Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh đóng vai trò quyết định cho sự tồn tài và phát triển của siêu thị, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong Trung tâm. Tuy nhiên với khả năng và tiềm lực của siêu thị vần có thế đạt được những kết quả cao hơn. Chính vì vậy mà việc tìm ra và áp dụng những giải pháp phù hợp để không ngừng tăng lợi nhuận của siêu thị là mong muấn, là mục tiêu của tất cả cán bộ lãnh đạo, của nhân viên siêu thị cũng nhú của Trung tâm thương mại Intimex.
Qua thời gian thực tập ở Trung tâm thương mại Intimex, được sự giúp đỡ của Phòng kế toán, của các thầy cô em đã hoàn thành bài luận văn này. Dựa trên các kiến thức đã được học ở trường, kết hợp với những tình hình thực tế tại siêu thị, em đã mạnh hạn đưa ra một số giải pháp góp phần làm tăng lợi nhuận của siêu thị.
Vì trình độ và thời gian có hạn, do đó bài báo cáo của em còn có nhiều thiếu sót, em mong được sự góp ý của các thầy cô trong khoa Quản lý Kinh doanh và các cán bộ công nhân viên của Trung tâm Thương mại Intimex cũng như bạn bè để bài luận văn của em có ý nghĩa thực tiễn hơn.
25 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận tại trung tâm thương mại Intimex công ty xuất nhập khẩu Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu
Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của khoa học kỹ thuật, phâncông lao động của từng nước cũng như trên phạm vi quốc tế ngày càng cao và gắn bó với nhau. Xu thế toàn cầu hoá trong sản xuất và lưu thông hàng hoá đòi hỏi mọi quốc gia, mọi tập đoàn cũng như mọi cá nhân không thể đứng ngaòi. Trong bối cảnh kinh tế thế giới hiện nay, một nền kinh tế đóng cửa không thể phát triển được. Cách đó chỉ kéo dài sự nghèo đói và bần cùng hoá. Nhận thức được vấn đề đó, tại đại hội Đảng XI (1986), Đảng ta đã chủ trương chuyển nền kinh tế tạo ra cho các doanh nghiệp cơ hội làm ăn mới nhưng cũng nhiều thách thức mới. Vì vậy kinh doanh trong cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải hết sức năng động, nhạy bén, linh hoạt trước sự biến động của môi trường đề khai thác tận dụng các cơ hội và hạn chế rủi ro trong kinh doanh. Một doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách, chiến lược, kế hoạch, đồng thời phải quản lý được mọi hoạt động như mua, bán, dự trữ, lao động, vốn chi phí, điều chỉnh hoạt động kinhd oanh linh hoạt thích ứng với biến động của thị trường trong mối quan hệ đa doanh và phức tạp. Trung tâm thương mại Intimex là một đơn vị tiêu biểu cho loại hình doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ ở Việt Nam, hiện nay đang phải đối mặt với nhiều khó khăn như sự cạnh tranh, sự ảnh hưởng của các yếu tố thuộc môi trường kinhd doanh. Điều đó không chỉ đặt ra cho Trung tâm mà cho tất cả các doanh nghiệp thương mại hiện nay ở Việt Nam làm thế nào để thúc đẩy hoạt động kinh doanh của minh, nâng cao hiệu quả và mở rộng thị trường kinh doanh? Qua thời gian thực tập tại Trung tâm thương mại Intimex, em đã quan tâm và nhận thấy nhiều vấn đề tích cực và hạn chế trong hoạt động kinhd doanh của Trung tâm, đặc biệt là hoạt động đẩy mạnh kinh doanh vì đây là hoạt động quan trọng đối với các doanh nghiệp thương mại ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận mang lại cho doanh nghiệp. Đề tài “Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận tại Trung tâm thương mại Intimex – Công ty xuất nhập khẩu Intimex” được nêu ra với mong muốn giải quyết vấn đề nêu trên.
Đối tượng nghiên cứu của đề tài làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp và phạm vị nghiên cứu của đề tài được giới hạn trong việc phân tích hoạt động nhằm tăng lợi nhuận của Trung tâm thương mại Intimex trong thời gian qua( từ năm 2005 – 2007).
Ngoài phần mở đầu và kết luận, nội dung luận văn gồm 3 chương:
Chương I: Tình hình hoạt động kinh doanh và lợi nhuận tại trung tâm thương mại Intimex
Chương II: Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của trung tâm thương mại Intimex
Chương III: Một số biện pháp làm tăng lợi nhuận của trung tâm thương mại Intimex
Chương I: Tình hình hoạt động kinh doanh và lợi nhuận tại trung tâm thương mại Intimex
I- đặc điểm chung của trung tâm thương mại Intimex:
1.1. Quá trình hình thành và phát triển:
Trung tâm thương mại Intimex – Doanh nghiệp nhà nước là một trong mười một thành viên của Công ty xuất nhập khẩu Intimex trực thuộc Bộ Công thương. Trung tâm có tên giao dịch đối ngoại là: Intimex Trading Centre, tên viết tắt là Intimex, trụ sở đặt tại 22-23 Lê Thái Tổ, Quận Hoàn Kiếm – Thành phố Hà Nội. Trung tâm có quá trình phát triển và hình thành gắn liền với tiến trình phát triển của nền kinh tế đất nước. Trung tâm đóng vai trò là trung tâm thương mại nối liền với sản xuất tiêu dùng, thanh gia vào quá trình lưu thông hàng hóa góp phần phát triển nền kinh tế quốc dân và chịu trách nhiệm cũng như thực hiện nghĩa vụ với nhà nước.
Năm 1959, Xí nghiệp giao tế ra đời - đây là tiền thân của trung tâm thương mại Intimex. Trong giai đoạn 1959 – 1981, XNTH Giao tế trở thành một trung tâm bách hoá nhận nhiệm vụ hoàn thành kế hoạch phân phối sản phẩm, hàng hoá do Nhà nước giao và được hưởng bao cấp ưu đãi tạo điều kiện thuận lợi phát triển.
Năm 1982, XNTH Giao tế đổi tên thành Công ty Hưu Nghị. Công ty bắt đầu bước vào lĩnh vực xuất khẩu và thực hiện chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trải qua 5 năm hoạt động, căn cứ vào tình hình thực tế của công ty và phương hướng kế hoạch của Bộ Thương mại nay là Bộ Công thương. Năm 1987, Công ty Hữu Nghị sát nhập vào Công ty xuất nhập khẩu Nội thương và hợp tác xã Intimex và trở thành một thành viên của đơn vị này. Trong giai đoạn này, nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã tạo cho công ty nhiều cơ hội và thách thức mới.
Năm 1990, ban lãnh đạo công ty XNK Nội thương và Hợp tác xã Intimex đã quyết định tách Công ty Hữu Nghị thành hai đơn vị: Xí nghiệp thương mại dịch vụ tổng hợp và trung tâm thương mại dịch vụ tổng hợp. Cũng trong thời gian này, Công ty XNK Nội thương và HTX Intimex (Hiện nay là công ty XNK Intimex) vào ngày 8/6/1995 theo quyết định của Bộ Thương mại thực hiện nhiệm vụ XNK và hoạt động dịch vụ phù hợp với tình hình phát triển của nền kinh tế đất nước.
