thành các mục tiêu đề ra, Công ty cần phải làm tốt các vấn đề sau đây: - Phải nghiên cứu một cách kỹ lưỡng thị trường Quốc tế trên tất cả các mặt: Thị trường xuất khẩu của Công ty là thị trường nào? Dung lượng của thị trường đó là bao nhiêu? Giá cả sản phẩm thế nào? Ai là đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó. Đồng thời phải nghiên cứu kỹ về điều kiện chính trị xã hội, pháp luật và các chính sách thương mại, hải quan, thuế nhập khẩu có ảnh hưởng đến công tác nhập khẩu của Công ty hay không? Mức độ ảnh hưởng ra sao? Trên cơ sở phân tích đánh giá một cách đầy đủ về từng thị trường, xác định thị trường chủ lực cho công tác xuất nhập khẩu của Công ty từ đó tập trung mọi cố gắng để khai thác triệt để thị trường, tăng được sản lượng và kim ngạch xuất khẩu của Công ty. - Cần duy trì và giữ vững được các thị trường truyền thống của Công ty như: Nhật Bản, Hà Lan, Mỹ, Anh, đây là những thị trường đã am hiểu và chấp nhận sản phẩm của Công ty. Đặc biệt là tăng cường củng cố thị trường Nhật Bản, nối quan hệ với thị trường Đài Loan. Trước những năm 1996 khối lượng xuất khẩu sang hai thị trường này rất lớn, chiếm 55 đến 60% khối lượng xuất khẩu hàng năm. Trong những năm 1996 - 2001 khối lượng giảm dần, năm 1998 Công ty mất hẳn thị trường Đài Loan. Đây là một thiệt thòi rất lớn cho Công ty. Xét về đặc điểm của hai thị trường này, sở dĩ tại sao họ lại chỉ dùng các sản phẩm sơ chế với giá thấp vì hai lý do: Một là: ở các nước này, người ta thường dùng mật ong để pha chế các loại thuốc uống, các loại cao đơn hoàn tán trong đông y. Hai là: Trình độ công nghệ, máy móc của họ tối tân hơn, sau khi nhập sản phẩm sơ chế, họ có thể chế biến ra các sản phẩm cao hơn. Mặt khác với thị trường Nhật Bản thì họ thiên về hợp tác đầu tư và bao tiêu sản phẩm, nên khả năng hợp tác liên doanh là có lợi nên theo chúng tôi, trong chiến dịch ổn định và duy trì thị trường, Công ty cần phải xem xét thái độ nhìn nhận với hai thị trường này, nên xuất khẩu vào hai thị trường này các sản phẩm sơ chế vừa hợp với nhu cầu thị hiếu của họ, vừa không tốn kém chi phí do phải chế biến, tinh lọc đồng thời lại tăng được khả năng liên doanh trong tương lai. Đối với thị trường Hà Lan, Anh, Pháp phải tăng cường hơn nữa khối lượng xuất khẩu sang các thị trường này, vì đây là những thị trường rất giầu có, khối lượng nhập khẩu rất lớn: Ví dụ: Như thị trường Châu Âu, theo đánh giá của tổ chức FAO, trong tương lai Châu Âu sẽ là thị trường tiêu thụ chính chiếm khoảng 65% tổng sản lượng mật ong xuất khẩu thế giới. Khu vực kinh tế EU là một thị trường rộng lớn (bao gồm 15 nước) chiếm 25% sản lượng sản xuất của thế thế, với dân số 375 triệu người, kinh tế phát triển, là vùng khí hậu thường giá rét, việc sử dụng mật ong làm thực phẩm đã rất thông dụng. Xâm nhập thị trường EU và giữ vững thị trường là điều kiện rất thuận lợi cho xuất khẩu. Tuy nhiên, thị trường này là thị trường khó tính, yêu cầu chất lượng cao, nên cần nâng cao chất lượng mật để đáp ứng nhu cầu khó tính đó. Cho đến thời điểm hiện nay, sản phẩm của Công ty mới xâm nhập được ba nước: Hà Lan, Anh, Pháp, Công ty cần mở rộng sang thị trường này. Thị trường Mỹ cũng là thị trường lớn với diện tích rộng 9,3 triệu km2, dân số 262,8 triệu người. GDP trên đầu người 25.900USD. Ngày 12/7/1995 Mỹ tuyên bố bình thướng hoá quan hệ với Việt Nam. Kim ngạch buôn bán của Việt Nam đến Mỹ tăng nhanh, hàng năm Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ trị giá 58,94 triệu USD. Các mặt hàng Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ là gia vị, chè, cà phê, mật ong, theo danh mục mang mã số HS 090111 trong biểu thuế của chính phủ Hoa Kỳ. Do chính sách khuyến khích của Mỹ, các mặt hàng này được miễn thuế hoàn toàn. Mật ong của ta xuất sang Mỹ từ 1996 (60 tấn), năm 2001 (200 tấn). Công ty nên tìm mọi cách để tăng cường khối lượng xuất khẩu sang thị trường này. Đây là thị