Hình thức tín dụng có bảo đảm đã và đang dữ một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay. Hơn nữa, nó còn là một trong những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất hiện nay nó gắn chặt trách nhiệm của người đi vay đối với khoản tín dụng của mình hay đối với ngân hàng vay (Thường thì các ngân hàng đánh giá tài sản thế chấp bao giờ cũng nhỏ hơn giá trị thực của nó, và vì vậy mà khách hàng sẽ có sự so sánh về khoản tín dụng mình được vay và giá trị tài sản thế chấp mà mình thế chấp cho ngân hàng, như vậy sẽ có trách nhiệm hơn với khoản vay).
90 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1081 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp mở rộng tín dụng có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách khác là chưa tìm được danh mục đầu tư có khả thi.
- Việc mua cổ phiếu, trái phiếu công ty đối với nhiều người chỉ mang tính kiếm được việc làm ổn định ở doanh nghiệp mà mình mua chứ không manh tính kinh doanh.
Ngoài ra cũng có thể đưa ra một số nguyên nhân làm cho dư nợ cho vay cầm cố giấy tờ có giá năm 2001 giảm so với năm 2000 là:
Các hình thức mà Sở Giao Dịch áp dụng trong cho vay cầm cố chưa nhiều. Với nghiệp vụ này, Sở Giao Dịch mới chỉ áp dụng hình thức cho vay cầm cố giấy tờ có giá với các thương phiếu, các chứng khoán ngắn hạn, các tiền gửi tiết kiệm ngắn hạn, các khoản phải thu. Còn một số hình thức khác Sở Giao Dịch chưa đưa vào áp dụng như cầm cố hàng hoá, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, hợp đồng nhận thầu...Do đó làm giảm doanh số cho vay bằng hình thức này.
Thêm một nguyên nhân từ phía nền kinh tế làm cho hình thức cho vay cầm cố giấy tờ có giá không sôi động như các nghiệp vụ khác là: các doang nghiệp sản xuất kinh doanh, cá nhân, đơn vị... ở nước ta vẫn còn chịu ảnh hưởng nặng nề của việc mua bán “tiền trao cháo múc” sử dụng tiền mặt trong thanh toán nên các hình thức thanh toán bằng thương phiếu chưa được các doanh nghiệp áp dụng rộng rãi.
Lãi suất áp dụng (lãi suất chiết khấu + chi phí chiết khấu còn cao) cho các hình thức này chưa hợp lý, thủ tục rườm rà nên chưa thu hút được khách hàng.
Với tiền gửi khách hàng thì khi cần tiền mặt người gửi thường đến rút trước thời hạn chứ không mấy khi đi cầm cố.
Đánh giá hoạt động cho vay có bảo đảm tại Sở Giao Dịch.
Thành tựu
Đối với loại hình cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại Sở giao dịch cho đến nay đều đạt chất lượng rất tốt, chưa có một khoản tín dụng nào qua hạn mà ngân hàng phải dùng biện pháp thanh lý, phát mại tài sản thế chấp của khoản tín dụng đó để thu hồi lại vốn cho khoản vốn bị khách hàng chiếm dụng...và mức dư nợ với loại hình này cũng tăng đều qua các năm.
Công tác bảo lãnh tăng trưởng tốt, doanh số bảo lãnh đạt 601 tỷ VND doanh số phát sinh của toàn Sở Giao Dịch năm 2000. Số dư bảo lãnh đạt 731 tỷ VND tăng trưởng 14%.
Uy tín trong công tác bảo lãnh của Sở Giao Dịch ngày càng tăng, hầu hết các khách hàng lớn và truyền thống đều có hoạt động gần như 100% nhu cầu bảo lãnh của doanh nghiệp tại Sở Giao Dịch.
Các cán bộ Sở đã đáp ứng kịp thời việc bảo lãnh cho doanh nghiệp, đảm bảo cả về nội dung và thời gian, việc cải thiện hình thức giấy bảo lãnh cũng đã góp phần tăng uy tín và vị thế của Sở Giao Dịch Ngân hàng Đầu tư và Phát triển.
Năm qua, công tác bảo lãnh đảm bảo an toàn 100%, không phát sinh rủi ro và không phải thanh toán thay người được bảo lãnh. Công tác bảo lãnh ngày càng đa dạng hơn dưới mọi hình thức: như bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh đối ứng...
Việc thực hiện tốt nghiệp vụ bảo lãnh đã góp phần thiết lập mối quan hệ tốt với khách hàng và tạo đà cho công tác phát triển và tăng trưởng tín dụng.
Bên cạnh những kết quả đối với hình thức tín dụng có bảo đảm thì tình hình kinh doanh của Sở cũng khá tốt trong những năm qua là:
Tốc độ tăng trưởng luôn duy trì ở mức cao, đồng đều: tổng tài sản bình quân tăng xấp xỉ 30%/ năm, huy động tăng 40%, dư nợ tín dụng 35%, dịch vụ tăng 33%, lợi nhuận trước thuế tăng16%. Cơ cấu tài sản Nợ-Có từng bước chuyển dịch ngày càng hợp lý, tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn tăng từ 20% năm 1998 lên 48% năm 2000, dư nợ trung và dài hạn từ 54% năm 1998 xuống còn 51% năm 2000...Hoạt động dịch vụ có những bước phát triển mạnh. Thu dịch vụ chiếm khoảng 20% tổng thu của ngân hàng. An toàn hệ thống luôn được duy trì ở mức cho phép (nợ quá hạn dưới 1%) thể hiện qua bảng sau:
Bảng 11: Tình hình nợ quá hạn Sở Giao Dịch đến 31/12/2001
Đơn vị : Triệu đồng
Chỉ tiêu
31/12/2000
31/12/2001
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ
NQH/DN
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ
NQH/DN
Tổng số
33.314
0,68
34.477
0,66
Ngắn hạn
1.595
0,17
2.621
0,2
Cho vay theo KHNN-Chỉ định
13.696
0,55
13.755
1,34
Trung và dài hạn thương mạI
13.212
1,82
11.040
0,61
ODA
4.811
1,35
7.061
1,82
Nguồn: Báo cáo tài chính Sở Giao Dịch
Đã phục vụ đắc lực và có hiệu quả nhiệm vụ Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá đất nước bằng việc chuyển mạnh hoạt động cho vay đầu tư phát triển theo đòi hỏi cơ chế thị trường, phù hợp với luật ngân hàng và luật các Tổ chức tín dụng. Doanh số cho vay đầu tư của ngân hàng liên tục tăng qua các năm, năm 1999 đạt 25.000 tỷ VND, sang năm 2000 đạt 35.000 tỷ VND. Vốn đầu tư của ngân hàng tập trung cho vay với những chương trình lớn, những dự án trọng điểm, các ngành then chốt từ trung ương đến địa phương như ngành điện lực 4.000 tỷ VND, ngành bưu chính viễn thông 1.000 tỷ, ngành mía đường 1.000 tỷ, chương trình xi măng 1.000 tỷ, các khu công nghiệp 1.000 tỷ... Vốn vay của ngân hàng Đầu tư đã làm tăng năng lực sản xuất và chuyển dịch cơ cấu kinh tế đất nước.
Kết quả trên đã tạo ra nhận thức mới, phương thức mới, cách làm mới trong thực hiện cho vay đầu tư phát triển, phù hợp với yêu cầu phát triển ngày càng cao của nền kinh tế thị trường của nước ta đồng thời cũng đánh dấu một bước ngoặt quan trọng chuyển sang giai đoạn mới của ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam với tư cách là Ngân hàng thương mại thực thụ song vẫn giữ vai trò là ngân hàng chủ lực trong lĩnh vực đầu tư phát triển
Chăm lo và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động trong các mặt đảm bảo việc làm và thu nhập ổn định, đảm bảo thực hiện đầy đủ quyền và nghĩa vụ, xây dựng và thực hiện các chính sách đối với người lao động.