Trải qua một thời gian hoạt động, ban lãnh đạo công ty nhận thấy rằng hai đơn vị (Xí nghiệp TM và DVTH, Trung tâm TMDVTH) cùng nằm trên một địa bàn có chức năng và nhiệm vụ như nhau dẫn tới cạnh tranh không lành mạnh trong tổng thể Intimex. Do đó công ty quyết định sáp nhập hai đơn vị này kết hợp với phòng kinh doanh XNK số 9 thành trung tâm Thương mại Intimex theo quyết định số 124IN/TCCB ngày 1/9/2000 của Giảm đốc Công ty XNK Intimex.
Trung tâm Thương mại Intimex là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Công ty XNK Intimex (Sau cổ phần hoá sẽ gộp vào trở thành Công ty Cổ phần Intimex Việt Nam). Trung tâm thương mại Intimex là một tổ chức có tư cách pháp nhân, hạch toán phụ thuộc, có các quyền và nghĩa vụ theo luật định, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động kinh doanh trong tổng số vốn do Trung tâm quản lý, có con dấu riêng, được mở tài khoản tại ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, được tổ chức và hoạt động theo điều lệ qui định của Bộ Thương mại.
1.2.Kết quả hoạt động và kết quả hoạt động kinh doanh
Hoạt động buôn bán, và liên doanh cũng góp phần nhất định trong việc nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh chúng ta tiến hành so sánh một số chỉ tiêu: Tổng doanh thu, Vốn kinh doanh, Các khoản nộp ngân sách, Lợi nhuận, thu nhập bình quân qua một số năm như sau:
Hoạt động kinh doanh trong suốt 3 năm qua, vấn đề tập trung phát triển nguồn nhân lực, tìm hiểu nghiên cứu thị trường sản xuất – tiêu dùng Trung tâm Thương mại Intimex luôn cố gắng ở mức độ cao nhất và đã gặp rất nhiều thuận lợi cả về phía người sản xuất, lẫn người tiêu dùng. Do đó Trung tâm đã đạt được sự tăng trưởng và phát triển đáng khích lệ:
+Tổng doanh thu năm sau có hơn năm trước, năm 2006 tăng so với năm 2005 là 28,5% và tăng so với KH là 22,2%, năm 2007 tăng so với năm 2006 là 44% và tăng 29,3% so với KH.
+ Nộp ngân sách tăng. Năm 2006 tăng 5% so với năm 2005, năm 2007 tăng 3,8% so với năm 2006.
+ Lợi nhuận ròng các năm sau cao hơn năm trước. Năm 2005 tăng so với KH là 151.378 ngđ, tương ứng với 30,3%. Năm 2006 tăng so với năm 2005 là 129.858 ngđ tương ứng 19,93%, và tăng 11,6% so với KH. Năm 2007 tăng so với 2006 là 225.859 ngđ tương ứng với 28,9% và tăng so với KH là 20,.67%.
Có thể nói Trung tâm đã không ngừng cố gắng để duy trì hoạt động kinh doanh ở mức ổn định và hiệu quả nhất trong suất hơn 3 năm qua, góp phần phát triển thịnh vượng nền kinh tế nước nhà, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, đồng thời cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên: năm 2005 thu nhập bình quân đạt 1.320 ngđ; năm 2006 TNBQ đạt 1.540 ngđ tăng so với năm 2005 là 220 ngđ so với năm 2006 tương ứng 17,5% và tăng 20, 67% so với KH.
Trung tâm đạt được kết quả trên đay là nhờ sự phấn đấu, nỗ lực không ngừng của các cấp lãnh đạo ở Công ty; các cấp lãnh đạo tại Trung tâm và toàn thể cán bộ công nhân viên trong Trung tâm. Hiện nay Trung tâm được biết đến như một chuỗi Siêu thị có tiếng trên địa bàn Hà Nội cũng như cả nước.
1.3 Chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của Trung tâm:
* Chức năng, nhiệm vụ của Trung tâm:
Xây dựng và tổ chức thực hiện các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh trên cơ sở kế hoạch được công ty giao theo đúng quy định của pháp luạt, hướng dẫn của công ty và Bộ Thương mại.
Tổ chức thực hiện phương án sản xuất kinh doanh theo kế hoạch và mục tiêu chiến lược của công ty.
Tổ chức nghiên cứu, ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu qủa quản lý.
- Quản lý, sử dụng vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, nguồn lực công ty giao theo chế độ nhằm đạt hiệu quả cao nhất.
- Quản lý, sử dụng, đào tạo và phát triển đội ngũ lao động phù hợp với tiêu chuẩn, chức danh chuyên môn, nghiệp vụ. Thường xuyên chăm lo đời sống, việc làm của ngườilao động.
- áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, phòng chống cháy nổ, phòng chống bão lụt theo quy định của pháp luật tổng phạm vi quản lý của trung tâm.
* Quyền hạn của trung tâm:
Chủ động xây dựng bộ máy quản lý, ký kết các hợp đồng kinh tế trong ngoài nước.
Nhận vốn định mức của công ty giao, vay vốn ngân hàng, huy động các nguồn vốn khác phục vụ cho mục đích sản xuất, kinhdoanh theo quy chế của công ty và các quy định hiện hành của Nhà nước.
Chủ động xây dựng bộ máy quản lý, mạng lưới tổ chức sản xuất kinh doanh trên cơ sở phân cấp của công ty. Được áp dụng các hình thức khoán, trả lương, thường làm đòn bảy tăng năng xuất lao động theo quy chế của công ty và quy định của nhà nước.
Được quyền tố tụng, khiếu nại trước pháp luật các hành vi vi phạm chế độ chính sách quản lý kinh tế, tài chính của Nhà nước của các đơn vị khác để bảo vệ lợi ích chính đáng của trung tâm và công ty.
1.4. Đặc điểm hoạt động sản xuất kinh doanh:
Tuy thời gian thành lập không phải là dài, Trung tâm Thương mại Intimex luôn luôn cố gắng về mọi mặt ở mức cao nhất nhằm mục đích tối đa hoá về lợi nhuận, và tái đầu tư để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Với quy mô kinh doanh lớn, đặc biệt lại có uy tín cao trong giới kinh doanh cũng như với người tiêu dùng, Trung tâm đã ngày càng mở rộng thị trường kinh doanh và tạo cho mình một chỗ đứng vững chắc trên thị trường đó. Ngành nghề kinh doanh của Trung tâm hiện nay là kinh doanh XNK và kinh doanh nội địa.
Trong lĩnh vực kinh doanh XNK, Trung tâm trực tiếp xuất khẩu các mặt hàng truyền thống như: cà phê, cao su, hạt tiêu, thủ công mĩ nghê, hải sản sang các quốc gia châu âu như: Pháp, Mĩ, Nga, và một số quốc gia trong khu vực Đông Nam á như: Singapore, Thái lan; song hành là quá trình nhập khẩu trực tiếp các mặt hàng vật tư, điện tử gia dụng, linh kiện máy tính, thiết bị vệ sinh, và các mặt hàng phục vụ cho hoạt động kinh doanh siêu thị khác từ các quốc gia như: Thái Lan, Hàn Quốc, Nga, Pháp.
