Nền kinh tế ở nước ta từ khi bước sang giai đoạn mới, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có nhiều thay đổi đáng mừng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng liên tục qua nhiều năm nhưng hiện nay đang có xu hướng giảm xuống. Để nền kinh tế nước ta thực sự hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực đòi hỏi các doanh nghiệp không những có vốn mà còn phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình.
Trong những năm qua, công tác quản lý và sử dụng vốn đã được các doanh nghiệp thương mại đặc biệt quan tâm, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn nhìn chung chưa cao tương xứng với tiềm năng và mục tiêu đề ra. Việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế đang chuyển đổi theo cơ chế thị trường là làm việc có ý nghĩa và thiết thực về cả lý luận và thực tiễn. Điều đó cho phép doanh nghiệp thương mại chủ động hơn trong hoạt động của mình, tạo điều kiên để doanh nghiệp thương mại hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, tập thể người lao động cũng như với bản thân doanh nghiệp.
53 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1378 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
p, bao gồm: nhà cửa, vật kiến trúc, máy móc và thiết bị, công cụ thiết bị đo lường, phương tiện vận tảI, bốc dỡ hàng hoáv.v…
-Hình tháI tiền tệ: đó là tàI sản cố định chưa khấu hao và vốn khâu hao khi chưa được sử dụng để sản xuất tàI sản cố định, là bộ phận vốn cố định đã hoàn thành vòng luân chuyển và trở về hình tháI tiền tệ ban đầu.
a. Theo công dụng, tàI sản cố định của DNTM được chia thành:
-Nhà làm việc hành chính, nhà kho, nhà cửa hàng, nhà để sửa chữa, để sản xuất năng lượng (máy nổ hoặc máy đIện), nhà để xe, phòng thí nghiệm.v.v…
-Các công trình xây dựng và vật kiến trúc để tạo đIều kiện cần thiết cho việc thực hiện các hoạt động nghiệp vụ trong kinh doanh thương mại như: Cầu để bốc dỡ vật tư hàng hoá, đường ô tô đI vào và ra, đường dây tàI đIện.v.v…
-Các công cụ, thiết bị, máy móc, phương tiện cân, đo, bảo quản, chứa đựng dùng trong kinh doanh như các loại cân, các giá để chứa hàng, cần trục, các cần cẩu, máy chuyển tảI( băng chuyền), phương tiện tính toán, báo động cứu hoảv.v...
-Các loại phương tiện vận chuyển như ô tô tảI, ô tô chuyên dùng, rơ móc, xe chuyển hàng kéo tay, chạy đIện v.v…
- Các loai tàI sản cố định khác không ở các nhóm kể trên như bao bì tàI sản, côngtenơ.v.v…
b.Theo mục đích sử dụng, các tàI sản cố định dùng trong kinh doanh được phân thành các nhóm như sau:
-TàI sản cố định dùng trong kinh doanh là những tàI sản cố định đang dùng trong kinh doanh, sản xuất và dịch vụ của doanh nghiệp.
-TàI sản cố định hành chính sự nghiệp: là những tàI sản cố định dùng làm việc hành chính, sự nghiệp như nhà làm việc hành chính, nhà tiếp khách, cơ quan của các đoàn thể, nhà của y tế, văn hoá, thể dục thể thao v.v….
-TàI sản cố định phúc lợi: là những tàI sản cố định dùng cho nhu cầu phúc lợi công cộng của doanh nghiệp như nhà đIều dưỡng nghỉ mát, nhà ở của công nhân viên của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự xây dựng, các phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp đưa đón công nhân viên đI làm và về nhà, v.v…
-TàI sản cố định chờ xử lý: là những tàI sản cố định không cần dùng, chưa cần dùng hoặc hư hỏng đang chờ giảI quyết hoặc thanh lý.
Trong các DNTM không phảI lúc nào, ở doanh nghiệp nào cũng có đủ các thành phần nói trên của tàI sản cố định. Lúc đầu tàI sản cố định thường chỉ có một vàI loại như nhà vừa làm việc vừa làm kho hoặc cửa hàng, vừa làm nơI ở cho người độc thân. Trong quá trình phát triển, các doanh nghiệp nhà nước được nhà nước, cấp trên đầu tư thêm. TàI sản cố định được tăng thêm nhờ xây dựng, cảI tạo, mở rộng hoặc mua sắm mới. Sự xuất hiện ngày càng nhiều các loại tàI sản cố định mới như các máy móc, thiết bị, dụng cụ cân đo, đong, xuất, nhập mới làm cho thành phần của tàI sản cố định ngày càng phong phú. ĐIều đó chứng tỏ cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp ngày càng hiện đại.