Một số mặt chưa đạt được trong năm qua
Cơ cấu tín dụng có tài sản bảo đảm giữa các doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn chưa hợp lý. Các doanh nghiệp quốc doanh vẫn chiếm tỷ trọng lớn (hơn 95%) trong tổng dư nợ tín dụng có tài sản bảo đảm. Với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì Sở chưa chú trọng nhiều và vẫn còn có sự phân biệt đối sử.
Đối với hình thức cầm cố tài sản thì Sở mới chỉ dừng lại ở các giấy tờ có giá ngắn hạn. Sở chưa mở rộng các tài sản khác như động sản, hợp đồng nhận thầu, hợp đồng bảo hiểm nhân thọ...
Quá trình xét duyệt, đánh giá tài sản bảo đảm cho khoản tín dụng của khách hàng còn nhiều thủ tục rườm rà, đôi khi làm mất cơ hội kinh doanh của khách hàng...
Trình độ, kinh nghiệm của nhân viên tín dụng về việc đánh giá tài sản thế chấp còn hạn chế
Bên cạnh những hạn chế về hoạt động tín dụng thì cũng còn một số về hoạt động huy động vốn như:
Cơ cấu tài sản Nợ, Có về loại tiền tuy đã cải tiến nhưng vẫn chưa đạt mức bình quân của ngành, tỷ trọng tiền gửi khách hàng vẫn còn thấp mới chiếm gần 28% trong tổng số nguồn vốn huy động, tỷ trọng dư nợ tín dụng trung và dài hạn so với Ngân hàng trên địa bàn cao. Cả nguồn vốn huy động và dư nợ tín dụng đều tập trung ở một số khách hàng lớn dẫn đến các hoạt động, các giải pháp biện pháp của Sở giao dịch bị phụ thuộc và ảnh hưởng nhiều bởi quyết định của các doanh nghiệp này.
Mạng lưới hoạt động đã được, mở rộng nhưng vẫn chưa đủ và chưa có địa điểm trung tâm thu hút được khách để khai thác nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư.
Tuy đã chủ động tìm đến khách hàng, nhưng do cạnh tranh quyết liệt nên hiệu quả chưa cao.
Các loại hình huy động vốn còn ít, chưa thật đa dạng để người dân có thể lựa chọn. Đã có đề án huy động tiết kiệm gửi góp nhưng chưa triển khai thực hiện.
Dịch vụ chưa đạt mức tăng trưởng cao do chưa phát triển thêm được sản phẩm, dịch vụ mới. Sản phẩm dịch vụ chưa đa dạng, các dịch vụ như: sử dụng thẻ ATM, thanh toán thẻ còn chưa phát triển được.
Vốn là khâu then chốt trong hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch. Tuy nhiên nền vốn của Sở Giao Dịch tăng trưởng chưa dồi dào như đối với nguồn vốn tiền gửi thanh toán (chiếm 8,1% trong tổng nguồn huy động có chi phí thấp).
Thông tin về khách hàng và Ngân hàng bạn còn hạn chế.
Nguyên nhân
Về phía ngân hàng
Công nghệ Ngân hàng cả về quy trình nghiệp vụ lẫn trang thiết bị công nghệ, yếu tố quyết định khả năng cạnh tranh, còn yếu, chưa thực hiện đi trước một bước và chưa tương xứng với một Ngân hàng có quy mô hoạt động lớn như Sở Giao Dịch, các thông tin phục vụ công tác quản trị điều hành chưa đầy đủ, tức thời, mang tính thủ công.
Cán bộ Sở Giao Dịch đa số là cán bộ trẻ, có trình độ song còn thiếu kinh nghiệm nên chưa thích ứng ngay được với cơ chế thị trường, cập nhật thông tin, khả năng phân tích, tổng hợp còn hạn chế, đặc biệt số cán bộ có trình độ tổng hợp, biết tổng quát về hoạt động của Ngân hàng còn chưa nhiều.
Nguồn thông tin, đặc biệt các thông tin dự báo dài hạn vĩ mô về định hướng phát triển kinh tế theo ngành, vùng còn thiếu, chưa kịp thời.
Về phía nền kinh tế
+ Nền kinh tế nước ta chưa thực sự phát triển mang đúng nghĩa là nền kinh tế thị trường hiện đại, các hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế vẫn còn đơn giản chưa thực sự mang tính đa dạng, chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển ngày càng mạnh, phong phú và đa dạng của người tiêu dùng.
+ Tư tưởng sản xuất kinh doanh của người dân vẫn còn dư âm của thời bao cấp, đôi khi còn dựa dẫm vào người khác không tự chủ được sản xuất kinh doanh của đơn vị mình...
Về phía Nhà nước
+ Các văn bản pháp lý trong hoạt động kinh doanh ngân hàng nói chung và trong hoạt động tín dụng có tài sản bảo đảm nói riêng vẫn còn nhiều điều bất cập và chồng chéo và đôi khi có những quy định làm cho các ngân hàng thương mại không biết phải áp dụng quy định cho hợp lý.
+ Đối với một số hoạt động, nghiệp vụ như nghiệp vụ Bảo lãnh thì lại chưa có những văn bản hướng đẫn đầy đủ về số tiền tối đa mà ngân hàng được phép bảo lãnh cho khách hàng...
+ Những quy định về quyền sử dụng đất trong vấn đề thế chấp để vay vốn ngân hàng còn chưa được rõ ràng đôi khi làm cho các ngân hàng không giám nhận tài sản thế chấp này để bảo đảm cho khoản vay.
Chương III: Một số biện pháp nhằm mở rộng hình thức tín dụng có bảo đảm tại Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Phương hướng, nhiệm vụ kinh doanh năm 2002:
Thuận lợi.
Nền kinh tế đang chuyển dịch cơ cấu sản xuất, từng bước thích nghi với những biến động của thị trường trong nước và quốc tế.
Tiến độ cơ cấu lại Ngân hàng, sắp xếp và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống Ngân hàng đã được chính phủ phê duyệt và cho triển khai thực hiện.
Ngân hàng từng bước đổi mới điều hành công cụ chính sách tiền tệ quốc gia. Cơ sở pháp lý cho hoạt động Ngân hàng tiếp tục được hoàn thiện. Công nghiệp hoá công nghệ Ngân hàng.
Khó khăn:
Cơ cấu sản xuất trong từng ngành, từng lĩnh vực chưa chuyển dịch kịp thời theo sự biến động nhanh của nhu cầu thị trường trong và ngoài nước.
Kinh tế thế giới diễn biến không thuận lợi và phức tạp; những khó khăn lớn có thể còn kéo dài và ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng tăng trưởng kinh tế của nước ta, thu nhập của nền kinh tế nước ta sẽ tăng chậm.
Diễn biến lãi suất phức tạp, không lường trước được và theo hướng không thuận lợi cho hoạt động của Ngân hàng.
Mục tiêu:
Xác định cơ cấu đầu tư của toàn hệ thống duy trì mức tăng trưởng cao hơn mức tăng trưởng của toàn ngành, được sự hỗ trợ của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển trung ương, với nguồn lực hiện có và các tiền đề đã chuẩn bị trong năm 2001, Sở Giao Dịch đã xác định một số mục tiêu trong kế hoạch kinh doanh năm 2002 như sau:
Tổng tài sản: 14.040 tỷ VND
Nguồn vốn huy động: 9.380 tỷ VND
Dư nợ tín dụng (trừ UTĐT): 6.960 tỷ VND
Lợi nhuận: 90 tỷ VND
Trong đó thu dịch vụ: 26 tỷ VND
Cán bộ: 250 người
Phương hướng:
Từ những mục tiêu chủ yếu trên đây, Sở Giao Dịch đã hình thành các phương hướng như sau:
Lành mạnh hoá và nâng cao năng lực tài chính:
Xây dựng phương án xử lý nợ tồn đọng từ 31/12/2000 trở về trước và nâng cao chất lượng tín dụng.
Xây dựng kế hoạch tài chính lành mạnh gắn liền với thực hiện kế hoạch kế toán đầy đủ theo nguyên tắc tự trang trải và cẩn trọng; nâng cao hiệu quả kinh doanh; cơ cấu lại nguồn thu và thực hiện tiết kiệm chi phí, bảo đảm đủ trang trải chi phí, trích dự phòng rủi ro, quản lý chi tiêu theo định mức.
