Phần lớn các hợp đồng gia công cho nước ngoài đều có nội dung tạm nhập máy móc, thiết bị phục vụ gia công. Qua xem xét những máy móc thiết bị này thì loại có chất lượng tốt như công nghệ tiên tiến, hiện đại, năng suất cao rất ít mà chủ yếu là máy móc thiết bị đã qua sử dụng, công nghệ ở mức trung bình, thông thường chất lượng còn khoảng 80% do các nước Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản sản xuất. Trong số máy móc tạm nhập đã qua sử dụng này có một phần không nhỏ có chất lượng ở mức dưới 80% và năm chế tạo đã trên 10 năm (vượt mức quy định của Bộ Khoa học công nghệ và môi trường về nhập máy móc đã qua sử dụng). Do đó khi xem xét việc nhập khẩu có nhiều trở ngại vì trong thực tế người đặt gia công tự chịu trách nhiệm về chất lượng của sản phẩm do các máy móc thiết bị này sản xuất ra.
Quan phân tích đánh giá chung về tình hình gia công quốc tế ở Việt Nam cũng như thực trạng công tác quản lý đối với hoạt động gia công ta thấy rằng: mặc dù hoạt động gia công quốc tế đã có bước phát triển mạnh mẽ và đem lại một số kết quả tốt. Nhưng những tồn tại, yếu kém trong hoạt động gia công cũng như trong công ty quản lý, nếu không được khắc phục sẽ gây ảnh hưởng lớn tới hiệu quả của phương thức kinh doanh gia công cũng như hiệu quả của nền kinh tế nói chung.
83 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1434 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p nguyên vật liệu cho ngành này. Kế hoạch của năm 2002 cho ngành dệt may là thu hút khoảng 500.000 lao động, cần khoảng 200 triệu USD vốn mua sắm máy móc thiết bị và 1.200 tỷ đồng Việt Nam để xây dựng cơ bản. Ngoài ra còn phải phục vụ được 60-70% nhu cầu trong nước. Kế hoạch trên chỉ thực hiện được vấn đề thu hút lao động còn lại đều không đạt được về mua sắm thiết bị kỹ thuật hiện nay các doanh nghiệp vẫn chủ yếu là thuê máy móc thiết bị của bên đặt gia công.
3.3.2. Kế hoạch cho ngành giày dép.
Đây là ngành hàng có kim ngạch đứng thứ hai trong số các hàng gia công ở nước ta. Trong vòng 4 năm gần đây công nghiệp da giầy Việt Nam đã đầu tư trên 2.000 tỷ đồng, trong đó 1/2 dùng để mua sắm máy móc thiết bị, 200 tỷ mua dụng cụ lao động, tạo việc làm cho hơn 110 nghìn lao động. Nhưng hơn 55% số vốn đầu tư cho ngành da giầy là huy động từ nước ngoài thông góp vốn liên doanh, vay trả chậm,...
Ước tính trong giai đoạn 1998-2002 giá trị tổng sản lượng của toàn ngành đạt hơn 3 tỷ USD. Kế hoạch trong những năm tới thì ngành da giày vẫn là ngành xuất khẩu mũi nhọn.
Như vậy cả hai ngành hàng may mặc và giày dép nói riêng và tất cả các ngành hàng gia công khác trong những năm tới đến 2005 vẫn chủ yếu là hoạt động trong lĩnh vực gia công do tình trạng thiếu vốn, thiếu thị trường,... Mục tiêu trong những năm tới là vẫn phát triển quy mô và có các biện pháp tăng phí gia công nhằm nâng cao hiệu quả cho hoạt động này.
3.4. Vấn đề về giám sát hợp đồng gia công.
Trước đây Bộ Thương mại trực tiếp phê duyệt từng hợp đồng gia công hàng xuất khẩu và quản lý, theo dõi các hợp đồng nói trên. Tuy nhiên để giảm bớt thủ tục hành chính, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tham gia gia công hàng xuất khẩu, Bộ Thương mại đã phân cấp quản lý như sau:
* Bộ Thương mại:
+ Phê duyệt các hợp đồng của các doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu tạm thời nhưng gia công những mặt hàng không phù hợp với phạm vi nhập khẩu ghi trong giấy phép.
+ Các hợp đồng của các doanh nghiệp chưa được cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu.
+ Các hợp đồng của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
+ Các hợp đồng và phụ lục hợp đồng gia công có nội dung nhập khẩu máy móc thiết bị đã qua sử dụng, máy móc thiết bị mới có giá trị trên 100.000USD.
Còn các hợp đồng của các doanh nghiệp được thành lập theo luật định thì giao cho các phòng xuất nhập khẩu khu vực và hải quan quản lý.
Hiện nay thực hiện chủ trương của Chính phủ trong việc cắt giảm thủ tục hành chính Bộ Thương mại đã tiến hành bỏ chế độ phê duyệt hợp đồng gia công, chỉ phê duyệt những hợp đồng đồng những trường hợp đặc biệt. Việc bỏ chế độ phê duyệt hợp đồng gia công giúp cho việc làm thủ tục hành chính được nhanh hơn, không gây phiền hà cho các doanh nghiệp, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp tham gia vào sản xuất hàng gia công. Nhưng thiết nghĩ việc bỏ chế độ phê duyệt hợp đồng gây nên những khiếm khuyết trong hoạt động quản lý cũng như những bất lợi trong hoạt động làm hàng gia công của các doanh nghiệp. Chẳng hạn như trước đây khi tiến hành phê duyệt hợp đồng cho các doanh nghiệp Bộ Thương mại yêu cầu bổ xung vào các điều khoản không chặt chẽ của hợp đồng giúp cho các doanh nghiệp yếu kém về nghiệp vụ ký kết hợp đồng tránh được những thiệt hại về việc ký hợp đồng không chặt chẽ,...
4-/ Đánh giá ưu nhược điểm chung của chế độ quản lý đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu.
4.1. Ưu điểm.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ và đang dạng của loại hình kinh doanh gia công xuất khẩu, chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động gia công cũng ngày càng được hoàn thiện.
Về cơ bản có thể nói ưu điểm chính của chế độ quản lý hoạt động gia công quốc tế là theo kịp và tạo đà cho hoạt động này phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Trước đây, khi hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở Việt Nam còn ở quy mô nhỏ, chủ yếu là gia công một số mặt hàng như may mặc, túi xách, dụng cụ cầm tay,... cho một số nước XHCN như Liên Xô (cũ) và Đông Âu, nhiệm vụ quản lý theo dõi hàng gia công chỉ là một phần nhỏ trong công tác kiểm tra giám sát hàng hoá xuất nhập khẩu.
Từ khi Đảng và Nhà nước có chủ trương đổi mới nền kinh tế, mở cửa đa dạng hoá, đa phương hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động xuất nhập khẩu hàng gia công đã phát triển mạnh mẽ cả về quy mô, tốc độ và thị trường. Mấy năm gần đây, gia công xuất khẩu không chỉ thay đổi lớn mạnh về số lượng, chất lượng, chủng loại đa dạng, thị trường phong phú mà còn thay đổi cả về hình thức gia công, thành phần làm hàng gia công. Từ hình thức gia công theo kiểu “làm thuê” thông thường đến nay nhiều doanh nghiệp đã bỏ thêm vốn đầu tư mua sắm thiết bị hiện đại, chế biến sử dụng một phần nguyên liệu sản xuất trong nước nâng cao giá trị “nội địa” của hàng gia công xuất khẩu. Phương thức “mua nguyên liệu, bán thành phẩm” đang dần dần thay thế phương thức “nhận nguyên liệu, giao thành phẩm” như trước đây, một ví dụ điển hình là công ty giầy Thượng Đình hiện nay đã chuyển hẳn sang phương thức “mua nguyên liệu, bán thành phẩm”. Để tiết kiệm chi phí vận chuyển, tận dụng tối đa năng lực, sở trường của các doanh nghiệp làm hàng gia công, hình thức gia công chuyển tiếp đã trở thành phát triển rộng rãi.