Kinh doanh nội địa hiện nay đang được Trung tâm đặt lên hàng đầu với hai hình thức là: Bán buôn hàng hoá và bán lẻ hàng hoá (Qua hệ thống chuỗi Siêu thị Intimex). Liên doanh để cung cấp hàng hoá. Trong các hình thức này Trung tâm thực hiện kinh doanh nhiều nghành hàng đa dạng và phong phú về chất lượng, mẫu mã, giá cả hợp lý bao gồm hàng sản xuất trong nước và hàng nhập khẩu.
Có thể nói, hình thức kinh doanh Siêu thị là một thế mạnh lớn của Trung tâm hàng năm phần trăm doanh số từ hoạt động này mang lại rất lớn. Mặt hàng kinh doanh siêu thị của Trung tâm có nhiều ngành hàng vô cùng phong phú như: bánh kẹo, đồ uống, thực phẩm, mỹ phẩm, hàng gia dụng… quan trọng hơn là trong từng ngành hàng đồ uống bao gồm đồ uống có ga, đồ uống thường và đồ uống dinh dưỡng. Với quy mô lớn như vậy để đảm bảo cho việc cung cấp hàng hoá kịp thời tới người tiêu dùng. Hiện nay Trung tâm đã bố trí một mạng lưới phân phối bao gồm sáu siêu thị lớn, Trung tâm dự định sắp tới sẽ mở thêm một siêu thị trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh lân cận theo định hướng của công ty.
1.5. Đặc điểm tổ chức bộ máy quản lý của trung tâm:
Bộ máy quản lý của trung tâm thương mại Intimex được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng. Nhân viên các bộ phận chịu sự lãnh đạo trức tiếp của trưởng phòng và ban giám đốc. Có thể khái quát bộ máy quản lý theo sơ đồ sau:
Sơ đồ 1: Bộ máy quản lý tại trung tâm
Giám đốc
Phó giám đốc phụ trách TCHC
PGĐ phụ trách kinh doanh
PGĐ phụ trách TTB, CSVC, đối ngoại
Phòng TCHC
Phòng TCKT
Siêu thị
Phòng kiều hối
Phòng
NVKD
Siêu thị Intimex Bờ Hồ
Siêu thị Intimex Hoà Nam
Siêu thị Intimex Lạc Trung
Siêu thị Intimex Huỳnh Thúc Kháng
Siêu thị Intimex Hải Dương
Siêu thị Intimex Định Công
Đứng đầu bộ máy quản lý của trung tâm là Giám đốc Trung tâm do tổng giám đốc công ty XNK Intimex bổ nhiệm. Giám đốc trung tâm làm việc theo chế độ một thủ trưởng, có quyền quyết định cơ cấu tổ chức bộ máy của trung tâm. Giám đốc trung tâm lựa chọn và đề nghị tổng giám đốc Công ty bổ nhiệm và miễn nhiệm phó giám đốc, các trưởng phòng bộ máy quản lý tại trung tâm. Giám đốc chịu trách nhiệm trước Công ty và Nhà nước về mọi hoạt động của trung tâm, đồng thời chịu trách nhiệm trước tập thể người lao động của trung tâm theo quy định của pháp luật.
Trợ giúp cho Giám đốc là Phó giám đốc và chức danh lãnh đạo khác, Phó giám đốc trung tâm dưới quyền giám đốc và chịu trách nhiệm cá nhân trước Giám đốc về phần việc của mình.
Các phòng ban chức năng của trung tâm bao gồm: Phòng tổ chức hành chính, Phòng tài chính kế toán, Phòng nghiệp vụ kinh doanh, Phòng Kinh tế tổng hợp, Hệ thống các siêu thị, Phòng kho vận, Phòng an ninh.
Chức năng của các phòng ban:
+ Phòng tổ chức hành chính: có chức năng tham mưu cho Giám đốc trong việc thực hiện các phương án tuyển dụng, sắp xếp nhân lực; thực hiện các chính sách chế độ đối với người lao động, làm công tác hành chính lưu trữ. Cụ thể là xây dựng kế hoạch về công tác tổ chức lao động, tiền lương, định mức lao động, bảo hiểm xã hội, tổ chức công tác đào tạo, nâng bậc lương cho công nhân viê, theo dõi ký kết hợp đồng lao động, giải quyết thủ tục tuyển dụng, thôi việc và công tác thi đua khen thưởng. Đồng thời xử lý thông tin tài chính giữa Giám đốc và các phòng ban chức năng.
+ Phòng nghiệp vụ kinh doanh: Có chức năng tổ chức hoạt động kinh doanh, kinh doanh thương mại và dịch vụ tổng hợp theo điều lệ và giấy phép kinh doanh của Trung tâm thương mại Intimex. Với kế hoạch trọng tâm là phát triển chuỗi siêu thị phục vụ nhu cầu tiêu dùng xã hội thì Phòng nghiệp vụ kinh doanh là phòng duy nhất thực hiện nhiệm vụ nhập hàng, kiểm soát chất lượng hàng hoá đầu vào tại Trung tâm thương mại Intimex.
+ Phòng kinh tế tổng hợp: Tổng hợp toàn bộ hoạt động kinhd doanh của Trung tâm từ báo cáo của các phòng ban theo từng kỳ, kết hợp nghiên cứu thị trường xây dựng và đề xuất các biện pháp nâng cao doanh số tại các siêu thị, nâng cao hình ảnh siêu thị, hình ảnh Trung tâm thương mại trong mắt khách hàng. Do đó phòng kinh doanh tổng hợp và phòng nghiệp vụ kinh doanh có liên quan chặt chẽ với nhau, hỗ trợ nhau trong việc nâng cao doanh số, đẩy mạnh thương hiệu Intimex.
+ Phòng Tài chính – Kế toán: Phản ánh, ghi chép các nghiệp vụ kinh tế tài chính phát sinh trong quá trình hoạt động của Trung tâm một cách kịp thời, chính xác theo phương pháp quy định.
Thu thập, phân loại và xử lý, tổng hợp số liệu thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh của Trung tâm nhằm cung cấp thông tin về mọi hoạt động cần thiết cho các đối tượng sử dụng khác nhau, tiến hành tổng hợp số liệu lập báo cáo tài chính.
Quản lý việc huy động và sử dụng vốn tại trung tâm, thực hiện các nghiệp vụ thanh toán với nhà cung cấp, khách hàng, nhân viên, Công ty và nhà nước.
Thực hiện phân tích tình hình tài chính, đề xuất các biện pháp về tài chính trợ giúp cho ban Giám đốc trong việc ra quyết định kinh doanh tối ưu nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong công tác quản trị.
Cuối kỳ kế toán trưởng lập báo cáo tài chính cho quý sau và đề xuất tới cấp trên.
+ Phòng kho vận: Là nơi chứa hàng của trung tâm, có nhiệm vụ nhập, xuất hàng hoál; đảm bảo cho hàng hoá cả về số lượng và chất lượng.
