Đề tài Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai

Dựa vào sự phân tích ở trên ta có thể khẳng định rằng: Năm tài chính 2001 kết thúc với kết quả tốt hơn năm 2000 chứng tỏ công ty đang phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, làm ăn có hiệu quả hơn. Thật vậy, năm 2000 lợi nhuận sau thuế của công ty là:215,0228 triệu đồng, chỉ bằng 84,13% lợi nhuận sau thuế năm 1999. Năm 2001, lợi nhuận sau thuế của công ty bằng 123,52% năm 2000. Lợi nhuận sau thuế năm 2001 là: 265,5944 triệu đồng, vượt mức năm 2000 là 23,52% do tổng lợi nhuận trước thuế tăng. Cụ thể như sau: + Lợi nhuận hoạt động kinh doanh tăng: +47,34 triệu đồng (117,26%) Lợi nhuận hoạt động kinh doanh năm 2001 là 321,6 triệu đồng và năm 2000 là 274,26 triệu đồng. Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn phát triển, chiếm hơn 80% trong tổng lợi nhuận thu được. Mức lợi nhuận 321,6 triệu đồng đạt được năm 2001 là do: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh xuất khẩu đạt: 189,38 triệu đồng và lợi nhuận hoạt động kinh doanh trong nước đạt: 132,22 triệu đồng.

doc80 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1173 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ụ trong nước của công ty còn yếu. ảnh hưởng do giá vốn hàng bán thay đổi: Giá vốn hàng bán là một trong những nhân tố quan trọng, chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận. Trong điều kiện các nhân tố khác không đổi, giá vốn hàng bán càng thấp, lợi nhuận càng tăng. Giá vốn hàng bán năm 2001 tăng so với năm 2000 một lượng là Theo số liệu ở bảng 4 ta có: DGV=21582-19545,27=+2036,73 triệu đồng Nên lợi nhuận công ty giảm: -2036,73 triệu đồng Cụ thể ta xem giá vốn hàng bán thay đổi là do đâu. Từ số liệu ở bảng 4 ta thấy: Tốc độ tăng của giá vốn hàng bán năm 2001 so với năm 2000 là 110,42% xấp xỉ bằng tốc độ tăng của doanh thu thuần (110,94%), nhưng vẫn cần xem xét nhân tố này để tìm ra khoản mục nào tăng không hợp lý để có biện pháp khắc phục. Thực chất ảnh hưởng của giá vốn hàng bán đến lợi nhuận là ảnh hưởng của giá thành sản xuất và nó tác động ngược chiều với lợi nhuận. Theo chế độ tài chính hiện hành, giá vốn hàng bán được tổng hợp từ ba khoản mục chính: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp và chi phí sản xuất chung. Bảng 7: Một số khhoản mục chính trong giá vốn hàng bán Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch 2001/2000 Mức Tỷ lệ % Mức Tỷ lệ % Mức Tỷ lệ % 1.CPNVLTT 11108,31 56,83 13195 61,14 2086,69 118,78 2. CPNCTT 3718,83 19,03 4129,5 19,13 410,67 111,04 3. CPSXC 4718,13 24,14 4256 19,72 -462,13 90,21 4. Tổng hợp 19545,27 100 21582 100 2036,73 110,42 Nguồn: Báo cáo quyết toán 2000, 2001- Công ty may xuất khẩu Phương Mai Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: Từ bảng 7 ta thấy: So với năm 2000 thì năm 2001, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng +2086,69 triệu đồng đạt 118,78%. Đây là khoản mục tăng lớn nhất trong giá vốn hàng bán, cũng là khoản mục tác động lớn nhất làm giảm lợi nhuận. Chi phí nguyên vật liệu ở công ty may xuất khẩu Phương Mai được xác định dựa trên hai yếu tố: + Giá mua nguyên vật liệu + Định mức tiêu hao vật liệu/ sản phẩm Bảng 8: Giá mua một số vật liệu chính Đơn vị: Đồng Vật liệu Đơn vị Năm 2000 Năm 2001 Chênh lệch 2001/2000 Mức Tỷ lệ % Vải katê m 15300 15300 0 100 Vải tráng nhựa m 8500 8500 0 100 Bông m 6000 6000 0 100 Chỉ các loại Cuộn 11500 13000 1500 113,04 Khoá áo Chiếc 1500 1500 0 100 Thùng catton Chiếc 25000 25000 0 100 Nguồn: Bảng giá- công ty may xuất khẩu Phương Mai Theo bảng 8: Ta thấy năm 2001, giá mua vật liệu không mấy thay đổi so với năm 2000. Bảng giá một số vật liệu chính hầu như không biến động. Đây là một lợi thế đối với công ty may xuất khẩu Phương Mai bởi thời gian vừa qua hàng may mặc ở nước ta phát triển mạnh nên các nguồn cung cấp nguyên liệu cũng được phát triển theo, rất dồi dào và ổn định. Vì giá vật liệu chính hầu như không tăng nên có thể kết luận rằng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp tăng, ngoài nguyên nhân khách quan là hoạt động sản xuất của công ty tăng nên cần nhiều nguyên liệu hơn, còn do nguyên nhân chủ quan là sự thay đổi của định mức tiêu hao vật liệu. Ta xét một trong những sản phẩm chủ yếu của công ty, là áo khoác ba lớp. Bảng 9: Định mức tiêu hao sản xuất áo ba lớp Vật liệu Đơn vị Tiêu dùng Chênh lệch Kế hoạch Thực tế Mức Tỷ lệ% Vải bolen M 2,10 2,12 0,12 100,95 Vải katê M 0,8 0,8 0 100 Dây nẹp nhựa M 0,4 0,4 0 100 Cúc chịu nhiệt Chiếc 7,0 7,0 0 100 Mex M 0,13 0,15 0,02 115,38 Chỉ xanh M 2,25 3 0,75 133,33 Khoá Chiếc 3 3 0 100 Nguồn: Công ty may xuất khẩu Phương Mai Định mức tiêu hao vật liệu của công ty thực tế đã tăng so với kế hoạch. Điều này chứng tỏ trước hết, có thể công tác kế hoạch vật tư chưa thực sự đi sát với thực tế và nó cũng phản ánh, có thể sản phẩm hỏng của công ty nhiều, chứng tỏ trình độ công nhân chưa cao, sử dụng nguyên vật liệu còn lãng phí. Vì vậy công ty đã không hoàn thành được kế hoạch tiêu hao vật liệu đã đề ra. Công ty cần xem xét vấn đề này. Như vậy, chi phí nguyên vật liệu tăng nhanh là kết quả tất yếu của việc mở rộng sản xuất. Nhưng bên cạnh đó, cũng do hoạt động quản lý và hoạt động kế hoạch vật tư của công ty còn chưa được tốt. Công ty cần chú ý để giảm bớt chi phí này, góp phần tăng lợi nhuận. Chi phí nhân công trực tiếp: Thu nhập bình quân của công nhân năm 2000 là: 815000 đồng/tháng. Năm 2001 là: 900000 đồng/tháng nên tổng chi phí lương tăng 395,8 triệu đồng, hay đạt 113,96%. Điều đó chứng tỏ hoạt động kinh doanh của công ty được mở rộng, phát triển nên thu nhập tăng. Tỷ suất lợi nhuận theo lao động (Lợi nhuận sau thuế/Tổng chi phí tiền lương) năm 2000 là:7,6 ; năm 2001 là: 8,2 chứng tỏ việc quản lý và sử dụng lao động của công ty có hiệu quả hơn. Cụ thể ta xem xét bảng sau: Bảng 10: Tiền lương công nhân công ty may xuất khẩu Phương Mai Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênhlệch 2001/2000 Mức Tỷlệ % 1. Giá trị sản lượng sản phẩm 20716,43 22983,1 2266,57 110,94 2. Số công nhân bình quân 290 290 0 100 3. Giá trị sản lượng bình quân 71,44 79,25 7,81 110,9 4. Tiền lương bình quân(đồng/ tháng) 766667 800000 33333 104,35 5. Tổng quỹ lương 2836,2 3232 395,8 113,96 Năm 2001, tốc độ tăng của quỹ lương nhanh hơn tốc độ tăng của giá trị sản lượng sản phẩm. Điều đó có nghĩa là chi phí thực tế tiền lương năm 2001 trong giá thành sản phẩm so với năm 2000 đã tăng. Như vậy đối với công nhân thì thu nhập được tăng nhưng đối với công ty thì tăng một khoản chi phí. Tuy nhiên, vì giá trị sản lượng tăng nên tổng quỹ tiền lương tăng là điều cần thiết. Vấn đề là công ty cần điều chỉnh cho hai tỷ lệ này tương đương nhau thì hợp lý hơn. Chi phí nghiệp vụ kinh doanh thay đổi: Đây là nhân tố ảnh hưởng ngược chiều với lợi nhuận, cụ thể là: Chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng thì lợi nhuận giảm và ngược lại. Chi phí nghiệp vụ kinh doanh năm 2001 tăng so với năm 2000 là: DCPNVKD= 1079,5-896,9=+182,6 triệu đồng đã làm lợi nhuận giảm tương ứng là: -182,6 triệu đồng. Đây là nhân tố có tác động tăng lớn nhất (120,36%), bởi vậy cần đi sâu xem xét nhân tố này xem nó tăng ở khâu nào. Bảng 11: Chi phí nghiệp vụ kinh doanh. Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Chênhlệch 2001/2000 Mức Tỷ lệ % Chi phí bán hàng 82,2 79 -3,2 96,1 Chi phí vận chuyển, bốc dỡ 87,06 80,67 -6,39 92,66 Chi phí nhân viên quản lý 81,7 96,78 15,08 118,46 Chi phí đồ dùng văn phòng 21,5 48,4 26,9 225,12 Chi phí khấu hao tài sản cố định 33,7 49,85 16,15 147,92 Thuế, phí và lệ phí 8,6 10,16 1,56 118,14 Chi phí dịch vụ mua ngoài 281,6 445,9 164,3 158,35 Chi phí bằng tiền khác 195,7 169,3 -26,4 86,5 Lãi vay ngân hàng 104,84 99,44 -5,4 94,85 Tổng số 896,9 1079,5 182,6 120,36 Nguồn: Báo cáo quyết toán 2000, 2001- Công ty may xuất khẩu Phương Mai Dựa vào bảng 11 ta thấy: Chi phí nghiệp vụ kinh doanh năm 2001 tăng 182,6 triệu đồng so với năm 2000 do ảnh hưởng của các nhân tố sau: -Chi phí bán hàng giảm làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm: -3,2 triệu đồng -Chi phí vận chuyển bốc dỡ giảm làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm: -6,39 triệu đồng -Chi phí nhân viên quản lý tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng:+15,08 triệu đồng -Chi phí đồ dùng văn phòng tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: +26,9 triệu đồng -Chi phí khấu hao tài sản cố định tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: +16,15 triệu đồng - Thuế, phí và lệ phí làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: +1,56 triệu đồng -Chi phí dịch vụ mua ngoài tăng làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng:+164,3 triệu đồng. Đây là khoản mục tăng nhiều nhất trong chi phí nghiệp vụ kinh doanh. -Chi phí bằng tiền khác giảm làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm:-26,4 triệu đồng -Trả lãi vay ngân hàng năm 2001 giảm: -5,4 triệu đồng so với năm 2000 làm chi phí nghiệp vụ kinh doanh giảm tương ứng 5,4 triệu đồng Nhìn chung, chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng do hầu hết các khoản mục của chi phí này đều tăng. Chi phí nghiệp vụ kinh doanh gồm chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp mà chi phí bán hàng hầu như không thay đổi nên chủ yếu là chi phí quản lý doanh nghiệp tăng. Tuy nhiên so với tốc độ tăng của doanh thu tiêu thụ (108,03%), tốc độ tăng của chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng đã lớn hơn nhiều (120,36%), làm giảm lợi nhuận đi nhiều và nó cũng chứng tỏ khoản chi này tăng nhanh như vậy cần phải xem xét. Nhưng vì đây là khoản chi đầu tư, nâng cấp và mở rộng cơ sở sản xuất cũng rất cần thiết bởi vậy vấn đề là công ty cần tìm cách đẩy nhanh doanh thu tiêu thụ. Chi phí trực tiếp cho bán hàng của doanh nghiệp chiếm quá ít trong tổng chi phí nghiệp vụ kinh doanh của doanh nghiệp. Dù chi phí tăng làm giảm lợi nhuận nhưng đây là một khoản chi cần thiết để tăng doanh thu tiêu thụ, công ty cần phải xem xét phải chăng khoản chi này còn ít nên sản phẩm của công ty ở thị trường nội địa chưa được biết tới nhiều. Tóm lại, mặc dù chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng cao nhưng khoản tăng đó là hợp lý. Vì vậy, công ty cần đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ nhằm tăng doanh thu thì mới tăng được lợi nhuận. Các khoản giảm trừ doanh thu thay đổi: Năm 2000 có các khoản giảm trừ doanh thu là: Hàng bán bị trả lại trị giá là: 15,57 triệu đồng Công ty áp dụng thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất là 10% VATphải nộp =VATđầu ra -VATđầu vào VATđầu ra được tính trên doanh thu từ kinh doanh vật tư và sản xuất trong nội địa của công ty VATđầu vào được tính trên lượng vật tư mua vào tiến hành sản xuất để tiêu thụ trong nước lẫn xuất khẩu. Cụ thể năm 2000 với: VATđầu ra= 201,9 triệu đồng VATđầu vào=26,9 triệu đồng VATphải nộp=201,9-26,9=175 triệu đồng Năm 2000 các khoản giảm trừ doanh thu là: 175+15,57=190,57 triệu đồng Đối với năm 2001 thì chỉ có khoản VAT Với VATđầu ra=776,5 triệu đồng VATđầu vào=1173,6 triệu đồng Vậy VATphải nộp=776,5-1173,6=-397,1 triệu đồng Như vậy năm 2001, công ty không phải nộp thuế giá trị gia tăng mà được nhà nước hoàn thuế là: 397,1 triệu đồng Do vậy các khoản giảm trừ doanh thu năm 2001 so với năm 2000 giảm một lượng là: DT=-397,1-190,57=-587,67 triệu đồng Như vậy các khoản giảm trừ doanh thu giảm đã làm lợi nhuận tăng thêm một lượng là: +587,67 triệu đồng Tóm lại, qua phân tích trên ta thấy ảnh hưởng của các nhân tố tới lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của công ty như sau: + Các nhân tố làm tăng lợi nhuận: Tổng doanh thu tăng: +1679 triệu đồng Các khoản giảm trừ doanh thu giảm: +587,67 triệu đồng +2266,67 triệu đồng +Các khoản làm giảm lợi nhuận: Do giá vốn hàng bán tăng: -2036,73 triệu đồng Do chi phí nghiệp vụ kinh doanh tăng: -182,6 triệu đồng -2219,33 triệu đồng +Tổng hợp các nhân tố làm tăng giảm lợi nhuận: +2266,67-2219,33=+47,34 triệu đồng Lợi nhuận từ hoạt động tài chính: Theo số liệu ở bảng 4 ta thấy: Lợi nhuận hoạt động tài chính năm 2000 so với năm 1999 giảm: -1,69 triệu đồng hay đạt 92,86%. Còn năm 2001 so với năm 2000 tăng là: +3,58 triệu đồng hay đạt 116,39 triệu đồng. Như vậy, qua đây ta thấy Lợi nhuận của công ty năm 2001 tăng lên so với năm 2000, một phần cũng là nhờ lợi nhuận hoạt động tài chính tăng lên. Tuy nhiên, đối với công ty may xuất khẩu Phương Mai thì hoạt động sản xuất mới là lĩnh vực kinh doanh chính do vậy công ty cần chú trọng trong việc tăng lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh là chính. 2.4. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường: Cũng theo số liệu ở bảng 4 ta thấy: Lợi nhuận từ hoạt động bất thường năm 2000 so với năm 1999 giảm một lượng là: -20,85 triệu đồng hay đạt 48,92%. Còn năm 2001 so với năm 2000 tăng là: +23,45 triệu đồng hay đạt 217,43%. Qua đây ta thấy: Năm 2001 công ty đầu tư một số máy móc thiết bị mới nên số máy móc cũ, công ty đã thanh lý và bán một số vật tư dư thừa. Do vậy năm 2001 lợi nhuận hoạt động bất thường tăng hơn hai lần so với năm 2000. Đây cũng là một yếu tố cấu thành nên lợi nhuận của công ty, tuy nhiên lợi nhuận từ hoạt động bất thường này chưa phản ánh được tình hình kinh doanh của công ty vì công ty là một doanh nghiệp sản xuất hàng may mặc. Đánh giá chung quá trình nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai. Những kết quả đạt được: Dựa vào sự phân tích ở trên ta có thể khẳng định rằng: Năm tài chính 2001 kết thúc với kết quả tốt hơn năm 2000 chứng tỏ công ty đang phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, làm ăn có hiệu quả hơn. Thật vậy, năm 2000 lợi nhuận sau thuế của công ty là:215,0228 triệu đồng, chỉ bằng 84,13% lợi nhuận sau thuế năm 1999. Năm 2001, lợi nhuận sau thuế của công ty bằng 123,52% năm 2000. Lợi nhuận sau thuế năm 2001 là: 265,5944 triệu đồng, vượt mức năm 2000 là 23,52% do tổng lợi nhuận trước thuế tăng. Cụ thể như sau: + Lợi nhuận hoạt động kinh doanh tăng: +47,34 triệu đồng (117,26%) Lợi nhuận hoạt động kinh doanh năm 2001 là 321,6 triệu đồng và năm 2000 là 274,26 triệu đồng. Như vậy, hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty vẫn phát triển, chiếm hơn 80% trong tổng lợi nhuận thu được. Mức lợi nhuận 321,6 triệu đồng đạt được năm 2001 là do: Lợi nhuận hoạt động kinh doanh xuất khẩu đạt: 189,38 triệu đồng và lợi nhuận hoạt động kinh doanh trong nước đạt: 132,22 triệu đồng. +Lợi nhuận hoạt động tài chính tăng: +3,58 triệu đồng Lợi nhuận hoạt động tài chính năm 2001 là 25,56 triệu đồng và năm 2000 là 21,98 triệu đồng lợi nhuận này được tạo ra chủ yếu là do chênh lệch tỷ giá. +Lợi nhuận hoạt động bất thường tăng +23,45 triệu đồng Lợi nhuận hoạt động bất thường năm 2001 là 43,42 triệu đồng và năm 2000 là 19,97 triệu đồng. Lợi nhuận hoạt động bất thường được tạo ra hoàn toàn từ thu hoạt động bất thường và khoản thu này là do công ty thanh lý, nhượng bán tài sản cố định đã cũ và bán vật tư dư thừa. +Các khoản giảm trừ doanh thu giảm (VAT và hàng bán bị trả lại): -587,67 triệu đồng. -Tỷ suất lợi nhuận doanh thu năm 2001 cao hơn năm 2000 chứng tỏ chi phí sử dụng hiệu quả hơn, dẫn đến lợi nhuận tăng. -Tỷ suất lợi nhuận vốn và vốn tự có năm sau cũng cao hơn năm trước. -Hiệu quả sử dụng tài sản cố định cũng tăng thể hiện tài sản cố định được sử dụng tốt hơn, phát huy được công suất nhiều hơn. -Tỷ suất lợi nhuận theo lao động năm 2001 là 8,2; năm 2000 là7,6. Như vậy việc quản lý và sử dụng lao động của công ty là có hiệu quả, lực lượng lao động được nâng cao trình độ tay nghề sẽ là nhân tố quan trọng quyết định kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty. Những tồn tại. -Mặc dù lợi nhuận sau thuế của công ty năm 2001 cao hơn so với năm 2000 là 50,5716 triệu đồng nhưng thực tế, con số lợi nhuận thu về vẫn là quá ít so với doanh thu mấy chục tỷ đạt được. Điều này chứng tỏ các chi phí của công ty phát sinh còn cao và đây là một hạn chế lớn. -Tổng lợi nhuận trước thuế của công ty tăng nhưng lợi nhuận trước thuế năm 2001 từ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước chỉ bằng 95,79% năm 2000, hay thấp hơn mức năm 2000 là -5,39 triệu đồng. Điều này chứng tỏ hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước của công ty đang gặp khó khăn và cần có biện pháp khắc phục. -Lợi nhuận từ hoạt động tài chính hầu như không đổi chứng tỏ hoạt động tài chính của công ty không phát triển, chính vì vậy mà lợi nhuận hoạt động tài chính năm 2001 là 25,56 triệu đồng còn năm 2000 là 21,98 triệu đồng -một con số thấp. -Năm 2001, công ty phải bán bớt vật tư dư thừa (23,75 triệu đồng) do một số vật tư đang hạ giá. Tuy nhiên, giá bán thấp hơn giá mua vào làm chi phí phát sinh tăng thêm. 3.3.Nguyên nhân của những kết quả và tồn tại trên. -Những đổi mới về cơ chế quản lý của Nhà nước đã tạo điệu kiện cho các doanh nghiệp mở rộng hoạt động sản xuất của mình. Thật vậy, với quyết định cho phép doanh nghiệp được trực tiếp ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp trong và ngoài nước, Nhà nước đã góp phần mở rộng thị trường hoạt động cho các doanh nghiệp. -Mặc dù quy mô sản xuất còn nhỏ song cơ sở hạ tầng gồm nhà xưởng sản xuất, nhà làm việc của công ty ổn định và khang trang. Bên cạnh đó, năm 2001 công ty đã đầu tư hệ thống máy móc thiết bị tương đối đồng bộ và hiện đại. Công ty có một đội ngũ công nhân làm việc chính thức có tay nghề khá cao, chính vì vậy, hiệu quả công việc của công nhân cũng tương đối. Như đã trình bày ở trên hạn chế lớn nhất đối với lợi nhuận của công ty là: Mặc dù lợi nhuận sau thuế năm 2001 có lớn hơn năm 2000 nhưng thực tế, mức lợi nhuận đạt được vẫn là quá ít so với doanh thu mấy chục tỷ đạt được. Thứ hai, tổng lợi nhuận đã tăng nhưng lợi nhuận hoạt động kinh doanh trong nước (gồm kinh doanh vật tư và sản xuất hàng nội địa) lại không bằng mức năm 2000. Vậy trước hết nguyên nhân gì dẫn đến lợi nhuận đạt được vẫn còn ít? -Quy mô sản xuất nhỏ: Mặc dù công ty đã chú trọng đến việc trích lập quỹ từ lợi nhuận hàng năm để bảo dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị, nhà xưởng mua sắm thêm trang thiết bị nhưng khả năng về vốn còn bị hạn chế nên việc mở rộng quy mô của công ty còn nhiều hạn chế và gặp khó khăn. Vì quy mô sản xuất nhỏ nên sức sản xuất phần nào cũng bị hạn chế khiến công ty chỉ ký được các hợp đồng có lượng sản xuất vừa phải có khi rất nhỏ hoặc phải hợp tác sản xuất với công ty khác khhi lượng hàng sản xuất vượt quá khả năng cho phép. -Đội ngũ lao động của công ty: Trình độ công nhân không đồng đều, một bộ phận công nhân làm việc lâu năm do chưa quen với nhịp độ làm việc mới, chưa quen sử dụng máy móc mới nên năng suất lao động vẫn còn thấp. Còn một bộ phận lao động của công ty lại thường không ổn định. Đó là số công nhân mới được tuyển vào khi bắt đầu thực hiện hợp đồng do công nhân của công ty nhiều ít phụ thuộc vào số lượng đơn đặt hàng. Khi nhận được đơn đặt hàng có số lượng lớn thì lao động sẽ được tuyển thêm để thực hiện các yêu cầu của hợp đồng. Khi hoàn thành xong đơn đặt hàng thì lượng công nhân sản xuất sẽ giảm đi. Vì thế, trước hết công ty không có đội ngũ lao động ổn định để nâng cao tay nghề. Thứ hai, vì quyền lợi của nhóm công nhân làm việc theo "mùa" thường không gắn liền với quyền lợi chung của công ty nên trong quá trình sản xuất tinh thần trách nhiệm của họ không cao. Họ chỉ chú trọng đến việc hoàn thành sản phẩm mà bỏ qua khâu quan trọng là chất lượng sản phẩm. Chính vì vậy những sản phẩm hỏng, sai quy cách khá nhiều nên công ty phải tốn thêm chi phí làm giảm lợi nhuận. Dù công ty luôn trả lương cho công nhân đúng hạn, đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho người lao động nhưng năng suất lao động của công nhân trong công ty so với công ty khác trong ngành chỉ xấp xỉ bằng hoặc thấp hơn. tồn tại tình trạng này là do công ty may xuất khẩu Phương Mai hoạt động với quy mô nhỏ nên khi ký kết được những hợp đồng lớn thì công nhân phải làm thêm giờ, thêm ca. Công việc làm liên tục khiến người lao động mệt, năng suất giảm. Tóm lại, năng suất lao động của người công nhân ở công ty may xuất khẩu Phương Mai còn chưa cao so với toàn ngành. Những vấn đề về lao động mà công ty phải đối mặt thì các công ty khác trong ngành cũng gặp phải, bởi vậy nó đã trở thành một lĩnh vực cạnh tranh mà công ty cần chú trọng để giải quyết. Thiếu vốn hoạt động: Vốn hoạt động của công ty còn ít, chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh. Hơn nữa, đối với hoạt động gia công hàng may mặc xuất khẩu thường sau hai tháng khi xuất hàng công ty mới nhận được tiền công nên khó khăn ở đây là thiếu vốn lưu động để hoạt động. Để kịp thời đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, công ty phải vay ngắn hạn ngân hàng và phải trả lãi vay nên lợi nhuận cũng giảm bớt. Công ty chưa năng động, sáng tạo trong việc tìm kiếm những khách hàng mới. Những khách hàng của công ty chủ yếu là những khách hàng truyền thống mà những khách hàng này lại không lớn, không thường xuyến. Còn bạn hàng mới thì phần nhiều là họ tìm đến công ty để thuê gia công hàng xuất khẩu. Mà hoạt động này thì lợi nhuận ít chủ yếu là để giải quyết công ăn việc làm cho công nhân. Trong điều kiện Nhà nước đã có những thay đổi về cơ chế quản lý, cho phép doanh nghiệp được trực tiếp ký kết hợp đồng sản xuất với các doanh nghiệp trong và ngoài nước như hiện nay. Việc công ty chưa thực sự đẩy mạnh hoạt động tìm kiếm những khách hàng mới là một nhược điểm. Đối với sản phẩm may mặc, thị trường tiêu thụ nội địa gần đây hoạt động rất sôi nổi và được đánh giá là đầy tiềm năng thì công ty vẫn còn đang bỏ ngõ, sản phẩm của công ty trên thị trường nội địa chưa đủ mạnh để cạnh tranh với sản phẩm may mặc trong ngành vốn rất đa dạng và phong phú về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng. Bên cạnh đó, các biện pháp hỗ trợ cho công tác tiêu thụ như cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm, các biện pháp chiết khấu, giảm giá hàng bán chưa được thực hiện mạnh mẽ. Đồng thời, hoạt động quảng cáo, khuyếch trương sản phẩm công ty cũng không chú trọng, thậm chí còn không được thực hiện. Công ty không tham gia bất kỳ hội chợ triển lãm nào, không tuyên truyền về công ty rộng rãi. Chính vì vậy, việc tiêu thụ sản phẩm của công ty ở trong nước còn rất hạn chế. chương 3 Giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai. Những thuận lợi và khó khăn của công ty may xuất khẩu Phương Mai hiện nay. 1.1. Những thuận lợi. Xã hội ngày một phát triển nhu cầu ăn mặc cũng ngày càng được quan tâm cho nên ngành may mặc nói chung và công ty May xuất khẩu nói riêng cũng có nhiều cơ hội phát triển. Thị trường trong và ngoài nước cũng sẽ mở rộng trước mắt. Nhà nước đang tạo nhiều điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển hội nhập hợp tác với các đối tác nước ngoài nên cũng là một thuận lợi cho công ty May xuất khẩu vì thị trường chủ yếu của công ty chủ yếu là thị trường ngoài nước. Công ty đã có truyền thống làm hàng xuất khẩu trong một thời gian đã lâu, đây chính là tiền đề cho công ty tiếp tục giữ truyền thống sản xuất sản phẩm. Đội ngũ cán bộ, công nhân viên của công ty luôn phát huy tinh thần làm việc có trách nhiệm và sáng tạo cao. Đây là điều kiện rất thuận lợi để doanh nghiệp tiếp tục khắc phục những khó khăn trước mắt. 1.2. Những khó khăn mà công ty đang gặp phải. Hàng may mặc là mặt hàng đòi hỏi sự cẩn thận khéo léo trong tay nghề nên công nhân chủ yếu là lao động nữ. Điều này tạo ra những bất lợi khi phải chi ra những chi phí như ốm đau, thai sản, chế độ chính sách.. Hiện nay công ty đang phải đối mặt với một sự cạnh tranh gay gắt của các công ty cùng ngành trong và ngoài nước như: Công ty May 10, Công ty May Chiến Thắng, Công ty May Thăng Long, Các công ty may thuộc bộ quốc phòng, bộ công an và các công ty trong khu vực Đông Nam á … Đây thực sự là một thử thách lớn đối với công ty. 2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai. Định hướng phát triển của công ty là phấn đấu để không ngừng tăng lợi nhuận trong hoạt động sản xuất kinh doanh, là một đòi hỏi tất yếu trong điều kiện kinh tế hiện nay. Việc tăng lợi nhuận của công ty may xuất khẩu Phương Mai sẽ góp phần tăng tích luỹ để tái sản xuất mở rộng, tăng lượng vốn đầu tư, đổi mới công nghệ kỹ thuật, nâng cao đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên công ty. Thời gian qua bên cạnh việc luôn luôn đảm bảo quyền lợi cho người lao động như thực hiện đầy đủ các khoản đóng góp về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, trích lập quỹ khen thưởng, quỹ phúc lợi… công ty còn luôn cố gắng đảm bảo đủ công ăn việc làm cho cán bộ nhân viên. Công ty đặt ra kế hoạch năm 2002 phải cao hơn so với năm 2001 vừa qua, khắc phục những mặt yếu kém còn tồn tại và đồng thời phát huy những mặt mạnh sẵn có một cách hiệu quả nhất. Năm 2002 này ngoài việc cố gắng hoàn thành các hợp đồng một cách tốt nhất mặt khác công ty may xuất khẩu Phương Mai sẽ có hướng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm ở trong nước. Vấn đề tăng lợi nhuận vẫn là trọng tâm hàng đầu của công ty may xuất khẩu Phương Mai nên trong thời gian tới công ty sẽ xin vốn đầu tư của cơ quan bộ chủ quản nhằm nâng cấp một số hạng mục công trình để đáp ứng một cách tốt nhất và đồng bộ những yêu cầu mà thị trường đề ra. Từ những định hướng trên công ty đưa ra những mục tiêu của công ty năm 2002: Tích cực ký hợp đồng mua đứt bán đoạn mở rộng thị trường gia công sang châu Âu, châu Phi và thị trường nội địa. Mở rộng các cửa hàng bán sản phẩm và may đo, tìm đối tác kinh doanh và kinh doanh vật tư ngành may mặc. Công ty phải đạt được doanh thu lớn hơn năm 2001. Cụ thể, năm 2002 công ty cần đạt được mức doanh thu bằng 120% doanh thu năm 2001 tức là doanh thu năm 2002 phải là 27103.2 triệu đồng và lợi nhuận đạt được là 352,3416 triệu đồng tương ứng tỷ suất lợi nhuận doanh thu bằng 1,3%. Để thực hiện mục tiêu đề ra công ty cần thực hiện một số biện pháp sau: Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng doanh thu. Như phân tích ở chương 2, một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận công ty là doanh thu bán hàng. Doanh thu bán hàng có quan hệ cùng chiều với lợi nhuận. Doanh thu tăng, lợi nhuận tăng và ngược