Từ chỗ chưa có một văn bản chính thức nào của c rộng rãi.
Từ chỗ chưa có một văn bản chính thức nào của Chính phủ về quản lý, điều hành riêng hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Trước đây chỉ mới có:
- Quy chế tạm thời quy định chế độ giám sát, kiểm tra và quản lý hải quan đối với hang gia công xuất nhập khẩu ban hành kèm theo Quyết định 90/TCHQ-QĐ ngày 02/8/1997 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan.
- Quy chế về quản lý đối với hàng gia công xuất nhập khẩu và nguyên liệu nhập khẩu để sản xuất hàng hoá gia công ban hành kèm theo Quyết định 126/TCHQ-QĐ ngày 8/4/1997 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan,...
Đến nay đã có một loạt các văn bản mới của Chính phủ được ban hành để điều chỉnh, quản lý hoạt động gia công hàng xuất khẩu.
- Trong Luật thương mại ra ngày 10/5/1999 có mục 7 Chương II quy định về vấn đề gia công.
- Nghị định 57/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài. Kèm theo nó là Thông tư 18/2000/TT-BTM hướng dẫn thực hiện Nghị định 57 về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài; Thông tư 03/2000/TT-TCHQ ra ngày 29/8/2000 hướng dẫn thi hành Chương III Nghị định số 57/2000/NĐ-CP ngày 31/7/2000 quy định chi tiết thi hành Luật thương mại về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá với nước ngoài,... và nhiều văn bản hướng dẫn, chỉ đạo giải quyết các vướng mắc, phát sinh trong quá trình quản lý hoạt động gia công. Có thể nói các văn bản trên tuy chưa thật hoàn thiện nhưng đã đáp ứng được một cách cơ bản yêu cầu của công tác quản lý, điều hành hoạt động gia công xuất khẩu.
Ngoài ra các bộ ngành có liên quan còn thường xuyên họp để giải quyết những vướng mắc trong hoạt động gia công, và cử cán bộ, chuyên viên đi kiểm tra thực tế ở các cơ sở để tháo gỡ vướng mắc cho các doanh nghiệp từ đó có những biện pháp giải quyết linh hoạt, tạo điều kiện cho gia công hàng xuất khẩu phát triển.
4.2. Nhược điểm.
Mặc dù công ty quản lý hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã có nhiều cố gắng để theo kịp và tạo đà cho sự phát triển của hoạt động này nhưng trong từng thời gian, từng cơ quan quản lý đã bộc lộ những bất cập, yếu kém gây khó khăn cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp làm hàng gia công.
Trong một khoảng thời gian dài đến 2000 do chưa có văn bản thống nhất quy định về quản lý điều hành hoạt động gia công nên đã gây ra nhiều khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp cũng như cơ quan quản lý điều hành bộc lộ ở một số mặt như sau:
Thứ nhất: chế độ kiểm tra, giám sát, quản lý có lúc có nơi mang nặng tính hình thức, bị động chẳng hạn như thời kỳ trước Nghị định 89/CP của Chính phủ về việc bỏ cấp giấy phép chuyến thì hải quan khi làm thủ tục chỉ căn cứ vào giấy phép chuyến do Bộ Thương mại cấp, không chủ động theo dõi từng hợp đồng, khi kết thúc hợp đồng không thanh khoản kịp thời,... dẫn đến không ít doanh nghiệp đã lợi dụng tình trạng này để nhập khẩu trốn thuế một khối lượng nguyên liệu, vật tư lớn.
Thứ hai: không có sự phối kết giữa các ngành chức năng để quản lý hoạt động gia công, những vấn đề vướng mắc, phát sinh không được giải quyết kịp thời. Như trường hợp về vấn đề giải quyết nguyên vật liệu dư thừa Bộ Công nghiệp và Bộ Thương mại thì coi tỷ lệ hao hụt là phần cấu thành trong sản phẩm gia công, doanh nghiệp đương nhiên được sử dụng không phải nộp thuế còn Bộ Tài chính thì cho là phải nộp thuế; hoặc là về vấn đề hợp đồng gia công cáp điện đã qua sử dụng như đã nói ở phần trước, Bộ Thương mại thì phê duyệt cho thực hiện hợp đồng khi doanh nghiệp nhập hàng về thì Bộ KHCN&MT bắt phải tiêu huỷ vì đó là hàng chứa chất độc hại,...
Chính vì những yếu điểm như trên trong khâu quản lý mà những hành vi vi phạm chế độ, chính sách, pháp luật trong kinh doanh gia công không được phát hiện và xử lý kịp thời.
Mấy năm gần đây, công tác quản lý hàng gia công đã có tiến bộ rõ rệt nhưng không phải lúc nào cũng mang lại hiệu quả tốt đẹp như mong muốn mà đôi lúc vẫn còn thể hiện rõ sự lúng túng, không nhất quán trong chỉ đạo thực hiện.
Khi Chính phủ ban hành Nghị định 89CP ngày 15/12/1997 về bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép chuyến nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trong giai đoạn này đã gặp phải sự lúng túng trong quy trình nghiệp vụ mới. Trên cơ sở văn bản cho phép chung của Bộ Thương mại cơ quan hải quan tiến hành cấp phiếu theo dõi hàng hoá theo từng mặt hàng cụ thể và tiến hành trừ lùi số lượng hoặc trị giá hàng hoá mỗi lần đăng ký tờ khai xuất, nhập cho chủ hàng. Công việc này mất nhiều thời gian gây nên sự chờ đội, ùn tắc hàng hoá xuất nhập. Ví dụ tháng 12/1998 C.ty giầy vải Thượng Đình do thủ tục hải quan chậm buộc phải xuất 2 chuyến hàng qua đường hàng không đã mất 40.000 USD và mấy chục triệu đồng lưu Container, C.ty may 10 phải trả 30 triệu đồng vì trả chậm Container,...
Ngoài những yếu điểm trong khâu chỉ đạo, ra văn bản, tổ chức thực hiện vẫn còn một yếu tố quan trọng khác nữa là con người. Đó là trình độ, kiến thức, năng lực cũng như phẩm chất đạo đức của cán bộ quản lý. Không ít những vụ tiêu cực, gian lận thương mại xảy ra. Không ít các trường hợp khai tăng định mức lên cao hơn nhiều so với thực tế như đã nói ở trên; hoặc là một ví dụ điển hình là C.ty may Nhà Bề TP.HCM đã lợi dụng hình thức kinh doanh gia công để nhập lậu 400.000m vải Jear,...
Ngoài ra còn không ít những lời kêu ca, phàn nàn của các doanh nghiệp về thái độ cửa quyền, hách dịch,... của nhân viên ở các cơ quan quản lý; những đòi hỏi khắt khe về thủ tục giấy tờ, bắt bẻ những sai sót không đáng kể về nghiệp vụ,...
Tóm lại chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động gia công hàng xuất khẩu tuy đã ngày một được hoàn thiện và đã đem lại nhiều kết quả tốt trong hoạt động này nhưng bên cạnh đó nó vẫn còn bộc lộ những nhược điểm, hạn chế cần phải được khắc phục.
Chương 3
một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công xuất khẩu
1-/ Kinh nghiệm phát triển hoạt động gia công của nước ngoài và khả năng vận dụng vào Việt Nam.
Đại hội Đảng lần thứ VIII đã đề ra chương trình phát triển kinh tế đối ngoại nhằm các mục tiêu chủ yếu là: thu hút mạnh mẽ vốn, công nghệ từ bên ngoài và các dịch vụ ngoại tệ khác; mở rộng thị trường xuất nhập khẩu, giảm thị trường trung gian, tăng tỉ trọng xuất khẩu các mặt hàng đã qua chế biến, đưa kim ngạch xuất nhập khẩu tăng bình quân hàng năm 28%, nhập khẩu tăng 24%.