trường có lợi thế đối với sản phẩm ong Việt Nam. - Công ty cần phải tìm thêm các thị trường mới như: Đức, Canada, Newzealand, Đông Nam á, Hàn Quốc, các nước ASEAN,... đặc biệt là khu vực ASEAN, đây là khu vực phát triển kinh tế năng động, khi xoá bỏ hàng rào thuế quan, sản phẩm đóng gói, lọ nhỏ chất lượng tốt lại phát huy tác dụng. - Đẩy mạnh các hoạt động Marketing: Làm tốt công tác quảng cáo, giới thiệu mặt hàng, công tác khuyến mãi, dịch vụ sau bán hàng, nhằm mục đích để khách hàng hiểu biết một cách đầy đủ về các sản phẩm của Công ty, đồng thời khuyến khích khách hàng, tạo tâm lý thoải mái của khách hàng khi mua hàng của Công ty, góp phần tăng thêm hiệu quả bán hàng. - Phải tổ chức tốt công tác: Giao dịch bán hàng, bảo quản, vận chuyển, giao nhận hàng hoá, các thông lệ buôn bán quốc tế, đơn giản hoá các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho khách hàng, lôi kéo khách hàng về với Công ty. 2-/ Biện pháp thứ hai: Đưa nhanh các tiến bộ khoa học, ứng dụng vào sản xuất kinh doanh, tạo ra một năng lực sản xuất mới, đáp ứng đầy đủ của yêu cầu thị trường Đây là biện pháp cực kỳ quan trọng, có tác dụng quyết định đến việc nâng cao năng lực sản xuất, thu mua, chế biến sản phẩm ong, tăng được sản lượng nguyên liệu đầu vào của Công ty. Để làm tốt biện pháp này, Công ty cần tập trung vào một số công tác sau đây: A-/ Trong sản xuất chế biến a./ Công tác giống - Phải giữ được nguồn ong giống hiện có, tiếp tục chọn lọc, lai tạo để đưa ra sản xuất các dòng ong ngoại, nội có tính thụ đàn lớn, tính chịu bệnh cao, có thể tự lên kế, cho năng suất mật cao. - Nhập và bổ sung giống Ong ý (ong chúa hoặc tinh trùng ong đực) để cải tạo đàn ong trong nước, tuy nhiên phải làm tốt công tác kiểm định, nuôi cách ly một thời gian trước lúc đưa vào sản xuất đại trà. - Một số đề tài nghiên cứu về giống ong đã có kết quả, phải được áp dụng rộng rãi hơn nữa vào sản xuất, không ngừng tăng đàn ong giống phục vụ sản xuất của các đơn vị cơ sở và phong trào nuôi ong nhân dân. Ví dụ: Đề tài lưu giữ nguồn gen va giống ong Apis - cerana, chương trình giữ giống gốc theo phương pháp quần thể khép kín của Page và Laidlaw, các phương pháp tạo chúa công nghiệp đối với ong ý... Trên cơ sở phải giữ được giống gốc, nhưng đồng thời phải đáp ứng được đầy đủ các loại giống ong tốt, có sức chịu bệnh cao, cho năng suất và chất lượng mật cao. b./ Về chăm sóc và nuôi dưỡng đàn ong - Phải đáp ứng đầy đủ nguồn thức ăn cho ong trong mùa không có hoa. - Hạn chế đến mức thấp nhất các dịch bệnh, đặc biệt là áp dụng các biện pháp phòng trị ve ký sinh bằng phương pháp sinh học của Tiến sĩ Wogke, chuyên gia tổ chức FAO, (dự án TCP/VIE/440); bệnh thối ấu trùng tuổi lớn trên ong Apis - cerana, các bệnh khác về ong... - Tăng cường phổ biến các kinh nghiệm nuôi ong, áp dụng mô hình nuôi ong tiên tiến vào quá trình sản xuất, nâng cao khả năng sản xuất của các đơn vị cơ sở và phòng trào nuôi ong của nhân dân. Sau đây là một trong những mô hình có hiệu quả nhất hiện nay, đó là mô hình của trường Đại học Nông Lâm Thủ Đức. Với mô hình này người ta nghiên cứu về hiệu quả kinh tế của nghề nuôi ong ý và ong nội ở Miền Nam, qua nhiều năm và kết quả được phản ánh qua đồ thị sau: 1809 1051 3000 cầu 1742 cần 410 2762 4762 (1) (2) Chi phí sản xuất (USD) Đồ thị 1:Sự biến thiên của thu nhập và đầu tư của hai hệ thống nuôi ong Ghi chú: (1): Ong nội Apis Cerana (2): Ong ý Apis Mellifere. Qua đồ thị về sự biến thiên của thu nhập về đầu tư của hai hệ thống nuôi ong nội và ong ngoại trên đây, cho thấy: Chỉ cần đầu tư 410USD để nuôi 100 đàn ong nội có thể thu nhập bằng việc đầu tư 2736USD để nuôi 1742 cầu ong ngoại (tương đương 175 đàn), rõ ràng nuôi ong ngoại không kinh tế bằng ong nội. Hơn nữa một người nuôi ong nội có thể bắt đầu nuôi từ vài đàn thậm chí ở điều kiện thuận lợi có thể tăng số đàn lên đến 100 đàn. Còn đối với ong ngoại, nuôi số đàn ít là không