lại, doanh thu giảm, lợi nhuận giảm. Vì vậy, muốn lợi nhuận của công ty tăng tất yếu công ty cần doanh thu bán hàng. Doanh thu bán hàng = Giá bán đơn vị * Số lượng tiêu thụ Việc tăng giá bán đơn vị là khó khăn bởi sự cạnh tranh các công ty trong cùng ngành. Bởi vậy tăng doanh thu bán hàng đối với công ty may xuất khẩu Phương Mai, điều mấu chốt là đẩy mạnh tiêu thu hàng hoá ở mọi lĩnh vực. Biện pháp để tăng doanh thu là công ty nên tăng tỷ trọng sản lượng sản xuất theo phương thức FOB, chủ động tìm các đối tác nhằm đưa doanh thu cao hơn trong những năm tới. Trong số doanh thu đạt được hàng năm, doanh thu về hàng sản xuất và gia công hàng xuất khẩu chiếm phân nửa khách hàng và ổn định qua các năm (đó là những ban hàng làm ăn truyền thống của công ty còn bạn hàng mới gần như không có). Trong môi trường kinh tế mở hiện nay thì việc lưu thông, buôn bán, ký kết các hợp đồng kinh tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi nên đặc điểm khách hàng không thay đổi của công ty không phải là thuận lợi hoàn toàn. Nguyên nhân chính chủ yếu là do công ty chưa chủ động tìm kiếm bạn hàng. Có đến 70% lượng hàng xuất khẩu của công ty là xuất sang các nước Châu á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Hồng Kông, Singapo và một số nước Châu Âu. Điều này cho thấy: giá gia công, giá sản xuất tại nước ta so với nước ngoài còn rất rẻ nên việc sản xuất tại thị trường các nước này sẽ không có lãi 2.1.1.Đẩy mạnh tiêu thụ ở lĩnh vực xuất khẩu. Lĩnh vực xuất khẩu của công ty gồm 2 hoạt động. Gia công hàng xuất khẩu. Sản xuất hàng xuất khẩu. Thực tế, lợi nhuận thu được từ hoạt động gia công hàng xuất khẩu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lợi nhuận kinh doanh của công ty, hoạt động sản xuất hàng xuất khẩu mới đóng vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, đối với cả hai hoạt động này để tăng doanh thu tiêu thụ công ty cần: Trước hết – thị trường: Các bạn hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty chủ yếu là những khách hàng truyền thống mà trong nền kinh tế thị trường, khi mà lưu thông, buôn bán, ký kết diễn ra một cách nhanh chóng và rất thuận lợi thì đây không phải là một thuận lợi hoàn toàn đối với công ty. Hơn nửa, những thị trường truyền thống này là các nước châu á như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapore… và đối với một số thị trường, sản phẩm xuất khẩu của công ty lại được tái xuất thêm lần nữa sang thị trường khác bởi so với chính các nước châu á này, giá sản xuất ở Việt Nam vẫn là rẻ.Bởi vậy, công ty phải tìm cách để có thể trực tiếp xuất sản phẩm của mình sang những thị trường tái xuất này, bởi lúc đó giá sẽ cao hơn, lợi nhuận thu về nhiều hơn. Đây là con đường để công ty thực hiện tăng doanh thu tiêu thụ, cũng là tăng lợi nhuận của mình. Bên cạnh đó trong cơ chế thị trường cạnh trạnh khốc liệt như ngày nay, việc công ty ít đi tìm hiểu, nghiên cứu những thị trường xuất khẩu mới mà chỉ để khách hàng tự tìm đến thuê là điều rất cần thiết sửa đổi. Công ty không thể đi lên nếu không biết chủ động đi tìm kiếm khách hàng, lôi kéo khách hang. Thực tế sau cuộc khủng hoảng châu á, khi mà lượng hàng xuất khẩu sang khu vực này giảm sút, công ty có những khách hàng mới, xuất sản phẩm sang Tiệp Khắc, Đức, Tây Ban Nha… Dù đây chỉ là những hợp đồng gia côngnb nó chứng tỏ sản phẩm của công ty được thị trường mới chấp nhận và khả năng mở rộng thị trường sang châu Âu không phải là không thể đạt được. Chính vì vậy công ty cần tăng cường công tác tìm hiểu thị trường, bám sát và nắm bắt nhu cầu khách hàng ở thị trường mới để lôi kéo những khách hàng tiềm năng này. Thứ hai- sản phẩm: thực hiện chính sách đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu. Hiện tại, mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của công ty là áo jacket, áo ba lớp, quần bò. Để đẩy mạnh số lượng tiêu thụ, công ty cần nghiên cứu nhu cầu sở thích nước bạn để sản xuất thêm mặt hàng, thu hút khách hàng. Đồng thời song song với việc mở rộng mặt hàng là việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Để đạt được điều đó, công ty cần chú trọng đến việc lựa chọn nguyên liệu đầu vào, đến hiện đại hoá dây chuyền công nghệ cho công nhân. Thứ ba- thanh toán: Đối với hợp đồng gia công hàng xuất khẩu, thường sau khi xuất hai tháng, công ty mới nhận được tiền thanh toán. Đây là một khó khăn vì công ty vốn đã thiếu lưu động, lại được thanh toán chậm nên thường xuyên phải đi vay để trả cho những chi phí phát sinh lúc chưa được thanh toán một nửa số tiền hoặc được thanh toán một phần khi khách hàng đến kiểm tra và chứng nhận sản phẩm đạt yêu cầu, giao hàng lên tàu. Đồng thời, công ty có thể áp dụng những hình thức khuyến khích khách hàng thanh toán nhanh. Thứ tư- vận chuyển: Công ty cần mua sắm những phương tiện vận chuyển để có thể chủ động trong vấn đề chuyên chở, cung cấp sản phẩm cho khách hàng. Bên cạnh đó, nó cũng hạn chế được những chi phí phát sinh do phải thuê bên ngoài vận chuyển, có khi lại không đáp ứng được yêu cầu. 2.1.2. Đẩy mạnh tiêu thụ ở lĩnh vực nội địa. Lĩnh vực nội địa của công ty gồm hai hoạt động: Sản xuất, tiêu thụ trong nước. Kinh doanh vật tư. Trong hai hoạt động trên, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh vật tư luôn nhiều hơn từ hoạt động sản xuất hàng nội địa. Nếu như hoạt động sản xuất hàng nội địa chủ yếu dựa trên các đơn đặt hàng của khách hàng thì hoạt động kinh doanh vật tư của công ty chủ yếu do công ty tự liên hệ, tìm bạn hàng để tiêu thụ. Những sản phẩm kinh doanh ở đây chủ yếu là chăn, màn, balô, quân phục của bộ đội mà công ty kinh doanh dưới hình thức mua vào, bán ra và hưởng chênh lệch. Vì vậy, đối với hoạt động kinh doanh vật tư, tăng lợi nhuận tức là tăng lượng sản phẩm tiêu thụ. Muốn vậy, công ty phải tích cực thực hiện các hoạt động tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm nguồn tiêu thụ. Còn đối với hoạt động sản xuất trong nước – một hoạt động được công ty xem là hoạt động chính để tăng doanh thu tiêu thụ công ty cần: Trước hết – sản phẩm: Ngành may mặc nước ta hiện nay đang phát triển rất mạnh, được đáng giá là đầy tiềm năng. Hàng tuần, hàng tháng đều có các cuộc trình diễn thời trang, hội chợ giới thiệu sản phẩm may mặc và vải vóc thu hút sự quan tâm của nhiều người, đặc biệt là giới trẻ. Khả năng thu lợi nhuận của nó không những thu hút các công ty trong nước mà cả các công ty nước ngoài. Đối với công ty may xuất khẩu Phương Mai, vấn đề đầu tiên là phải thực hiện đa dạng hoá sản phẩm. Nhu cầu của người tiêu dùng ngày nay không phải là ăn chắc, mặc