Hiện nay vốn cố định của doanh nghiệp thương mại chiếm khoảng 1/3 toàn bộ vốn kinh doanh của doanh nghiệp. Tuỳ theo tính chất đặc đIểm của từng loại vật tư hàng hoá và sự cần thiết đáp ứng nhu cầu khách hàng, các DNTM có tỉ lệ vốn cố định ít nhiều khác nhau, từ 10% đến 50%…
Tuy nhiên một số doanh nghiệp tàI sản cố định còn quá thiếu, lại quản lý sử dụng không tốt, lãng phí, có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả của kinh doanh.
Cơ cấu vốn cố định là tỉ lệ phần trăm của từng nhóm vốn cố định chiếm trong tổng số vốn cố định. Nghiên cứu cơ cấu của vốn cố định, cho phép đánh giá việc đầu tư có đúng đắn hay không và cho phép xác định hướng đầu tư vốn cố định trong thời gian tới. Có thể hình dung vốn cố định của một DNTM theo số liệu giả định sau đây:
Cơ cấu vốn cố định của một DNTM
Tổng số vốn cố định của doanh nghiệp 100%
Trong đó:
a) Vốn cố định dùng trong kinh doanh 77,7%
Chia ra:
- Nhà kho, cửa hàng, các công trình phục vụ kinh doanh 61,3%
- Các máy móc, thiết bị… 8.3%
- Các phương tiện vận tảI, bốc dỡ… 5,6%
- Vốn cố định khác 2,5%
b) TàI sản cố định hành chính sự nghiệp 14,8%
c) TàI sản cố định phúc lợi 7,3%
d) TàI sản cố định chờ xử lý 0,2%
3.2 Nguồn vốn cố định.
a) Nguồn vốn cố định: gồm vốn cố định do ngân sách, do cấp trên cấp phát cho doanh nghiệp, vốn cổ phần do xã viên hợp tác xã và các cổ đông đóng góp bằng tàI sản cố định, hoặc vốn pháp định do chủ xí nghiệp bỏ ra ban đầu khi thành lập xí nghiệp tư nhân.
b) Nguồn vốn tự bổ sung: gồm vốn cố định của những tàI sản cố định đã được đầu tư hoặc mua sắm bằng quỹ xí nghiệp.
c) Nguồn vốn liên doanh: gồm các khoản vốn do các đơn vị tham gia liên doanh liên kết góp bằng tàI sản cố định và bằng vốn đầu tư xây dựng cơ bản đã hoàn thành.
3.3 Xây dựng cơ bản và mua sắm tàI sản cố định.
Vốn cố định của DNTM tăng lên do xây dựng cơ bản. Xây dựng cơ bản bằng cách mở rộng cơ sở sẵn có, xây dựng lại hoặc xây dựng mới. Nhiệm vụ chủ yếu của XDCB trong các doanh nghiệp là bảo đảm điều kiện vật chất để nâng cao năng lực thu mua, tiếp nhận, dự trữ, bảo quản và nâng cao trình độ văn minh bán hàng, phục vụ khách hàng được thuận lợi, nhanh chóng và chính xác về số lượng cũng như chất lượng hàng hoá cho các nhu cầu.
a. Xây dựng cơ bản trong các DNTM:
- Trình tự của xây dựng cơ bản:
Muốn xây dựng cơ bản phảI có bản nhiệm vụ thiết kế đã được cơ quan có thẩm quyền cho xây dựng duyệt. Nội dung của bản nhiệm vụ thiết kế bao gồm:
+Tình hình của doanh nghiệp và yêu cầu về cơ sở vật chất kĩ thuật, yêu cầu phảI bảo vệ bảo quản, mua bán hàng hoá và cơ sở vật chất hiện có.
+ Lí do xây dựng: cân đối khả năng và yêu cầu của việc dự trữ bảo quản mặt hàng của ngành hàng.
+ Sơ lược về nội dung xây dựng: khả năng đạt được sau khi xây dựng, số năm có thể sử dụng công trình, địa đIểm, căn cứ lựa chọn và tiến độ xây dựng.
