Trong những năm qua bằng sự nỗ lực không ngừng của mình, Cồng ty XNK Nam Hà Nội đã thể hiện được những thế mạnh của mình trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Công ty đã không ngừng mở rộng quy mô của thị trường, các danh mục mặt hàng kinh doanh ngày càng phong phú, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng hàng sơ chế, tăng tỷ trọng hàng tinh chế. Trong năm 2000, Công ty SIMEX là một trong số ít những công ty có doanh số cao nhất cả nước, là một đơn vị kinh doanh luôn hoàn thành và nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của Nhà nước. Với những tiềm lực mạnh mẽ công ty đã thể hiện được những ưu thế sau :
- Trong những năm qua, Công ty đã có nhiều cố gắng bám sát, xâm nhập và phát triển thị trường trong và ngoài nước, khai thác được nhiều nguồn hàng xuất khẩu và thực hiện tốt các chỉ tiêu, kế hoạch.
- Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu, Công ty đã chú trọng, quan tâm đến công tác tiếp thị, khai thác mặt hàng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước nên đã xuất khẩu được những mặt hàng chính là nông sản, hải sản và thêm nhiều loại hàng khác như: gốm, sứ, mây tre đan, chiếu cói, nệm cói, chổi cỏ, nón lá, thực phẩm, tận dụng nguyên liệu có sẵn trong nước, gián tiếp giải quyết được nhiều lao động làm ra sản phẩm xuất khẩu nên giá trị xuất khẩu của Công ty ngày càng cao, kim ngạch xuất khẩu hai năm 1999 và 2000 gấp 3 lần nhập khẩu.
74 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1478 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu của Công ty cổ phần xuất nhập khẩu Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vào các thị trường này. Đến nay, Công ty đã tạo lập được uy tín nhất định và có được chỗ đứng khá vững chắc ở thị trường này. Trong các nước Tây Âu thì Pháp là bạn hàng tiêu thụ lớn nhất. Năm 1996, hàng của Công ty xuất sang Pháp khoảng 1.241.460 đôla thì đến năm 1997 giá trị hàng xuất sang thị trường này đã tăng tới 2.081.076 đôla, tăng 2,53 lần và đến năm 2000 lại giảm xuống chỉ còn 137.560 USD. Bên cạnh đó, giá trị hàng xuất khẩu sang thị trường Đức, Anh, cũng có xu hướng tăng đáng kể trong giai đoạn 1996-1997. Sang giai đoạn 1998-2000 thì giá trị hàng xuất khẩu sang thị trường này lại giảm đáng kể, thậm chí hai năm gần đây 1999-2000 thị trường Anh không có doanh thu.
Năm 2000, Công ty SIMEX đã mở rộng thêm một số thị trường mới ở Đông Âu mà trước đây đã bị gián đoạn như Ba Lan, Thuỵ sỹ và Bỉ. Tuy kim ngạch xuất khẩu sang các nước này chưa cao, nhưng nó cũng hứa hẹn một triển vọng mới sáng sủa hơn.
Thị trường Mỹ đặc biệt được Công ty chú trọng. Tuy chỉ mới xâm nhập vào thị trường này trong những năm gần đây, song tốc độ xuất khẩu của Công ty tăng rất cao. Năm 199, Công ty đã xuất được một lô hàng vào thị trường Mỹ với giá trị 342.289 đôla, năm 1997, con số trên đã tăng lên đột biến với giá trị là hơn 2 triệu đô. Thị trường Mỹ có sức tiêu thụ rất lớn, quan hệ Việt - Mỹ gần đây đã được cải thiện đáng kể, điều đó đang mở ra cho Công ty SIMEX một triển vọng mới trong kinh doanh. Công ty cần nhanh chóng xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường này.
Đồ thị biểu diễn thị trường xuất khẩu của công ty
Châu á:72.33%
Châu úc+mỹ:6,11%
Châu âu:21,56%
3- Đánh giá hiệu quả kinh doanh xuất khẩu của công ty
Hiệu quả kinh doanh là mục tiêu của mọi doanh nghiệp trong quá trình tổ chức và thực hiện các hoạt động sản xuất và kinh doanh của mình. Hiệu quả kinh doanh sẽ quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trên thương trường. Dù hiệu quả kinh doanh có đạt hay không đạt như kế hoạch ban đầu đều cần phải xem xét đánh giá và tìm ra nguyên nhân gây ảnh hưởng đến kết quả này
Để phân tích dánh giá hiệu quả thu được từ hoạt động kinh doanh của công ty ta có thể sử dụng một số chỉ tiêu sau:
Tốc độ tăng, giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu
Lợi nhuận xuất khẩu
Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu
3.1 Hiệu quả kinh doanh xuất khẩu
3.1.1 Tốc độ tăng, giảm giá trị kim ngạch xuất khẩu
Chỉ tiêu này cho phép đánh giá tốc độ tăng trưởng giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty hằng năm. chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Tốc độ tăng, giảm giá trị kim = Giá trị kim ngạch xuất khẩu của năm X ngạch xuất khẩu của năm X Giá trị kim ngạch xuất khẩu của năm X-1
Bảng iii: tốc độ tăng( giảm) giá trị kim ngạch xuất khẩu của công ty ( 1996-2000 )
Năm
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
Tổng giá trị kim nghạch xuất khẩu
22.889.914
38.826.32
23.976.476
27.921.346
33.156.278
Tốc độ tăng (giảm)%
169,62
61,75
116,45
118,74
Từ số liệu trên ta thấy trong khoảng thời gian từ 1996-2000 năm 1997 là năm có tốc độ tăng trưởng kim ngạch cao nhất, tăng 69,62% so với năm 1996. Năm 1998 do ảnh hưởng của nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là cuộc khủng hoảng tài chính khu vực đã làm kim ngạch xuất khẩu của công ty giảm mạnh, giảm 38,25%. Năm 1999-2000 nhịp độ tăng trưởng kim ngạch bắt đầu có dấu hiệu phục hồi, năm1999 tăng16,45% và năm 2000 tăng 38,28% so với 1998.
3.1.2 Lợi nhuận xuất khẩu
Lợi nhuận thu được từ hoạt động xuất khẩu của công ty được tính theo công thức:
Lợi nhuận xuất khẩu = Thu nhập xuất khẩu – Chi phí xuất khẩu
Trong đó:
+ Thu nhập từ xuất khẩu tính bằng ngoại tệ đã quy đổi theo tỷ giá VND/USD tại thời điểm chấp nhận thanh toán
+ Chi phí cho xuất khẩu tính bằng VND
bảng IV: lợi nhuận xuất khẩu cuả công ty ( 1996- 2000 )
Đơn vị: tỷ VND
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
1999
2000
Thu nhập từ xuất khẩu
295,188
429,251
287,952
371,173
474,644
Chi phí cho xuất khẩu
293,446
426,635
286,449
369,008
471,792
Lợi nhuận xuất khẩu
1,742
2,616
1,502
2,165
2,952
3.1.3 Tỷ suất doanh lợi xuất khẩu
Chỉ tiêu này phản ánh kết quả hoạt động xuất khẩu thông qua việc đánh giá kết quả thu được từ một đồng chi phí bỏ ra. Nó cho biết nếu doanh nghiệp bỏ ra một đồng chi phí sẽ thu về được bao nhiêu đồng lợi nhuận
Chỉ tiêu này được tính bằng công thức:
Dx = Lợi nhuận xuất khẩu / chi phí xuất khẩu x 100%
Từ số liệu ở bảng IV ta tính được tỷ suất doanh lợi xuất khẩu qua các năm như sau:
- Năm 1996 Dx =0,5936 % nghĩa là với 100 đồng vốn bỏ ra công ty sẽ thu về 0,5936 đồng lợi nhuận
Năm 1997 Dx =0,6132 %
Năm 1998 Dx = 0,5244%
Năm 1999 Dx = 0,5867%
Năm 2000 Dx = 0,6257%
Như vậy có thể nói rằng việc sử dụng chi phí trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu của công ty là có hiệu quả, lợi nhuận thu về trên chi phí bỏ ra là tương đối lớn
3.2 Những ưu điểm
Trong những năm qua bằng sự nỗ lực không ngừng của mình, Cồng ty XNK Nam Hà Nội đã thể hiện được những thế mạnh của mình trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Công ty đã không ngừng mở rộng quy mô của thị trường, các danh mục mặt hàng kinh doanh ngày càng phong phú, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu chuyển dịch theo hướng giảm tỷ trọng hàng sơ chế, tăng tỷ trọng hàng tinh chế. Trong năm 2000, Công ty SIMEX là một trong số ít những công ty có doanh số cao nhất cả nước, là một đơn vị kinh doanh luôn hoàn thành và nghiêm chỉnh chấp hành những quy định của Nhà nước. Với những tiềm lực mạnh mẽ công ty đã thể hiện được những ưu thế sau :
- Trong những năm qua, Công ty đã có nhiều cố gắng bám sát, xâm nhập và phát triển thị trường trong và ngoài nước, khai thác được nhiều nguồn hàng xuất khẩu và thực hiện tốt các chỉ tiêu, kế hoạch.
- Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh xuất khẩu, Công ty đã chú trọng, quan tâm đến công tác tiếp thị, khai thác mặt hàng, mở rộng thị trường trong và ngoài nước nên đã xuất khẩu được những mặt hàng chính là nông sản, hải sản và thêm nhiều loại hàng khác như: gốm, sứ, mây tre đan, chiếu cói, nệm cói, chổi cỏ, nón lá, thực phẩm, tận dụng nguyên liệu có sẵn trong nước, gián tiếp giải quyết được nhiều lao động làm ra sản phẩm xuất khẩu nên giá trị xuất khẩu của Công ty ngày càng cao, kim ngạch xuất khẩu hai năm 1999 và 2000 gấp 3 lần nhập khẩu.
- Trong quá trình kinh doanh mua bán hàng hoá có sự cạnh tranh gay gắt, nhà nước mở rộng cơ chế xuất nhập khẩu, cho thành lập nhiều Công ty tư nhân, trách nhiệm, hữu hạn, liên doanh, liên kết với các thành phần kinh tế. Được xuất nhập khẩu trực tiếp, các văn phòng đại diện nước ngoài cũng tham gia mua bán trực tiếp đến tận các cơ sở thu mua, sản xuất, chế biến nên làm cho giá cả lên xuống thất thường. Sự biến động tiền tệ trong khu vực và thế giới, tỷ giá đô la lên xuống cũng ảnh hưởng đến việc tính toán và gây khó khăn trong kinh doanh xuất nhập khẩu, nhất là những tháng cuối năm 1997. Trước tình hình như vậy, Công ty đã áp dụng nhiều phương pháp kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, bán tận gốc (không qua trung gian), tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng, giao hàng đúng hạn, đảm bảo chất lượng hàng hoá, thanh toán sòng phẳng, đã thực sự gây được lòng tin, lôi cuốn được khách hàng đến hợp tác lâu dài, nên vừa tạo được hàng xuất khẩu ổn định, vừa có khách hàng tiêu thụ.
- Thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất khẩu nhanh chóng, chính xác, đúng chính sách, pháp luật của nhà nước, nộp thuế xuất khẩu đầy đủ, đúng hạn.
- Thực hành tiết kiệm, giảm chi phí trong kinh doanh như: vận tải, bốc xếp, giám định, bảo quản hàng hoá...
- Tổ chức lao động, bộ máy quản lý gọn nhẹ, mỗi người đều kiêm nhiệm hai, ba việc nên làm việc có hiệu quả, năng suất lao động cao hơn các năm trước.
- Quan tâm đến việc bồi dưỡng, nâng cao trình độ nghiệp cụ chuyên môn, tạo điều kiện cho cán bộ nhân viên đi học bổ túc thêm ngoại ngữ, vi tính, nghiệp vụ ngoại thương, hầu hết cán bộ nhân viên được ra nước ngoài, tiếp cận với thị trường, tham dự các buổi hội thảo chuyên đề về các mặt quản lý của doanh nghiệp do Thành phố và Phòng thương mại tổ chức.
- Đời sống người lao động trong công ty không ngừng được cải thiện và nâng cao về cả mặt vật chất lẫn tinh thần. Mọi thành viên đoàn kết giúp đỡ nhau trong công việc, từng bước thể hiện vai trò người làm chủ doanh nghiệp
3.3 Những nhược điểm
Bên cạnh các thành tựu đạt được, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty còn những tồn tại sau:
- Công ty chưa thiết lập được kế hoạch kinh doanh dài hạn, chưa có phương hướng cụ thể để đối phó với sự biến động bất thường của thị trường có thể xảy ra. Hoạt động xuất khẩu của Công ty tuy có tăng về kim ngạch nhưng nhìn chung phương thức kinh doanh còn mang tính "phi vụ", "chộp giật" là chính. Hàng xuất khẩu của Công ty manh mún và nhỏ lẻ.
- Chất lượng hàng của Công ty không ổn định, tỷ trọng hàng thô vẫn còn chiếm khá lớn.
- Thị trường hàng tiêu thụ của Công ty tuy có được mở rộng song vẫn chưa ổn định. Một số bạn hàng chưa đủ tin cậy để tiến hành làm ăn lớn. Đa số các bạn hàng của Công ty chỉ tiêu thụ theo kiểu mùa vụ.
- Trong hoạt động tạo nguồn hàng, Công ty chưa thiết lập được mối quan hệ với các cơ sở đơn vị sản xuất kinh doanh. Thu mua hàng của Công ty phần nhiều còn theo kiểu gom hàng từng hộ gia đình và Công ty chỉ thực hiện các hoạt động tạo nguồn hàng, khi khách hàng có nhu cầu. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, Công ty bị động về nguồn hàng hoặc việc tạo hàng không đảm bảo chất lượng.
- Từ trước đến nay, Công ty không được đầu tư cơ sở vật chất, trụ sở làm việc, kho tăng, phương tiện vận tải... đều phải thuê mướn, giá cả ngày càng tăng thêm nên làm ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh.
- Công ty chuyên mua bán kinh doanh xuất nhập khẩu, chưa có cơ sở sản xuất, thu mua, chế biến nên nhiều lúc bị động về nguồn hàng, chưa đáp ứng nhu cầu của khách hàng, giá cả lên xuống thất thường cũng gặp không ít khó khăn trong việc tính toán kinh doanh.
- Do thiếu vốn, Công ty phải tự cân đối, giữ uy tín với Ngân hàng, có vay có trả đầy đủ, sòng phẳng, nhưng vẫn còn rất nhiều khó khăn, bị động.
- Trình độ cán bộ nhân viên có nghiệp vụ ngoại thương ít, hầu hết trái ngành nghề nên chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường cạnh tranh sôi động hiện nay.
Chương III
một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu ỏ công ty xnk nam hà nội
I. Quan điểm và định hướng phát triển Thương mại Quốc tế ở Việt Nam
1. Hệ thống quan điểm cơ bản phát triển Thương mại quốc tế ở Việt Nam.
Ngày nay, quốc tế hoá, toàn cầu hoá đang là xu thế chung của nhân loại, không một quốc giá nào có thể thực hiện một chính sách đóng cửa mà vẫn có thể phồn vinh được. Trong bối cảnh đó Thương mại quốc tế là một lĩnh vực hoạt động đóng vai trò mũi nhọn thúc đẩy nền kinh tế trong nước hội nhập với nền kinh tế thế giới, phát huy những lợi thế so sánh của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, khả năng của đất nước, tận dụng tiềm năng về vốn, công nghệ, khoa học kỹ thuật, khả năng quản lý tiên tiến từ bên ngoài, duy trì phát triển văn hoá dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của văn hoá nhân loại.