bền mà đã thay đổi: sản phẩm cần đẹp, hợp thời trang, hợp thị hiếu. Người tiêu dùng bây giờ không còn đòi hỏi điều kiện quan trọng nhất là sản phẩm phải bền mà chất lượng sản phẩm được hiểu theo nghĩa vừa bền, vừa đẹp. Yếu tố thẩm mĩ đã được dưa lên ngang tầm với chất lượng. Bởi vậy, điều quyết định cho tăng doanh thu tiêu thụ của công ty là phải có những sản phẩm vừa đẹp, vừa đặt chất lượng yêu cầu. Công ty cần chú trọng tới nghiên cứu thị trường để xác định rõ nhu cầu khách hàng về kiểu dáng, mẫu mã, màu sắc sản phẩm. Bên cạnh đó, cũng như đối với sản phẩm xuất khẩu, chất lượng là yếu tố không thể không quan tâm tới. Để đạt được yêu cầu đó, công ty cần thực hiện một số biện pháp sau: Nâng cao kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu trước khi đưa vào sản xuất. Vì nguyên vật liệu của công ty được mua từ nhiều nguồn khác nhau nên cần có sự giám sát chặt chẽ, cụ thể về số lượng, giá cả, chát lượng cũng như thời gian, địa điểm giao hàng. Cần tránh tình trạng mua nguyên vật liệu chất lượng không tốt nhưng vì được giảm giá, chiết khấu, hoa hồng mà vẫn chấp nhận. Nâng cao trình độ công nhân làm việc trong các công đoạn dựng vải, cắt bởi đây là khâu định hình quan trọng cho việc sản xuất sản phẩm, kiên quyết loại bỏ những sản phẩm hỏng, không đúng quy cách, mẫu mã. Đối với những công nhân bậc cao, làm việc lâu năm, có kinh nghiệm công ty nên áp dụng chính sách lương bổng, trợ cấp hợp lý để thu hút họ, tránh tình trạng họ đi làm ngoài. Có như vậy công ty vừa đỡ mất nhân lực, vừa không mất thời gian và chi phí đào tạo mới. Khi sản phẩm hoàn thành cần phân loại rõ ràng, tránh bỏ những sản phẩm không đạt yêu cầu. Kịp thời khen thưởng những cá nhân, bộ phận sản xuất làm việc có nâng suất lao động cao, ít sản phẩm hỏng. Thứ hai- quảng cáo, khuyếch trương: Hiện tại công ty chỉ có một gian hàng giới thiệu và bán sản phẩm của mình gần công ty. So với các công ty khác trong cùng ngành, một gian hàng nằm ở khu xa trung tâm là quá ít, nếu không nói là hầu như không có sức cạnh tranh. Bởi vậy trước mắt công ty cần mở rộng, phát triển thêm cửa hàng bán và giới thiệu sản phẩm để mọi người biết đến sự tồn tại của công ty. Đồng thời, lựa chọn những sản phẩm hợp thị hiếu người tiêu dùng để bán. Song song với việc phát triển thêm cửa hàng, công ty cần tham gia vào các hoạt động chung của toàn ngành như triển lãm, hội chợ thời trang để đi cùng với sự phát triển của thời đại. Ngày nay, hầu như có rất ít người tiêu dùng mua sản phẩm của cửa hàng, những công ty mà họ không biết đến bởi họ không được đảm bảo về chất lượng sản phẩm, bởi vậy những hoạt động quảng cáo, khuyến trương được thực hiện hiệu quả, chắc chấn việc tiêu thụ sản phẩm của công ty sẽ tiến triển hơn. Mặt khác, thực tế những chi phí cho hoạt động quảng cáo cũng chủ yếu cũng phát sinh từ việc chi cho cửa hàng không cần đến tivi, đài, báo để khuyến trương nên chi phí cũng không phải là quá lớn. Thứ ba- giá bán: trong giai đoạn xâm nhập vào thị trường hiện nay, công ty không nên áp ụng mức giá cao mà nên sử dụng mức tối đa bằng các công ty khác và mức giá thấp hơn. có mức giá thấp hơn, công ty mới thu hút được khách hàng bởi thị trường may mặc vốn đã rất phong phú,đa dạng nên hầu hết khách hàng sẽ không từ bỏ những sản phẩm truyền thống để lấy sản phẩm mới, khi chúng có cùng mức giá nhưng họ lại chưa thử sản phẩm này bao giờ. Khi đã có lòng tin của khách hàng vào sản phẩm của mình, công ty mới nên tăng giá bán. Đồng thời các biện pháp trong tiêu thụ như giảm giá, chiếc khấu phải được thực hiện một cách nhất quán nhưng vẫn linh hoạt để khuyến khích khách hàng. Thực hiện duy trì, bổ sung thêm một số hình thức thanh toán ưu đãi đối với những đơn vị có quan hệ hợp tác lâu dài, có trách nhiệm với công ty, với những khách hàng truyền thống. Thứ tư - nghiên cứu thị trường: Sở dĩ nghiên cứu thị trường trở thành một trong những biện pháp quan trọng để tăng doanh thu tiêu thụ của công ty may xuất khẩu Phương Mai bởi hoạt động này của công ty còn chưa được đầu tư thích hợp. Tiếp xúc với khách hàng để nắm rõ nhu cầu, sở thích của họ chưa được công ty thực hiện. Hoạt động của công ty chủ yếu dựa trên các đơn đặt hàng mang lại nên công ty không quan tâm đến điều tra nhu cầu hiện tại ra sao. Vì vậy để chủ động trong cơ chế thị trường, để có thêm khách hàng công ty cần phải nghiên cứu về những “ thượng đế” này. Việc nghiên cứu, tìm hiểu này cần được thực hiện một cách thường xuyên nhằm phản ánh những thông tin kịp thời. 2.2. Giảm tối đa chi phí. 2.2.1. Giảm chi phí sản xuất trực tiếp. Trước hết – nguyên vật liệu: Như phân tích ở trên, nguyên vật liệu năm 2001 tăng rất nhiều so với năm 2000: làm lợi nhuận giảm. Do giá bán không thay đổi nên ảnh hưởng của vật liệu chính, vật liệu phụ tới lợi nhuận rất lớn. Để hạn chế ảnh hưởng này thì điều cần thiết là phải hạ thấp chi phí đầu vào của nguyên vật liệu. Hiện nay, nguyên vật liệu của ngành may mặc tài chính nước từ chỉ, cúc… đến vải đều đã được cải tiến, nâng cao chất lượng nên công ty cần tìm những nguồn hàng ngay tài chính nước để thây thế dần các nguồn cung cấp từ nước ngoài. Hạn chế dần rồi tiến đến thay thế dần các nguồn nguyên liệu nhập ngoại sẽ làm giảm đáng kể chi phí ngyuên vật liệu. Để làm được điều đó, công ty cần nhanh chóng xúc tiến hoạt động tìm hiểu, tìm kiếm các nhà phân phối, cung cấp tài chính nước. Theo dõi chặt chẽ sự biến động của giá cả để có quyết định mua với số lượng bao nhiêu và vào thời điểm nào cho hợp lý nhất. Với vật liệu chính cần có chính sách đấu thấu với bên bán để có được mức giá hợp lý với nguồn cung cấp ổn định, thường xuyên. Vật liệu phụ dùng ít thì mua vừa phải tránh tình trạng ứ đọng, tiết kệm được chi phí bảo quản. với các nguyên vật liệu còn phải nhập thì cần có kế hoạch thu mua, dự trữ hợp lý để đảm bảo hoạt động sản xuất kinh doanh được liên tục, tránh tình trạng thiếu nguyên vật liệu, bị ép giá. Đồng thời phải luôn chú ý sửa chữa, nâng cấp kho tàng, kiểm tra vật liệu tài chính kho, tránh để ẩm, mốc, chuột gặm…. Mặt khác, công ty cần xây dựng hệ thống định mức tiêu hao vật liệu cho phù hợp tránh tình trạng thiếu phải mua thêm với mức giá mình bị ép hoặc thừa phải bán đi với giá thấp hơn giá mua vào. bởi vậy, cần tuyển chọn những cán bộ tài chính lĩnh vực này là những người vừa được đào tạo cơ bản, vừa có kinh nghiệm thực tế. Bên cạnh đó, tăng cường công tác quản lý, giám sát sử dụng nguyên vật liệu nhằm tránh tình trạng sử dụng lãng phí. Đồng thời cần tuyển dụng, đào tạo đội ngũ công nhân có tay nghề để hạn chế những sản phẩm hỏng, tiết