Cải thiện cơ cấu tài sản Nợ - Có:
Tăng trưởng nguồn vốn:
Xây dựng kế hoạch chăm sóc khách hàng có tiền gửi lớn, thường xuyên, phát triển khách hàng có tiềm năng tiền gửi như hệ thống kho bạc, các công ty bảo hiểm, các tổng công ty...
Nâng cao số lượng và chất lượng dịch vụ, cải tiến quy trình nghiệp vụ, giảm thủ tục giấy tờ, tăng năng suất phục vụ khách hàng, kết hợp với vụ khác với công tác huy động vốn, qua khách hàng cũ mở rộng Marketing với khách hàng mới, phấn đấu giảm sự phụ thuộc vào số ít khách hàng tiền gửi lớn.
Từng bước thí điểm giao chỉ tiêu huy động vốn tiền gửi khách hàng đối với các cán bộ giao dịch trực tiếp như cán bộ tín dụng, kế toán, thanh toán quốc tế... Giao chỉ tiêu huy động vốn dân cư hàng quý đối với quỹ tiết kiệm có gắn với động lực vật chất.
Mở rộng mạng lưới huy động vốn, chú trọng tạo một bộ mặt mang phong cách riêng của Sở Giao Dịch, tạo nên sự an tâm tin tưởng đối với người dân.
Nghiên cứu, thực hiện các hình thức huy động: tiết kiệm gửi góp, nhận và trả tiết kiệm tại nhà, thường xuyên theo dõi tình hình lãi suất thị trường, dự báo xu hướng biến động đưa ra lãi suất hợp lý, linh hoạt.
Vận dụng các cơ chế hiện hành tổ chức điều hành nguồn vốn linh hoạt, phấn đấu dần dần điều chỉnh cơ cấu tài sản Nợ – Có phù hợp nhằm hạn chế rủi ro về cơ cấu loại tiền, lãi suất đối với hoạt động Ngân hàng, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.
Tăng trưởng nâng cao chất lượng tín dụng:
Duy trì thường xuyên công tác tổ chức đánh giá phân loại khách hàng theo định kỳ trên cơ sở các thông tin có lựa chọn. Từ đó xây dựng giới hạn tín dụng và hạn mức tín dụng đối với từng khách hàng, có chính sách lãi suất phù hợp kết hợp với chính sách phát triển sản phẩm và dịch vụ theo hướng đáp ứng tối đa nhu cầu của khách hàng để có thể gia tăng số dịch vụ cung cấp cho từng khách hàng, đồng thời tăng doanh số giao dịch.
Mở rộng tín dụng sang các lĩnh vực khác và các thành phần kinh tế như công ty cổ phần, các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, thí điểm lựa chọn một số công ty cổ phần đã có uy tín trong giao dịch, có khả năng tài chính để đầu tư trên cơ sở bảo đảm đúng chế độ quy định. Có kế hoạch tiếp thị và khai thác khách hàng trong các khu công nghiệp.
Tăng cường thu thập thông tin về các chương trình đầu tư phát triển của thành phố, của các bộ ngành, các tổng công ty kết hợp với tình hình hoạt động của doanh nghiệp nhằm lên kế hoạch tiếp cận cụ thể với các chính sách áp dụng phù hợp, đáp ứng đúng nhu cầu của khách hàng.
Thực hiện nghiêm túc luật các tổ chức tín dụng và quy trình tín dụng của ngành, nâng cao vai trò công tác thẩm định trong xét duyệt cho vay, tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát, nhất là đối với các doanh nghiệp có dấu hiệu khó khăn để không phát sinh thêm nợ quá hạn và rủi ro tín dụng.
Mạnh dạn mở rộng tín dụng ngắn hạn trong các ngành nghề phi xây lắp (như sản xuất công nghiệp, dịch vụ...) một cách có chọn lọc đối với một số doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, sản phẩm có sức cạnh tranh, có thị trường. Mở rộng tín dụng các lĩnh vực khác và thành phần kinh tế như công ty cổ phần, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã có uy tín trong giao dịch.
Mở rộng tín dụng ngoại tệ với khách hàng có khả năng tái tạo ngoại tệ hoặc tìm được nguồn cung ứng ngoại tệ từ các doanh nghiệp khác, cho vay kết hợp với áp dụng các công cụ phòng tránh rủi ro tỷ giá, xác định khả năng hỗ trợ ngoại tệ của Sở Giao Dịch đối với một số khách hàng có doanh số giao dịch lớn để nâng mức tăng trưởng tín dụng một cách an toàn trên cơ sở chính sách cung ứng ngoại tệ phù hợp với tình hình cung cầu.
Dịch vụ và công nghệ Ngân hàng:
Tuân thủ và làm theo quy trình ISO do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung Ương ban hành trong lĩnh vực Công Nghệ Thông Tin.
Trang bị thêm các máy chủ loại lớn với tốc độ xử lý cao phục vụ mảng dịch vụ cho khách hàng như Home Banking, Phone Banking, Internet Banking nhằm mở rộng hơn các dịch vụ Ngân hàng, tăng thêm hiệu quả sử dụng ATM.
Thuê riêng đường Leaseline để thông suốt hệ thống mạng giữa các phòng giao dịch, chi nhánh Gia lâm cùng các quỹ tiết kiệm trực thuộc với hồi Sở chính.
Nghiên cứu triển khai mở rộng nghiệp vụ Ngân hàng bán lẻ tại các điểm giao dịch, tìm kiếm các đại lý đủ điều kiện thực hiện thu đổi ngoại tệ, séc du lịch, mở tài khoản cá nhân, chuyển tiền kiều hối.
Có kế hoạch tiến độ từng bước thực hiện hạch toán phân tán đối với các nghiệp vụ tín dụng, điều hành nguồn vốn nhằm tăng nhanh tốc độ phục vụ khách hàng nhất là tốc độ thanh toán và tăng cường khả năng kiểm soát kế toán. Đặc biệt chú trọng tăng cường khả năng tự xây dựng các chương trình phần mềm ứng dụng phục vụ các mặt nghiệp vụ, phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch.
Công tác tổ chức đào tạo cán bộ:
Thường xuyên tổ chức các hội nghị, hội thảo, mời các chuyên gia trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế xã hội, Ngân hàng tài chính nói chuyện. Chú trọng hình thức tập huấn nghiệp vụ đối với các cơ chế, chế độ hướng dẫn mới hoặc các chiến dịch hoạt động lớn.
Phát dộng phong trào nghiên cứu khoa học sâu rộng trong toàn thể cán bộ Sở Giao Dịch, xây dựng kế hoạch nghiên cứu khoa học. Trên cơ sở chế độ hiện hành, xây dựng chính sách nghiên cứu khoa học để khuyến khích mọi người tích cực tham gia nghiên cứu và nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Giải pháp.
Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ Sở.
Để có thể mở rộng và phát triển một cách hiệu quả hoạt động tín dụng có bảo đảm thì trước hết Sở phải có một cơ cấu tổ chức và quản lý chặt chẽ và đồng bộ, hợp lý và luôn bám sát tình hình thực tế, xây dựng được một tập thể cán bộ đoàn kết, trong đó ban lãnh đạo và cán bộ phụ trách là những người năng nổ, sáng tạo, dám làm, dám chịu trách nhiệm, cùng với đội ngũ cán bộ nghiệp vụ có trình độ cao, nhiệt tình, tháo vát.