Bí quyết thành công trong chiến lược phát triển kinh tế của nhiều nước là mở rộng thị trường quốc tế và tăng nhanh xuất khẩu sản phẩm hàng hoá qua chế biến có hàm lượng lỹ thuật cao. Chính vì vậy, trong công cuộc phát triển kinh tế, xây dựng đất nước, đặc biệt là sau khi tiến hành đổi mới kinh tế xã hội. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất coi trọng các hoạt động kinh tế đối ngoại. Với định hướng phát triển kinh tế của Đảng, chính sách kinh tế đối ngoại nói chung và chinh sách quan trọng chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của nước ngoài nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển Thương mại với nước ngoài để đẩy mạnh sản xuất trong nước, vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá để xuất khẩu. Chính vì lẽ đó, quan điểm phát triển Thương mại quốc tế ở Việt Nam là:
1.1. Khắc phục tính chất tự cung tự cấp của nền kinh tế, mở cửa, từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới.
Xu thuế Thương mại hoá toàn cầu, cả thế giới là một thị trường đang là xu hướng chung của thời đại. Trong thế giới hiện đại, không một quốc gia nào bằng chính sách đóng cửa của mình lại phát triển có hiệu quả kinh tế trong nước. Muốn phát triển nhanh mỗi nước không thể đơn độc dựa vào nguồn lực của mình mà phải biết tận dụng các thành tựu kinh tế khoa học của loài người để phát triển. Nền kinh tế "mở cửa" sẽ mở ra hướng phát triển mới tạo điều kiện khai thác lợi thế, tiềm năng sẵn có trong nước nhằm sử dụng phân công lao động quốc tế một cách có lợi nhất.
Nước ta và một số nước khác đó có lúc xem xét vấn đề độc lập kinh tế và xây dựng một nền kinh tế hoàn chỉnh mang tính tự cung tự cấp để tránh sự lệ thuộc vào bên ngoài. Thực tế đã chứng minh rằng không một quốc gia nào công ty có thể đề ra cho mình một mục tiêu đầy tham vọng như vậy. Bởi vì không có quốc gia nào dù giàu mạnh như Mỹ hay Trung Quốc lại xây dựng một nền kinh tế tự cung tự cấp vô cùng tốn kém cả về vật chất và thời gian.
Để mở cửa nền kinh tế, trong bối cảnh hiện nay Nhà nước ta đã có nhiều biện pháp. Lớn nhất và quan trọng nhất là biện pháp cải tổ nền kinh tế quốc dân theo hướng mở rộng các quan hệ đối ngoại, trọng tâm là xuất khẩu. Giành ưu tiên cho các ngành có nhiều tiềm năng mang lại thu nhập cao và nhanh. Đố là các ngành nông công nghiệp sản xuất các sản phẩm có hàm lượng tài nguyên thiên nhiên và hàm lượng lao động cao để xuất khẩu.
Biện pháp thứ hai là đưa ra các đạo luật đầu tư hấp dẫn, có nhiều ưu đãi để thu hút vốn đầu tư và kỹ thuật của nước ngoài nhằm phát triển các ngành nông công nghiệp xuất khẩu, đổi mới và hiện đại hoá cơ sở hạ tầng kinh tế, đa dạng hoá nền sản xuất xã hội, đi từ phát triển công nghệ gia công chế biến.
Thứ hai là khuyến khích phát triển kinh tế hàng hoá cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, phát triển quan hệ H - T.
Thứ tư là thực hiện cơ chế quản lý có sự điều tiết của Nhà nước thông qua các chương trình có tính chất hướng dẫn và hệ thống các chính sách điều chỉnh các chương trình đó. Điều này được thể hiện rõ trong các chính sách về thuế, đầu tư, hối đoái, tín dụng, ngân hàng...
Cho đến nay, chúng ta đã gặt hái được những kết quả đáng mừng từ chính sách Thương mại, giao lưu kinh tế với bên ngoài. Nước ta đang từng bước chuyển mình với nhịp sản xuất mới bằng những công nghệ khoa học tiên tiến. Tin tưởng rằng với hướng đi đúng đắn và sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Nhà nước Việt Nam sẽ trở thành một mắt xích quan trọng trong nền kinh tế thế giới.
1.2. Coi trọng hiệu quả kinh doanh Thương mại quốc tế trong hiệu quả kinh tế - xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường, hiệu quả là mục tiêu theo đuổi của tất cả các doanh nghiệp. ở đây phải xác định và phân biệt hiệu quả kinh doanh và hiệu quả kinh tế xã hội. Hiệu quả thể hiện quan hệ giữa kết quả và chi phí bỏ ra. Trước hết phải xác định hiệu quả kinh doanh thương mại quốc tế. Hiệu quả kinh doanh Thương mại quốc tế là thước đo để cân nhắc, lựa chọn các giải pháp đầu tư, quyết định đầu tư phát triển hay ngừng kinh doanh. Hiệu quả kinh doanh của phần định tính và định hướng. Các chỉ tiêu định lượng như lợi nhuận, mức doanh lợi nhuận, mức doanh lợi, hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh... Chỉ tiêu hiệu quả định tính như khả năng cạnh tranh củng cố niềm tin của khách hàng vị thế của doanh nghiệp ... Không đạt được hiệu quả kinh doanh thì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận không đạt được, không có hiệu quả kinh doanh thì doanh nghiệp không thể tồn tại được, hoạt động kinh doanh sẽ bị ngừng trệ.
Bên cạnh đó phải tính hiệu quả kinh tế - xã hội. Vấn đề giải quyết mặt xã hội của Thương mại quốc tế trong cơ chế thị trường không giản đơn. ở đây, phải tính đến vấn đề môi sinh, môi trường, sự phát triển đồng đều giữa các vùng, các khu vực... Có nghĩa là doanh nghiệp kinh doanh Thương mại quốc tế phải làm sao đạt hiệu quả cao cho bản thân doanh nghiệp nhưng không ảnh hưởng đến các lợi ích xã hội đặc biệt là văn hoá, môi trường, đóng góp vào việc thực hiện cac mục tiêu kinh tế - xã hội như góp phần vào việc nâng cao tốc độ tăng trưởng quốc gia, nâng cao thu nhập, nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, cải thiện cán cán thanh toán.
Suy đến cùng muốn có hiệu quả thì phải bảo đảm lợi ích vật chất cho các đối tượng tham gia hoạt động Thương mại quốc tế. Lợi ích là chất kết dính các hoạt động theo mục đích chung. Vì vậy để các doanh nghiệp tiến hành các hoạt động phấn đấu vì hiệu quả kinh tế xã hội nói chung, của toàn kinh tế quốc dân thì Nhà nước phải có chính sách kết hợp hài hoà giữa lợi ích của xã hội với lợi ích của doanh nghiệp, lợi ích tập thể với lợi ích của Nhà nước, trong đó lợi ích cá nhân phải được coi trọng và xem như là động lực. Nguyên tắc các bên tham gia đều có lợi là nguyên tắc tối cao, ai vi phạm sẽ không thể tổ chức các hoạt động Thương mại quốc tế có hiệu quả trước mắt và lâu dài.
1.3. Mở rộng sự tham gia của các thành phần kinh tế và hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu dưới sự quản lý thống nhất của nhà nước.
Quan điểm này được áp dụng trong lĩnh vực Thương mại quốc tế đã mang lại cho lĩnh vực hoạt động này những màu sắc sinh động hơn. Ngày nay kinh doanh xuất nhập khẩu không còn là độc quyền của các Công ty quốc doanh nữa, đặc biệt với nghị định 57/NĐ- CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ thì không chỉ riêng các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu mới được phép kinh doanh xuất nhập khẩu. Quy luật cạnh tranh buộc các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu phải tìm ra các biện pháp thích hợp để từng bước có hiệu quả kinh doanh. Đồng thời sự hợp tác giữa các tổ chức kinh tế các thành phần kinh tế khác nhau trong lĩnh vực kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ làm cho hiệu quả kinh tế xã hội được chú trọng. Trong điều kiện nền kinh tế nhiều thành phần, kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ mang lại nhiều lợi ích, song cũng có một số điểm bất lợi. Bởi vì cạnh tranh sẽ dẫn đến tình trạng tranh mua, tranh bán hàng xuất nhập khẩu. Nếu không có sự kiểm soát của Nhà nước một cách chặt chẽ kịp thời sẽ gây các thiệt hại khi buôn bán với nước ngoài. Các hiện tượng xấu về xã hội như buôn lậu, trốn thuế, ép giá.... dễ phát triển. Mặt khác cạnh tranh sẽ dẫn đến thôn tính lẫn nhau giữa cac chủ thể kinh tế bằng các biện pháp không lành mạnh như phá hoại, cản trở công việc của nhau. Việc quản lý không chỉ đơn thuần tính toán về hiệu quả kinh tế mà còn phải chú trọng tới văn hoá và đạo đức xã hội.