kiệm nguyên vật liệu. Thứ hai – tiền lương: Tiết kiệm chi phí tiền lương được hiểu theo nghĩa là phải tăng năng suất lao động của người công nhân và do đó tất yếu liên quan đến việc tuyển dụng, đào tạo công nhân. cho nên cứ đến định kỳ công ty có tổ chức những cuộc thi tay nghề giỏi nhằm khuyến khích công nhân có tiến bộ nhanh, ít sản phẩm sai hỏng với những cá nhân có năng suất lao động cao mà chất lượng sản phẩm vẫn được đảm bảo. Yếu tố thứ hai phụ thuộc vào hệ thống máy móc thiết bị. Máy móc có hiện đại, đảm bảo hoạt động liên tục thì người công nhân mới không phải nghỉ làm giữa giờ. Vì vậy, vấn đề đặt ra là cần phải trang bị một hệ thống máy may, máy cắt, máy dập cúc… hiện đại, đồng nhất. Ngày nay đầu tư vào công nghệ mới đã trở thành một tài chính những Yếu tố quan trọng để thực hiện hạ giá thành sản phẩm, tăng tính cạnh tranh của sản phẩm công ty trên thị trường. Bởi vậy xây dựng một dây chuyền công nghệ đáp ứng được yêu cầu sản xuất là đòi hỏi cần được quan tâm hàng đầu. Để đáp ứng đòi hỏi này, một tài chính những biện pháp cần thiết lad trích lợi nhuận thu được hàng năm để thành lập quỹ đầu tư phát triển nhằm mua sắm máy móc mới. Thứ ba – chi phí sản xuất chung: Cần giảm tối đa khoản chi phí này nhất là những chi phí do sử dụng lãng phí điện nước, máy móc. Vẫn còn tồn tại tình trạng máy hoạt động khi nghỉ giữa ca hay khi chờ nhận nguyên vật liệu do người công nhân chưa có ý thức tiết kiệm. Vì thế, song song với việc tăng cường hoạt động quản lý, giám sát là nâng cao ý thức tiết kiệm của người công nhân. 2.2.2. Giảm chi phí nghiệp vụ kinh doanh. Trong chi phí nghiệp vụ kinh doanh, công ty cần cắt giảm tối đa chi phí quản lý doanh nghiệp và tăng thêm chi phí bán hàng. Trong năm 2001 hầu hết các khoản mục chi phí quản lý doanh nghiệp đều tăng so với năm 2000. Trước hết là chi phí đồ dùng văn phòng tăng do mua thêm máy điều hoà, máy tính dẫn đến chi phí khấu hao tài sản cố định của khối quản lý tăng theo. Đặc biệt là sự tăng mạnh của chi phí dịch vụ mua ngoài như các khoản chi điện, nước, cước điện thoại ( trước đây còn phải trả tiền thuê đất cho cơ sở hai ở Láng Thượng) do vậy khối quản lý của công ty cũng cần thực hành ý thức tiết kiệm. Bên cạnh đó trong điều kiện eo hẹp về vốn, công ty nên ưu tiên để đầu tư máy móc thiết bị cho sản xuất trước. Mặt khác, giảm chi phí quản lý doanh nghiệp được thể hiện ở việc xây dựng một bộ máy quản lý gọn nhẹ, đáp ứng được yêu cầu với những cán bộ có chuyên môn. 2.3. Một số biện pháp khác. Vốn hoạt động còn ít, vốn lưu động thiếu thường xuyên phải đi vay là một trở ngại lớn đối với công ty. Hơn thế nữa là vốn để đầu tư, hiện đại hoá máy móc thiết bị cũng không có nhiều. Việc xin hay đi vay vốn Tổng công ty cũng không phải sẽ được giải quyết ngay. Biện pháp chủ yếu vẫn là doanh nghiệp tự giả quyết và đối với công ty may xuất khẩu Phương Mai, con đường tốt nhất là tiến hành cổ phần hoá công ty. Thực hiện cổ phần hoá bằng cách phát hành cổ phiếu, công ty sẽ tăng được lượng vốn của mình trong một thời gian ngắn. Bán cổ phiếu, công ty sẽ có vốn đẻ đầu tư, hiện đại hoá hệ thống máy móc thiết bị, tạo đà nâng cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả sản xuất. Đồng thời, cổ phần hoá là giải pháp thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp tích cực hơn, bởi cán bộ công nhân viên công ty khi mua cổ phiếu họ đã trở thành những người chủ thực sự của công ty, quyền lợi của họ gắn liền với quyền lợi của công ty nên họ sẽ phấn đấu hơn, sẽ quan tâm đến việc nâng cao hoạt động sản xuất kinh doanh hơn nhằm thu lợi nhuận cao hơn. Cổ phần hoá sẽ là động lực thúc đẩy mọi người cố gắng làm việc nên hiệu quả toàn công ty chắc chắn sẽ cao hơn. Xét về bộ máy quản lý công ty mặc dù những năm qua, công ty đã từng bước xây dựng một bộ máy tổ chức gọn nhẹ, phù hợp với thực tế công ty nhưng là một doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực sản phẩm may mặc – tức là sản phẩm phổ biến, mà sản phẩm công ty hầu như không có tiếng trên thị trường, chứng tỏ hoạt động quảng cáo, tuyên truyền của công ty còn chưa được chú trọng. Vì vậy, công ty nên thành lập một phòng Marketing sẽ đảm nhiệm việc quảng cáo, khuyến trương sản phẩm công ty mà trước hết là giới thiệu sự có mặt của công ty trên thị trường. Có phòng marketing thực hiện việc quảng cáo, tiếp thị sản phẩm chắc chắn sản phẩm của công ty sẽ được nhiều người biết đến hơn. Đồng thời đây sẽ là cầu nối để công ty nhận được thông tin phản hồi từ khách hàng về sản phẩm của mình. Những thông tin này sẽ giúp công ty nhanh chóng thay đổi mẫu mã, kiểu dáng, màu sắc, chất lượng… sản phẩm của mình cho phù hợp với yêu cầu khách hàng. Như vậy, phòng Marketing đã gián tiếp góp phần tăng lượng sản phẩm tiêu thụ của mình, tăng doanh thu và tăng lợi nhuận. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra. Kiến nghị với Nhà nước. Chúng ta đang trong giai đoạn chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường nên tất yếu sẽ nảy sinh nhiều vấn đề mà Nhà nước cần giải quyết. Đó là mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường với những hoạt động tiêu cực như đầu cơ, buôn lậu, hàng giả, hối lộ… mà không xoá bỏ, thủ tiêu nó thì nền kinh tế không thể phát triển và đương nhiên doanh nghiệp không thể làm ăn có hiệu quả. Có loại bỏ những mặt trái đó, Nhà nước mới tạo ra được môi trường kinh doanh bình đẳng, tích cựccho doanh nghiệp. Vì vậy có thể nó tạo một môi trường kinh tế xã hội thuận lợi là Nhà nước đã góp phần thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy, trước hết Nhà nước cần sớm ban hành và thực thi một hệ thống luật pháp thống nhất, rõ ràng nhằm tạo ra một hành lang hợp lý, một sân chơi bình đẳng và có hiệu quả cho các doanh nghiệp. Bên cạnh đó Nhà nước cần xây dựng và thực thi hệ thống chính sách đối với các doanh nghiệp nhằm xác định rõ quyền và nghĩa vụ của mỗi doanh nghiệp. Đó là hệ thống chính sách thuế, chính sách xuất nhập khẩu, chính sách thương mại… mà những chính sách này sẽ tạo ra một môi trường cho doanh nghiệp kinh doanh. Một vai trò không thể thiếu của Chính phủ là hướng dẫn, giúp đỡ doanh nghiệp lựa chọn hướng kinh doanh thông qua những chính sách của mình và hệ thống thông tin, dự báo thị trường của Nhà nước. Trong lĩnh vực này, những thông tin của Nhà nước sẽ là quyển sách thâm khảo tin cậy đối với doanh nghiệp để doanh nghiệp ra quyết định. 3.2. Kiến nghị với Tổng Công ty. Để đạt được những thành tích như ngày hôm nay, mặc dù còn nhỏ bé, không thể không nói tới sự đóng góp, giúp đỡ về vật chất cũng như tinh thần