+ Hiệu quả của đầu tư: ước lượng số lượng vốn đầu tư, nguồn vốn, giá thành toàn bộ công trình mỗi năm và hiệu quả vốn đầu tư.
+ Thuyết minh những đIều kiện cần thiết cho xây dựng và kinh doanh: số lượng các loại thiết bị máy móc cần thiết, nhu cầu và nguồn nguyên nhiên vật liệu động lực cung cấp, phương tiện vận tảI phục vụ cho việc xây dựng và sau đó là hàng hoá ra vào kho.
Sau khi có bản nhiệm vụ thiết kế đã được phê duyệt mới tiến hành thiết kế. PhảI có thiết kế sơ bộ được phê chuẩn rồi mới ghi vào kế hoạch kiến thiết cơ bản hàng năm và mới được chuẩn bị thi công.
Thiết kế có thể tiến hành theo hai bước hoặc ba bước. Trong trường hợp xây dựng các công trình có thiết kế mẫu, hoặc công trình sử dụng thiết kế cũ, hoặc công trình đơn giản thì thiết kế theo hai bước: thiết kế sơ bộ mở rộng và bản vẽ tường tận để thi công. Còn thiết kế theo ba bước phảI tiến hành tuần tự: thiết kế sơ bộ và kháI toán, thiết kế kỹ thuật và dự toán, bản vẽ tường tận để thi công.
Thiết kế sơ bộ và kháI toán phảI căn cứ vào bản nhiệm vụ thiết kế đã được phê chuẩn và các tàI liệu điều tra cơ bản đã thu thập được để tiến hành. KháI toán xác định một cách kháI quát số lượng vốn đầu tư cần thiết. KháI toán của toàn bộ công trình gọi là tổng kháI toán. KháI toán có: kháI toán phần xây dựng và kháI toán phần mua sắm và lắp đặt các trang thiết bị của các hạng mục công trình và kháI toán phần kiến thiết cơ bản khác.
Thiết kế kỹ thuật và dự toán phảI căn cứ vào thiết kế sơ bộ và không được tráI với những đIều đã quy định trong thiết kế sơ bộ, không được tăng khối lượng xây dựng và vố đầu tư.
Mục đích của thiết kế kỹ thuật là giảI quyết vấn đề vè mặt kĩ thuật, quyết định các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật và giá thành xây dựng của công trình đã thiết kế.
Nội dung của thiết kế kĩ thuật gần giống như thiết kế sơ bộ nhưng tường tận và tính toán kỹ càng hơn. Mức độ toàn diện và chính xác của thiết kế kĩ thuật đã đạt được làm cho nó trở thành văn kiện chính để tổ chức thi công và có thể dựa vào nó để đặt mua thiết bị máy móc.
Dự toán là tàI liệu duy nhất để chính thức xác định giáI trị xây dựng công trình theo nội dung thiết kế kĩ thuật đã được duyệt. Khác với kháI toán, dự toán được tính toán tỉ mỉ chính xác với nội dung cụ thể hơn.
Dự toán của toàn bộ công trình gọi là tổng dự toán. Tổng dự toán dựa trên dự toán chi tiết: dự toán phần xây dựng công trình đơn vị, dự toán phí tổn sử dụng máy móc thi công, dự toán phần thiết bị trang trí, dụng cụ của công trình, dự toán phần nhân công lắp đặt trang thiêt bị, đự toán vận chuyển ngoàI cự li định mức, dự toán phần xây dựng cơ bản khác.
Dự toán được duyệt là hạn mức cao nhất của vốn kiến thiết cơ bản được cấp cho công trình xây dựng,là căn cứ chính của việc cấp phát vốn hàng năm để lập kế hoạch vốn xây dựng cơ bản.
Dự toán phảI do cơ quan thiết kế lập ra.
Bản vẽ tường tận để thi công được lập ra theo thiết kế kĩ thuật. Trường hợp thiết kế theo hai bước thì dựa vào thiết kế sơ bộ mở rộng.
Nội dung của bản vẽ tường tận để thi công gồm hai loại:
Bản đồ chung về thi công nêu rõ sự bố trí các hạng mục công trình và các công trình đơn vị cũng như vị trí và tương quan giữa chúng với nhau.
Các bản vẽ chi tiết thi công nêu rõ kích thước các cấu kiện, kết cấu của các bộ phận công trình.