Để đạt được các mục tiêu trên, Đảng và Nhà nước ta chủ trương tiếp tục mở cửa nền kinh tế, hội nhập với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đây cũng là xu thế chung của thời đại. Có thể nói hội nhập và mở cửa là một yêu cầu khách quan nhưng đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay đang là một thách thức lớn vì những thị trường mà chúng ta muốn vươn tới thì nhiều nước cũng đang đến, thậm chí đã có từ lâu. Những hàng hoá mà Việt Nam sản xuất được thì nhiều nước cũng sản xuất được với số lượng nhiều hơn, chất lượng tốt hơn và giá rẻ hơn. Nhìn chung là quy mô sản xuất của Việt Nam vẫn còn nhỏ bé, những chỉ tiêu tính theo bình quân đầu người vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực và thế giới.
Vì vậy, muốn đuổi kịp các nước và nâng cao hiệu quả kinh tế của Việt Nam thì cần đổi mới nhanh chóng hơn nữa chính sách thương mại của mình. Những bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới và trong khu vực về sự phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại nói chung trong đó có hoạt động gia công hàng xuất khẩu có ý nghĩa rất quan trọng để chúng ta có thể rút ngắn con đường phát triển kinh tế thị trường, đẩy nhanh tốc độ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Mặc khác, các nước trong khu vực như các nước ASEAN đều có các điều kiện về tiềm năng kinh tế, nhiều mặt giống với Việt Nam như đất đai, khí hậu, tài nguyên, lực lượng lao động, giá lao động rẻ,... Vì vậy mà kinh nghiệm phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại của các nước này luôn là bài học thiết thực cho Việt Nam trong sự nghiệp phát triển kinh tế nói chung cũng như hoạt động gia công quốc tế nói riêng.
Những bài học chủ yếu đó là:
1.1. Đẩy mạnh hoạt động gia công quốc tế trên cơ sở định hướng chiến lược phát triển kinh tế hướng ra xuất khẩu, khai thác tối đa những lợi thế so sánh của đất nước.
Bước vào thập kỷ 80 các nước ASEAN bị làn sóng tự do hoá thương mại trên thế giới tác động, bị sức ép của một nền kinh tế trong nước còn yếu kém, bị lôi kéo bởi những kinh nghiệm đã có được của các nước áp dụng mô hình kinh tế hướng ngoại như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông. Trong tình hình ấy các nước ASEAN bắt đầu áp dụng chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu, khai thác tối đa lợi thế so sánh. Đặc điểm nổi bật trong kết cấu xuất khẩu của ASEAN là kết hợp giữa các sản phẩm nông nghiệp truyền thống, các sản phẩm tốn nhiều lao động như dệt, may mặc với các sản phẩm công nghiệp có hàm lượng kỹ thuật cao và đa dạng hoá thị trường xuất khẩu. Nhờ vậy mà kim ngạch xuất nhập khẩu và tốc độ tăng trưởng kinh tế của các nước ASEAN đã tăng vọt. Thái Lan năm 1980 xuất khẩu khoảng 5 tỷ USD đến 1986 đã xuất khẩu gần 10 tỷ USD, tốc độ tăng trưởng kinh tế trên 10% hàng năm; Malaysia năm 1976 tổng trị giá xuất khẩu khoảng 5 tỷ USD đến 1992 đã tăng tới gần 26 tỷ USD. Trong tổng giá trị xuất khẩu nêu trên một phần không nhỏ là giá trị hàng gia công xuất khẩu.
Hầu hết các nước tư bản phát triển như Mỹ, Nhật, Đức, Italia đều đã sử dụng ngành may mặc làm đòn bảy chiến lược để phát triển nền kinh tế trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, đến những năm của thập kỷ 60,70 mới chuyển dần nghề may công nghiệp sang các nước có nguồn nhân lực dồi dào, giá lao động rẻ. Vài năm gần đây các nước công nghiệp mới như Đài Loan, Hồng Kông, Hàn Quốc đã ngừng phát triển ngành may chuyển sang thuê gia công tại các nước khu vực Đông Nam á nhằm tận dụng giá nhân công rẻ, vốn đầu tư ít, thu lãi cao.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam với những lợi thế về nhiều mặt, đặc biệt có lực lượng lao động dồi dào đã và sẽ trở thành nơi có hoạt động gia công hàng xuất khẩu phát triển mạnh. Trước hết chúng ta cần tập trung phát triển các ngành may mặc, dày dép, cơ khí lắp ráp,... vì các ngành này sử dụng nhiều lao động, vốn đầu tư ít, có thể sử dụng nguồn nguyên liệu tại chỗ, nhu cầu thị trường đòi hỏi lớn. Về lâu dài, cần phải xây dựng chiến lược ưu tiên cho xuất khẩu trực tiếp, định ra quy mô và bước đi thích hợp cho hoạt động gia công, không quá chú trọng phương thức gia công hiệu quả thấp.
1.2. Coi sự phát triển của hoạt động gia công quốc tế như một phương sách hữu hiệu để giải quyết các vấn đề xã hội về lao động, việc làm.
ở các nước phát triển, việc tìm kiếm công ăn việc làm cho người lao động là rất quan trọng để xoá đói, giảm nghèo. Kinh doanh gia công là một phương hướng tốt để giải quyết việc làm, nâng cao mức sống và tích luỹ ban đầu. Singapore, Nam Triều Tiên,... đều khởi đầu công nghiệp hoá bằng kinh doanh gia công. ở các nước này, hàng nguyên liệu, bán thành phẩm, linh kiện, phụ tùng,... đều được giảm và miễn thuế nhập khẩu. Nếu hàng đó nhằm mục đích gia công thì đều được miễn thuế.
ở Ai Cập, thuế nhập khẩu đánh vào ô tô gấp 4 lần thuế nhập khẩu đánh vào phụ tùng xe hơi, đánh vào máy kéo gấp 2 lần thuế nhập khẩu phụ tùng máy kéo,... mục đích là để khuyến khích các cơ sở lắp ráp trong nước phát triển, tạo nhiều việc làm cho người lao động và tạo ra cơ hội tiếp cận khoa học công nghệ mới của thế giới. Bởi vậy, có nước đi từ nền nông nghiệp lạc hậu như Thái Lan nay đã trở thành nước có mặt hàng xuất khẩu chủ lực như: điện tử, cơ khí lắp ráp. ấn Độ xưa kia là cái nôi của nghề dệt may, nay đã có tiềm lực đứng thứ hai trên thế giới về phần mềm máy tính,...
ở nước ta, sức ép về dân số và tình trạng thiếu công ăn việc làm rất nghiêm trọng. Việc phát triển các ngành may mặc, giầy dép, tiểu thủ công nghiệp,... trong đó phần sản xuất gia công cho nước ngoài chiếm tỷ trọng đáng kể có thể góp phần giải quyết tốt những vấn đề xã hội do tình trạng thiếu việc làm gây ra, gia công xuất khẩu giúp chúng ta khắc phục được những khó khăn ban đầu khi thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu, tạo khả năng chiếm lĩnh dần thị trường xuất khẩu trực tiếp nhờ chất lượng hàng hoá ngày càng cao.
Sau này khi nền kinh tế nước ta đã phát triển ở trình độ cao, sức ép về lao động và việc làm không lớn, xu hướng gia công tất yếu sẽ chuyển sang các nước có nền kinh tế kém phát triển hơn.
1.3. Đẩy mạnh hoạt động gia công quốc tế trên cơ sở huy động tối đa và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư cả trong và ngoài nước.