1.4. Thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ Thương mại
Đa dạng hoá quan hệ Thương mại là con đường dẫn tới Thương mại hoá toàn cầu, mở rộng quan hệ buôn bán với tất cả các nước, các khu vực không phân biệt chế độ chính trị cũng như thành phần kinh tế đảm bảo việc lựa chọn những đối tượng, bạn hàng, xây dựng mối quan hệ buôn bán lâu dài, tạo dựng lòng tin và sự tín nhiệm lẫn nhau. Trong điều kiện kinh tế kém phát triển như ở Việt Nam, việc đa dạng hoá mặt hàng xuất nhập khẩu phải hết sức chú trọng đến việc phát huy, từng bước tạovị thế mới trên thị trường thế giới, hình thành các mối quan hệ cùng có lợi với các nước khác trên thị trường.
Trên đây là một số quan điểm cơ bản chỉ đạo hoạt động kinh doanh Thương mại quốc tế ở Việt Nam trong thời kỳ quá độ. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cần phải hiểu và nắm vững những quan điểm này trên cơ sở đó xây dựng các chiến lược kinh doanh dài hạn nhằm đạt được mục tiêu của mình, đồng thời có các giải pháp thích hợp từng bước nâng cao hiệu qủa kinh doanh.
2. Định hướng phát triển Thương mại quốc tế ở nước ta trong giai đoạn 2001 - 2010.
Thực hiện chủ trương mở cửa nền kinh tế, trong giai đoạn Thương mại quốc tế phát triển theo những định hướng sau đây.
Một là, khuyến khích mọi thương nhân tham gia xuất khẩu và hướng về xuất khẩu, đẩy mạng xuất khẩu các hàng hoá chế biến sâu và có hàm lượng kỹ thuật cao.
Xuất khẩu là một cơ sở nhập khẩu là hoạt động kinh doanh đem lại lợi nhuận lớn, là phương tiện thúc đẩy phát triển kinh tế. Mở rộng xuất khẩu để tăng thu ngoại tệ, tạo điều kiện cho nhập khẩu và phát triển cơ sở hạ tầng. Nhà nước ta luôn coi trọng và thúc đẩy các ngành kinh tế hướng theo xuất khẩu, khuyến khích các thành phần kinh tế mở rộng xuất khẩu để giải quyết công ăn việc làm và tăng thu ngoại tệ.
Bước vào thập kỷ 2001 - 2010, lực của nước ta đã khác trước nhiều, các nguồn lực như lao động, kể cả chất xám, đất đai, tài nguyên, thị trường trong nước còn khá dồi dào và có khả năng khai thác để phát triển kinh tế, trong đó có Thương mại quốc tế. Một số ngành sản xuất trong nước phát triển với tốc độ cao, tạo ra được khối lượng lớn về sản phẩm hàng hoá có chất lượng cao, ổn định, giá thành hạ, có sức cạnh tranh trên thị trường trong và ngoài nước. Chính vì vậy mà hướng chính xuất khẩu trước mắt là xuất khẩu các mặt hàng được chế biến từ những nguồn nguyên liệu có sẵn là xuất khẩu sử dụng nguồn lao động dồi dào trong nước như mặt hàng nông, lâm sản nhiệt đới và thuỷ sản, hàng công nghệp nhẹ, hàng tiểu thủ công nghiệp và mỹ nghệ, hàng gia công và một số sản phẩm công nghệ cơ khí. Đồng thời " cải tiến cơ cấu xuất khẩu theo hướng tăng tỷ trọng các mặt hàng chế biến, giảm tỷ trọng xuất khẩu nguyên liệu, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, công nghệ hiện đại, đủ sức cạnh tranh trong xuất khẩu".
Trong một nền kinh tế mà sản xuất nhỏ còn là phổ biến như nước ta, để tăng nhanh nguồn hàng xuất khẩu, chúng ta không thể chỉ trông chờ vào khai thác tài nguyên thiên nhiên cũng như không thể chỉ dựa vào việc thu mua những sản phẩm thừa nhưng rất bấp bênh của nền sản xuất nhỏ, phân tán, hoặc bằng lòng với năng lực sản xuất của các cơ sở công nghiệp hiện có, mà phải xây dựng thêm nhiều các cơ sở sản xuất mới để tạo nhiều hàng xuất khẩu dồi dào, tập trung, có chất lượng cao, đạt tiêu chuẩnh quốc tế. Do đó, đầu tư vốn là biện pháp cần ưu tiên để gia tăng xuất khẩu.
Nguồn vốn đầu tư cho sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay gồm: vốn đầu tư trong nước, vốn đầu tư ngoài nước.
Tuy nguồn vốn đầu tư nước ngoài là quan trọng, nhưng đầu tư cho sản khẩu cần khai thác từ các nguồn vốn trong nước là chủ yếu. Do đó, cần khai thác nguồn vốn trong nội bộ nền kinh tế bao gồm vốn Nhà nước và vốn của nhân dân.
Cần coi trọng việc thu hút vốn của nhân dân vào việc đầu tư cho xuất khẩu. Đây là việc lâu nay chưa được coi trọng. Việc Nhà nước ban hành luật đầu tư trong nước sẽ là cơ sở pháp lý để có thành phần kinh tế hăng hái và an tâm bỏ vốn ra đầu tư, nhất là đầu tư vào sản xuất hàng xuất khẩu.
Để khuyến khích bỏ vốn đầu tư làm ra hàng xuất khẩu, Nhà nước cần có các chính sách ưu tiên cho lĩnh vực này như: Cho phép vay vốn lãi suất ưu đãi thấp, giảm hoặc miễn nộp thuế lợi tức một số năm đối với những sản phẩm làm ra trong những năm đầu chưa có lãi hoặc thấp (so với kinh doanh trong nước), Nhà nước có thể áp dụng chính sách trợ cấp có điều kiện...
Hai là, hoàn thiện cơ chế xuất khẩu ổn định và phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, phù hợp với chính sách bảo hộ sản xuất có chọn lọc, có điều kiện và có thời gian. Theo đó, cơ chế xuất khẩu năm 2001 - 2010 đã được nới lỏng rất nhiều thể hiện ở các nội dung sau:
- Doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu mọi loại hàng hoá trừ những mặt hàng nhà nước cấm.
- Các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được xuất khẩu như các doanh nghiệp trong nước cả về thủ tục xuất khẩu và mặt hàng kinh doanh nhưng vẫn phải thực hiện theo quy định của luật Đầu tư nước ngoài.
- Từ năm 2001 trở đi, danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu theo giấy phép của bộ Thương mại, quy định chỉ có mặt hàng dệt may sang thị trường có hạn ngạch, còn nhập khẩu chỉ còn 15 mặt hàng phải có giấy phép.
- Không còn giấy phép chuyển, doanh nghiệp chỉ cầnd đăng ký là được xuất hàng.
- Tất cả các mặt hàng xuất khẩu đều hưởng thuế suất khẩu 0%.
- Cắt giảm dần việc cấm, tạm ngừng, hạn ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu và giá thành thuế tối thiểu, tiến tới xoá bỏ trong đàm phán Thương mại quốc tế.
- Các biện pháp quản lý chuyên ngành sẽ dần được xoá bỏ để theo hướng quản lý theo hình thức quy định tiêu chuẩn, điều kiện để doanh nghiệp có cơ sở làm thủ tục xuất nhập khẩu Hải quan, không cấp giấy phép hoặc duyệt mặt hàng số lượng, giá trị.