Con người luôn luôn là yếu tố quyết định cho sự thành công của mọi công việc. Dưới con mắt của khách hàng, cán bộ ngân hàng cùng với các trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh doanh là ảnh hưởng đầu tiên của ngân hàng. Nó phản ánh khả năng, năng lực cũng như uy tín của ngân hàng đó. Tác phong làm việc, năng lực, nghiệp vụ, trình độ hiểu biết và thái độ phục vụ giao tiếp của các cán bộ lãnh đạo cũng như cán bộ nghiệp vụ luôn là những yếu tố quan trọng cho việc lựa chọn ngân hàng của khách hàng. Nó có tính chất quyết định sự gắn bó của khách hàng. Mặc dù trình độ của cán bộ ngân hàng đã cao, am hiểu nghiệp vụ, nhưng để đáp ứng được đòi hỏi của công việc ngày càng khó khăn và phức tạp thì mỗi cán bộ, Ngân hàng cần phải cố gắng nhiều hơn nữa. Cụ thể là:
Thường xuyên tổ chức các lớp bồi dưỡng nghiệp vụ về chế độ kế toán mới, các phương pháp và kỹ thuật thẩm định dự án, phân tích các hoạt động kinh tế, các kiến thức pháp lý như luật dân sự, các vấn đề liên quan đến sở hữu.
Tuyển chọn những cán bộ thực sự có năng lực cả về chuyên môn nghiệp vụ lẫn trình độ văn hoá. Đặc biệt là cán bộ trẻ có năng lực nhạy bén với công việc, với sự thay đổi và yêu cầu của hoạt động kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Bố trí, xắp xếp lại đội ngũ cán bộ một cách hợp lý. Từng bước tiêu chuẩn hoá cán bộ trên cơ sở năng lực, trình độ nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức, đáp ứng được nhu cầu của công tác kinh doanh trong cơ chế thị trường.
Đối với cán bộ hoạch định chính sách tín dụng phải là người có trình độ lý luận nghiệp vụ ngân hàng vững vàng, phải có kiến thức kinh tế tổng hợp, có phương pháp nghiên cứu khoa học, am hiểu thị trường và giàu kinh nghiệm thực tế, có khả năng tổng hợp vấn đề. Ngoài ra phải cso kiến thức pháp luật vững chắc và sâu rộng. Có được những điều đó người cán bộ mới có thể hoạch định được chính sách và hướng giải quyết đúng đắn, hiệu quả, đảm bảo đúng pháp luật. Muốn vậy Sở giao dịch thường xuyên phải có các cuộc hội thảo khoa học, có kế hoạch đào tạo nâng cao nghiệp vụ thường xuyên, phải thiết lập được mối quan hệ với các tổ chức, trung tâm nghiên cứu lĩnh vực ngân hàng để có thể tiếp xúc được với những kiến thức mới, đồng thời nắm bắt được những thay đổi trong diễn biến hoạt động của lĩnh vực ngân hàng.
Đối với cán bộ quản lý điều hàng hoạt động tín dụng, ngoài những tiêu chuẩn về kiến thức nghiệp vụ cơ bản, cần nhấn mạnh các đặc điểm sau:
Phải nắm chắc về pháp luật, đặc biệt là luật kinh tế và luật dân sự.
Phải nắm chắc các quy định, thể chế, vận dụng một cách linh hoạt. Phải có khả năng tổng hợp, phân tích các điều đúng, chưa đúng, chưa phù hợp của chế độ, thể lệ để kiến nghị với cấp trên.
Phải có kiến thức khoa học tâm lý, trình độ ngoại ngữ và tin học.
Đối với đội ngũ cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng, thẩm định dự án, đề xuất với lãnh đạo ra quyết định, đồng thời theo dõi quá trình sử dụng vốn và thu nợ. Quyết định đúng sai của người lãnh đạo phụ thuộc phần lớn vào đội ngũ này. Do đó ngoài tiêu chuẩn chung là trình độ kiến thức về nghiệp vụ cần đòi hỏi họ là những người trung thực, khách quan, thắng thắn, kiên định rõ ràng, có ý thức bảo vệ tài sản của Ngân hàng. Ngoài trình độ chuyên môn, cán bộ trực tiếp tham gia giao tiếp với khách hàng phải sâu sát thực tế, hiểu biết nhất định về kinh tế thị trường, nắm vững pháp luật và các vấn đề có liên quan. Muốn vậy ngân hàng phải thường xuyên tổ chức kiểm tra kiến thức về nghiệp vụ, pháp luật, tâm lý... và cần có khuyến khích về mặt vật chất.
Xây dựng một chiến lược Marketing ngân hàng đúng đắn.
Cùng với việc lập thêm phòng Marketing, cần phải xây dựng một chiến lược Marketing đúng đắn nhằm thu hút khách hàng. Để tăng quy mô tín dụng, tăng khả năng xâm nhập thị trường của ngân hàng vào một thị trường mới thì ngân hàng phải thu hút được nhiều khách hàng có quan hệ tín dụng với mình. Để làm được điều đó Sở Giao Dịch I NHĐT&PT phải xây dựng được một chiến lược Marketing đúng đắn và hấp dẫn. Cụ thể cần thực hiện các biện pháp sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu nhu cầu của thị trường, cụ thể là của khách hàng về nhu cầu vay vốn và các dịch vụ khác của ngân hàng là yếu tố đầu tiên quyết định các bước tiến theo của việc xây dựng chiến lược Marketing ngân hàng. Khi khách hàng lựa chọn ngân hàng để quan hệ tín dụng khi họ quan tâm đến thái độ phục vụ, mức lãi suất, phí dịch vụ, các dịch vụ đi kèm mà ngân hàng cung cấp cho khách hàng... Để có được đầy đủ các thông tin về nhu cầu của thị trường, các ngân hàng phải thường xuyên nghiên cứu thu thập các thông tin về nhu cầu của khách hàng và nghiên cứu về các đối thủ cạnh tranh. Việc nghiên cứu nhu cầu của khách hàng nhằm trả lời câu hỏi họ cần gì ở ngân hàng, cần lúc nào? bao nhiêu? Nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh tức là nghiên cứu các ngân hàng cùng tham gia vào thị trường xem xét khả năng, điểm mạnh, điểm yếu của các ngân hàng khác và các tổ chức hoạt động tín dụng. Thực hiện tốt việc này, ngân hàng mới nắm rõ được nhu cầu của khách hàng, nhìn lại chính mình để thấy rõ điểm mạnh để phát huy, điểm yếu để khắc phục và đưa ra chiến lược phát triển lâu dài trong hoạt động kinh doanh.
Thứ hai. Xây dựng một chiến lược sản phẩm hấp dẫn.
Một sản phẩm hấp dẫn mà khách hàng có thể tìm thấy nhiều lợi ích từ đó thì chắc chắn khách hàng sẽ lựa chọn sản phẩm đó. Một chiến lược sản phẩm đúng đắn sẽ thu hút được khách hàng, mở rộng được quan hệ tín dụng. Ngược lại nếu một sản phẩm không có tính hấp dẫn thì sẽ không thu hút được khách hàng. Do đó Sở giao dịch cần phải hiểu rằng, trong hoạt động của ngân hàng, rất khó có thể đưa ra được một sản phẩm mới, mà phần lớn chỉ là cải tiến, tạo ra sự khác biệt, hấp dẫn dẫn trong sản phẩm truyền thống của ngân hàng. Sự cải tiến này lại nằm trong quy định của Ngân hàng cấp trên, tuy nhiên trong tình hình hiện nay khi mà hoạt động cạnh tranh giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt thì càng buộc các ngân hàng phải có các sản phẩm và cung ứng các dịch vụ mà thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng, đa dạng và phong phú về chủng loại. Ngân hàng ngày càng phải đổi mới, cải tiến chất lượng sản phẩm, dịch vụ mà mình cung cấp, tăng khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của ngân hàng. Sở Giao Dịch I ngày càng khẳng định vị trí của mình trong lĩnh vực hoạt động tiền tệ, ngân hàng khu vực Hà Nội và các vùng phụ cận, do đó cần phải chú ý vào các điểm sau trong chiến lược sản phẩm của mình:
Đa dạng hoá các hình thức tín dụng đối với cả khu vực quốc doanh và khu vực ngoài quốc doanh.