Các nước mới phát triển đều sử dụng nguồn tư bản nước ngoài làm đòn bẩy trực tiếp cho phát triển kinh tế. ở Thái Lan chính sách đầu tư luôn được sửa đổi phù hợp với các kế hoạch phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Thời kỳ từ 1987 đến nay, Thái Lan khuyến khích mạnh mẽ việc đầu tư cho các dự án làm hàng xuất khẩu, những công ty nào có 50% số sản phẩm làm ra để xuất khẩu thì các nhà đầu tư nước ngoài có thể chiếm phần lớn cổ phần. Riêng ở Singapore và Malaysia Nhà nước không hạn chế tỷ lệ cổ phần của nước ngoài trong các ngành sản xuất, người nước ngoài có thể lập xí nghiệp trong thời gian lâu nhất là 30 năm, được cấp đất với giá rẻ hơn giá thị trường (thường là 50%) nhưng không được quyền sở hữu.
Ngoài ra các nước đều lập ra các khu vực “Mậu dịch tự do” hoặc “khu chế xuất” với mục tiêu chính là kích thích đầu tư tư bản, tăng việc làm, tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu và thu ngoại tệ, thực hiện chuyển giao công nghệ, tăng cường các mối quan hệ quốc tế.
ở nước ta tính đến 12/1998 số dự án được cấp giấy phép gia công hàng may mặc chiếm khoảng 30% số dự án có vốn đầu tư nước ngoài. Qua tổng hợp khoảng 110 hợp đồng gia công của xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong năm 1998, trị giá gia công ước đạt 440 triệu USD. Trong ngành da giầy hiện nay có khoảng 34 xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong đó có 13 xí nghiệp liên doanh với số vốn đầu tư 274 triệu USD, 21 xí nghiệp 100% vốn nước ngoài với số vốn hơn 33 triệu USD.
Nhìn chung việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào lĩnh vực gia công hàng xuất khẩu không lớn nhưng cũng đã góp phần giải quyết vấn đề vốn đầu tư, công nghệ sản xuất, và góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. Tuy nhiên về lâu dài Nhà nước cần hạn chế cấp giấy phép đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực gia công nhất là hàng may mặc, giầy da, vì trong thực tế những mặt hàng này vốn đầu tư không cần nhiều, thời gian đào tạo có tay nghề cao không quá dài, nếu bỏ qua khâu trung gian là các dự án có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam thì các bên đặt gia công nước ngoài buộc phải tìm đến Việt Nam để ký hợp đồng trực tiếp. Qua đó sẽ đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn, đào tạo và sử dụng được nhiều lao động hơn, góp phần giải quyết tốt các vấn đề về xã hội. Bên cạnh đó cần mạnh dạn đầu tư, đổi mới khoa học công nghệ trong lĩnh vực gia công để phát triển các mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao, hiệu quả kinh tế lớn, dần dần thoát khỏi hình thức gia công đơn thuần. Muốn vậy, phải thu hút tối đa các nguồn vốn trong nước cả nguồn vốn Nhà nước cấp, nguồn vốn vay.
1.4. Đẩy nhanh các hoạt động điều tiết vĩ mô của Nhà nước làm nền tảng cơ bản cho việc phát triển kinh tế một cách năng động.
Có thể nói, mặc dù nền kinh tế thị trường phát triển và bị điều tiết bởi các quy luật nội tại của nó, nhưng vai trò điều tiết và quản lý của Nhà nước là rất quan trọng, bảo đảm cho sự phát triển ổn định và bền vững của nền kinh tế. Kinh nghiệm này đã được Nhà nước ta khẳng định trong đường lối chung để phát triển kinh tế Việt Nam trong quá trình phát triển của mình đó là phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo.
Với sự khẳng định vai trò quản lý, điều tiết của Nhà nước, mọi hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá phải chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan quản lý Nhà nước và nằm trong cơ chế điều hành chung của Nhà nước đối với hoạt động của toàn bộ nền kinh tế. Hoạt động gia công cho nước ngoài là một trong những hành vi thương mại được điều chỉnh bởi Luật Thương mại của Việt Nam và các quy định pháp luật khác của Việt Nam đồng thời phải chịu sự quản lý trực tiếp của các cơ quan quản lý chuyên ngành khác như: Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính,... trong đó sự điều hành chung của Chính phủ thông qua các văn bản pháp luật là cơ sở để các ngành chức năng triển khai nhiệm vụ quản lý trực tiếp.
Tóm lại, những kinh nghiệm phong phú và mang tính thực tiễn cao của các nước trên thế giới và trong khu vực. Nó có ý nghĩa rất lớn đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam theo hướng rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, đảm bảo sự tăng trưởng cao của nền kinh tế chứ không chỉ riêng cho hoạt động gia công quốc tế ở Việt Nam. Tuy nhiên, do xác định vai trò của gia công quốc tế trong bước đi ban đầu của sự nghiệp công nghiệp hoá cần tận dụng những lợi thế sẵn có trong nước, phát triển ngành nghề, tạo công ăn việc làm, tăng tích luỹ vốn cho ngân sách, tập dượt khả năng xâm nhập thị trường mới cũng như việc quản lý điều hành nền sản xuất lớn,... Cho nên việc vận dụng có hiệu quả các kinh nghiệm này vào hoạt động gia công quốc tế cũng chính là góp phần phát triển nền kinh tế thị trường Việt Nam, thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nhanh hơn.
2-/ Phương hướng hoạt động gia công trong những năm tới.
Bảng: Cơ cấu xuất nhập khẩu của năm 2002
Xuất khẩu hàng hoá năm 2002
Lương thực, thực phẩm và nguyên liệu thô
Nhiên liệu khai khoáng
Công nghiệp chế biến
Công nghiệp chế tác
21,9%
22%
27,3%
25,8%
Nhập khẩu hàng hoá năm 2002
Máy móc, thiết bị
Nguyên nhiên liệu
Hàng tiêu dùng
44%
46%
10%
Nguồn: Bộ Thương mại
Hiện nay, hoạt động gia công hàng xuất khẩu là một biện pháp quan trọng trong các chính sách khuyến khích xuất khẩu. Đây là một hoạt động để góp phần nâng cao kim ngạch xuất khẩu hàng đã qua chế biến, giảm xuất khẩu hàng thô và sơ chế. Mục tiêu chung của ta là khuyến khích đầu tư sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu và tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến trong cơ cấu hàng xuất khẩu. Để làm được điều này phương hướng phát triển trong những năm tới là:
- Đầu tư để chế biến hàng xuất khẩu.
- Đầu tư cho sản xuất nguyên phụ liệu, kể cả thiết bị, phụ tùng để phục vụ cho sản xuất hoặc chế biến hàng xuất khẩu.
- Khuyến khích mạnh các doanh nghiệp làm hàng gia công.
- Huy động mạnh hàng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Như vậy là hoạt động gia công có một vị trí quan trọng trong chiến lược hướng về xuất khẩu. Nhà nước khuyến khích mạnh mẽ các doanh nghiệp làm hàng gia công không hạn chế số lượng, chủng loại,... hướng các doanh nghiệp mở rộng gia công hàng dệt may, giày dép, lắp ráp đồ điện tử,...
Đối với các trường hợp gia công theo phương thức “mua đứt, bán đoạn” được coi như đầu tư chế biến hàng xuất khẩu theo Luật đầu tư trong nước và được hưởng các ưu đãi đối với đầu tư.
3-/ Những biện pháp chung để hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công quốc tế.
Trong những năm tới, hoạt động gia công xuất khẩu ở Việt Nam còn tiếp tục phát triển mạnh, đó là xu thế của thời đại, là một tất yếu trong quá trình phân công lao động thế giới. Ngoài lợi ích kinh tế hoạt động gia công xuất khẩu giải quyết việc làm cho số lượng lớn lực lượng lao động ở các thành phố lớn cũng như vùng sâu, vùng xa. Có thế nói tăng cường hoạt động gia công xuất khẩu là một bước chuẩn bị quan trọng để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Để tạo điều kiện cho sự phát triển của loại hình kinh doanh này, ngoài việc các doanh nghiệp tự vươn lên bằng nội lực của mình, các cơ quan có thẩm quyền cần có sự giúp đỡ tích cực hơn nữa cho các doanh nghiệp thông qua các cơ chế chính sách phù hợp.