kinh tế. So sánh giữa hai loại ong, rủi ro đến với ong ngoại nhiều hơn, ở điều kiện xấu, ví dụ dịch bệnh, thời tiết xấu, nguồn hoa kém những người nuôi ong nội không mất gì hoặc có mất thì chỉ mất lượng đầu tư rất nhỏ so với ong ngoại. Mặt khác, có thể nuôi ong nội với tất cả quy mô từ nhỏ đến lớn, từ ít đầu tư đến đầu tư nhiều. Đó là lý do tại sao nhiều người thích nuôi ong nội hơn ong ngoại. Tuy nhiên, ở Miền Nam nghề nuôi ong ngoại vẫn là phổ biến, do có ưu việt. Một lao động có thể quản lý số lượng cầu lớn nhất, qua đồ thị 01 đối với ong ngoại là 300 đàn và thu lãi tới 1809USD/năm, còn đối với ong nội một người chỉ có thể quản lý nhiều nhất là 100 đàn và thu lãi nhiều nhất là 1051USD/năm. Để làm rõ hơn hiệu quả kinh tế của việc nuôi ong nôi và ong ngoại, ta xem xét số liệu ở biểu sau đây: Biểu 14 - Hiệu quả kinh tế của hai hệ thống nuôi ong A.Mellifera & A.Cerana năm 1999 Chỉ tiêu Hệ thống nuôi ong A.Mellifera (870 cầu) Hệ thống nuôi ong A.Cerana (50 cầu) Nghìn đồng Cơ cấu (%) Nghìn đồng Cơ cấu (%) 1./ Tổng chi phí sản xuất 13923.8 100.0 2270.0 100.0 Trong đó: Khấu hao vật dụng 1851.4 13.3 496.0 21.9 Thức ăn 5488.0 39.4 253.5 11.2 Di chuyển 1102.0 7.0 198.4 8.8 Công lao động 4165.6 29.9 1322.4 58.1 Lãi suất vốn đầu tư 1316.9 9.4 2./ Tổng giá trị sản lượng 25911.3 100.0 10558.0 100.0 Trong đó: - Mật 24076.0 89.5 10051.1 95.2 - Phấn hoa 661.2 3.9 - - - Sữa chúa 308.6 108 - - - Sáp ong 341.6 2.0 - - - Cầu ong 529.0 2.8 154.3 1.5 3./ Lợi nhuận 11987.6 - 8287.9 - 4./ Thu nhập tổng số 16153.1 - 9610.3 - 5./ Chi phí sản xuất trên một đơn vị - Một kg mật ong 3.8 - 2.2 - - Một cầu ong 15.9 - 3.0 - 6./ Giá bán BQ/1 kg mật 7.3 - 11.0 - Qua biểu 14 cho thấy: Mức chi phí thức ăn cho 870 cầu ong ngoại chiếm 34,9% tổng chi phí sản xuất (tức là 5488000đ) và 11,2% tổng chi phí sản xuất đối với 50 cầu ong nội (tức 253500đ). Nuôi ong ngoại cần nhiều vốn hơn, nhưng ăn suất cao hơn (38 kg mật/đàn/năm) và chỉ có hệ thống ong ngoại mới có khả năng sản xuất sữa chúa nên hiệu quả của hệ thống nuôi ong ngoại không cao. Theo một số nghiên cứu thì giá thành 1kg sữa chúa khoảng 16 - 20USD (tức khoảng 18000 - 22000đ/kg) - giá bán nội địa khoảng 27000 - 30000đ/kg (giá thời điểm 1999). Do vậy lợi nhuận sẽ nhiều hơn nếu như có nhiều trại ong ngoại sản xuất nhiều sữa chúa. Giá bán tại thị trường nội địa mật ong nội thường 11000đ/kg cao hơn 1,5 lần so với nuôi ong ngoại (7281đ/kg) chi phí cho 1 kg mật ong nội là 2204đ thấp hơn chi phí cho một kg mật ong ngoại là 3800đ. Cho nên lợi nhuận thu về từ việc nuôi ong nội cao hơn. Như vậy với quy mô 870 cầu ong ngoại cho một khoản thu là 16 triệu đồng và quy mô 50 cầu ong nội là 9,6 triệu đồng. Hiệu quả đầu tư nuôi ong ngoại đạt 1,86 lần và của ong nội 4,7 lần. Tóm lại: Qua phân tích so sánh hiệu quả kinh tế của hai hệ thống ong nội và ong ngoại trên đây có thể rút ra kết luận. Đối với nghề ong nội, hiệu quả kinh tế cao hơn, mô hình này chỉ áp dụng cho những vùng trung du và miền núi, kết hợp với các chương trình 327 - phủ xanh đất trống đồi trọc của Nhà nước, giúp cho hộ trồng rừng tăng thêm thu nhập, ổn định cuộc sống. Hơn nữa, mô hình nuôi ong thích hợp với nguồn hoa cỏ, mức đầu tư thấp, vốn ít thích hợp với nghề nuôi ong gia đình, cho những người nghèo có ít vốn, nuôi số lượng ít. Đối với mô hình nuôi ong ngoại vốn lớn, quy mô lớn nên áp dụng cho những người nuôi ong chuyên nghiệp, có trình độ kỹ thuật, có khả năng tổ chức quản lý mới đem lại hiệu quả cao. Phát triển mạnh nghề nuôi ong ngoài là cơ sở để tăng nhanh khối lượng sản phẩm ong xuất khẩu. c./ Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm ong, nhằm tạo điều kiện để nâng giá bán Chất lượng sản phẩm là yếu tố sống còn của Công ty, việc nâng cao chất lượng sản phẩm, chẳng những nâng cao được sản lượng và giá bán mà còn tăng uy tín và vị thế của Công ty trên trường Quốc tế. Để làm tốt việc nâng cao chất lượng