Trong tương lai gần khu vực kinh tế ngoài quốc doanh sẽ là khu vực kinh tế đa dạng về quy mô, ngành nghề sản xuất kinh doanh. Vì vậy nhu cầu về khối lượng vốn vay, thời hạn vay, phương thức trả vốn và lãi vay là không giống nhau. Chính vì vậy để đạt được mục tiêu thoả mãn đồng thời lợi ích của khách hàng và của ngân hàng, ngân hàng phải đưa ra các hình thức tín dụng phù hợp với yêu cầu của khách hàng. Ngoài cách cho vay theo truyền thống qua việc đảm bảo bằng tài sản thế chấp, cần phải phát triển mạnh mẽ các hình thức cho vay khác như:
- Cho vay đảm bảo bằng các khoản thu. Các doanh nghiệp bán hàng nhưng chưa thu được tiền do người mua chịu làm cho các doanh nghiệp này bị thiếu vốn lưu động. Ngân hàng có thể giúp các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động bằng cách cho vay một khoản tín dụng ngắn hạn dựa theo tỷ lệ phần trăm so với khoản thu. Các doanh nghiệp phải trình đầy đủ các giấy tờ chứng minh quyền sở hữu các khoản thu của mình.
Hình thức hùn vốn đầu tư liên doanh liên kết với khách hàng. Đây là một hình thức rất mới để giúp ngân hàng mở rộng tín dụng, không nhất thiết phải cho vay mà tìm trong số khách hàng của mình các doanh nghiệp làm ăn có hiêụ quả, có hiệu quả, có triển vọng thì ngân hàng ký thoả thuận liên doanh liên kết để cùng sản xuất kinh doanh. Bằng hình thức này ngân hàng không những mở được tín dụng của mình mà còn có điều kiện để xâm nhập thị trường, từ đó tìm ra những mặt mạnh, mặt yếu của doanh nghiệp. Vừa trực tiếp giám sát, quản lý vốn vay vừa có thu nhập cao do là người trực tiếp đầu tư. Với sự giúp đỡ của các nhân viên ngân hàng, chắc chắn doanh nghiệp sẽ làm ăn có hiệu quả.
Tổ chức dịch vụ: “Cung cấp tín dụng tại nhà”. Đây là dịch vụ mà chưa có một ngân hàng nào cung ứng. Nhưng thiết nghĩ các doanh nghiệp buôn bán, sản xuất sản phẩm thuần tuý đã thực hiện cung cấp sản phẩm tại nhà, hay cung cấp theo yêu cầu của khách hàng với dịch vụ vận chuyển. Điều này tạo ra một bước ngoặc mới trong hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Ngân hàng cũng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt và tín dụng ngân hàng là sản phẩm mang tính đặc biệt, thì tất nhiên ngân hàng cũng có thể làm dịch vụ cung cấp tín dụng tại nhà. Thực hiện cấp tín dụng tại nhà sẽ giúp được ngân hàng xem xét được tận nơi cơ sở vật chất, trong thiết bị của doanh nghiệp, có điều kiện đánh giá về tình hình làm ăn của khách hàng. Mặc dù chi phí cho khoản vay này sẽ cao hơn bình thường song nó đảm bảo chắc chắn, ít rủi ro do nắm được cơ bản tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa chắc chắn loại hình này nếu được áp dụng sẽ đem lại thu nhập lớn cho ngân hàng.
Tiến hành phân loại khách hàng để cho vay.
- Đơn vị xếp loại A: Là những đơn vị sản xuất kinh doanh ổn định có lãi trong 2 năm gần đây nhất, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với Nhà nước và không có nợ quá hạn đối với Ngân hàng. Nếu các doanh nghiệp thuộc loại này có phương án khả thi thì có thể cho vay ưu tiên về thủ tục, lãi suất hoặc có thể cho vay bằng tín chấp.
- Đơn vị xếp loại B: Là những doanh nghiệp có tình hình sản xuất kinh doanh không ổn định uy tín trên thị trường chưa cao. Đối với các doanh nghiệp này nên cho vay trên cơ sở cầm cố thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ 3.
- Đơn vị xếp loại C: Là những đơn vị kinh doanh thua lỗ, không có biện pháp khắc phục, quan hệ dây dưa với các ngân hàng, thường xuyên có nợ quá hạn tại ngân hàng. Đối với các doanh nghiệp này không nên tiếp tục cho vay đồng thời tìm mọi biện pháp để thu hồi nợ quá hạn.
Tất nhiên đây chỉ là một cách phân loại tạm thời, không phải là một khuôn mẫu cứng nhắc. Tiến hành phân loại theo các tiêu thức khác nhau cho phù hợp.
Cần có các dịch vụ kèm theo sản phẩm chính của chi nhánh, thông thường đó là dịch vụ tư vấn. Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh rất cần sự tư vấn của chi nhánh vì khả năng quản lý, trình độ lập dự án và kinh nghiệm sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp này còn rất hạn chế và kém bén nhạy trên thị trường, không có khả năng dự đoán về những biến động. Dịch vụ tư vấn ở ngân hàng đã có nhưng mức độ chưa đạt được như mong muốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Để thu hút các doanh nghiệp ngoài quốc doanh về quan hệ với chi nhánh cần phải tổ chức một dịch vụ tư vấn khách hàng thật tốt về tất cả mọi lĩnh vực: tư vấn về thị trường đầu vào, thị trường đầu ra, quản lý quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh và các lĩnh vực khác. Muốn cho có một dịch vụ tư vấn thì Sở Giao Dịch I cần phải có một đội ngũ cán bộ thật sự hiểu biết sâu rộng trên nhiều lĩnh vực để có thể tư vấn cho khách hàng. Điều đó sẽ giúp khách hàng làm ăn có hiệu quả hơn cũng như tránh được rủi ro có thể xảy đến cho ngân hàng và ngày càng gây uy tín cho khách hàng, thu hút được khách hàng.
Thứ 3: Xây dựng một chính sách giá cả linh hoạt.
Lãi suất được coi là giá cả của sản phẩm tín dụng của ngân hàng. Đối với ngân hàng giá mua chính là chi phí của các yếu tố đầu vào mà chủ yếu là lãi suất huy động. Giá bán chính là lãi suất cho vay. Chênh lệch về giá thành là lợi nhuận của ngân hàng. Đối với khách hàng họ sẽ chọn mức lãi suất nào mang lại nhiều lợi ích cho họ nhất. Lợi ích của khách hàng và của ngân hàng về cơ bản là trái ngược nhau. Vấn đề quan trọng là phải biết kết hợp hài hoà sao cho hai bên cùng có lợi. Tuy nhiên việc xác định mức lãi suất cho vay ra cũng như lãi suất huy động vào lại phụ thuộc vào lãi suất cơ bản của Ngân hàng Nhà nước. Do vậy Sở cần có chính sách lãi suất đảm bảo đồng thời lợi ích của ngân hàng, của khách hàng và theo luật pháp quy định. Điều này rất khó đạt được và lại càng khó đảm bảo khi Sở giao dịch đang chú ý đến việc thu hút khách hàng. Để tăng cường thu hút khách hàng mở rộng quy mô tín dụng thì Sở giao dịch phải tính đến một mức lãi suất cho vay thấp hơn, linh hoạt hơn và phải hy sinh một phần lợi nhuận của mình.
Chính sách lãi suất phải linh hoạt theo mức vay vốn và thời hạn vay. Chẳng hạn nếu mức vay của khách hàng lớn thì mức lãi suất cho vay có thể nhỏ hơn. Về cơ bản, lãi suất cho vay ngắn hạn phải thấp hơn lãi suất chung và dài hạn. Ví dụ nếu khách hàng vai từ 1 đến 3 tháng với khối lượng vay lớn thì có thể lãi suất giảm xuống thấp hơn một chút so với lãi suất cho vay ngắn hạn. Chính sách cho vay lãi suất này sẽ thu hút được nhiều khách hàng hơn và thực tế lợi nhuận của ngân hàng sẽ lớn hơn so với một chính sách giá cả cứng nhắc.
Thứ tư: Xây dựng chiến lược khách hàng.
Muốn mở rộng hoạt động tín dụng thì Sở giao dịch cần phải có một chiến lược khách hàng lâu dài. Chiến lược ấy phải gắn bó với lợi ích của khách hàng. Việc xây dựng chiến lược khách hàng cần phải thực hiện các vấn đề sau:
- Ngân hàng phải được uy tín với khách hàng trong việc đảm bảo an toàn tín dụng, hẫp dẫn về lợi ích vật chất, áp dụng chính sách không phân biệt về lãi suất giữa doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Tiếp tục duy trì chế độ ưu đãi đối với các doanh nghiệp có nhu cầu tín dụng lớn và thực hiện qua hệ sòng phẳng với ngân hàng.