Thông qua bản vẽ tường tận để thi công có thể quyết định đầy đủ khối lượng công tác xây lắp của từng bộ phận, từng hạng mục và toàn bộ công trình.
- Công tác tổ chức thi công
Trong xây dựng cơ bản hiện đang áp dụng hai hình thức thi công. Tự thi công và giao thầu cho các đơn vị xây dựng.
Tự thi công là hình thức đơn vị xây dựng tự tổ chức cán bộ công nhân viên, mua sắm máy móc thiết bị và vật liệu xây dựng tự mình xây dựng công trình.
Hình thức giao thầu là giao việc thi công công trình cho các đơn vị xây dng cơ bản chuyên nghiệp của ngành xây dựng hoăặc đơn vị chuyên xây dựng của ngành làm các đơn vị xây dựng với danh nghĩa đơn vị nhận thầu tiến hành ký kết hợp đồng với đơn vị giao thầu ( chủ công trình ).
Trong nhiều trường hợp bên nhận thầu lại đem một số bộ phận của công trình như san nền, lắp đIện, làm đường…giao cho tổ chức xây dựng chuyên môn khác thi công, còn mình chỉ hoàn thành khối lượng xây lắp chủ yếu.
b. Kế hoạch hoá vốn đầu tư xây dựng cơ bản
Đối với DNTMNN, muốn xây dựng cơ bản phảI lập kế hoạch đầu tư xây dựng cơ bản, kế hoạch xây dựng cơ bản của DNTM có hai loại chủ yếu:
Kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Kế hoạch xây dựng- kĩ thuật- tàI chính của các đơn vị tự xây dựng, ở đây chúng ta chỉ nghiên cứu kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản là bản dự tính về vốn cho việc xây dựng các công trình và mua sắm các tàI sản cố định nhằm phục vụ cho việc phát triển kinh doanh hàng hoá.
Những nội dung chủ yếu của kế hoạch vốn đầu tư xây dựng cơ bản là:
Một là: kế hoạch khối lượng vốn đầu tư.
Vốn đầu tư xây dựng cơ bản gồm: Giá trị của công tác xây dựng cơ bản, giá trị của các máy móc thiết bị cần phảI mua sắm và lắp đặt và chi phí về xây dựng cơ bản khác. Toàn bộ giá trị của ba bộ phận trên là toàn bộ vốn đầu tư xây dựng cơ bản.Tỉ lệ phần trăm của ba bộ phận trên chiếm trong tổng số vốn là cơ cấu của vốn đầu tư xây dựng cơ bản.
Đặc đIểm của công tác xây dựng cơ bản là công trình thường không hoàn thành trong một năm. Vì vậy phảI xác định vốn cần thiết cho từng năm hợp lý, tránh lãng phí.
Người ta xác định khối lượng vốn đầu tư cho năm kế hoạch bằng công thức sau:
V XDCB = Nđ.t - Dđk + Nf.tr + Nc
Trong đó:
V XDCB = Khối lượng vốn đầu tư trong năm kế hoạch(đ/1000d).
Nđt = Ngạch đầu tư ( trị giá khối lượng công trình kì trước chuyển sang và trị giá khối lượng công trình phảI hoàn thành năm kế hoạch, d/1000d).
D đk = Số dư đầu kì( những khoản tiền còn lại năm trứơc như tiền gửi ngân hàng, tiền mặt tồn quỹ, …).
Nf.tr = Nợ phảI trả( kì trước chưa trả như công thầu …).
Nc = Nguyên vật liệu và các khoản phảI trả cho kì sau.
Hai là: Kế hoạch huy động tàI sản cố định vào sử dụng là kế hoạch xây dựng với các chỉ tiêu hiện vật như số mét vuông, mét khối đơn vị công trình đưa vào sử dụng và trị giá công trình được đưa vào sử dụng kì kế hoạch.
Chỉ tiêu này được xác định bằng công thức sau:
Vs.d = Vd,d,đ,k + VKH - Vf - Vd.d.ck
ở đây:
Vs.d = Giá trị tàI sản cố định được đưa vào sử dụng kì kế hoạch.
Vd.d.đ.k = Giá trị những công trình dở dang ở năm báo cáo chuyển sang.
VKH = Khối lượng vốn đầu tư XDCB năm kế hoạch.
Vf = Khối lượng vốn đầu tư không làm tăng thêm tàI sản cố định.
Vd.d.ck = Giá trị những công trình dở dang cuối kì kế hoạch.