sản phẩm, có nhiều công tác khác nhau, nhưng theo chúng tôi Công ty nên tập trung giải quyết một số vấn đề sau đây: Đ./ Một là: Phải nâng cao chất lượng ngay từ khi sản xuất, thu mua sản phẩm. Khắc phục những nhược điểm của giai đoạn 1996 - 2001, do quá chú trọng đến sản lượng mà không chú trọng đến chất lượng nguyên liệu đầu vào nên có hiện tượng mật ong giả, mật ong kém phẩm chất. Tăng cường kiểm tra chặt chẽ nguyên liệu đầu vào để có nguyên liệu tốt phục vụ quá trình sản xuất xuất khẩu. Mặt khác, phải quy hoạch vùng nguyên liệu theo vùng hoa, theo vùng khí hậu khác nhau. Mỗi loài hoa cho ta một loại mật đặc trưng riêng, đồng thời ở mỗi vùng có khí hậu khác nhau lại cho mật đặc hay loãng khác nhau. Vì vậy, Công ty nên quy hoạch vùng nguyên liệu, trên cơ sở đó để có kế hoạch khai thác, chế biến phân loại mật, đưa ra các loại mật đặc sản, chất lượng cao. Ví dụ: Mật ong hoa nhãn, mật ong hoa càng cua, mật ong hoa táo v.v.... Đ./ Hai là: Nâng cao chất lượng sản phẩm ong thông qua chế biến, muốn vậy cần phải: - Đổi mới thiết bị, sắp xếp và cải tạo lại thiết bị cũ. - Liên doanh với nước ngoài để lắp đặt hoặc nhập một số trang thiết bị công nghệ chế biến của nước ngoài, đầu tư cho khâu chế biến sản phẩm, đẩy nhanh được tốc độ chế biến, đưa ra được sản phẩm có chất lượng cao, phục vụ cho công tác xuất khẩu. Việc đổi mới thiết bị phải được tiến hành theo từng bước cụ thể và phải đặt được các yêu cầu sau đây: + Công nghệ phải đạt mức tiên tiến của thế giới, thiết bị mới cho phép tạo ra các sản phẩm chất lượng cao, phù hợp với thị hiếu khách hàng. + Công suất thiết bị phải phù hợp với quy vùng nguyên liệu hiện tại cũng như tương lai 3 - 5 năm. + Công nghệ phải phù hợp với chất lượng sản phẩm ong tự nhiên trong nước, không làm mất đi tính chất đặc trưng của sản phẩm. + Giá cả phải phù hợp, không làm giá sản phẩm ong biến động quá cao hơn giá bình quân chung của các loại sản phẩm ong đó trên thế giới. Đ./ Ba là: Phải không ngừng cải tiến mẫu mã, bao bì đóng gói, đa dạng hoá sản phẩm, đặc biệt chú ý đến các loại sản phẩm cao cấp đóng gói, lọ nhỏ, đây là hình thức có khả năng thay thế xuất thùng trong tương lai. Về bao bì sản phẩm, khắc phục tình trạng sử dụng lại bao bì cũ như hiện nay. Tốt nhất nên liên doanh với nước ngoài để lắp đặt một nhà máy sản xuất bao bì tại Việt Nam, vừa tận dụng được nguồn lao động rẻ, vừa tiếp thu được công nghệ mới. Sau đây là một số quy trình công nghệ vừa đạt trình độ tiên tiến, vừa phù hợp với hoàn cảnh Việt Nam. Trong nước cũng có thể chế tạo được. 2 3 4 5 1 6 Tường 8 9 10 11 12 18 á 19% 570C 13 15 14 16 17 770C 18 20 19 Cánh lọc đỏ Cánh lọc đen [1] Mật chứa trong phuy [8] Đồng hồ áp suất [15] Bộ lọc [2] Bồn chứa (1t) [9] Cáo lọc bộ [16] Máy khử trùng [3] Bồn lọc sơ bộ [10] Bộ trao đổi nhiệt nhỏ [17] máy nứoc nóng [4] Bồn chứa sau khi lọc sơ bộ [11] Máy giảm thuỷ phần [18] Máy đóng gói [5] Máy bơm [12] Bể chứa mát của máy GTP [19] Bàn đóng gói [6] Bồn chứa (2,4l) [13] Bồn chứa (2,4l) [20] Phòng chứa an toàn [7] Máy bơm điều tốc [14] Máy bơm điều tốc Sơ đồ 3: Sơ đồ công nghệ tinh lọc mật ong Newzeland Tóm tắt quy trình: Mật ong dạng thô từ các thùng chứa 1 được bơm vào thùng chứa 2, sau đó chảy qua các bộ lọc sơ bộ 3 rồi chở vào bồn chứa 4, được bơm 5 bơm lên bồn chứa 6. Mật ong từ bồn chứa 6 được bơm giảm tốc 7 bơm vào các bộ lọc 9, ở đây mật ong được lọc sạch các tạp chất, sau đó đi vào bộ trao đổi nhiệt 10 để nâng nhiệt độ mật lên 390C đến 430C, sau đó chảy qua thiết bị làm giảm thuỷ phần 11. ở đây không khí khô, có độ ẩm thấp, nhiệt độ 130C đến 180C được đi từ dưới lên, mật ong được chảy từ trên xuống qua các tấm bản nhựa, mục đích tăng bề mặt tiếp xúc giữa không khí với mật ong, làm bốc hơi nước có trong mật. Khi kiểm tra thất mật đạt được yêu cầu < 19% thì đưa về bể chứa 12 và về thúng chứa 13, thời gian lắng ở thiết bị 13 là 48h. Sau đó được máy bơm điều