- Hỗ trợ, tư vấn cho khách hàng, khơi dậy khả năng và nhu cầu của khách hàng tiềm năng.
- Thực hiện đa dạng hoá các khách hàng theo hướng: duy trì và củng cố quan hệ tín dụng với các khách hàng đang có quan hệ tín dụng với ngân hàng, đặc biệt là các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để giúp cho hoạt động tín dụng ổn định với các doanh nghiệp này. Mở rộng thêm các mối quan hệ với các khách hàng mới để tăng thêm thị phần.
Thực hiện chính sách lôi cuốn và hẫp dẫn khách hàng đồng thời vẫn bảo đảm được nghĩa vụ đối với khách hàng.
Thứ năm: Xây dựng chính sách giao tiếp khuyếch chương.
Ngân hàng cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo các chính sách, chế độ, thể lệ cho vay tới khu vực kinh tế ngoài quốc doanh. Hiện nay thực tế Sở Giao Dịch chưa chú trọng tới việc này nên nhiều đơn vị kinh tế nghĩ rằng việc vay của ngân hàng rất khó vay về thủ tục thời gian hơn nữa họ cũng không hiểu về các hình thức mà Sở giao dịch đang áp dụng cho vay về thời gian, lãi suất từ đó Sơ giao dịch bị mất khả năng được lựa chọn làm cho đơn vị tài trợ cho khách hàng. Trong cơ chế thị trường sự cạnh tranh gay gắt giữa các ngân hàng diễn ra ngày càng gay gắt nên để thúc đẩy hoạt động có hiệu quả hơn, Sở giao dịch cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng cáo để các doanh nghiệp nắm bắt được chủ trương chính sách đổi mới đối với các thành phần kinh tế. Cho khách hàng biết được những áp dụng cơ chế tín dụng mới, thể lệ cho vay mới theo cơ chế thị trường để khách hàng thấy được thiện chí của Sở giao dịch, thấy được những lợi ích trong quan hệ với Sở giao dịch .
Hiện nay, Sở Giao Dịch I hoạt động theo phương thức bị động tức là nếu có khách hàng đến xin vay thì cán bộ tín dụng xem xét, thẩm định và quyết định có cho vay hay không. Do đó ít có cơ hội gặp được khách hàng tốt. Nên trong phòng Marketing của Sở giao dịch được mở, và cử một số cán bộ Marketing làm nhiệm vụ Marketing cho hoạt động của Sở giao dịch, giúp Sở giao dịch chủ động tìm kiến khách hàng từ đó tăng tính hiệu quả cho hoạt động tín dụng. Phòng Marketing trong Sở giao dịch không chỉ làm nhiệm vụ tuyên truyền quảng cáo mà quan trọng hơn là tìm hiểu về khách hàng, phân loại khách hàng, lựa chọn một số đối tượng khách hàng làm đối tượng chính để tiếp cận. Cũng từ việc tìm kiếm, nghiên cứu về khách hàng, hiểu rõ các nhu cầu của khách hàng, phòng Marketing đưa ra các giải pháp, chiến lược như chiến lược sản phẩm, chiến lược lãi suất, nhằm tạo ra một sự khác biệt trong ngân hàng so với đối thủ cạnh tranh. Từ đó thoả mãn tốt nhất nhu cầu, cơ hội lựa chọn tốt cho khách hàng, cuốn hút khách hàng.
Nâng cao chất lượng thẩm định trước khi đưa ra quyết định cho vay.
Thực hiện đúng quy trình thẩm định dự án, nâng cao chất lượng thẩm định trước khi quyết định cho vay là một việc làm cần thiết nhằm nâng cao qui mô tín dụng đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng. Để làm được điều đó, việc thẩm định dự án phải thu thập thông tin từ nhiều nguồn thông tin khác nhau để đối chiếu, đảm bảo tính chính xác của nguồn thông tin thu nhận được, xử lý các thông tin đó để có các căn cứ ra quyết định có cho vay hay không.
Trong quá trình thẩm định 5 điều kiện quan trọng mà cán bộ ngân hàng đòi hỏi phải có từ khách hàng xin vay là:
* Tư cách pháp lý.
* Tình hình hoạt động kinh doanh, kết quả hoạt động kinh doanh trong 2 năm gần nhất.
* Khả năng quản lý, điều hành của chủ các doanh nghiệp.
* Khả năng về tài chính, tài sản thế chấp.
* Hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Trong các điều kiện mà khi thẩm định, đánh giá, cần phải đưa ra xem xét kỹ các vấn đề.
- Về tư cách pháp lý: đó là việc căn cứ vào các văn bản, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép thành lập.
- Qua các báo cáo tài chính thường kỳ của doanh nghiệp kết hợp với sự thanh tra, giám sát của cán bộ chuyên môn để đánh giá tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, khả năng quản lý tài chính của chủ doanh nghiệp.
- Về vấn đề tài sản thế chấp: hiện nay các ngân hàng coi tài sản thế chấp như là một "bảo bối" khi quyết định cho vay. Bởi vì họ luôn có tư tưởng rằng cho vay bằng tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi khả năng phát mại tài sản để thu hồi phần nợ không đòi được từ khách hàng. Nhưng chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của ngân hàng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng.Bởi vì có rất nhiều doanh nghiệp ngoài quốc doanh có phương án sản xuất kinh doanh khả thi nhưng do không có tài sản thế chấp hoặc có nhưng các giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu không rõ ràng. Mặt khác chính bản thân tài sản thế chấp cũng có chứa đựng nhiều rủi ro khi có biến động về giá. Hơn nữa các chi phí khi tiến hành phát mại tài sản làm cho số tiền thu được từ việc phát mại tài sản bị giảm đi rất nhiều. Do đó chi nhánh cần phải nhìn lại vấn đề tài sản thế chấp. Coi đó là điều kiện bất đắc dĩ trong đòi hỏi từ khách hàng chứ không phải là một nguyên tắc đúng đắn. Đây là một vấn đề quan trọng cần quan tâm để có quan điểm đúng đắn về tài sản thế chấp.
- Về việc thẩm định hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh.
Đây là khâu chủ chốt và quan trọng bậc nhất đối với ngân hàng nhằm đạt hiệu quả mong muốn cũng như phòng tránh rủi ro. Trong khi vấn đề tài sản thế chấp đang còn nhiều vướng mắc, thì việc căn cứ vào tính hiệu quả của phương án sản xuất kinh doanh để ra quyết định cuối cùng là điều hết sức cần thiết. Vì vậy đòi hỏi cán bộ tín dụng phải thực sự có năng lực, kinh nghiệm đánh giá xem xét tính khả thi của dự án trên toàn bộ các phương diện, kỹ thuật, tài chính, kinh tế xã hội để đưa ra những quyết định đúng đắn. Ngoài ra thông qua quá trình thẩm định, cán bộ ngân hàng có thể tư vấn thêm cho khách hàng các vấn đề có liên quan đến tính khả thi của dự án, phòng tránh rủi ro cho cả khách hàng và ngân hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng của công tác thẩm định, ngân hàng cũng phải chú trong tới công tác kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ bảo đảm nghiêm túc các điều kiện, yêu cầu của quy trình tín dụng. Tiến hành kiểm soát ở các 3 giai đoạn: trước, trong và sau khi quyết định cho vay đối với khách hàng. Đặc biệt trong giai đoạn thu nợ không nên cứng nhắc dập khuôn mà phải thực sự hợp tác với người vay.
Thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng.
Yêu cầu của các ngân hàng là phải nắm bắt đầy đủ các thông tin về khách hàng vay do đó việc tìm hiểu đầy đủ các thông tin về khách hàng là điều hết sức quan trọng. Nó góp phần giảm bớt các rủi ro trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Trên thực tế có thể tìm thấy thông tin về các doanh nghiệp qua các luồng sau:
- Thông tin qua các phương tiện thông tin đại chúng như đài, báo, tivi...