- Bộ Thương mại sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp xâm nhập thị trường nước ngoài bằng các biện pháp xúc tiến Thương mại.
Ba là, nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và hàng hoá xuất khẩu trên thế giới. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam hiện nay tuy đã có nhiều tiến bộ về chất lượng vẫn chưa đạt so với tiêu chuẩn quốc tế vì vậy, giá hàng xuất khẩu của Việt Nam luôn thấp hơn các mặt cùng loại các mặt cùng loại của các nước khác. Nâng cao chất lượng là điều kiện để tăng nhanh khối lượng xuất khẩu đồng thời nâng cao uy tín về chất lượng hàng Việt Nam trên thị trường thế giới.
3. Dự kiến kế hoạch xuất nhập khẩu năm 2002
Năm 2002, kinh tế thế giới phục hồi chậm, tăng trưởng có thể chỉ đạt 2,4% trong đó Mỹ tăng 0,7% Nhật Bản 1,8% EU 1,4%
Giá hàng nông sản vẫn đứng ở mức thấp, giá hàng công nghệ xu hướng giảm (đặc biệt là giá dầu thô) do mức tiêu dùng xuống thấp, thêm vào đó sự cạnh tranh các nước xuất khẩu trở nên gay gắt theo hướng giảm giá và đổi mới công nghệ cùng với sự liên minh thương mại, đặc biệt là Trung Quốc năm đầu vào WTO, một số nền kinh tế có xu hướng thận trọng đầu tư và tiêu dùng ít kinh nghiệm khủng hoảng nợ ở Achentina vừa qua. Tuy vậy các cơ hội vẫn lớn đối với nước ta đó là việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt Mỹ - Hoa kỳ, Việt Nam có thể tăng kim ngạch nhiều mặt hàng vào thị trường rộng lớn này tới mức chúng ta không chuẩn bị kịp về lượng hàng hoá và các tiêu chuẩn xuất khẩu. Trung Quốc tham gia WTO có thể nhập nhiều hàng hoá của Việt Nam song cũng xảy ra cạnh tranh liên tục ở các thị trường về giá và lượng hàng cũng như các mẫu mã sản phẩm công nghiệp.
Dự kiến tổng kim ngạch xuất khẩu năm 2002 của nước ta đạt 16,6 tỷ USD tăng 10% so với năm 2001, trong đó xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài tăng 14,7% chiếm 25% tổng kim ngạch xuất khẩu.
Các nhóm hàng xuất khẩu chủ yếu: Nông lâm thuỷ sản đạt 5 tỷ USD tăng 11% công nghiệp nặng và khoáng sản đạt 5 tỷ USD, giảm 2% (do giá dầu thô giảm), hàng công nghiệp chế biến đạt 6,6 tỷ USD tăng 20%.
Cơ cấu thị trường : Tăng thị phần vào Mỹ, EU khôi phục thị trường SNG và Đông Âu, dự kiến tỷ trọng: Châu á 55% châu âu 24% Bắc mỹ 11% Châu Đại Dương 6%.
II. mục tiêu và Phương hướng phát triển xuất khẩu của Công ty SIMEX..
1. Phương hướng phát triển :
Để đạt được những mục tiêu trên, Công ty SIMEX tiếp tục định hướng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các năm qua, khắc phục những khó khăn còn tồn tại. Nhằm đạt được những hiệu quả xuất khẩu cao, Công ty xác định phương hướng phát triển xuất khẩu sau:
* Củng cố và phát triển thị trường tiêu thụ. Tăng cường các mối quan hệ hợp tác với bạn hàng, tạo lập uy tín trong kinh doanh xuất khẩu.
*Nâng cao hiệu quả nguồn hàng xuất khẩu, mở rộng danh mục mặt hàng xuất khẩu có hiệu quả kinh tế. Cải biến cơ cấu hàng hoá theo hướng tiên tiến.
*Nâng cao hiệu quả của các hoạt động nghiệp vụ xuất khẩu đặc biệt là nghiệp vụ giao dịch và đàm phán, tạo nguồn hàng, ký kết và thực hiện hợp đồng.
2. Mục tiêu phát triển:
Trong quá trình kinh doanh,mọi doanh nghiệp đều phải xác định cho mình những mục tiêu để phấn đấu. Các mục tiêu này có thể coi như kim chỉ nam hướng dẫn mọi hoạt động của doanh nghiệp. Tuy nhiên, các mục tiêu này không cố định trong suốt quá trình kinh doanh mà tuỳ từng điều kiện, từng giai đoạn phát triển cụ thể doanh nghiệp phải xác địnhđược mục tiêu nào là chủ yếu trong mỗi giai đoạn để đạt được hiệu quả kinh doanh cao nhất cũng như đạt được mục tiêu chung của công ty là phát triển công ty không ngừng. Để đạt được điều này, công ty phải căn cứ vào khả năng, tiềm lực của mình căn cứ vào môi trường kinh doanh cụ thể nghĩa là doanh nghiệp phải có chiến lược kinh doanh và trên cơ sở đó tuỳ thuộc vào từng điều kiện cụ thể để đề ra các mục tiêu cho từng thời kỳ kinh doanh nhất định một cách phù hợp và hiệu quả nhất.
Đối với công ty cổ phần XNK Nam Hà Nội-SIMEX, là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu do đó mục tiêu trước mắt thường xuyên và lâu dài của công ty là lợi nhuận. Mọi hoạt động kinh doanh của công ty nhằm vào tìm kiếm lợi nhuận tối đa, trên cơ sở ngày càng nâng cao hiệu quả kinh doanh với các chỉ tiêu doanh lợi cao, vòng quay vốn nhanh, tỷ xuất ngoại tệ xuất khẩu cao…Đi đôi với việc mở rộng quy mô xuất khẩu cả về khối lượng lẫn chất lượng, phát triển thị trường truyền thống và thâm nhập những thị trường mới. Trong dài hạn công ty đặt ra mục tiêu là tăng cường thế lực của mình như là mở rộng quy mô kinh doanh, tiến hành liên doanh liên kết, thiết lập các mối quan hệ kinh tế với nhiều đối tác trong và ngoài nước. Bên cạnh các mục tiêu đó, công ty còn chú trọng vào nhiều mục tiêu khác nữa tuỳ vào từng giai đoạn cụ thể của quá trình kinh doanh như : Bảo vệ môi trường, phúc lợi xã hội, an toàn…để phát triển một cách bền vững.
Trước mắt trong vài năm tới mục tiêu của công ty là cố gắng khai thác tạo ra các mặt hàng xuất khẩu chủ lực mới nhằm tăng lưu chuyển hàng hoá xuất khẩu cũng như thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng có lợi làm tăng doanh thu và tăng lơị nhuận. Đối với hoạt động xuất khẩu, công ty đưa ra những mục tiêu cụ thể sau :
Chỉ tiêu
2001
2002
2003
Kim nghạch XK(Tr.USD)
41,0
49,2
59,0
Lợi nhuận XK(TỷđồngVN)
3,35
3,85
4,43
Tổng doanh thu(TỷđồngVN)
730
876
1000
II. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động XK của công ty.
1. Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường.
Đối với nghiên cứu thị trường có hai phương pháp là nghiên cứu tại bàn và nghiên cứu tại hiện trường. Thông qua hai phương pháp này để tìm hiểu và xác định nhu cầu của thị trường, hàng hoá, dịch vụ, sức cạnh tranh trên thị trường.
Nghiên cứu thị trường thông qua hai bước đó là bước thu thập thông tin và bước xử lý thông tin. Đối với bước thu thập, tuỳ vào đặc điểm của thị trường, nguồn lực của công ty và đặc biệt là tuỳ thuộc vào chiến lược của công ty mà thu thập theo phương pháp trực tiếp hay phương pháp gián tiếp. Mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của nó.