tốc 14 bơm vào bộ lọc 15, mật được chảy vào thiết bị khử trùng 16, tại đây mật được đun nóng lên đến nhiệt độ là 570C, nhờ vào nhiệt độ của máy nước 17, sau khi ra khỏi thiết bị khử trùng 16, nhiệt độ của mật là 570C được đưa vào máy đóng gói 18 đóng gói xong chuyển về kho chứa 19, ta được mật thành phẩm. Dây chuyền công nghệ này tương đối hiện đại, năng xuất lọc 450kg/giờ, giảm độ thuỷ phân trong mật ong 3 á 4%. Vốn lớn do phải lắp đặt nhiều máy móc thiết bị thao tác phức tạp, tiền điện khá lớn, nhưng có ưu việc ở chỗ năng suất lớn, thời gian lọc nhanh đáp ứng được yêu cầu chế biến nhanh phục vụ cho sản xuất. Sơ đồ 4: Sơ đồ công nghệ của hãng THOMAT có cải tiến: Hiện nay Công ty đang có hai dây chuyền nhập của hãng THOMAT (Pháp) từ những năm 1987 nhưng không dùng đến do 3 nguyên nhân: - Chưa làm giảm được thuỷ phần mật ong. - Bộ phận tiệt trùng 12 chưa đặt trước bồn chứa 10. - Năng suất thấp do thời gian lọc lắng lâu. Để cải tiến nâng cao được sản xuất, giảm được thời gian, tận dụng thiết bị sẵn có cần lắp thêm bộ phận giảm thủy phần 9 trước thùng chứa 10 và đưa bộ phận tiệt trùng 12 ra phía sau bơm 11, như vậy về thực chất chỉ tăng thêm một thiết bị giảm thuỷ phần, vốn tốn kém không là bao, hiệu quả mang lại lớn. Sau đây là quy trình vận hành: Mật ong thô 1 2 4 3 6 7 8 9 10 11 12 Mật thành phẩm Ghi chú: 1./ Thiết bị phá kết tinh 6./ Bộ lọc 11./ Bơm 2./ Lắng vớt bọt bẩn 7./ Thùng chứa 12./ Thiết bị tiệt trùng./. 3./ Máy quay ly tâm 8./ Bơm 4./ Thùng chứa 9./ Thiết bị giảm thuỷ phần 5./ Bơm 10./ Thùng lắng Ơ Sơ đồ 4: quy trình công nghệ lọc mật ong của THOmat có cải tiến Mật ong thô được bơm vào thiết bị phá kết tinh 1, sau phá được kết tinh, mật loãng ra được chảy qua thiết bị ly tâm 3. ở thiết bị ly tâm 3 do đường kép Sacaroza có tỷ trọng riêng lớn hơn đường đơn Gluccoza, Fructoza nên kết tinh trước nên bám vào mép trong của thiết bị, ta loại đi được một phần khá lớn đường Sacoro. Sau đó đưa về thùng chứa 4 được bơm 5 bơm chảy qua các lưới lọc 6. ở đây mật được lọc qua 3 lần theo thứ tự sàng lọc nhỏ dần, lưới cuối cùng có mật độ lỗ 240 lỗ/cm2. Sau đó chảy xuống thùng lắng 7 và được nhóm bơm 8 bơm lên thiết bị giảm thuỷ phần 9 mật được chảy từ trên xuống theo dạng hạt mưa qua hệ thống lưới, không khí khô, độ ẩm thấp được đưa từ dưới lên, nhiệt độ mật < 430C để làm giảm thuỷ phần mật xuống 19% sau đó về thùng chứa 10. Thời gian lắng ở thùng chứa 10 khoảng 7 ngày, mục đích tách bọt sáp ong quá trình lọc chưa tạo ra hết và tách cặn bẩn (cát, sắt v.v...) xuống dưới, 7 ngày sau dùng bơm 11 bơm qua thiết bị thanh trùng 12, chú ý: Bơm lấy phần giữa cuả thùng chứa, ta có mật thành phẩm, nhiệt độ qua máy thanh trùng không quá 560C để đảm bảo phẩm chất tự nhiên của mật, hạn chế tăng HMF trong mật. Công ty nên cải tiến, để tăng thêm hiệu quả lọc mật cho Công ty, tránh để không thiết bị như hiện nay. Đ./ Bốn là: Vấn đề bảo quản sản phẩm ong Bảo quản sản phẩm ong bao gồm: Bảo quản nguyên liệu đầu vào chưa kịp chế biến và bảo quản thành phẩm đầu ra do chờ xuất khẩu. Trong quá trình bảo quản dài ngày, nếu ở nhiệt độ cao sẽ làm cho lượng HMF (Hydro Methyl Furfurol) là loại độc tố có trong mật ong tăng lên. Theo kinh nghiệm nếu để dưới trời nắng hoặc trong kho ở nhiệt độ 370C á 400C trong thời gian từ 2 á 3 tháng sẽ làm HMF tăng từ 10 á 35 mg/kg có lúc lên đến 40mg/kg, lượng HMF tăng không thể xuất khẩu được. Mặt khác, trong điều kiện khí hậu nóng ẩm ở Việt Nam, khi nguyên liệu đưa về chưa chế biến kịp cũng dễ bị len men chua làm giảm hàm lượng đường có trong mật, tăng hàm lượng axít, chất lượng mật bị giảm. Chính vì vậy Công ty cần đầu tư, xây dựng được hệ thống kho tàng. Đảm bảo thoáng mát, khô ráo, hợp vệ sinh, có hệ thống thông gió, hệ thống thoát nước và phải đủ sức chứa, tránh tình trạng mật để ngoài trời nắng nóng như hiện nay. B-/ Trong kinh doanh xuất khẩu Để đảm bảo kinh doanh có hiệu quả