- Thông tin qua các cơ quan quản lý nhà nước như cơ quan thuế, hải quan từ trung tâm thông tin tín dụng.
- Thông tin từ các đối tác làm ăn với các doanh nghiệp.
- Thông tin từ các trung tâm tư vấn cho các doanh nghiệp, từ các ngân hàng đã có quan hệ tín dụng với doanh nghiệp.
- Thông tin từ bản thân doanh nghiệp.
Để nắm bắt được các thông tin này một cách chính xác, Sở cần phải tiến hành một số giải pháp sau:
- Tạo mối quan hệ mật thiết gắn bó với các trung tâm tư vấn cho doanh nghiệp.
- Thường xuyên thông tin với trung tâm thông tin tín dụng để biết được tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
- Tiến hành các cuộc thảo luận, các hội nghị khách hàng để nắm bắt được nhiều thông tin.
- Thu thập từ nhiều nguồn khác như: sách, báo, tivi...
Ngoài các giải pháp chính trên, Sở Giao Dịch I cần có các giải pháp khác để như:
Một là: Hiện đại hoá cơ sở vật chất trang thiết bị nhằm phục vụ tốt hơn nữa nhiệm vụ kinh doanh như: đầu tư thêm máy tính và các phần mềm ứng dụng cũng như các máy móc chuyên dụng để tăng chất lượng phục vụ của dịch vụ chuyển tiền, tiền gửi, rút tiền tự động... hay đầu tư mua sắm, xây dựng các phương tiện như két bạc, nhà kho nhằm bảo quan tài sản cầm cố cho khách hàng một cách tốt nhất.
Hai là, thiết lập các mối quan hệ với các ngân hàng khác trên cùng khu vực để có cơ hội tiếp cận, học hỏi và cho vay hợp vốn...
Ba là, tăng cường công tác kiểm tra kiểm soát nhằm đảm bảo hơn nữa chất lượng tín dụng.
Bốn là. Để tăng cường và mở rộng dịch vụ bảo lãnh phải nghiên cứu xây dựng quy trình tiên tiến, nhanh gọn, mức phí hợp lý, lấy doanh số bảo lãnh làm cơ sở để tăng thu phí cũng như tạo ra được tiền đề cho tăng trưởng tín dụng, không nặng về lệ phí.
Năm là: phải làm tốt công tác tư vấn, cung cấp các thông tin chính xác trong phạm vi cho phép giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp được bảo lãnh, kiên quyết không thoả hiệp với khách hàng để phát hành bảo lãnh khi biết trước được có rủi ro bằng phương pháp thuyết phục.
Sáu là: Để mở rộng tín dụng có bảo đảm (tài sản thế chấp là bất động sản)thì Ngân hàng cần phải đưa ra quy trình đánh giá, định giá tài sản thế chấp một cách nhanh nhất, chính xác nhất, tạo điều kiện thuận lợ cho khách hàng khi thế chấp vay vốn.
Bẩy là: Ngân hàng cần mở rộng thêm các hình thức cầm cố như: cầm cố bảo hiểm nhân thọ, hợp đồng nhận thầu… Để tăng doanh số của nghiệp vụ cho vay cầm cố và làm tăng khả năng ảnh hưởng của Sở giao dịch lên thị trường hiện nay.
Kiến nghị.
. Kiến nghị với Nhà nước.
Mặc dù, Nhà nước đã có nhiều cự đổi mới trong công tác làm luật và ban hành các văn bản pháp quy nhưng vẫn còn thiếu đồng bộ, nhất quán trong các văn bản. Và nó là nguyên nhân dẫn đến tâm lý e ngại sẽ gặp nhiều bất lợi về mặt pháp lý khi các Ngân hàng muốn đơn giản hoá các thủ tục cho vay, đầu từ, bảo lãnh… xin đơn cử ra đây một dẫn chứng: Tại điều 10 NĐ 165/1999/NĐ- CP ngày 19/11/1999 có quy định “ hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng biệt hoặc ghi trong hợp đồng”. Nhưng tại khoản 6 mục 2 chương II Thông tư 06/2000/TT- NHNN1 ngày 4/4/2000 của Ngân hàng Nhà nước lại quy định “Hợp đồng thế chấp, cầm cố, bảo lãnh phải lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng tín dụng, đối với hợp đồng bảo lãnh bằng tài sản phải lập thành văn bản riêng”. Với hai điều nêu trên thì các Ngân hàng thương mại sẽ chọn Thông tư 06 để áp dụng cho đỡ phiền phức về mặt hợp lý. Vì vậy, sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của Ngân hàng thương mại. Vậy khi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành các quy định có liên quan đến hoạt động của Ngân hàng thương mại hay các quy định về hoạt động cho vay có bảo đảm cần chú ý đến sự nhất quán, đồng bộ giữa các văn bản.
Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước.
Hiện nay luật ngân hàng Nhà nước và luật các tổ chức tín dụng đã thực sự đi vào nền kinh tế. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện các luật này tại các ngân hàng và các tổ chức không phải là ngân hàng còn đang gặp nhiều khó khăn. Ngân hàng Nhà nước cần có các văn bản hướng dẫn, phối hợp cùng với các ngân hàng thương mại tiến hành cụ thể hoá, áp dụng nó vào thực tiễn để pháp huy tính đúng đắn của hai Bộ luật này. Đồng thời quá trình thực hiện nó sẽ giúp cho các ngân hàng thương mại và ngân hàng Nhà nước nhận thấy những ưu điềm để phát huy, hạn chế để khắc phục và sửa chữa. Thêm vào đó thị trường tài chính chưa phát triển một cách toàn diện, hoàn chỉnh Nhà nước chỉ mới có pháp lệnh về thị trường chứng khoán, các công ty cho thuê tài chính. Vì vậy cần phải xem xét, xây dựng các bộ luật như luật chứng khoán và thị trường chứng khoán... trình Chính phủ xem xét và thông qua nhằm tạo điều kiện phát triển thị trường tài chính một cách hoàn chỉnh. Hiện nay các ngân hàng chủ yếu là thiếu vốn chung và dài hạn mặc dù đã có quy định cho phép chuyển một phần vốn ngắn hạn sang cho vay chung và dài hạn. Tuy nhiên nhu cầu vốn trung và dài hạn vẫn còn rất lớn để đầu tư vào các cơ sở hạ tầng... Việc hoàn thiện các văn bản sẽ góp phần vào việc tăng trưởng nguồn vốn chung và dài hạn cho các ngân hàng. Điều đó góp phần đáp ứng nhu cầu vốn chung và dài hạn của nền kinh tế. Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát các ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác nhằm chấn chỉnh những sai sót, tạo ra sự cạnh tranh bình đẳng, phòng ngừa các tổn thất... Trong đó phải có chế độ thưởng phạt rõ ràng đối với các ngân hàng thương mại chấp hành tốt và các ngân hàng thương mại vi phạm quy định.
Cần có các biện pháp và chủ trương thiết thực hỗ trợ các ngân hàng thương mại khai thông tồn đọng nợ quá hạn tại các ngân hàng thương mại. Điều chỉnh, bổ sung các nghị định liên quan đến việc xử lý nợ quá hạn. Có giải pháp rất điểm nhanh gọn bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng đối với các khoản nợ khê đọng, đặc biệt là nợ phát sinh trước luật công ty và luật phá sản.
Với nghiệp vụ tín dụng dưới hình thức cầm cố thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn cũng chỉ được nêu tại khoản 5 điều 57 Luật các tổ chức tín dụng “ việc chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác để cấp tín dụng trong hệ thống tổ chức tín dụng do NHNN quy định”. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước nhanh chóng ban hành văn bản dưới luật để các Ngân hàng thương mại sơm đưa nghiệp vụ này vào thực hiện.
Ngân hàng Nhà nước cũng cần quy định rõ về một hạn mức cho vay đối với nghiệp vụ bảo lãnh.Để các Ngân hàng thương mại lấy căn cứ xét duyệt, phát hành thư bảo lãnh.