Tuy nhiên, dù theo phương pháp nào đi chăng nữa, hoạt động nghiên cứu thị trường đòi hỏi thông tin phải chính xác, kịp thời và phục vụ cho các quyết định của công ty. Ngược lại, thông tin không chính xác , không đầy đủ thì thông tin đó sẽ trở nên vô nghĩa, không phục vụ được gì cho các kế hoạch của doanh nghiệp. Đối với bước xử lý thông tin đòi hỏi cán bộ làm công tác phân tích phải có một số kiến thức nhất định về thị trường cần phân tích, có kinh nghiệm trong phân tích và xử lý thông tin. Để làm được điều này, công ty mỗi năm phải có kế hoạch bồi dưỡng thêm nghiệp vụ cho cán bộ, công nhân viên chức, tổ chức các lớp đào tạo nâng cao chuyên môn, đào tạo và đào tạo lại, tuyển dụng và bổ xung thêm cán bộ công nhan viên chức có trình độ.
Giữa hai khâu thu thập và xử lý thông tin có quan hệ mật thiết với nhau. Vì vậy, mỗi khâu đều phải làm tốt thì mới phát huy hết vai trò của việc nghiên cứu thị trường được.
Hoạt động nghiên cứu thị trường có một vai trò hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh cuả công ty. Nó là cơ sở khoa học để hướng dẫn toàn bộ quá trình kinh doanh của công ty. Hoạt động đem lại hiệu quả tối đa chỉ khi phục vụ tốt khách hàng, bởi vì khách hàng lag người trả tiền và mang lại lợi nhuận cho công ty. Để thúc đẩy quá trình nhận “ sự phục vụ của công ty dành cho họ” cần thiết phải nghiên cứu thi trường. Khó hăn hơn khi kinh doanh xuất khẩu còn có sự di chuỷen các nguồn hàng và tiền tệ từ quốc gia naỳ sang quốc gia khác.
Hiện nay, công ty còn chưa quan tâm đúng mức cho hoạt động này, một phần do phạm vi thị trường quá lớn trong khi đó, nguồn vốn của công ty còn hạn chế mà hoạt động này cần một khoản chi phí nhất định. Do đó, còn tốn tại nhiều hạn chế trong tiếp cận, mở rộng thị trường và nâng cao thị phần trên thị trường. Để khắc phục những hạn chế đó trong điều kiện công ty có thể thành lập một số bộ phận chuyên trách thực hiện cong tác nghiên cứu thị trường.
Để đạt được mục đích hiểu sâu sắc về khách hàng, hàng hoá dịch vụ mà họ cần thì bộ phận này cần xác định rõ các vấn đề sau:
- Khách hàng là ai ? Nhu cầu, thị hiếu, thu nhập và nức độ tiêu dùng của họ.
-Hàng hóa của nước nào? Loại hàng gì? Hiện nay có bán trên thị trường không? Có bán cùng thị trường với công ty không? Mức độ thay thế hàng hoá của họ với hàng hoá của công ty, giá cả và điều kiện thanh toán của họ như thế nào.
Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh của công ty qua các mặt sau:
Sức mạnh tài chính.
Dự trữ nguồn cung cấp ( nguyên vật liệu, hàng hoá ... )
- Tình trạng thiết bị hiện có có khả năng thay thế,các bằng phát minh sáng chế hiện đang làm chủ.
- Nhãn hiệu hàng hoá và uy tín của đối thủ.
- Hệ thống tổ chức của đối thủ và quan điểm quản lý.
- Trình độ quản lý, kỹ năng của con người trong hoạt động kinh doanh của đối thủ.
- Giá cả cả hàng hoá trên thị trường quốc tế, các nhân tố ảnh hưởng, mức độ ra sao và nhân tố nào nhân tố chính?
- Xu hướng vận động của tỷ giá hối đoái trên thị trường.
2. Hoàn thiện công tác thu gom tạo nguồn hàng XK.
Nâng cao hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu cũng là một trong những biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Simex.
Hiệu quả của tác thu mua tạo nguồn hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng về số lượng, chất lượng, và chủng loại hàng hoá, ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp cũng như khả năng cạnh tranh, khả năng mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
Trong những năm tới, để đạt được hiệu quả tốt hơn trong công tác này, Công ty có thể sử dụng một số giải pháp như sau:
* Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cho hoạt động thu mua và tạo nguồn hàng. Đầu tư mạnh vào việc mua sắm các phương tiện vận tải, các thiết bị xếp dỡ, hệ thống bến bãi, kho tàng nhằm tạo ra sự cơ động linh hoạt trước những biến động của nguồn hàng, của thị trường nếu có.
* Tăng cường cung cấp tín dụng cho người sản xuất nuôi trồng và chế biến hàng nông, lâm, thuỷ hải sản.
Đây thực chất là hình thức đầu tư tài chính của doanh nghiệp cho nhà cung cấp hàng hoá. Mặc dù phương pháp này không phải là mới nhưng nó vẫn phát huy được hiệu quả khá cao. Cung cáp tín dụng cho người sản xuất, nuôi trồng và chế biến hàng hoá sã đảm bảo cho công ty chủ động có được nguồn hàng ổn định, giành được ưu đãi từ phía nhà cung cấp và đặc biệt công ty có thể thông qua họ để nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá xuất khẩu.
* Tiếp tục đầu tư liên doanh liên kết với các doanh nghiệp thuộc cácthành phần kinh tế trong việc sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu.
* Thiết lập hệ thống đại lý thu mua hàng hoá ở các tỉnh thành phố trong cả nước, đặc biệt là vùng sản xuất, nuôi trồng và đánh bắt nông, lâm, thuỷ, hải sản.
Hoàn thiện công tác chào hàng, bán hàng trực tiếp:
Nhìn chung chất lượng công tác chào hàng của công ty hiện nay còn chưa đem lại hiệu quả cao, số lượng hợp đồng được ký kết so với số đơn chào hàng là rất ít. Trong thời gian tới công ty cần chú trọng đến việc đào tạo đội ngũ đại diện thương mại, cung cấp các điều kiện cần thiết cho đội ngũ này để họ có thể giao dịch với bạn hàng một cách thuận lợi.
Đội ngũ đại diện của công ty phần lớn không được đào tạo một cách chính quy bài bản vè các nghiệp vụ có liên quan đến công tác chào hàng, mặt khác do còn nặng tư tưởng quan liêu bao cấp do đó họ vẫn còn lúng túng khi gặp phải những tình huóng bất ngờ xảy ra, chưa thông thạo về các kỹ năng soạn thảo một đơn chào hàng, không xác định được phạm vi các bạn hàng mà họ định chào hàng.
Để giải quyết vấn đề trên công ty cần tăng cường hơn nữa ngân sách cho hoạt động đào tạo đội ngũ đại diện thương mại, cử những nhân viên có năng lực đi học tập và trao đổi kinh nghiệm ở nước ngoài. Ngoài ra, công ty có thể tham khảo ý kiến của tư vấn hoặc mời những chuyên gia trong lĩnh vực này hợp tác. Khi soạn thảo các đơn chào hàng cần căn cứ vào mục tiêu của công ty cũng như đặc tính riêng, thông lệ kinh doanh của mặt hàng đó để xác định đối tượng cần chào hàng và nội dung đơn chào hàng.
Về công tác bán hàng trực tiếp công ty cần chú trọng đến những vấn đề sau:
Đầu tiên cần phải chú trọng đội ngũ cán bộ đàm phán giao dịch của công ty bằng cách nâng cao trình độ đàm phán, thuyết phục trong quá trình đàm phán để có thể thoả thuận và ký kết được hợp đồng với bạn hàng. Để làm được điều đó, trước tiên đội ngũ giao dịch phải có kỹ năng giao tiếp tốt đồng thời phải có trình độ hiểu biết ngôn ngữ, trong quá trình giao dịch tuỳ từng đối tượng giao dịch mà có cách xử lý riêng, đem lại hiệu quả cao nhất.
Bên cạnh đó, họ phải có vốn hiểu biết về văn hoá của bạn hàng, tuân thủ các nguyên tắc cũng như thông lệ quốc tế về đàm phán. Ngoài ra, khả năng ứng biến tốt, sức thuyết phục cao, mềm mại trong đàm phán cũng là yêu cầu đối với đội ngũ này.