+ Phòng an ninh: có chức năng đặc biệt quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh là đảm bảo an toàn cho toàn Trung tâm bất kể ngày đêm, đặc biệt là các dịp lễ tết, ngày nghỉ, những ngày khách hàng đến siêu thị đông.
Hàng ngày, Giám đốc kiểm tra, giám sát hoạt động của Trung tâm, tạo điều kiện thuận lợi cho các cán bộ hoàn thành nhiệm vụ. Hàng tuần, các bộ phận hợp để báo cáo với ban lãnh đạo, xin ý kiến chỉ đạo, giải quyết các vấn đề đặc biệt nảy sinh. Trong quá trình hoạt động các cán bộ có quyền đề nghị, khiếu nại với ban Giám đốc các vấn đề có liên quan tới công việc.
+ Các siêu thị (bao gồm siêu thị Intimêx Bờ hỗ, siêu thị Intimêx Hào Nam, siêu thị Intimex Lạc Trung, siêu thị Intimex Huỳnh Thúc Kháng, siêu thị Intimex Hải Dương, siêu thị Intimex Định Công)
Theo sự chỉ đạo của ban Giám đốc về phương hướng, kế hoach kinh doanh, kế hoạch lợi nhuận Giám đốc các ngành hàng, tổ trưởng, tổ phó các tổ chức trong siêu thị tổ chức bán lẻ hàng hoá dưới hình thức bán hàng tự chọn, với các ngành hàng: Bánh kẹo, đồ uống, hàng thực phẩm chế biến, hàng thực phẩm công nghệ, đồ gia dụng, mỹ phẩm… luôn được duy trì và bổ sung với triết lý kinh doanh: “ phục vu khách hàng là niềm vui của chúng ta”.
Hàng ngày nhân viên các quầy ghi chép số lượng hàng bán ra theo từng ngành hàng, và phân loại cho từng nghành hàng đó, cuối ngày tổng hợp số liệu về số lượng nhập quầy, số lượng bán ra, số lượng tồn quầy sau đó chuyển cho bộ phận kế toán.
1.6.Cơ cấu lao động của Trung tâm thương mại Intimex
Biểu 1: cơ cấu lao động của Trung tâm thương mại Intimex
Đơn vị: Người, Tỉ Trọng (TT): %, Tỉ lệ (TL) :%
Tổng số
2005
2006
2007
SS 2005/2006
SS 2006/2007
SL
TT
SL
TT
SL
TT
STĐ
TL
STĐ
TL
307
100.0
385
100.0
425
100.0
78
25.4
40
10.4
Theo tính chất lao động
+ Trực tiếp
290
94.5
300
77.9
312
73.4
10
25.3
12
4.0
+ Gián tiếp
80
26.1
85
22.1
113
26.6
5
6.3
28
32.9
Theo trình độ
+ ĐH và sau ĐH
90
29.3
100
26.0
120
28.2
10
11.1
20
20.0
+ CĐ và Trung cấp
92
30.0
97
25.2
115
27.1
5
5.4
18
18.6
+ Phổ thông TH
188
61.2
188
48.8
190
44.7
0
0
2
1.1
Theo giới tình
+ Nữ
295
96.1
280
72.7
310
72.9
-5
(1.7)
30
10.7
+ Nam
95
30.9
105
27.3
115
27.1
10
10.5
10
9.5
(Nguồn phòng Tổ chức – hành chính)
Nhìn vào bảng cơ cấu lao động ta thấy nguồn lực của Trung tâm thương mại Intimex khá tốt. Năm 2005 cán bộ công nhân viên có trình độ đại học và trên đại học chiếm 29,3%, nhưng đến năm 2006 về số lượng tăng lên 100người và tỷ lệ toàn công ty cũng tăng lên 26% Năm 2007 cũng tăng lên 20 người. Đội ngũ cán bộ công nhân viên trung cấp cũng tăng lên rất nhiều vì đã thành lập nhiều hệ thống siêu thị mới. Việc thành lập các siêu thị mới cần phải thêm một số lượng lớn nhân viên có nghiệp vụ kinh doanh, có trình độ bán hàng, ngoài ra nhu cầu về nhân viên cho các công việc phục vụ, trực tiếp quá trình sản xuất kinh doanh là rất lớn do đó trung tâm đã tuyển thêm nhiều nhân viên với trình độ nghiệp vụ phù hợp với công việc của mình. Tuy nhiên Trung tâm thương mại vừa và tương đối lớn, kết quả hoạt động kinh doanh phụ thuộc chủ yếu bởi trình độ của những cán bộ làm nhiệm vụ chuyên môn như xuất khẩu, nhập khẩu, tạo nguồn, Marketing…nên cần phải đào tạo, tuyển dụng thêm những cán bộ có khả năng, năng lực thực sự để làm công tác kinh doanh.
Nếu xét theo tính chất lao động thì số lương nhân viên lao động trực tiếp năm 2005 so với năm 2006 tăng 10 nhân viên tương đương với tăng 25,3% và năm 2007 tăng thêm 12 nhân viên so với năm 2006 tương đương với tỷ lệ là 4,0% . Như vậy ta thấy để phát triển kinh doanh thì công ty đã tuyển thêm nhiều nhân viên trực tiếp để có thể đi sâu sát hơn nữa khai thác thị trường từ đó đưa ra những chiến lược kinh doanh thích hợp hơn. Nhân viên gián tiếp năm 2006 cũng tăng so với năm 2005 là 5 nhân viên chiếm tỷ lên là6,3% và năm 2007 tăng 28 nhân viên nữa tương đương với tỷ lệ tăng lên là 32,9% so với năm 2006. Nhân viên gián tiếp của công ty cũng tăng lên hàng năm nhưng với tỷ lệ ít hơn so với nhân viên trực tiếp.
Nếu phân theo giới tính thì lao động là nữ giới cao hơn so với nam giới vì đặc thù của công ty là kinh doanh về dịch vụ như bán hàng hay nhiều nhân viên về thu ngân chính vì vậy tỷ lệ lao động nữ chiếm gần 73% trong toàn công ty. Tuy nhiên thì năm 2006 so với năm 2005 thì số lao động năm giới đã tăng lên 10 nhân viên tương đương với tỉ lệ tăng là 10,5% nhân viên trong khi số nhân viên nữ giảmc là 5 nhân viên với tỉ lệ giảm là 1,7%. Còn năm 2007 số lượng nhân viên đã tăng lên đáng kể cả nam giới và nữ giới. Nữ giới tăng 30 nhân viên tương đương với tỷ lệ là 10,7% và nam giới tăng 10 nhân viên tương đương với 9,5%.
II: Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Trung tâm
1. Đặc điểm về sản phẩm, lĩnh vực hoạt động và các mối quan hệ kinh tế của Trung tâm thương mại Intimex.
Trong quá trình hoạt động Trung tâm thương mại Intimex có rất nhiều mối quan hệ kinh tế với các thành phần kinh tế khác nhau tuỳ thuộc vào lĩnh vực kinh doanh, nguồn hàng nhập, xuất và tuỳ thuộc vào từng giai đoạn kinh doanh của Trung tâm.