Phương hướng chung hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công quốc tế là không ngừng hoàn thiện hệ thống pháp luật điều chỉnh chế độ quản lý gia công hàng xuất khẩu, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hàng hoá gia công và tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính theo hướng giảm nhẹ những thủ tục hành chính.
3.1. Tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động gia công hàng xuất khẩu.
Tháng 5/1999 Quốc hội nước ta đã thông qua Luật thương mại, đây là cơ sở pháp lý để phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN; mở rộng giao lực thương mại với nước ngoài; góp phần đẩy mạnh sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân, bảo vệ lợi ích chính đáng của người sản xuất, người tiêu dùng và lợi ích hợp pháp của thương nhân.
Luật thương mại đưa ra 14 loại hình vi thương mại nằm trong phạm vi điều chỉnh của luật, trong đó có hành vi gia công thương mại. Trong phạm vi 11 điều (từ điều 128 đến 138) Luật thương mại đã đề cập đến các vấn đề về khái niệm về gia công trong thương mại, nội dung gia công, hợp đồng gia công, điều kiện gia công với thương nhân nước ngoài, việc chuyển giao công nghệ trong gia công với thương nhân nước ngoài, việc chuyển giao công nghệ trong gia công cũng như việc áp dụng pháp luật thuế trong gia công với thương nhân nước ngoài,... Đó là những vấn đề trọng yếu điều chỉnh hành vi gia công thương mại nói chung trong đó có hành vi gia công với thương nhân nước ngoài.
Để hướng dẫn thi hành Luật thương mại với hoạt động gia công, Chính phủ đã ban hành Nghị định 57/NĐ-CP ngày 31/7/2000 kèm theo Nghị định 57/NĐ-CP có các Thông tư 18/2000/TT-BTM ra ngày 28/8/2000 hướng dẫn thực hiện Nghị định 57 trong đó có hoạt động gia công với nước ngoài. Ngoài ra Tổng cục Hải quan cũng có Thông tư 03 hướng dẫn thực hiện hoạt động gia công,...
Tuy đã có một hệ thống các văn bản hướng dẫn hoạt động gia công nhưng vẫn còn có những vướng mắc vì vậy cần tiếp tục hoàn thiện bằng cách đưa ra những văn bản mới để khắc phục những khó khăn vướng mắc do thực hiện những văn bản trước đó.
Cần phải tiến hành rà soát lại toàn bộ hệ thống văn bản pháp luật trong vấn đề quản lý hàng gia công xuất khẩu. Đối với những văn bản có tính chất chỉ đạo chung trong thời gian dài, nếu qui trình thực hiện đã có nhiều vướng mắc, không đáp ứng được yêu cầu quản lý thực tế thì cần phải thay đổi, huỷ bỏ hoàn toàn hiệu lực của văn bản cũ, tránh tình trạng ra văn bản bổ sung liên tục, cái nọ sửa đổi cái kia gây khó khăn cho người thực hiện trực tiếp.
Đối với những văn bản có tính chất tháo gỡ vướng mắc, chỉ dẫn cho cấp dưới thực hiện theo đúng các văn bản đã có cần phải dẫn chiếu rõ số văn bản, ngày tháng, trích yếu,... tránh tình trạng nêu chung chung như: “Việc ... giải quyết theo chế độ hiện hành”, khiến người hướng dẫn gặp nhiều khó khăn.
Trước hết các bộ ngành có liên quan như hải quan, Bộ Thương mại, Bộ Công nghiệp, Bộ Khoa học công nghệ và môi trường, Bộ Tài chính cần thống nhất một số vấn đề có giá trị cơ sở pháp lý về các vấn đề như:
- Vấn đề hao hụt đối với nguyên phụ liệu gia công.
- Vấn đề thuế đối với tỷ lệ hao hụt trên.
- Vấn đề định mức tiêu hao nguyên vật liệu.
- Vấn đề xử lý phế liệu, phế phẩm dư thừa.
- Vấn đề nhãn mác hàng hoá.
- Vấn đề thanh lý, thanh khoản và chế tài trong trường hợp chậm thanh khoản hợp đồng.
Trong các vấn đề trên, ngoài nội dung quản lý, cần xác định rõ trách nhiệm của từng cơ quan, ngành đối với từng vấn đề để có thể giải quyết một cách triệt để các vướng mắc trong quản lý hàng gia công hiện nay.
Để có cơ sở pháp lý trong việc sử lý các vi phạm của doanh nghiệp kinh doanh gia công xuất nhập khẩu, Tổng cục Hải quan cần nghiên cứu trình Chính phủ bổ xung một số điều khoản trong Nghị định 16/CP ngày 20/3/1998 về sử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý Nhà nước về hải quan, đó là các hành vi vi phạm trong hoạt động gia công hàng xuất, nhập khẩu sau:
- Vi phạm thời hạn thanh khoản hợp đồng gia công.
- Mở sổ theo dõi hợp đồng gia công nhưng không thực hiện hợp đồng.
- Đăng ký nhập nguyên liệu để sản xuất hàng gia công nhưng không xuất khẩu sản phẩm,...
3.2. Nâng cao năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác quản lý hàng gia công.
Thực tế trong công tác quản lý hàng gia công xuất nhập khẩu thì đối tượng kiểm tra giám sát là hàng hoá, vật tư, nguyên liệu xuất nhập khẩu giống như các loại hình kinh doanh khác. Nhưng do đặc thù của kinh doanh gia công nên chế độ quản lý cũng đặt ra những yêu cầu khác về nội dung quản lý. Nhưng vấn đề đặt ra là phải đồng thời quản lý chặt chẽ đối tượng hàng hoá xuất nhập khẩu vừa tạo điều kiện thúc đẩy hoạt động gia công xuất khẩu ngày càng phát triển mạnh.
Vì thế mà cần phải coi trọng việc xây dựng và kiện toàn một đội ngũ cán bộ nhân viên quản lý vừa giỏi về kiến thức kinh tế, kỹ thuật, pháp luật, ngoại ngữ,... tận tuỵ với công việc được giao, và phải có phẩm chất trong sáng.
Về mặt nhận thức phải làm cho người cán bộ quản lý thấy rõ vai trò của mình là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, bảo vệ sản xuất trong nước, vận dụng vào công tác quản lý hàng gia công xuất nhập khẩu. Người quản lý phải biết những khó khăn, thiệt thòi của người gia công “làm thuê” cho nước ngoài để trong phạm vi cho phép tạo mọi điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, tránh lối làm việc quan liêu “sống chết mặc bay” khiến cho doanh nghiệp không những gánh chịu thiệt thòi về vật chất mà còn kéo theo những hậu quả nghiêm trọng do mất bạn hàng dẫn đến công nhân mất việc làm, hậu quả xấu xảy ra đối với xã hội.
Đặc biệt là đối với ngành hải quan, cán bộ nhân viên quản lý hải quan phải thường xuyên tiếp xúc trực tiếp với tiền hàng. Trong thời điểm này đời sống vật chất của cán bộ nhân viên chưa được nâng cao, trong số các đơn vị quản lý có những thành viên vì mục tiêu lợi nhuận mà bị lôi kéo vào những hoạt động vi phạm pháp luật. Vì vậy mà cần phải tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, đào tạo nâng cao kiến thức nghiệp vụ, luật pháp, tăng cường kỷ cương nội bộ; có chế độ thưởng phạt nghiêm minh cũng như chú trọng chăm lo đời sống cho cán bộ nhân viên.
Những công việc trước mắt cần được chú trọng là:
Thứ nhất: phải tuyển dụng đội ngũ cán bộ nhân viên có kiến thức chắc về luật để nghiên cứu, đưa ra các văn bản pháp quy phù hợp với yêu cầu quản lý cụ thể của ngành.