Do vậy, ngay từ khâu tuyển chộn công ty cần phải chú trọng tới những ngưòi có khả năng, đào tạo và đào tạo lại trong quá trình làm việc. Khi đã có đội ngũ cán bộ đàm phán tốt, công ty có thể mở các văn phòng đại diện của mình ở các thị trường lớn nơi công ty có khối lượng hàng hoá xuất khẩu lớn, có khả năng xâm nhập và nâng cao thị phần.
4. Hoàn thiện công tác quảng cáo, giới thiệu các mặt hàng của công ty ra thị trường nước ngoài.
Ngày nay, quảng cáo đã thực sự trở thành một công cụ hữu hiệu cho Công ty trong việc mở rộng kinh doanh, đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm, nâng cao khối lượng sản phẩm bán ra gây dựng uy tín trên thị trường.
Trong thời gian qua, công tác quảng cáo giới thiệu sản phẩm hay đúng hơn là lợi ích của quảng cáo giới thiệu sản phẩm chưa được công ty chú trọng và quan tâm khai thác. do vậy nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động mở rộng thị trường, tìm kiếm khách hàng của công ty trong những năm tới, công ty cần phải xây dựng một kế hoạch quảng cáo lâu dài, phù hợp với khả năng tài chính và đặc điểm mặt hàng kinh doanh của công ty. Trước mắt công ty có thể áp dụng một số biện pháp quảng cáo sau:
+ Quảng cáo thông qua hình thức gửi một số thư chào hàng có kèm theo CATALO giới thiệu hàng hoá.
+ Quảng cáo bằng cách tham dự các hội chợ triển lãm hàng Việt Nam ở nước ngoài.
+ Quảng cáo thông qua mạng Internet..
Tuy nhiên, để thu được hiệu quả cao trong hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm, công ty cần thực hiện nghiêm chỉnh những yêu cầu sau:
- Xác định mục đích quảng cáo.
Khi tiến hành một chương trình quảng cáo, công ty phải xác định được mục đích cho hoạt động này. mục đích của quảng cáo có thể là tìm thị trường cho mặt hàng mới, phát triển thị phần cho hàng hoá đã có mặt ở thị trường, hoặc có thể là tăng khối lượng hàng hoá bán ra, thúc đẩy tiêu thụ hàng hoá.
Dự kiến ngân sách tài chính quảng cáo.
Đây là công việc hết sức quan trọng cần thiết trước khi tiến hành một trương trình quảng cáo. công ty chỉ có thể đánh giá được tính hiện thực của một chương trình quảng cáo khi tính được những chi phí bỏ ra để thực hiện nó. Một chương trình quảng cáo có tính hiện thực phải phù hợp với khả năng tài chính của công ty, ngược lại nó sẽ là một chương trình không có tính hiện thực.
- Đánh giá hoạt động quảng cáo.
Sau khi tiến hành quảng cáo, công ty phải thực hiện việc đánh giá kết quả của hoạt động quảng cáo đem lại. Phương pháp phổ thông sử dụng để đánh giá hiệu quả của hoạt động quảng cáo hiện nay là dựa vào chi phí của quảng cáo bỏ ra với với kết quả do việc quảng cáo mang lại. Nội dung phân tích đánh giá hiệu quả của quảng cáo cần tập trung vào khối lượng sản phẩm bán ra, lợi nhuận thu được số lượng và giá trị các hợp đồng dặt hàng trước và sau quảng cáo.
* Tóm lại, quảng cáo giới thiệu sản phẩm là công việc đòi hỏi rất công phu và tốn kém, song để thúc đẩy hơn nữa hoạt động xuất khẩu ra thị trường các nước thì đây là một công việc mà SIMEX không thể bỏ qua.
5.Nâng cao hơn nữa trình độ của cán bộ công nhân viên.
Để hoạt động kinh doanh xuất khẩu ngày càng thu được hiệu quả cao, công ty phải có một đội ngũ kinh doanh giỏi, bởi con người là yếu tố quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động kinh doanh. Yêu cầu đối với cán bộ nhân viên là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy tốt, linh hoạt và phải thông thạo ít nhất một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ được những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng.
Hơn nữa, trong những năm tới, dự đoán quy mô hoạt động xuất khẩu của công ty sẽ tăng lên, do đó, nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty trở thành một yêu cầu khách quan cần được ưu tiên thực hiện ngay bây giờ.
Nhằm nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên trong công ty nên:
- Tổ chức những cuộc hội thảo khoa học có sự tham gia của nhiều cán bộ công nhân viên trong công ty với các chuyên gia về lĩnh vực ngoại thương và các lĩnh vực có liên quan.
- Tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên của công ty đi học tập và nghiên cứu ở các trường đại học, viện nghiên cứu có uy tín trong nước.
- Mở các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ, ngoại ngữ, vi tính cho cán bộ công nhân viên.
- Có chế độ khen thưởng kịp thời cho những sáng kiến, giải pháp đem lại hiệu quả cho hoạt động xuất khẩu, cho những cán bộ hoàn thành tốt công tác, đem lại lợi nhuận cho công ty...
6. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn kinh doanh.
Vốn là yêu cầu cấp thiết của tất cả các doanh nghiệp đặc biệt là các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu. Trong điều kiện nguồn vốn hạn hẹp, việc huy động và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả nhất luôn là bài toán đặt ra cho mọi doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh của mình.
Qua nghiên cứu tình hình kinh doanh của Simex, chúng ta có thể nhận xét rằng: hoạt động huy động và sử dụng vốn của công ty trong thời gian qua chưa đạt được hiệu quả cao như mong muốn. Công ty vẫn chưa khai thác triệt để các nguồn vốn, vẫn còn lãng phí trong việc sử dụng vốn, một số mặt hàng được đầu tư khai thác nhưng đem lại hiệu quả thấp. Tất cả những yéu điểm đó đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả kinh doanh của Công ty.
- Nhằm nâng cao hiệu quả huy động và sử dụng vốn, Công ty có thể thực hiện một số biện pháp sau:
* Về huy động vốn:
Công ty cần phải chú trọng khai thác triệt đẻ các nguồn vốn sẵn có, đặc biệt là nguồn vốn tín dụng ngân hàng và nguồn vốn tín dụng từ khách hàng.
- Tìm kiếm và thu hút đối tác đầu tư liên doanh liên kết kinh tế trong và ngoài nước.
- Có thể phát hành cổ phiếu mới nhằm thu hút nguồn vốn nhà rỗi ở bên ngoài hoặc nâng mênh giá cổ phiếu thông qua hình thức cộng cổ tức hàng năm.
* Về sử dụng vốn:
- Tích cực đầu tư vào kinh doanh các mặt hàng tinh chế có giá trị thương phẩm cao trên thị trường.
- Cắt giảm mọi chi phí không cần thiết, tiến hành thực hiện phương châm tiết kiệm trong mọi hoạt động của quá trình kinh doanh.
- Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng, thực hiện tốt công tác thanh toán với người mua dựa trên nguyên tăc: thu đủ về giá trị, nhanh về thời gian để đảm bảo quá trình thu hồi vốn, tăng nhanh tốc độ quay vòng vốn.
7. Một số biện pháp giảm rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu.
Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, Công ty thường gặp những rủi ro nhất định như: bạn hàng không đủ khả năng thanh toán, hoặc việc thanh toán chậm, hàng trong quá trình xuất khẩu bị mất mát, hư hại, việc chuẩn bị các loại chứng từ cũng có thể thiếu sót... Những điều này có thể dẫn đến các tranh chấp, khiếu nại đáng tiếc.
Vậy thì, Công ty cần làm gì để tránh được hoặc ít nhất là hạn chế những rủi ro xẩy ra? Có thể giải quyết điều này theo các cách thức sau:
* Tránh toàn bộ rủi ro: Công ty có thể quyết định không bán ở thị trường sẽ có nhiều rủi ro, không chấp nhận đơn hàng của khách hàng, có nhiều nghi hoặc về khâu tín dụng, không bán sản phẩm đối với những nước có nhiều luật lệ quá nghiêm ngặt đối với độ tin cậy của sản phẩm Công ty.