3.3.3. Kiến nghị đối với NHĐT&PT Việt Nam.
Tổ chức giải quyết các nghiệp vụ liên quan đến hoạt động của Sở giao dịch như việc phê duyệt mức cho vay vượt quyền phán quyết, khi tái thẩm định các dự án đầu tư...
Hỗ trợ Sở Giao Dịch I trong việc lắp đặt trang thiết bị hiện đại phục vụ cho quá trình hoạt động như hệ thống máy tính, máy rút tiền tự động, nối mạng trong toàn bộ ngân hàng... Đặc biệt là trợ giúp về kinh phí và kỹ thuật trong việc đào tạo, bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ ngân hàng cho các cán bộ nhân viên Sở Giao Dịch I.
Thường xuyên kết hợp với NHĐT&PT tổ chức các buổi thảo luận, hội nghị, nghiên cứu khoa học để vừa nắm được các thông tin về tình hình hoạt động của ngân hàng, vừa cung cấp thêm các kinh nghiệm kiến thức quý báu trong quá trình hoạt động.
Phối hợp chặt chẽ với ngân hàng Nhà nước tổ chức có hiệu quả chương trình thông tin rủi ro, thông tin tín dụng nhằm ngày càng nâng cao chất lượng tín dụng, giúp Sở giao dịch phòng ngừa rủi ro.
Tăng cường hoạt động thanh tra, kiểm soát nội bộ trong toàn hệ thống nhằm chấn chỉnh các sai sót phòng ngừa rủi ro...
kết luận
Hình thức tín dụng có bảo đảm đã và đang dữ một vai trò quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại hiện nay. Hơn nữa, nó còn là một trong những biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng hữu hiệu nhất hiện nay nó gắn chặt trách nhiệm của người đi vay đối với khoản tín dụng của mình hay đối với ngân hàng vay (Thường thì các ngân hàng đánh giá tài sản thế chấp bao giờ cũng nhỏ hơn giá trị thực của nó, và vì vậy mà khách hàng sẽ có sự so sánh về khoản tín dụng mình được vay và giá trị tài sản thế chấp mà mình thế chấp cho ngân hàng, như vậy sẽ có trách nhiệm hơn với khoản vay). Bên cạnh đó thì khi khoản tín dụng đó có vấn đề (có nguy cơ không thu được vốn và lãi) thì tài sản thế chấp sẽ là nguồn thu thứ hai cho ngân hàng để bù đắp lại khoản vốn mà ngân hàng đã cho doanh nghiệp vay.
Đối với hình thức cho vay cầm cố các giầy tờ có giá ngắn hạn thì ngân hàng không mấy quan tâm đến khách hàng kinh doanh mặt hàng gì mà chỉ quan tâm đến tính chất pháp lý của lượng giấy tờ có giá mà khách hàng mang đế cầm cố. Hình thức này thì hầu như ngân hàng ít gặp rủi ro trừ trường hợp cán bộ ngân hàng không thẩm định kỹ tính chất pháp lý của các giấy tờ đó.
Qua việc phân tích thực trạng tình hình cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I Ngân hàng Đâu tư & phát triển Viên Nam và đưa ra những biện pháp có tính thiết thực nhằm mở rộng hình thức tín dụng này tại Sở qua đó ta thấy được tầm quan trọng của hình thức tín dụng này trong hoạt động kinh doanh ngành ngân hàng hiện nay.
Mục lục:
Lời nói đầu. 1
Chương I: Tổng quan về tín dụng ngân hàng. 3
1.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng. 3
1.1.1. Khái niệm tín dụng. 3
1.1.2. Những đặc trưng cơ bản của tín dụng ngân hàng 3
Quy trình tín dụng ngân hàng: 4
Phân loại tín dụng ngân hàng 15
Bảo đảm tín dụng và các hình thức bảo đảm tín dụng 17
1.3.1. Bảo đảm tín dụng 17
1.3.2. Các đặc trưng của tài sản bảo đảm 17
1.3.3. Các hình thức bảo đảm tín dụng 18
1.4. Cho vay thế chấp tài sản 21
1.4.1. Giám định tính chất pháp lý về quyền sở hữu tài sản hoặc quyền sử dụng đất. 21
1.4.2. Định giá tài sản thế chấp 22
1.4.3. Xác định số tiền cho vay tối đa so với giá trị tài sản thế chấp. 22
1.4.4. Hợp đồng thế chấp tài sản 22
1.4.5. Thời hạn thế chấp và giải chấp. 23
1.5. Cho vay cầm cố tài sản. 23
1.5.1. Cầm cố hàng hoá 24
1.5.2. Chiết khấu ký hoá phiếu. 24
1.5.3. Cầm cố chừng khoán. 25
1.5.4. Bảo đảm bằng tiền gửi. 25
1.5.5. Bảo đảm bằng vàng 26
1.5.6. Bảo đảm bằng các khoản phải thu. 26
1.5.7. Bảo đảm bằng hợp đồng nhận thầu. 26
1.5.8. Bảo đảm bằng hợp đồng bảo hiểm nhân thọ. 27
1.6. Cho vay có bảo đảm bằng bảo lãnh. 27
Chương II: Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam. 31
2.1. Khái quát chung về Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam: 31
2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển: 31
2.1.2. Cơ cấu tổ chức: 32
2.2. Thực trạng cho vay có bảo đảm tại Sở giao dịch I - Ngân hàng đầu tư và phát triển. 35
2.2.1. Tình hình huy động nguồn và hoạt động tín dụng tại SGDI. 35
2.2.2. Tình hình cho vay có bảo đảm bằng tài sản tại Sở Giao Dịch I 46
2.2.3. Nghiệp vụ bảo lãnh 55
2.2.4. Cho vay cầm cố tài sản. 60
2.3. Đánh giá hoạt động cho vay có bảo đảm tại Sở Giao Dịch. 62
2.3.1. Thành tựu. 62
2.3.2. Một số mặt chưa đạt được trong năm qua. 64
Nguyên nhân 65
Chương III: Một số biện pháp nhằm mở rộng hình thức tín dụng có bảo đảm tại Sở Giao Dịch I Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. 67
3.1. Phương hướng, nhiệm vụ kinh doanh năm 2002: 67
3.1.1. Thuận lợi. 67
3.1.2. Khó khăn 67
3.1.3. Phương hướng: 69
3.2. Giải pháp. 71
3.2.1. Hoàn thiện cơ cấu tổ chức, quản lý điều hành và bồi dưỡng nghiệp vụ cho cán bộ chi nhánh. 71
3.2.2. Xây dựng một chiến lược Marketing ngân hàng đúng đắn. 73
3.2.3. Nâng cao chất lượng thẩm định trước khi đưa ra quyết định cho vay. 78
3.2.4. Thu thập đầy đủ các thông tin về khách hàng. 80
3.3. Kiến nghị. 82
3.3.1. Kiến nghị với Nhà nước 82
3.3.2. Kiến nghị với ngân hàng Nhà nước. 83
Kiến nghị đối với NHĐT&PT Việt Nam 84
Kết luận 85
Tài liệu tham khảo
1. Sách Tài chính doanh nghiệp (Trường Đại học Kinh tế Quốc dân)
2. Sách Tiền tệ ngân hàng và thị trường tài chính.
Tác giả Frederic S. Mishkin.
3. Sách Ngân hàng thương mại.
Tác giả Edward W. Reed và Ed.ward K. Gill.
4. Sách Ngân hàng thương mại.
Tác giả Lê Văn Tư.
5. Luật các tổ chức tín dụng và Luật ngân hàng Nhà nước.
6. Quy chế cho vay đối với khách hàng của các tổ chức tín dụng.
7. Quy định cho vay đối với khách hàng Sở Giao Dịch I
8. Quy định về phân cấp quyền phán quyết mức cho vay tối đa đối với một khách hàng Sở Giao Dịch I
9. Các báo cáo hoạt động kinh doanh của Sở Giao Dịch I
10. Tạp chí Kinh tế và Phát triển, Thị trường tài chính... các năm 1999 , 2000 & 2001.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0217.doc