Thứ hai: cần rà soát phân loại và tiêu chuẩn hoá lực lượng cán bộ nhân viên quản lý, chú trọng ngay từ khâu tuyển chọn đội ngũ cán bộ nhân viên theo hướng lựa chọn những người có phẩm chất, đạo đức tốt; đã được đào tạo. Chú trọng tăng cường các khâu công tác nghiệp vụ bằng các cán bộ có chuyên môn, năng lực thích hợp, kiên quyết xử lý hoặc đưa ra khỏi ngành những người không đủ phẩm chất và năng lực công tác.
Thứ ba: coi trọng việc tập huấn và huấn luyện nghiệp vụ ở các khâu công tác. Đặc biệt là đối với cán bộ hải quan phải có kiến thức chuyên sâu về thương phẩm, có trách nhiệm đối với nghề nghiệp.
Thứ tư: có chế độ thưởng phạt để khuyến khích, động viên những cán bộ quản lý công tác tốt đồng thời đấu tranh với các hiện tượng tiêu cực, gây phiền hà,... với khách hàng, xoá đi mặc cảm, thành kiến của khách hàng đối với cán bộ quản lý. Cán bộ quản lý phải có thái độ văn minh, lịch sự, có trình độ nghiệp vụ cao, xử lý công việc linh hoạt, đảm bảo đúng chính sách chế độ, không gây khó khăn, ách tắc cho hàng hoá xuất khẩu.
Những vấn đề trên đây nói thì dễ, làm thì khó bởi trên thực tế có muôn vàn điều không được nói đến nhưng lại chi phối rất nhiều đối với công tác tổ chức, lãnh đạo, nhưng nếu thực sự kiên quyết và vì lợi ích chung của toàn xã hội thì vẫn có thể làm được.
3.3. Đẩy mạnh công tác cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý.
Những mục tiêu chính của công tác cải cách thủ tục hành chính là giải phóng nhanh chóng người và hàng hoá, phương tiện xuất nhập cảnh; tạo sự thống thoáng thuận tiện, văn minh lịch sự đối với hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch,... Đồng thời đảm bảo quản lý chặt chẽ theo pháp luật; giữ vững kỷ cương, phép nước về quản lý; chống quan liêu cửa quyền, tiêu cực trong lĩnh vực quản lý.
Để đáp ứng các yêu cầu trên, các cơ quan, ban ngành chức năng có liên quan đến hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã triển khai nghiêm túc việc cải cách thủ tục hành chính và đã thu được những kết quả bước đầu quan trọng.
Trước đây Bộ Thương mại tiến hành cấp giấy phép chuyến cho từng chuyến hàng kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng từ khi có Nghị định 89/CP Bộ Thương mại tiến hành bỏ việc cấp giấy phép chuyến nên đã làm giảm bớt được một phần thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh. Đặc biệt là gầy đây (đầu năm 2001) Bộ Thương mại đã bỏ chế độ phê duyệt hợp đồng gia công cũng đã làm giảm bớt thủ tục hành chính cho hoạt động gia công giúp doanh nghiệp thực hiện hợp đồng được nhanh hơn,...
Ngành hải quan cũng đã có chỉ thị 1121/TCHQ-VP ngày 16/9/1996 của Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan về cải cách thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực quản lý của mình.
Ngoài việc trực tiếp thực hiện cải cách thủ tục hành chính ra các ban ngành có liên quan đến hoạt động gia công hàng xuất khẩu (Bộ Thương mại, Tổng cục Hải quan,...) còn tiến hành:
+ Phối hợp với các ngành chức năng đề xuất với Chính phủ sửa đổi, bổ sung những điểm còn sơ hở, bất hợp lý trong chính sách, chế độ, cơ chế điều hành hoạt động xuất nhập khẩu,...
+ Cải tiến thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá, thống nhất hoá, tiêu chuẩn hoá cho phù hợp với yêu cầu phát triển của hoạt động xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch,... hiện tại cũng như trong thời gian tới nhằm đem lại hiệu quả thiết thực về mặt kinh tế, xã hội.
+ Gắn cải cách thủ tục hành chính với công tác thanh tra, kiểm tra chống buôn lậu và chống thất thu thuế,...
+ Gắn công tác cải cách thủ tục hành chính với công tác thanh tra sử lý tiêu cực nội bộ, giảm phiền hà,...
Gần đây công tác cải cách thủ tục hành chính về lĩnh vực quản lý hàng gia công tuy vẫn được chú trọng nhưng từng lúc, từng nơi, từng khâu công tác chưa có phương hướng, mục tiêu cụ thể gắn với yêu cầu, nhiệm vụ trực tiếp của đơn vị. Mặt khác do hoạt động đối ngoại và các hoạt động kinh tế khác của đất nước như: đầu tư quốc tế, liên doanh, gia công xuất khẩu,... cũng có những bước phát triển mới phong phú, đa dạng, đòi hỏi ngành quản lý phải đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách thủ tục hành chính nhằm chống phiền hà, tạo thông thoáng nhưng đồng thời tránh sơ hở dễ bị lợi dụng tiêu cực.
Trong công tác kiểm tra, giám sát, quản lý hàng hoá gia công xuất nhập khẩu, cải cách thủ tục hành chính cần làm các việc sau:
Thứ nhất: xây dựng, ban hành các văn bản mới cũng như quy trình đối với hàng gia công về quy trình kiểm tra, đối chiếu định mức tiêu hao nguyên phụ liệu, quy trình thanh khoản hợp đồng gia công,... Công khai hoá các quy trình tại nơi làm thủ tục,...
Thứ hai: tích cực đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật hiện đại để đẩy nhanh tiến độ làm thủ tục. Việc đưa vào sử dụng hệ thống máy vi tính nối mạng trên toàn quốc giúp cho việc quản lý, giám sát chặt chẽ hơn, chính xác hơn.
Thứ ba: tiếp tục phát hiện kiến nghị, sửa đổi, bổ sung những vấn đề về chính sách chế độ quản lý đối với hàng hoá gia công xuất khẩu, nhập khẩu. Một số văn bản chỉ đạo của ngành khi xây dựng cần có sự tham khảo của các ngành chức năng có liên quan, đảm bảo cho văn bản được ban hành đúng thẩm quyền và nội dung phù hợp với yêu cầu thực tế.
Vấn đề cỉa cách thủ tục hành chính luôn gắn với yếu tố con người vì vậy luôn phải chú trọng xây dựng lực lượng đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ có phẩm chất đạo đức trong sáng đảm bảo hoàn thành tốt công việc.
4-/ Những biện pháp quản lý cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả quản lý đối với vấn đề quản lý hoạt động gia công quốc tế.
Để khắc phục những hạn chế vướng mắc phát sinh trong quá trình quản lý hoạt động gia công hàng xuất khẩu như đã nói ở trên nhằm nâng cao hiệu quả quản lý hoạt động này theo em cần có những biện pháp khắc phục cụ thể sau:
4.1. Về vấn đề đăng ký thủ tục hải quan.
Đây là khâu nghiệp vụ quan trọng nhằm đảm bảo cho bộ hồ sơ được tiếp nhận đầy đủ theo đúng quy định của pháp luật về hình thức, đồng thời phải chính xác về nội dung tên hàng, mã số hàng hoá, số lượng, đơn giá, trị giá gia công,... Tóm lại nội bộ hồ sơ đầy đủ, chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho công tác kiểm hoá, kiểm tra định mức và thanh khoản hợp đồng sau này được thuận tiện. Đồng thời nó cũng là bằng chứng về lời khai ban đầu của chủ hàng nếu có những sai phạm.
Để việc đăng ký thủ tục hải quan được tốt thì cần chú trọng những nội dung sau:
- Bố trí cán bộ nắm vững nghiệp vụ, ngoại ngữ, tiếp nhận hồ sơ và đăng ký tờ khai nhanh chóng để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp nhanh đi vào kinh doanh.