cần phải: - Chủ động tạo nguồn hàng Nguồn hàng là yếu tố quan trọng để nâng sản lượng thu mua nguyên liệu đầu vào. Trong giai đoạn 1996 - 2001 do chưa làm tốt công tác tạo nguồn hàng nên nhiều lúc bị động, không đủ mặt xuất khẩu. Do vậy, trong giai đoạn tới, để làm tốt nguồn hàng, Công ty phải: + Có chính sách đầu tư đúng hướng và có hiệu quả cho người nuôi ong về cả khoa học kỹ thuật, con giống lẫn cả về vốn. Có thể theo phương thức ứng vốn trước trả mật sau tạo phấn khởi tư tưởng cho khác hàng, hợp tác khai thác mật cùng Công ty. + Không ngừng mở rộng các vùng nuôi ong, tăng quy mô số lượng đàn ong khai thác, đây là các công tác cực kỳ quan trọng vì trong những năm tới sản lượng mật xuất khẩu đặt ra rất lớn. Ví dụ: Năm 2002 muốn có đủ 1600 tấn mật (phục vụ cho xuất khẩu 1200 tấn, tiêu thụ nội địa 400 tấn) thì phải có tương đương 83.750 đàn ong khai thác với năng suất mật 19 kg/đàn/năm. Cũng tương tự năm 2004 muốn có 3000 tấn phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ nội địa phải có 143.439 đàn ong đưa vào khai thác. Qua đó ta thấy nếu không làm tốt công tác nguồn hàng (bằng cách tạo chính sách thu mua, chính sách đầu tư hợp lý, không mở rộng diện nuôi ong), thì không thể đáp ứng được. - Phải xây dựng các chính sách đầu tư, chính sách giá cả thu mua hợp lý khuyến khích người lao động. - Phải tuyệt đối bí mật về giá cả, kế hoạch tung hàng, các thôn tin khác, các bí quyết công nghệ,... - Tận dụng tốt thời cơ trong kinh doanh, có thể dự trữ nguồn hàng và tung hàng ra đúng thời điểm có lợi nhất, giá cả cao nhất để tăng thu lợi nhuận. - Nắm vững các hệ thống thanh toán Quốc tế, nghiên cứu kỹ đối tác, thanh toán nhanh gọn, an toàn không ảnh hưởng đến quá trình xuất khẩu, đảm bảo cho quá trình kinh doanh đạt hiệu quả cao nhất. 3-/ Biện pháp thứ ba: Tăng cường công tác quản lý a./ Trong hoạt động sản xuất - Tăng cường công tác quản lý sản xuất, giảm tỷ lệ lao động gián tiếp, đưa cán bộ có năng lực xuống cơ sở để nâng cao công tác quản lý kinh tế, quản lý khoa học kỹ thuật của các đơn vị cơ sở. - Tạo cơ chế cho các đơn vị cơ sở hoạt động, hướng các đơn vị tập trung cho sản xuất thu mua và xuất khẩu, trên cơ sở bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi. - Mạnh dạn giải tán những đơn vị yếu kém, làm ăn thua lỗ, tăng sức mạnh hoạt động của các đơn vị, tạo sức mạng tổng hợp toàn Công ty. - Đẩy mạnh công tác khoán quản bằng việc áp dụng các định mức kinh tế, kỹ thuật, nâng cao năng suất lao động, kỷ luật nghiêm minh để tăng hiệu quả công tác quản lý, đẩy mạnh sản xuất. b./ Trong quản lý chất lượng - Khi kiểm tra tốt chất lượng nguyên liệu đầu vào, coi đây là bước quan trọng có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm, vì chất lượng đầu vào có tốt, có đảm bảo thì quá trình chế biến đỡ vất vả, sản phẩm đầu ra đảm bảo tránh được hiện tượng mật ong giả. - Trong quá trình chế biến phải thực hiện nghiêm túc các quy định, các chỉ tiêu kỹ thuật của quy trình, không được tuỳ tiện bỏ qua hoặc giảm nhẹ ở một khâu nào quy trình, tránh lối làm ăn qua loa đại khái vô trách nhiệm. - Quản lý chất lượng đầu ra phải chặt chẽ, tuân thủ các thông số kỹ thuật về chất lượng sản phẩm xuất khẩu, đảm bảo cho chất lượng sản phẩm luôn đạt yêu cầu cao, đáp ứng yêu cầu thị hiếu khách hàng. Cũng cần nói thêm: Trong công tác kiểm tra chất lượng phải có đủ 2 yếu tố: Một là con người am hiểu về kỹ thuật công nghệ, có trình độ phân tích đánh giá sản phẩm. Hai là: Phải có đủ thiết bị, dụng cụ phân tích sản phẩm. Nếu thiếu một trong hai điều đó, sẽ ảnh hưởng đến công tác quản lý chất lượng. 