*Kinh doanh Xuất nhập khẩu:
-Trong kinh doanh nhập khẩu Trung tâm thương mại tự tiến hành nhập khẩu tất cả các mặt hàng từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Tuỳ thuộc vào mặt hàng nhập khẩu mà Trung tâm lựa chọn bạn hàng cho phù hợp. Với các mặt hàng như rượu, Trung tâm tiến hành nhập khẩu từ Pháp, Nga…Các mặt hàng là mỹ phẩm Trung tâm nhập khẩu từ Thái Lan…Các mặt hàng tiêu dụng nhập từ Hông Kông…
- Trong kinh doanh xuất khẩu Trung tâm chủ yếu xuất khẩu các mặt hàng lâm sản và cũng tự tiến hành thu mua hàng hoá để tiến hành xuất khẩu. Các hàng hoá xuất khẩu chủ yếu là: cà phê, hạt tiêu, cao su…Ngoài ra Trung tâm cũng tiến hàng xuất khẩu các mặt hàng hải sản… Riêng mặt hàng cà phê, cao su hiện nay Trung tâm thương mại Intimex đã xuất sang 9 nước trên thế giới trong đó có Hoa Kỳ.
- Với hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu hàng hoá, Trung tâm thương mại Intimex không những có mối quan hệ kinh tế với các nước trên thế giới mà còn quan hệ với nhiều thành phần kinh tế trong cả nước để thu mua hàng hoá, cung cấp hàng hoá.
- Kinh doanh nội địa của Trung tâm thương mại Intimex bao gồm hai hình thức là bán buôn và bán lẻ (tổ chức siêu thị). Với hình thức bán buôn, Trung tâm tiến hành bán hàng cho các đại lý, các cơ sở sản xuất kinh doanh khác, do đó mối quan hệ kinh tế ở đây chủ yếu là các cơ sở kinh doanh và các đại lý, hộ kinh doanh cá thể… Khi nhập hàng Trung tâm tiến hành nhập các hàng hoá chủ yếu trực tiếp từ các xí nghiệp sản xuất hoặc từ các đại lý chính của cơ sở sản xuất… Với hình thức bán lẻ hàng hoá, khách hàng chủ yếu của Trung tâm là các khách mua lẻ tại siêu thị và các khách không thường xuyên khác.
- Trung tâm thương mại Intimex đã tạo cho mình được rất nhiều các mối quan hệ kinh tế khác nhau với tất cả các thành phần kinh tế trong cả nước và các bạn hàng trên thế giới đây chính là điểm khởi đầu tốt đẹp và là thuận lợi cơ bản để Trung tâm có những bước tiến mới, vươn đến những tầm cao mới hoà chung với xu hướng phát triển của cả nước.
2. Đặc điểm về thị trương, khách hàng và nguồn hàng của Trung tâm thương mại Intimex.
Về thị trường và khách hàng của Trung tâm: Thị trường trong nước, Trung tâm xác định đối tượng phục vụ là tầng lớp dân cư có thu nhập khá trở lên, phụ nữ và khách du lịch nước ngoài, những đối tượng này tập trung chủ yếu ở Hà Nội. Loại khách này chủ yếu chú ý đến những hàng hoá có chất lượng tốt, mẫu mã đẹp, nhãn hiệu nổi tiếng và cung cách phục vụ của nhân viên. Đối với khách hàng mua buôn, mua với khối lượng lớn, Trung tâm tổ chức bán buôn, giao hàng tận nơi theo yêu cầu. Về thị trường nước ngoài, trung tâm đã quan hệ với nhiều nước trên thế giới như Trung Quốc, Hồng Kông, Cộng hoà liên bang Nga, Ucraina, Australia, Các nước thuộc khối Asean…
Vì kinh doanh đa dạng hoá mặt hàng nên nguồn phục vụ cho hoạt động kinh doanh của Trung tâm cũng rất phong phú. Trung tâm có quan hệ làm ăn buôn bán với nhiều nhà máy sản xuất, các hãng liên doanh, cá nhà phân phối sản phẩm lớn tại Việt Nam. Ví dụ như nhà mày đồ hộp thực phẩm Hạ Long cung cấp thực phẩm đóng hộp; Nhà máy chè Kim Anh; Unilever Việt Nam… Thị trường nguồn hàng nhập khẩu của Trung tâm cũng rất phong phú, các bạn hàng truyền thống của Trung tâm là Nhật Bản, Thái Lan, Singapore, Hồng Kông, Malaysia, Italia…
Chương II:Tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh và lợi nhuận của trung tâm thương mại Intimex.
1. Tình hình tại chính và kết quả hoạt động kinh doanh của Trung tâm trong 3 năm 2005 – 2006- 2007.
1.1 Tình hình và công tác tài chính tại siêu thị:
Mỗi doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển thì điều kiện quan trọng là phải có một số vốn kinh doanh nhất định. Trong những năm qua, Trung tâm thương mại Intimex đã làm ăn ngày một hiệu quả hơn. Do đó, trước khi xem tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của siêu thị, ta xem về vốn và nguồn vốn đảm bảo cho công ty hoạt động trong 3 năm 2005 – 2006 – 2007:
Biểu 2: khái quát về vốn và nguồn vốn của siêu thị:
Đơn vị: 1000đ, Tỉ trọng (TT):%, Tỉ lệ (TL):%
Chỉ tiêu
2005
2006
2007
SS2005/2006
SS2006/22007
SL
TT
SL
TT
SL
TT
STĐ
TL
STĐ
TL
Tổng vốn
16.364.390
100
25.053.050
100
35.592.200
100
8.688.660
53,1
10.539.150
42,07
Theo chủ sở hữu
Vốn CSH
3.141.340
19,2
9.823.740
39.2
15.230.100
42,8
6.682.400
212,7
5.406.360
55,03
Vốn Vay
13.223.050
80,8
15.229.310
60.8
20.362.100
57,2
2.006.260
15,2
5.132.790
33,7
Theo tính chất
Vốn lưu động
14.434.670
88,2
23.037.330
92,0
30.860.910
86.7
8.602.660
59,6
7.823.580
33,96
Vốn cố định
1.929.720
11,8
2.015.720
8.0
4,731,290
13.3
86,000
4.5
2.715.570
134,7
(Nguồn phòng Tài chính – Kế toán)
Cơ cấu vốn:
So sánh giữa 2 năm 2005/2006 ta thấy: Theo tính chất ta thấy
Tổng vốn của Trung tâm năm 2006 so với năm 2005 tăng 8.688.660.000 đồng với tỷ lệ tăng là 53.1%. Tỷ tăng như vậy cho thấy tình hình vốn của siêu thị có những bước phát triển đáng kể. Trung tâm thương mại Intimex hoạt đông trong lĩnh vực kinhdoanh nên có đặc điểm chung với các doanh nghiệp kinh doanh thương mại khác là cơ cấu vốn lưu động chiếm tỷ trọng lớn hơn hẳn so với vốn cố định. Vốn lưu động của Trung tâm năm 2006 so với năm 2005 tăng 8.602.660.000 đồng với tỷ lệ là 59,6% trong khi vốn cố định tăng 86.000.000đ đồng so với năm 2005, tương ứng với 4,5%
So sánh giữa 2 năm 2006/2007: Tổng số vốn của Trung tâm năm 2007 so với năm 2006 tăng 10.539.150.000 đồng tương ứng với tỷ lệ 42,07%Và cũng với tỷ lệ tăng như trên ta thấy được tình hình phát triển của siêu thị ổn định .Vốn lưu động của năm 2007 so với năm 2006 cũng tăng lên là 7.823.580.000 đồng với tỷ lệ 33,96% trong khi vốn cố định tăng 2.715.570.000 đồng tương đương với 134,7%.