- Kiểm tra kỹ tính pháp lý của hợp đồng nhất là những điều khoản liên quan đến chức năng quản lý như điều kiện nhận gia công chuyển tiếp, điều khoản về nhãn mác hàng hoá,...
- Cán bộ đăng ký tờ khai chịu trách nhiệm và trực tiếp ghi trừ lui vào sổ theo dõi hợp đồng gia công vào đúng các cột mục quy định và ký tên.
- Quản lý theo dõi hợp đồng gia công chặt chẽ, đóng dấu lưu giữ những tài liệu cần thiết. Quản lý sổ chặt chẽ. Về lâu dài cần bỏ việc quản lý theo sổ sách, vì cách vào sổ thủ công như hiện nay chỉ phù hợp với những trường hợp mà hợp đồng gia công sản phẩm có chi tiết nguyên phụ liệu ít. Đối với những sản phẩm gồm nhiều chi tiết nguyên phụ liệu thì việc vào sổ mất rất nhiều thời gian, công sức ảnh hưởng đến thời gian làm thủ tục cho các doanh nghiệp từ đó làm trì trệ hoạt động sản xuất. Cần đưa vào quản lý bằng hệ thống vi tính hoặc cho phép doanh nghiệp áp dụng chế độ khai báo một lần cho một lượng hàng trong một thời gian nhất định.
- Với những nguyên phụ liệu nhập theo phụ kiện bổ sung của hợp đồng gia công đang được thực hiện, cần phải thực hiện nhanh chóng trong cân duyệt phụ lục hợp đồng nhằm đáp ứng kịp thời cho hoạt động sản xuất của doanh nghiệp,...
4.2. Kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu.
Đây cũng là một khâu quan trọng trong khâu giám sát, quản lý, công tác kiểm tra phải đảm bảo đúng tên hàng, số lượng, trọng lượng, chất lượng, xuất xứ hàng hoá xuất nhập khẩu.
Để thực hiện được nhiệm vụ này đòi hỏi cán bộ kiểm tra phải có kiến thức về thương phẩm, về pháp luật, ngoại ngữ,... đồng thời phải có thái độ trung thực, khách quan, khẩn trương, lịch sự văn minh trong khi kiểm hoá và khi quan hệ với chủ hàng. Thực tế các vụ buôn lậu, gian lận thương mại về mặt hàng, số lượng, nguồn gốc xuất xứ,... có bị phát hiện hay không là tuỳ thuộc vào trình độ nghiệp vụ và phẩm chất của cán bộ kiểm hoá.
+ Kiểm hoá đối với nguyên phụ liệu nhập khẩu:
- Kiểm hoá để xác định đúng tên, số lượng, trọng lượng, xuất xứ của loại nguyên vật liệu nhập về gia công; phát hiện kịp thời những sai lệch về chủng loại, số lượng nguyên liệu hoặc các trường hợp lợi dụng nhập hàng cấm, hàng không khai báo.
- Tiến hành lấy mẫu và lưu mẫu nguyên liệu để làm cơ sở đối chiếu sản phẩm thực xuất sau này. Công việc này rất quan trọng, do yêu cầu của quản lý sản phẩm gia công nên phải tiến hành lấy mẫu và có chế độ niêm phong quản lý mẫu tránh tình trạng trao đổi mẫu như đã sảy ra ở một số nơi trước đây.
+ Kiểm hoá đối với hàng hoá gia công xuất khẩu.
- Phải đối chiếu thành phẩm xuất khẩu với mẫu lưu để xác định hàng hoá xuất khẩu đúng là sản phẩm của doanh nghiệp đã gia công, tránh trường hợp lợi dụng, tráo đổi nguyên phụ liệu để tiêu thụ nội địa và trốn thuế nhập khẩu.
- Nếu hàng hoá xuất thiếu so với khai báo thì trong các lần xuất sau phải xuất tiếp số sản phẩm thiếu đó. Cán bộ quản lý phải phân biệt được xuất thiếu hàng hoá với xuất khống hàng. Nếu hàng khai nhiều xuất ít, thậm chí không xuất mà cán bộ kiểm hoá vẫn xác nhận thực xuất theo khai báo là vi phạm pháp luật, phải bị sử lý. Còn nếu xuất thiếu mà vẫn xác nhận xuất như khai báo là xuất khống, muốn tránh được tình trạng này đòi hỏi cán bộ kiểm hoá phải trung thực, đồng thời phải tăng cường công tác kiểm tra của cấp trên đối với hoạt động kiểm hoá.
4.3. Kiểm tra đối chiếu định mức tiêu hao nguyên phụ liệu.
Định mức tiêu hao nguyên phụ liệu được quy định trong hợp đồng gia công hoặc do doanh nghiệp nhận gia công tự xây dựng nên nhưng phải được sự đồng ý của cơ quan hải quan khi đã kiểm tra, xác nhận. Đây là khâu then chốt để quản lý chặt chẽ nguyên phụ liệu nhập khẩu, tránh các trường hợp khai tăng trốn thuế. Để tránh trường hợp này cần làm các công việc sau.
- Xây dựng quy trình kiểm tra đối chiếu định mức tiêu hao nguyên phụ liệu để thống nhất thực hiện trong quản lý hàng gia công.
- Đối với những sản phẩm gia công phải qua nhiều công đoạn phức tạp yêu cầu doanh nghiệp khi nộp bản định mức tiêu hao nguyên phụ liệu phải có xác nhận của cơ quan quản lý chuyên ngành.
- Đối với những mặt hàng gia công thường xuyên, mẫu mã chủng loại nhiều, phức tạp có thể căn cứ vào định mức kỹ thuật chi tiết (thường gọi là chỉ lệnh sản xuất) do giám đốc doanh nghiệp quyết định giao xuống cho các phân xưởng sản xuất đã làm cơ sở cho việc theo dõi thanh khoản hợp đồng sau này.
4.4. Thanh khoản hợp đồng gia công.
Để đảm bảo việc thanh khoản các hợp đồng gia công đúng mức và kịp thời cần phải.
+ Mở sổ theo dõi tình hình thực hiện hợp đồng của các đơn vị thuộc địa bàn quản lý của cơ quan hải quan. Sổ theo dõi, phân loại theo các tiêu thức: thời hạn hiệu lực của hợp đồng gia công đã đăng ký với Bộ Thương mại, theo loại hình gia công, theo chủng loại mặt hàng.
Qua theo dõi số nắm được những hợp đồng nào đã hết hiệu lực để đôn đốc các doanh nghiệp tiến hành thanh khoản, không để tồn đọng.
+ Cùng với doanh nghiệp lập kế hoạch về thời gian tiến hành thanh khoản, tập hợp hồ sơ, chứng từ đầy đủ để thanh khoản dứt điểm, nhanh chóng những hợp đồng đã hết hạn.
+ Bố trí cán bộ có năng lực, am hiểu chuyên môn, nghiệp vụ đảm bảo thanh khoản hợp đồng gia công nhanh chóng, chính xác, đề xuất xử lý linh hoạt các trường hợp nguyên phụ liệu thừa, thiếu, hỏng,...
+ Sau khi thanh khoản hợp đồng, cần có những quy định pháp lý ràng buộc đối với các doanh nghiệp gia công như: thời gian buộc phải tái xuất nguyên vật liệu, thời gian nộp thuế nhập khẩu hoặc thuế tiêu thụ nội địa,...
4.5. Về vấn đề giá cả gia công.
Để giữ được mức giá gia công ổn định, không bị ép giá Nhà nước cần cho phép thành lập và phát huy vai trò của các hiệp hội ngành nghề để đảm bảo lợi ích chính đáng của doanh nghiệp, giữ thế cân bừng về giá cả, chất lượng hàng hoá. Đồng thời phát huy vai trò của các cơ quan thương mại ở nước ngoài và các cơ quan quản lý có liên quan để trao đổi, thông tin về khách hàng và thị trường để đảm bảo ổn định các điều kiện gia công, hạn chế cạnh tranh không lành mạnh tạo cơ hội cho khách hàng ép giá. Cũng trên cơ sở đó nâng cao uy tín thương mại, chất lượng hàng gia công và tay nghề cho người lao động.