4-/ Biện pháp thứ tư: Giải pháp về tạo vốn Trong nhiềunăm qua đến vụ thu mua mật thường xảy ra tình trạng thiếu vốn. Để có vốn phục vụ sản xuất xuất khẩu, Công ty thường phải vay vốn ngắn hạn từ ngân hàng, từ cán bộ, công nhân viên với lãi suất cao. Để có giải pháp về vốn, phục vụ cho xuất khẩu, theo chúng tôi Công ty nên khai thác thêm các nguồn vốn sau đây: - Vốn viện trợ ODA thông qua các dự án đầu tư về thiết bị. - Vốn tài trợ của các tổ chức Quốc tế: Tổ chức nuôi ong Quốc tế, tổ chức FAO, SIDA, tổ chức môi trường v.v... - Vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức nuôi ong Quốc tế, các nước trong khu vực cũng như với các nước trên thế giới. Có thể ở dạng đầu tư bao tiêu sản phẩm, mục đích tranh thủ được nguồn vốn, thiết bị công nghệ tiên tiến của thế giới, tập trung cho công tác xuất khẩu. 5-/ Biện pháp thứ năm: Nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại Trong năm qua nhờ các biện pháp công tác Quốc tế, Công ty đã mở rộng được sản xuất, mở rộng được thị trường xuất khẩu, tăng được sản lượng và kim ngạch xuất khẩu. Để làm tốt công tác hợp tác Quốc tế, nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại, Công ty cần làm tốt các việc sau đây: - Không ngừng củng cố quan hệ với bạn hàng cũ, mở rộng và quan hệ bạn hàng mới. - Mở rộng các chương trình hợp tác nghiên cứu ứng dụng trên các lĩnh vực khoa học kỹ thuật và kinh tế với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực như: FAO, SIDSE, KWT, DED, OXFAM, SIDA v.v..., đồng khuyến khích liên doanh với nước ngoài trên các lĩnh vực tổ chức sản xuất và chế biến sản phẩm. - Tăng cường liên doanh liên kết với các tổ chức, các thành phần kinh tế khác, liên doanh với các Công ty trong ngành trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi. Hợp tác Quốc tế, liên doanh với các thành phần kinh tế phải trên cơ sở hiệu quả, góp phần đẩy mạnh được sản xuất tăng được thị trường, tăng được khả năng xuất khẩu của Công ty. Trên đây là 5 biện pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh công tác xuất khẩu sản phẩm Ong của Công ty Ong TW. Với 5 biện pháp này, tuy chưa phải là đủ nhưng em cũng hy vọng rằng: Nội dung của các biện pháp sẽ có tác dụng nhất định trong việc đẩy nhanh tốc độ sản xuất cũng như quá trình hoạt động xuất khẩu sản phẩm Ong của Công ty trong thời hạn tới. Biểu 15: Dự kiến khả năng sản xuất 2002 - 2005 (Sau khi thực hiện 5 biện pháp) TT Chỉ tiêu đơn vị tính Năm 2002 2003 2004 2005 1 Số đàn ong khai thác - Ong ngoại (ý) - Ong nội Đàn Đàn Đàn 83.750 65.000 18.750 97.500 65.000 20.500 128.571 103.000 20.571 152.173 117.000 358.173 2 NS mật BQ Kg/đàn 19 20 21 23 3 Sản lượng, sản xuất - Xuất khẩu Trong đó: sản phẩm thành phẩm Tấn Tấn Tấn 1.600 1.200 20 1.950 1.500 300 2.700 2.200 400 3.500 2.750 500 Biểu 16: dự kiến sản lượng, thị trường, giá cả, kim ngạch xuất khẩu 2002 - 2004 TT Thị trường 2001 2002 2003 2004 SL (tấn) Giá BQ USD/tấn SL (tấn) Giá BQ USD/tấn Kim ngạch (1000USD) SL (tấn) Giá BQ USD/tấn Kim ngạch (1000USD) SL (tấn) Giá BQ USD/tấn Kim ngạch (1000USD) 1 Nhật 40 708 70 910 63,7 80 950 76 100 950 95,0 2 Đài Loan 50 950 47,5 80 950 76,0 3 Mỹ 200 1.250 400 1.400 560,0 450 1.450 652,5 650 1.550 1007,5 4 Hà Lan 350 1.250 360 1.295 466,2 370 1.400 518,0 500 1.522 761,0 5 Anh 300 1.250 250 1.290 322,5 350 1.350 472,5 450 1.500 675,0 6 Đức 50 1.300 65,0 100 1.400 140,0 7 Canada 80 1.300 104,0 200 1.400 280,0 8 Thị trường khác 40 1.200 120 1.230 147,6 70 1.250 87,5 120 1.300 156,0 9 Tổng cộng 930 1.239 1.200 1.300 1.560 1.500 1.348 2.023 2.200 1.450 3190,5 II-/ Một số kiến nghị. Để tạo điều kiện cho Công ty ong TW khắc phục tồn tại, thực hiện tốt mục tiêu phương hướng đã đề ra, chúng tôi có kiến nghị với Nhà nước như sau: Œ./ Nhà nước cần phải có chính sách hỗ trợ và khuyến khích phát triển nuôi ong trong nước, vì nghề nuôi ong chẳng những thu lại nguồn lợi kinh tế đáng kể mà còn góp phần cải tạo môi trường, giúp quá trình thụ phấn, làm tăng năng suất cây trồng. Theo tính toán của các chuyên gia thì lợi ích của con ong đưa lại lớn hơn 100 lần lợi ích từ kinh doanh sản phẩm ong. ở một số nước trên thế giới người ta còn trả tiền thụ phấn hoa của ong theo diện tích gieo trồng. ./ Nhà