Nếu chia theo nguồn vốn theo sở hữu thì nguồn vốn chủ sở hữu năm 2005 so với năm 2006 tăng 6.682.400.000đ tương đương với tỉ lệ là 212,7% như vậy vốn chủ sở hữu đã tăng cao so với năm trước gấp hơn 2 lần. Còn vốn vay tăng 2.006.260.000đ tương đương với tỷ lệ là 15,2%.
So sánh với năm 2006 với năm 2007 thi năm 2007 vốn chủ sở hữu cũng tăng lên là 5.406.360.000đ tương đương với 55,03% còn vốn vay cũng tăng lên là 5.132.790.000đ tương đương với 33,7%.
1.2.Kết qủa hoạt động kinh doanh của Trung tâm thương mại Intimex
Hiện nay trong môi trường kinh doanh gay gắt của cơ chế thị trường, để có thể tồn tại và phát triển bắt buộc mỗi doanh nghiệp phải có lợi nhuận. Không nằm ngoài quy luật đó, mọi cố gắng của Trung tâm trong thời gian qua là để đạt lợi nhuận cao. Muốn vậy, hoạt động kinh doanh của Trung tâm phải phong phú và đa dạng. Để thấy được tình hình thực hiện lợi nhuận của siêu thị ta xem xét bảng kết quả hoạt động kinh doanh của siêu thị:
Bảng 3: Kết quả hoạt động kinh doanh
Đơn vị: 1000đ, TLê: %
TT
Chỉ tiêu
ĐVT
2005
2006
2007
SS 2005/2006
SS 2006/2007
STĐ
TL
STĐ
TL
1
Doanh thu theo giá hiện hành
1000đ
133,105,760
157,601,124
187,560,200
24,495,364
18.4
29,959,076
19.0
2
Tổng số lao động
Người
307
385
425
78
25.4
40
10.4
3
Tổng vốn KD
1000đ
16,364,390
25,053,050
35,592,200
8,688,660
53.1
10,539,150
42.1
3a
Vốn lu động
1000đ
14,434,670
23,037,330
30,860,910
8,602,660
59.6
7,823,580
34.0
3b
Vốn cố định
1000đ
1,929,720
2,015,720
4,731,290
86,000
4.5
2,715,570
134.7
4
Lợi nhuận
1000đ
2,123,880
2,987,560
3,592,610
863,680
40.7
605,050
20.3
5
Nộp Ngân sách
1000đ
679,640
836,520
1,020,356
156,880
23.1
183,836
22.0
6
Thu nhập bình quân LĐ (V)
1000đ
1,562
2,150
2,780
588
37.6
630
29.3
7
Năng suất BQ (W = 1/2)
1000đ
433,569
409,354
441,318
(24,216)
(5.6)
31,965
7.8
8
Tỷ suất LN/DT (4/1)
%
1.6
1.9
2
0,3
18.8
0,1
1.0
9
Tỷ suất LN/VKD (4/3)
%
12.98
11.92
10.09
(1)
(8.1)
(2)
(15.4)
10
Vòng quay vốn lu động (1/3a)
Vòng
9
7
6
(2)
(25.8)
(1)
(11.2)
11
MQH giữa W và tăng V (67/6)
Chỉ số
277.6
190.4
158.7
(87)
(31.4)
(32)
(16.6)
(Nguồn phòng Tài chính – Kế toán)
Nhìn vào bảng kết quả sản xuất kinh doanh ta thấy:
Doanh thu của công ty tăng thêm qua các năm mà cụ thể là năm 2006 tăng so với năm 2005 là 24.495.364.000đ tương đương với tỷ lệ là18,4% và năm 2007 so với năm 2006 là 29.959.076.000đ tương đương với tỷ lệ là 19%. Doanh thu của công ty tăng lên cũng đông nghĩa với lợi nhuận cũng được tăng lên. Sự tăng lên đó đã chứng tỏ sự cố gắng không ngừng của công ty trong việc tiêu thụ hàng hoá để tăng doanh thu và lợi nhuận.
Về tổng vốn kinh doanh của công ty như đã phân tích ở phần công tác tài chính của công ty thì nguồn vốn kinh doanh cũng tăng lên đều so với những năm trước.
Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh của Trung tâm là bộ phận chiếm tỷ lệ lớn nhất, từ năm 2005 đến năm 2006 lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh tăng
863.680.000đ đồng, với tỷ lệ tăng 40,7%. Năm 2007 so với năm 2006 là 1605.050.000 đồng với tỷ lệ tăng là 20,3%. Điều này chứng tổ hoạt động kinh doanh của Trung tâm có hiệu quả và đây là nguồn thu chủ yếu của Trung tâm.
Như vậy, Trung tâm chủ yếu tập trung vào hoạt động kinh doanh và nó quyết định tới kết quả cuối cùng của Trung tâm. Vì vậy, mục đích là tập trung phân tích lợi nhuận từ hoạt kinh doanh, từ đó tìm ra các biện pháp tăng lợi nhuận cho Trung tâm.
Các khoản phải nộp nhà nước năm 2006 so với 2005 tăng lên 156.880.000đ chiếm tỷ lệ 23,1%. Năm 2007 so với năm 2006 tăng lên là 183.836.000đ chiếm tỷ lệ 22%. Như vậy công ty đã thực hiện tốt nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước.
Thu nhập lao động bình quân người/tháng thì năm 2005 là 1.562.000.000đ/ người/tháng. Năm 2006 là 2.150.000đ/ người/tháng, như vậy thu nhập bình quân/ tháng của nhân viên công ty năm 2006 đã tăng lên là 588.000đ tương đương với tỷ lệ là 37,6%. Năm 2007 thu nhập bình quân là 2.569.000đ/người/tháng cũng tăng lên so với năm 2006 là 630.000đ tương đương với tỷ lệ 29,3%. Nhìn vào ta thấy được thu nhập của nhân viên công ty được tăng lên qua mỗi năm chứng tỏ tình hình kinh doanh của công ty có hiệu quả vì thế mà đời sống của nhân viên được nâng lên.
Năng suất lao động bình quân năm 2005 là 433.569.000đ và năm 2006 là 409.354.000đ giảm so với năm trước là 24.216.000đ tương đương với tỷ lệ là 5,6%. Năm 2007 là 470.457.000đ tăng so với năm 2006 là 31.965.000đ tương đương với tỷ lệ là 7,8%. Như vậy năng suất lao động bình quân của công ty được nâng dần trong 2 năm gần đây chứng tỏ nhân viên của công ty ngày càng có tiến bộ về năng lực.
Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu của năm 2005 là 1,6% nghĩa là cứ 100 đ doanh thu thì công ty có được 1,6 đồng lợi nhuận và năm 2006 là 1,9% tức là đã tăng so với năm 2005 lên 0,3% tương đương với tỷ lệ là 18,8%. Năm 2007 là 2% tăng so với năm 2006 là 0,1% tương đương với tỷ lệ 1%. Như vậy năm 2007 tăng kém hơn so với những năm trước.
Về hiệu quả sử dụng vốn của công ty ta thấy tỉ suất lợi nhuận trên vốn năm 2005 là 12,98% nghĩa là cứ 100đ vốn của công ty bỏ ra thì thu về được 12,98 đồng lợi nhuận. Năm 2006 cũng là 11,92% như vậy năm 2006 hiệu quả sử dụng vốn đã giảm gần 1% tương đương giảm 8,1%. Năm 2007 hiệu quả sử dụng vốn là 10,09% cũng giảm hơn so với năm 2006 là gần 2%. Như vậy công ty sử dụng vốn chưa được hiệu quả trong những năm gần đây.
Vì hiệu quả sử dụng vốn không được hiệu quả nên vòng quay vốn lưu động của công ty cũng bị giảm trong những năm gần đây. Năm 2005 thực hiện được 9 vòng thì năm 2006 đã giảm còn 7 vòng tương đương với 25,8% và năm 2007 được 6 vòng tương đương với 11,2.
Chương III: Một số biện pháp nhằm tăng lợi nhuận tại trung tâm thương mại Intimex.
I. Đánh giá chung.
1. Những thuận lợi và kết quả đạt được.
Nhìn chung hoạt động kinh doanh của Trung tâm trong hai năm qua có chiều hướng đi lên, đúng với mục tiêu mà công ty xuất nhập khẩu Intimex đã đề ra, biểu hiện là các chỉ tiêu như: doanh thu thuần, lợi nhuận sau thuế…đều tăng. Trung tâm có vị trí kinh doanh thuận lợi. Hệ thống các siêu thị nằm ở trung tâm thành phố, đông người qua lại. Trong kinh doanh buôn bán thì vị trí cũng là một đièu rất quan trọng. Tuy nhiên, Trung tâm không chỉ dựa vào lợi thế đó bởi điều trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp phải đứng trước rất nhiều khó khăn như: cạnh tranh về giá cả, chất lượng hàng hoá, đặc biệt là khi mà những yêu cầu của người tiêu dùng ngày càng cao. Để đạt được mục tiêu lợi nhuận cao, thì mỗi doanh nghiệp cần có chiến lược kinh doanh cho phù hợp, nắm bắt được nhu cầu của thị trường. Nhận thức được điều đó, ban lãnh đạo Trung tâm đã và đang cố gắng khai thác, phát huy thế mạnh và khắc phụ khó khăn của mình, tìm kiếm đối tác kinh doanh, nắm bắt nhu cầu thị trường. Trung tâm đã chú trọng đến việc đa dạng hoá kinh doanh, điều này đã làm cho hàng hoá của các siêu thị ngày càng đa dạng, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao và chất lượng, kiểu dáng, chủng loại, nên các siêu thị đã tạo được niềm tin và đáp ứng ngày càng cao nhu cầu, thị hiếu của phía khách hàng.
Để đạt được kết quả đó là do Trung tâm đã có sự kết hợp chặt chẽ giữa ban lãnh đạo với các phòng ban. Với cách bố trí công việc, cơ cấu quản lý gọn nhẹ, linh hoạt, khoa học như hiện nay đã giúp cho Trung tâm đạt được nhiều hiệu quả nhất định.
2. Những vấn đề còn tồn tại.
Bên cạnh những mặt đã đạt được thì vẫn còn tồn tại một số khó khăn:
- Chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp còn cao điều này đã làm cho lợi nhuận giảm.
- Trung tâm mới chỉ tập trung vào lợi nhuận hoạt động kinh doanh là chính, chưa chú ý đến hoạt động tài chính, hoạt động khác, vì vậy tuy lợi nhuận của Trung tâm có tăng nhưng chưa thể đạt được lợi nhuận cao.
- Mặc dụ doanh thu thuần tăng nhưng tốc độ tăng của giá vốn hàng hoá cũng tăng gần bằng với tốc độ tăng của doanh thu thuần nên làm cho lợi nhuận của Trung tâm có tăng nhưng mức tăng chưa cao.
- Kinh doanh trong cơ cấu thị trường, nên phải đối mặt với nhiều thách thức, nhiều đối thủ cạnh tranh. Mức tiêu thụ hàng hoá của các siêu thị còn chưa ổn định. Có kỳ doanh thu rất cao nhưng có kỳ lại đạt doanh thu thấp.
3. Nguyên nhân
3.1Nguyên nhân khách quan:
- Cung cầu trên thị trường: Quan hệ cung cầu có ảnh hưởng rất lớn đến giá cả (giá mua và giá bán) và sản lượng tiêu thụ, qua đó ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Cung cầu quyết định giá hàng mua vào cao hay thấp từ đó hình thành nên giá vốn hàng bán cao hay thấp. Mặt khác, cung cầu cũng quyết định giá bán trên thị trường, giá bán cao hay thấp có ảnh hưởng trực tiếp đến việc tăng giảm lợi nhuận của các siêu thị.
- Đối thủ cạnh tranh: Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường có nghĩa là siêu thị phải cạnh tranh trong việc tiêu thụ hàng hoá. Nếu thị trường có nhiều sự cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ có ít khả năng thu được lợi nhuận lớn.
3.2 Nguyên nhân chủ quan:
Do Trung tâm chưa chú trọng đến việc xác định định mức chi tiêu và quản lý chi phí cũng như chưa chú trọng đến việc khuyến khích khách hàng mua hàng nhiều bằng việc giảm giá, chiết khấu.
Trung tâm chưa thực sự chủ động tính toán phương án khai thác tốt các nguồn cung cấp hàng hoá.
Trong bán hàng, chưa áp dụng các biện pháp khuyến khích khách hàng như giảm giá, chiết khấu.
II. Một số biện pháp nâng cao lợi nhuận của Trung tâm.
Qua sự phân tích trên ta thấy được trong thời gian gần đây, Trung tâm làm ăn có hiệu quả, lợi nhuận năm nay cao hơn năm trước. Để đạt được kết quả đó, Trung tâm cần áp dụng đồng bộ các biện pháp sau đây nhằm nâng cao lợi nhuận.
1.Đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá nhằm tăng doanh thu.
Doanh thu tiêu thụ có mối quan hệ tỷ lệ thuận với lợi nhuận. Để tăng doanh thu thì phải đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá:
- Trung tâm phải tăng cường tìm hiểu thị trường, nắm bắt yêu cầu của khách hàng “bán cái gì mà khách hàng cần chứ không phải bán cái mình có”. Khi nghiên cứu thị trường phải phân tích thông tin, tìm ra các quy luật về thị trường phục vụ cho việc ra quyết định kinh doanh những loại hàng hoá nào đạt kết quả cao nhất. Công tác nghiên cứu thị trường là khâu mở đầu của hoạt động kinh doanh.