của đơn vị chủ quản – Tổng công ty xây dựng và phát triển nông thôn. Tuy nhiên so với các đơn vị trong cùng ngành, cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty vẫn là nhỏ bé. Vì vậy, công ty rất cần sự giúp đỡ của Tổng công ty để sửa chữa và hiện đại hóa dây chuyền máy móc ở đây. Có quy mô tương đối tốt, công ty mới có thể ký được những hợp đồng lớn và có khả năng thực hiện những hợp đồng đó. Mặt khác vốn hoạt động của công ty còn ít, trong điều kiện có thể được Tổng công ty cần quan tâm, xem xét liệu có thể cấp thêm vốn cho công ty. Nếu không được để khác phục tình hình công ty thường xuyên thiếu vốn lưu động, phải đi vay ngân hàng, Tổng công ty có thể cho công ty vay với lãi suất thấp hơn cũng là sự giúp đõ công ty. Cuối cùng, Tổng công ty cần tạo điều kiện thuận lợi cho công ty hoạt động kinh doanh thông qua những chính sách, quy định cụ thể, hợp lý, dựa trên những cơ chế chính sách do Nhà nước quy định. Có nắm được một cách cụ thể những quy chế về quản lý tài chính, chính sách về vốn và những chính sách hỗ trợ khác công ty mới mạnh dạn đầu tư kinh doanh cũng như tránh những hoạt động vi phạm pháp luật. Kết luận Nền kinh tế thị trường với những mặt tích cực của nó đã trở thành một sân chơi thực sự đối với các doanh nghiệp. Cơ chế thị trường với những quy luật của nó đã trở thành động lực buộc các doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải làm ăn có hiệu quả, tức là hoạt động kinh doanh phải có lợi nhuận và không những thế, lợi nhuận phải tăng theo từng năm. Tăng lợi nhuận đã trở thành cái đích mà mọi doanh nghiệp đều hướng tới. Công ty may xuất khẩu Phương Mai -đơn vị thành viên của tổng công ty xây dựng và phát triển nông thôn được ra đời trong bối cảnh cạnh tranh gay gắt của nền kinh tế thị trường. Song vượt qua khó khăn đó, cùng với sự giúp đỡ, cổ vũ của tổng công ty cũng như sự cố gắng lỗ lực của toàn thể cán bộ công nhân viên công ty, công ty may xuất khẩu Phương Mai đã đạt được những thành tích khả quan. Tuy nhiên, để có thể phát triển hơn nữa, bên cạnh những kết quả đạt được, công ty cần phải nỗ lực hơn nhằm khắc phục những hạn chế cũng như những nguyên nhân ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận. Chuyên đề "Một số biện pháp để nâng cao lợi nhuận ở công ty may xuất khẩu Phương Mai" là kết quả của quá trình nghiên cứu và vận dụng lý luận vào tìm hiểu thực trạng lợi nhuận của công ty. Tôi hy vọng rằng các giải pháp này sẽ có ích trong việc làm tăng lợi nhuận của công ty trong thời gian tới. Một lần nữa, tôi xin chân thành cám ơn cô giáo Nguyễn Ngọc Điệp, các cô chú trong phòng kế toán -tài chính công ty may xuất khẩu Phương Mai đã hướng dẫn và giúp đỡ tôi hoàn thành chuyên đề này. Tài liệu tham khảo [1]. Quản trị tài chính doanh nghiệp -Trường ĐHKTQD NXB Thống kê Hà Nội-1998 [2]. Lý thuyết và thực hành kế toán tài chính VAT NXB Tài chính Hà Nội-1999 [3]. Phân tích báo cáo tài chính và hoạt động kinh doanh NXB Giáo dục [4]. Giáo trình phân tích hoạt động kinh doanh NXB Giáo dục [5]. Một số luận văn của các khoá trước [6]. Lịch sử các học thuyết kinh tế NXB Giáo dục-1999 [7]. Kinh tế chính trị Mác - Lênin NXB Giáo dục-1996 [8]. Tạp chí tài chính năm 2000, 2001. [9]. Nguồn số liệu từ công ty may xuất khẩu Phương Mai. Mục lục Lời nói đầu 1 Chương 1. Những vấn đề cơ bản về lợi nhuận doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3 1. Lợi nhuận của doanh nghiệp 3 1.1. Khái niệm, nguồn ngốc lợi nhuận doanh nghiệp 3 1.2. Tỷ suất lợi nhuận 5 1.2.1. Tỷ suất lợi nhuận vốn 6 1.2.2. Tỷ suất lợi nhuận giá thành 6 1.2.3. Tỷ suất lợi nhuận doanh thu 7 1.3. Vai trò của lợi nhuận 7 1.3.1. Vai trò của lợi nhuận đối với nền kinh tế quốc dân 9 1.3.2. Vai trò của lợi nhuận đối với doanh nghiệp 9 1.3.3. Vai trò của lợi nhuận đối với người lao động 11 2. phương pháp xác định và các yếu tố ảnh hưởng tới lợi nhuận doanh nghiệp 11 2.1. Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp 11 2.1.1. Các bộ phận cấu thành các lợi nhuận doanh nghiệp 11 2.1.2. Phương pháp xác định lợi nhuận doanh nghiệp 14 2.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp 19 2.2.1. Các yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến lợi nhuận doanh nghiệp 19 2.2.2 Các yếu tố bên trong ảnh hưởng đến lợi nhuận 21 Chương 2. Thực trạng về việc nâng cao lợi nhuận của Công ty May xuất khẩu phương mai trong những năm gần đây 24 1. Giới thiệu về Công ty 24 1.1. Khái quát quá trình hình thành và phát triển của Công ty may xuất khẩu phương mai 24 1.2. Đặc điểm kinh tế - kỹ thuật ảnh hưởng đến việc nâng cao lợi nhuận 27 1.2.1. Bộ máy quản lý 27 1.2.2. Lĩnh vực kinh doanh 29 1.2.3. Cơ cấu tổ chức sản xuất 30 1.2.4. Công tác kế toán 30 1.2.5. Đặc điểm về lao động 32 1.2.6. Đặc điểm về tình hình cơ sở vật chất kỹ thuật 33 1.2.7. Đặc điểm về vốn 34 1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh trong vài năm gần đây 34 1.4. Một số chỉ tiêu đánh giá khái quát tình hình tài chính của Công ty 36 2. Thực trạng lợi nhuận của Công ty may xuất khẩu Phương Mai 37 2.1. Đánh giá chung về tình hình thực hiện lợi nhuận của Công ty trong những năm qua 37 2.2. Lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh 43 2.2.1. Đánh giá chung về tình hình thực hiện lợi nhuận hoạt động sản xuất kinh doanh 43 2.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận từ hoạt động sản xuất kinh doanh 44 2.3. Lợi nhuận từ hoạt động tài chính 54 2.4. Lợi nhuận từ hoạt động bất thường 55 3. Đánh giá chung quá trình nâng cao lợi nhuận ở Công ty may suất khẩu Phương Mai 55 3.1. Những kết quả đạt được 55 3.2. Những tồn tại 57 3.3. Nguyên nhân của những kết quả và tồn tại trên 57 Chương 3. Giải pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty May xuất khẩu Phương Mai 61 1. Những thuận lợi và khó khăn của Công ty May xuất khẩu Phương Mai hiện nay 61 1.1. Những lợi nhuận 61 1.2. Những khó khăn mà Công ty đang gặp phải 61 2. Một số biện pháp chủ yếu nhằm tăng lợi nhuận ở Công ty May xuất khẩu Phương Mai 62 2.1. Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm nhằm tăng doanh thu 63 2.1.1. Đẩy mạnh tiêu thụ ở lĩnh vực xuất khẩu 64 2.1.2. Đẩy mạnh tiêu thụ ở lĩnh vực nội địa 66 2.2. Giảm tối đa chi phí 69 2.2.1. Giảm chi phísản xuất trực tiếp 69 2.2.2. Giảm chi phí nghiệp vụ kinh doanh 71 2.3. Một số biện pháp khác 72 3. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra 73 3.1. Kiến nghị với nhà nước 73 3.2. Kiến nghị với tổng Công ty 74 Kết luận 75 Tài liệu tham khảo 76

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0204.doc
Tài liệu liên quan