nước cũng có chính sách hỗ trợ giá xuất khẩu khi gặp những năm giảm mạnh, nhằm một phần hỗ trợ cho người nuôi ong. Ž./ Có chính sách hỗ trợ ngành ong, bình ổn giá đường. Các quỹ tín dụng cần tạo điều kiện để ngành được vay vốn dài hạn để đầu tư chiều sâu, cải tiến trang bị máy móc và công nghệ. ./ Nhà nước cần thống nhất quản lý xuất khẩu vào một đầu mối, để tạo ra một khối lượng sản phẩm lớn nhằm ổn định thị trường lâu dài, tránh hiện tượng tranh mua, tranh bán trong ngành./. kết luận Trên đây là toàn bộ nội dung của bài viết về đề tài “Một số biện pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu sản phẩm ong ở Công ty ong Trung ương” Luận văn bao gồm 4 sơ đồ, 1 đồ thị, 16 bảng biểu và đựoc chia làm 3 phần chính (trừ phần mở đầu và kết luận). Phần I - Xuất khẩu là nhiệm vụ chiến lược của các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường. Phần II - Phân tích thực trạng tình hình sản xuất sản phẩm ong và công tác xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty ong TW giai đoạn vừa qua. Phần III - Một số biện pháp chủ yếu nhằm góp phần đẩy mạnh công tác xuất khẩu sản phẩm ong của Công ty ong TW. Ba phần này có mối quan hệ hữu cơ gắn bó với nhau về cả lý luận, phân tích thực trạng và biện pháp. Trong quá trình thực tập và bài viết, được sự giúp đỡ hướng dẫn tận tình của thầy giáo, tôi đã cố gắng phấn đấu làm tốt các công tác điều tra, khảo sát, thu thập tài liệu, số liệu, đọc và nghiên cứu tài liệu ghi bút ký nên tôi đã hoàn thành bài viết theo đúng thời gian quy định. Theo sự đánh giá chủ quan của bản thân tôi thì bài viết này không chỉ có ý nghĩa cụ thể về mặt lý luận xuất khẩu mà còn có tác dụng với công ty ong TW, đặc biệc là các biện pháp đề xuất. Tuy nhiên do trình độ có hạn va chưa có nhiều kinh nghiệm nên chắc chắn rằng bài viết này còn có những thiếu sót nhất định. Tôi xin chân thành cảm ơn ! Tài liệu tham khảo 1-/ Nghị quyết Đại hội Đảng VII, VIII. 2-/ Mai Ngọc Đường - Công nghiệp hoá theo hướng xuất khẩu đồng thời thay thế nhập khẩu ở Việt Nam - NXB Hà Nội 1998 3-/ Giáo trình kinh tế Thương mại - Trường Đại học kinh tế quốc dân, Bộ môn kinh tế thương mại, chủ biên PGS Nguyễn Duy Bột, PGS - PTS Đặng Đình Đào. 4-/ Giáo trình giao dịch và thanh toán thương mại quốc tế - Đại học kinh tế Quốc dân, khoa thương mại, chủ biên PGS - PTS Nguyễn Duy Bột. 5-/ Tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp xuất nhập khẩu trong nền kinh tế mở - Luận án PTS Đỗ Duy Thuý. 6-/ Pháp luật về xuất nhập khẩu - NXB Thành phố Hồ Chí Minh 7-/ Nghiệp vụ buôn bán quốc tế - NXB Thanh niên, Chủ biên Lê Hiến Tiên. 8-/ Định hướng xuất khẩu nông sản năm 2002 - Đề tài cấp Bộ trường Đại học KTQD, Hà Nội 1998 9-/ Eva Crane - OBE, DSC - Cơ sở khoa học, thực tiễn và nguồn tài nguyên thế giới - Con ong và nghề nuôi ong 1990. 10-/ Thông tin khoa học kỹ thuật ngành ong số 2, số 3, 1999. 11-/ Tuyển tập báo cáo hội nghị ong toàn quốc Hà Nội 1996. 12-/ Các báo cáo tổng kết quá trình sản xuất kinh doanh của công ty ong TW các năm 1996 đến 2001. Phương hướng sản xuất kinh doanh xuất khẩu 2002 - 2002. 13-/ Báo cáo tổng kết và phương hướng phát triển chăn nuôi ong 1999 - 2002 - Cục khuyến nông Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn. 14-/ Tạp chí ASEAN - ngày nay các số năm 2000, 2001. 15-/ GS.PTS Tô Xuân Dân - Giáo trình kinh tế học quốc tế - NXB Giáo dục. 16-/ GS.PTS Tô Xuân Dân - Giáo trình đàm phán và ký kết hợp đồng. 17-/ GS.PTS Tô Xuân Dân - Kinh doanh quốc tế - NXB Thống kê. 18-/ PGS. Vũ Hữu Tửu - Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Trường Đại học Ngoại thương, 1999. 19-/ Tạp chí kinh tế 98'' - 99 '' Việt Nam và thế giới. 20-/ Thời báo kinh tế năm 2000 - 2001 21-/ Báo đầu tư năm 2000 - 2001 22-/ Tạp chí công nghiệp năm 2000 - 2001 23-/ Tạp chí Thương mại năm 2000 - 2001 mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0470.doc
Tài liệu liên quan