Trên cơ sở những kinh nghiệm và xuất phát từ yêu cầu tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong khi thực hiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu. Những phương hướng chung và những biện pháp cụ thể trên nhằm từng bước hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước về hoạt động gia công, cải tiến quy trình nghiệp vụ theo các mục tiêu của công cuộc cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực quản lý.
Để thực hiện được những giải pháp đòi hỏi phải có sự phối kết hợp giữa các ngành, các cấp khác nhau để tạo điều kiện cho hoạt động gia công xuất khẩu phát triển mạnh mẽ và đúng hướng.
5-/ Các biện pháp nhằm tăng nhanh tốc độ sản xuất hàng gia công.
5.1. Biện pháp đầu tư.
Tích cực khuyến khích các doanh nghiệp vừa và nhỏ tham gia gia công. Thu hút sự trợ giúp về vốn cho các doanh nghiệp của các tổ chức phi Chính phủ, các tổ chức thế giới để tháo gỡ khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp.
Có chế độ ưu đãi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
Ưu tiên các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng gia công xuất khẩu đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất các loại nguyên phụ liệu thay thế nguyên phụ liệu nhập khẩu.
Huy động vốn trong nước bằng cách cổ phần hoá các doanh nghiệp để tăng quy mô và năng lực sản xuất.
5.2. Tổ chức sản xuất kinh doanh.
Để giúp các doanh nghiệp tăng quy mô sản xuất, tìm thị trường tiêu thụ thì có thể chọn hình thức tổ chức sản xuất theo kiểu: công ty mẹ với nhiều công ty con cùng sản xuất một loại sản phẩm. Công ty mẹ chịu trách nhiệm tìm kiếm khách hàng và cung cấp nguyên vật liệu, sau đó thu gom và xuất khẩu. Hình thức tổ chức này vừa tạo được uy tín về sản phẩm, tránh ép giá trong hợp đồng, tăng quy mô sản xuất mà lại hạn chế được chế độ đấu thầu hạn ngạch không đồng đều. Công ty mẹ sẽ đứng ra đấu thầu và phân bổ hạn ngạch cho các công ty con của mình.
5.3. Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu.
Cần đơn giản hoá các thủ tục nhập nguyên phụ liệu, nhập hàng mẫu, bản vẽ cho hợp đồng gia công hiện vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian gây khó khăn cho các doanh nghiệp đặc biệt là các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời hạn ngắn.
Đơn giản thủ tục hoàn thuế và xây dựng mức thuế chi tiết cho từng loại nguyên vật liệu,...
Đó là những biện pháp cơ bản nhằm tăng quy mô sản xuất hàng gia công nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện chiến lược hướng về xuất khẩu của nền kinh tế. Nhưng cũng cần phải có những biện pháp chuyển dần từng bước từ hoạt động gia công sang xuất khẩu trực tiếp trong những năm tới.
kết luận
Nền kinh tế nước ta đang có sự chuyển biến mạnh mẽ và tích cực nhờ chính sách mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước. Có thể nói, việc mở rộng các quan hệ kinh tế đối ngoại trong đó có hoạt động gia công hàng xuất khẩu đã giúp chúng ta tham gia một cách chủ động và tích cực vào quá trình phân công lao động và trao đổi buôn bán quốc tế, tạo được cầu nối giữa nền kinh tế trong nước và nền kinh tế các nước trên thế giới.
Mỗi phương thức kinh doanh buôn bán quốc tế đều có những ưu điểm và hạn chế nhất định, điều quan trọng là mỗi nước khi tham gia vào mậu dịch quốc tế phải biết phát huy những mặt tích cực và có những biện pháp khắc phục những mặt tiêu cực của mỗi phương thức nhằm đem lại hiệu quả kinh doanh cao.
Những năm gần đây, hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở nước ta được chú trọng phát triển một cách nhanh chóng và đa dạng đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Trong thời gian tới, với chiến lược coi gia công hàng xuất khẩu là mũi nhọn trong hoạt động kinh tế đối ngoại, một mắt xích quan trọng để thực hiện chiến lược hướng vào xuất khẩu.
Thông qua đề tài em đã hệ thống hoá một số vấn đề lý luận về phương thức kinh doanh gia công quốc tế để làm cơ sở lý luận cho việc tiếp tục phát triển phương thức kinh doanh này ở Việt Nam, phát huy được những lợi thế sẵn có của đất nước.
Đề tài tập hợp được một vài kinh nghiệm hoạt động gia công quốc tế ở nước ngoài vận dụng vào điều kiện thực tế của Việt Nam để có thể chọn bước đi và quy mô hợp lý cho hoạt động này.
Thông qua việc phân tích, đánh giá tình hình gia công ở Việt Nam, đề tài đã nêu lên được những mặt hạn chế, những tồn tại và đưa ra một số giải pháp để khắc phục tình trạng yếu kém của hoạt động gia công hàng xuất khẩu ở nước ta nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của phương thức kinh doanh gia công, góp phần thực hiện chiến lược hướng mạnh về xuất khẩu.
Đề tài cũng đã góp phần nhỏ trong việc đưa ra một số biện pháp nhằm hoàn thiện chế độ quản lý Nhà nước đối với hoạt động gia công hàng xuất khẩu trên cơ sở yêu cầu tháo gỡ những khó khăn vương mắc trong công tác quản lý nhằm góp phần cải cách thủ tục hành chính trong quản lý,...
Những vấn đề được đề cập đến trong đề tài còn ở trong phạm vi hẹp, tính khái quát chưa cao. Để có thể giải quyết một cách toàn diện, triệt để những vấn đề đã nêu trong đề tài còn cần phải được nghiên cứu sâu rộng hơn nữa cả về lý luận và thực tiễn, chắc chắn sẽ đóng góp được nhiều hơn cho sự nghiệp phát triển nền kinh tế nói chung và hoạt động gia công nói riêng.
Tài liệu tham khảo
1. Báo cáo tình hình 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam trong lĩnh vực thương mại - Bộ Thương mại 12-1999.
2. Báo cáo tổng kết công tác gia công 1998-1999 tại thành phố Hải Phòng của Bộ Thương mại.
3. Báo cáo công tác điều hành xuất nhập khẩu và quản lý thị trường năm 1999 - Bộ Thương mại.
4. Cơ hội đầu tư Việt Nam 2000, 2001 - Trung tâm tư vấn và đào tạo kinh tế thương mại (ICTC) - Bộ Thương mại 2000.
5. Dự thảo quy chế gia công - Bộ Thương mại 1999.
6. Giáo trình kinh tế thương mại - PGS-PTS - Nguyễn Duy Bột - PGS-PTS - Đặng Đình Đào - NXB Thống kê 2000.
7. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp thương mại - PGS-PTS Hoàng Minh Đường - PTS Nguyễn Thừa Lộc - NXB Giáo dục 2000.
8. Giáo trình thương mại quốc tế - PGS-PTS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống kê 1999.
9. Luật Thương mại - NXB Chính trị quốc gia năm 2000.
10. 50 năm ngành thương mại Việt Nam.
11. Nghị quyết nhiệm vụ năm 2001 - NXB Chính trị quốc gia năm 2001.
12. Tạp chí thương mại số 8,9,21 năm 2000.
13. Tạp chí Thời báo kinh tế Sài gòn số 12,18,21,24,36,37 năm 2000; số 17,19,20 năm 2001.
14. Văn bản pháp luật về gia công xuất khẩu - NXB Chính trị quốc gia 1999.
15. Tạp chí Hải quan số 100,101,133,139 năm 2000.
16. Báo cáo công tác tình hình xuất nhập khẩu và quản lý thị trường năm 1999 của Bộ Thương mại.
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0382.doc