Cùng với việc nghiên cứu thị trường, Trung tâm phải thực hiện tổ công tác dự báo thị trường. Trung tâm sẽ có dự kiến về thị trường và đưa ra giải pháp kinh doanh những loại hàng hoá theo đúng yêu cầu của thị trường. Trung tâm cần phải trả lợi được: nên kinh doanh những mặt hàng nào? Số lượng bao nhiêu? Bán bao nhiêu?
- Hệ thống siêu thị của Trung tâm bán hàng theo hình thức tự chọn nên một việc tuy nhỏ nhưng cũng góp phân đẩy mạnh để tiêu thụ hàng hóa đó là siêu thị nên có sự sắp xếp các mặt hàng một cách khoa học, hợp lý và dễ nhìn để khi khách hàng đến sẽ lựa chọn dễ dàng hơn.
- Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động quảng cáo là một yếu tố kích thích mạnh mẽ người tiêu dùng. Đó là phương tiện phục vụ đắc lực cho cạnh tranh và khiến người tiêu dùng biết đến siêu thị nhiều hơn. Do vậy, siêu thị cần tăng cường công tác quảng cáo, khuyến mại, chiết khấu thanh toán.
2. Biện pháp giảm chi phí
Quản lý tốt chi phí là biện pháp quan trọng nhằm tăng lợi nhuận.
- Giảm chi phí giá vốn hàng bán: chi phí về giá vốn hàng bán chiếm tỷ trọng lớn trong tổng chi phí kinh doanh của siêu thị. Giảm được chi phí này có nghĩa là giảm được đáng kể chi phí kinh doanh. Muốn vậy, Trung tâm phải tìm kiếm khai thác nguồn hàng trực tiếp thông qua tìm kiếm thông tin từ các bạn hàng, khách hàng cuả mình. Khi có nhiều nguồn hàng, Trung tâm mới có điều kiện thuận lợi để lựa chọn nguồn phù hợp nhất, rẻ nhất.
- Con người là nhân tố quyết định sự phát triển của Trung tâm. Do vậy, Trung tâm cần đến chiến lược con người, có chính sách đầu tư đúng đắn. Đội ngũ nhân viên cần tăng cường công tác đào tạo, nâng cao nghiệp vụ, hiểu biết sản phẩm, nghệ thuật kinh doanh, bán hàng. Chuyên môn hoá đội ngũ bán hàng, mỗi người nên chuyên sâu vào một hoặc một số sản phẩm.
- Giảm chi phí văn phòng và chi phí dịch vụ ngoài. Để giảm được hai chi phí này, Trung tâm phải quán triệt được ý thức tiết kiệm chi phí điện nước, điện thoại… đối với nhân viên.
- Giảm chi phí bán hàng: Để tính toán kết quả kinh doanh trong kỳ một cách chính xác, thì nên phân bổ chi phí bán hàng cho hàng bán ra trong kỳ theo công thức:
CPBH phân bổ cho hàng đã bán trong kỳ
=
CPBH phân bổ cho hàng còn lại đầu kỳ
-
CPBH phát sinh trong kỳ
-
CPBH phân bổ cho hàng còn lại cuối kỳ
Một số mặt hàng ở Trung tâm mang tính chất thời vụ, giá cả thường thay đổi theo nhu cầu của khách hàng hoặc theo xu hướng thị hiếu của người tiêu dùng nên giá cả cũng vì đó mà lên xuống thất thường, do đố việc lập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho là hết sức cần thiết.
Trong quá trình luân chuyển của hàng hoá phục vụ cho kinh doanh thì việc tồn tại hàng hoá dự trữ, tồn kho là một bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của siêu thị. Nếu các siêu thị dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng hàng hoá, còn nếu dự trữ ít quá sẽ làm cho quá trình kinh doanh bị gián đoạn. Do vậy, Trung tâm cần xem xét để thực hiện việc quản lý dự trữ cho phù hợp.
Một số mặt hàng có hạn sử dụng ngắn, nếu tiêu thụ không nhanh sẽ bị hỏng do quá hạn sử dụng. Lượng hàng hoá khá nhiều nên việc theo dõi chi tiết sẽ gặp nhiều phức tạp.
3.Quản lý mặt hàng.
Siêu thị cần có một khoản làm dự phòng giá hàng tồn kho vì có một số mặt hàng ở siêu thị mang tính chất thời vụ, giá cả thường thay đổi theo nhu cầu của khách hàng hoặc theo xu hường thị hiếu của người tiêu dùng nên giá cả cũng vì đó mà lên xuống thất thương, do đó việc lập khoản dự phòng giảm giá hàng tồn kho là hết sức cần thiết.
Trong quá trình luân chuyển của hàng hoá phục vụ cho kinh doanh thì việc tồn tại hàng hoá dự trữ, tồn kho là một bước đệm cần thiết cho quá trình hoạt động bình thường của siêu thị. Nếu siêu thị dự trữ quá lớn sẽ tốn kém chi phí, ứ đọng hàng hoá, còn nếu dự trữ quá ít sẽ làm cho quá trình kinh doanh bị gián đoạn. Do vậy, siêu thị cần xem để thực hiện việc quản lý dự trữ cho phù hợp.
Một số mặt hàng có hạn sử dụng ngắn, nếu tiêu thụ không nhành sẽ bị hỏng do quá hạn sử dụng. Lượng hàng hoá khá nhiều nên việc theo dõi chi tiết sẽ gặp nhiều phức tạp.
4.Về chính sách giá.
Các sản phẩm hàng hoá của các siêu thị đều là nhập từ những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh khác nên giá cả phần lớn do yếu tố khách quan quy định. Vì vậy Trung tâm cần định mức giá bán sao cho hợp lý, xây dựng những mức giá khác nhau cho những khách hàng mua với số lượng khác nhau.
Kết luận
Lợi nhuận thu được từ hoạt động kinh doanh đóng vai trò quyết định cho sự tồn tài và phát triển của siêu thị, nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên trong Trung tâm. Tuy nhiên với khả năng và tiềm lực của siêu thị vần có thế đạt được những kết quả cao hơn. Chính vì vậy mà việc tìm ra và áp dụng những giải pháp phù hợp để không ngừng tăng lợi nhuận của siêu thị là mong muấn, là mục tiêu của tất cả cán bộ lãnh đạo, của nhân viên siêu thị cũng nhú của Trung tâm thương mại Intimex.
Qua thời gian thực tập ở Trung tâm thương mại Intimex, được sự giúp đỡ của Phòng kế toán, của các thầy cô em đã hoàn thành bài luận văn này. Dựa trên các kiến thức đã được học ở trường, kết hợp với những tình hình thực tế tại siêu thị, em đã mạnh hạn đưa ra một số giải pháp góp phần làm tăng lợi nhuận của siêu thị.
Vì trình độ và thời gian có hạn, do đó bài báo cáo của em còn có nhiều thiếu sót, em mong được sự góp ý của các thầy cô trong khoa Quản lý Kinh doanh và các cán bộ công nhân viên của Trung tâm Thương mại Intimex cũng như bạn bè để bài luận văn của em có ý nghĩa thực tiễn hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy hướng dẫn , và các thầy cô trong khoa Quản lý kinh doanh cùng các cán bộ công nhân viên của Trung tâm thương mại Intimex đã giúp em hoàn thành bài luận văn này.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 20689.doc