* Những biện pháp hạn chế rủi ro: Có nhiều biện pháp để hạn chế những rủi ro về xuất khẩu xuống mức có thể chấp nhận được. Ví dụ: bán hàng theo hình thức thư tín dụng đã được xác nhận và không thể huỷ ngang hơn là hình thức "thanh toán bằng tiền mặt khi nhìn thấy chứng từ" thì phải bao gồm cả điều khoản điều chỉnh giá trong hợp đồng giao hạn kỳ hạn, cải tiến chất lượng sản phẩm và giám sát chất lượng phải được đảm bảo tốt hơn trước những lời phàn nàn về độ tin cậy đối với sản phẩm đó.
* Chia xẻ rủi ro: Nếu vận chuyển tất cả những quả trứng vào một cái giỏ sẽ là điều nguy hiểm có thể tránh được bằng cách:
- Đảm bảo hàng xuất khẩu của Công ty không phải tập trung tất cả vào một thị trường mà mỗi sản phẩm vào mỗi kênh phân phối.
- Luôn luôn tìm kiếm những thị trường mới và tìm cách đưa ra những sản phẩm mới. Phải thấy trước được những điểm mạnh của nhiều kênh phân phối khác nhau ở mỗi thị trường
* Chuyển giao rủi ro: Mục đích nhằm chuyển bớt một số rủi ro nhất định nào đó sang người khác, thường là khách hàng. Ví dụ:
- Nên bán theo điều kiện FOB hơn là CIF, như vậy tất cả rủi ro trong quá trình vận chuyển là do khách hàng gánh chịu.
- Rút ngắn thời gian bảo hành đối với các mặt hàng bán ở nước ngoài.
* Giải quyết rủi ro qua bảo hiểm:
- Bảo hiểm tín dụng xuất khẩu: chịu trách nhiệm về những rủi ro có tính thương mại hoặc chính trị của hàng hoá theo hình thức cấp tín dụng xuất khẩu.
- Bảo hiểm về độ tin cậy: Bảo hiểm trong trường hợp có sự kiện cáo về độ tin cậy của mặt hàng đến người sản xuất.
Có hai nguyên tắc cơ bản để xử lý rủi ro trong công tác xuất khẩu:
- Trước hết, khai thác tất cả những khả năng có thể giảm bớt được hoặc tránh nguy hiểm bằng cách tránh rủi ro, hạn chế rủi ro, san xẻ hoặc chuyển rủi ro sang chỗ khác.
- Nếu rủi ro đã xảy ra rồi thì cố gắng đến mức tối đa thực hiện những bảo hiểm có thể được. Đối với những rủi ro lớn, nhất thiết phải có bảo hiểm thì tốt nhất nên có những lời mời chào của nhiều nhà bảo hiểm và phaỉ có sự so sánh thận trọng để chọn được những lời chào hàng tối ưu nhất.
III. Một số kiến nghị về phía Nhà nước.
1.Thuế suất.
Mặc dù Nhà nước đã thực hiện chính sách cắt giảm thuế suất đối với các mặt hàng xuất khẩu, nhưng so với một số quốc gia trong khu vực, tỷ lệ thuế suất vẫn còn cao, vẫn là gánh nặng đối với hàng hoá xuất khẩu. Bên cạnh đó, việc miễn giảm thuế suất còn thể hiện sự phân biệt đối xử giữa doanh nghiệp Việt Nam và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Để công cụ thuế thực sự là đòn bẩy kích thích hoạt động xuất khảu của các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Nhà nước nên:
- Tiến hành cắt giảm tỷ lệ thuế suất sao cho phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay, tỷ lệ thuế suất nên nhỏ hơn hoặc cùng lắm là bằng với tỷ lệ thuế suất cao của các quốc gia trong khu vực.
- Việc miễn giảm thuế suất đánh vào mặt hàng xuất khẩu phải được xây dựng trên nguyên tắc: mọi hàng hoá xuất khẩu đều được điều tiết theo một cơ chế thống nhất và phải được đối xử bình đẳng không kể hàng hoá đó được sản xuất từ doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp Nhà nước hay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
- Đối với một số mặt hàng mang tính chủ lực của Việt Nam, Nhà nước nên áp dụng thuế suất 0%. Tỷ lệ này sẽ được điều chỉnh tăng lên khi loại hàng đó đã có vị thế vững vàng trên thị trường.
- Các thủ tục hành chính, thủ tục hải quan phải được cải tiến, tránh gây phiền hà cho các doanh nghiệp vì thủ tục kéo dài, rắc rối mà làm chậm thời gian giao hàng, làm mất cơ hội của các doanh nghiệp.
2. Hoạt động trợ giúp vốn.
Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam đầu thiếu vốn để đầu tư phát triển kinh doanh, phát triển thị trường.
Đây là một vấn đề mà để giải quyết nó bên cạnh sự cố gắng của bản thân doanh nghiệp thì Nhà nước cũng cần phải có những biện pháp hỗ trợ. Các biện pháp hỗ trợ từ phía Nhà nước có thể bao gồm:
- Hố trợ vốn cho các doanh nghiệp sản xuất hàng hoá xuất khẩu cũng như hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp thương mại.
- Giảm tỷ lệ lãi suất tín dụng ngân hàng, giảm các quy định và điều kiện cho vay vốn của Ngân hàng để tạo sự thuận lợi cho các doanh nghiệp được vay vốn.
- Ban hành các chính sách khuyến khích hoạt động liên doanh liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài.
3. Hoạt động hỗ trợ và đào tạo cán bộ quản lý.
Cán bộ quản lý kinh doanh cũng như trình độ, năng lực nghiệp vụ của họ là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Để đáp ứng yêu cầu quản lý ngày càng cao, các doanh nghiệp đã liên tục đầu tư vào việc đào tạo và nâng cao trình độ cán bộ quản lý của mình. Mặc dù vậy, Nhà nước cũng cần có sự quan tâm và hỗ trợ đối với các doanh nghiệp trong việc đào tạo cán bộ quản lý.
Nhà nước có thể hỗ trợ doanh nghiệp thông qua một số phương pháp sau:
- Mở các trung tâm đào tạo cán bộ quản lý cho các doanh nghiệp. Trong đó, Nhà nước hỗ trợ từ 40 - 50% kinh phí, còn lại sẽ do các doanh nghiệp tham gia đóng góp.
- Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thương mại cử cán bộ đi học tập, nghiên cứu ở nước ngoài.
- Tiến hành mở các cuộc hội thảo, thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học trong lĩnh vực quản trị kinh doanh, nghiệp vụ ngoại thương, marketing nhằm nghiên cứu và phổ biến cho các doanh nghiệp.
Kết luận
Trong xu thế tự do hóa và toàn cầu hóa giai đoạn hiện nay đã và đang mở ra cho chúng ta không ít những cơ hội mới và cả những thách thức mới. Với chiến lược chung là hướng về xuất khẩu nhằm khai thác hết những lợi thế so sánh của đất nước đã mang lại cho Việt Nam ta nhiều thành tựu to lớn trong quá trình đổi mới đất nước.
Hòa chung với không khí đó thì công ty xuất nhập khẩu Nam Hà Nội- Simex cũng từng bước đi lên, hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu. Để đạt được điều này công ty đã có được sự đồng tâm nhất trí của tất cả các cán bộ công nhân viên, sự sáng suốt của ban lãnh đạo, sự năng động dám làm, dám chịu, thưởng phạt công minh, công ty luôn tự đánh giá lại mình tìm ra những sai sót, khai thác hết những thế mạnh mà bản thân công ty có cũng như của đất nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh, mở rộng thị trường, nâng cao đời sống cán bộ công nhân viên...Đóng góp đáng kể cho quá trình tăng trưởng và phát triển của đất nước.
Mặc dù đã đạt được những thành tựu rõ rệt trong kinh doanh nhưng trước những thử thách mới và cơ hội mới đòi hỏi công ty phải nỗ lực hơn nữa để trở thành một nhà cung cấp quan trọng cho thị trường trong và ngoài nước.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0437.doc