Giá trị tàI sản cố dịnh được huy động vào sử dụng kì kế hoạch không đồng nhất với khối lượng vốn đầu tư thời kì đó.
Ba là: Kế hoạch chi tiết các đơn vị xây dựng cơ bản. Là một bộ phận của kế hoạch vốn đầu tư, kế hoạch này được thể hiện bằng bảng chi tiết các đơn vị xây dựng. Trong bảng này người ta cụ thể hoá các chỉ tiêu vốn đầu tư và kế hoạch huy động TSCĐ vào sử dụng. Các chỉ tiêu đó ấn định một cách chi tiết giá dự toán cho từng công trình và hạng mục công trình, khối lượng vốn cho từng bộ phận, cấu thành vốn đầu tư cho mỗi công trình, cho từng giai đoạn. Kế hoạch này là cơ sở để kí kết hợp đồng giao thầu và là căn cứ để tổ chức thi công( đối với đơn vị tự làm).
c. Mua sắm tàI sản cố định ở các DNTM
Đối với những TSCĐ chuyên dùng ở các DNTM còn được mua sắm bằng nguồn kinh phí chuyên dùng và nguồn vốn phát triển sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
3.4 Khấu hao và kế hoạch khấu hao TSCĐ.
a.Thực chất của khấu hao TSCĐ.
Trong quá trình sử dụngTSCĐ dần dần bị hao mòn. Giá trị của phần hao mòn đó gọi là khấu hao TSCĐ. Khấu hao TSCĐ là một khoản cấu thành phí lưu thông và được bù đắp bằng doanh thu bán hàng.
Thực chất của khấu hao là quá trình giảm giá trị của TSCĐ. Để xác định đúng đắn hao mòn của TSCĐ cần xác định đúng đắn thời hạn sử dụng TSCĐ và mức độ hao mòn TSCĐ theo khối lượng công việc.
Việc xác định không dùng hao mònTSCĐ dẫn tới TSCĐ chưa khấu hao hết đã hỏng và ngược lại TSCĐ còn đang sử dụng đã khấu hao hết.
b. Các loại khấu hao và phương pháp tính khấu hao
Có hai loại khấu hao: khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn.
Khấu hao cơ bản nhằm táI bồi hoàn lại giá trị TSCĐ đã hao mòn.
Khấu hao sửa chữa lớn nhằm bảo vệ duy trì và kéo dàI năng lực sử dụng bình thường của TSCĐ.
Phương pháp xác định tỉ lệ khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớnTSCĐ như sau:
Tỉ lệ
Khấu hao =
Cơ bản
Nguyên giá Chi phí thanh lý Giá trị đào thải
TSCĐ + (ước tính) + ( ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ
Tỉ Lệ khấu hao
sữa chữa lớn
=
Phí tổn sửa chữa lớn (ước tính)
Nguyên giá TSCĐ x Thời hạn sử dụng TSCĐ
Dựa vào tỉ lệ khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn người ta tính được mức khấu hao cơ bản và mức khấu hao sửa chữa lớn 1 tháng. Có hai cách tính khấu hao ở một doanh nghiệp:
Cách 1: tính khấu hao TSCĐ cho từng loại một, sau đó tổng hợp lại ta được tổng trị giá khấu hao cơ bản và khấu hao sửa chữa lớn.
Cách 2: Tìm tỉ lệ khấu hao bình quân tổng hợp của toàn bộ TSCĐ, sau đó tính ra tổng giá trị khấu hao. Khi tính theo cách này, cần chú ý đến tình hình tăng giảm TSCĐ trong năm để tính toán cho đúng.
c. Kế hoạch khấu hao TSCĐ.
Để lập kế hoach khấu hao TSCĐ, cần phảI xác định được tổng trị giá TSCĐ đầu kì, tổng trị giá TSCĐ tăng thêm và giảm đI trong kì. Trên cơ sở tỉ lệ khấu hao bình quân quy định, phảI xác định được chỉ tiêu tổng quỹ khấu haoTSCĐ kì kế hoạch để tính vào phí bao gồm quỹ khấu hao cơ bản và quỹ khấu hao sửa chữa lớn. Kế hoạch khấu hao TSCĐ phảI xác định được chỉ tiêu quỹ khấu hao cơ bản trích nộp vào quỹ khấu hao của kì kế hoạch theo công thức sau:
Vkh/KH = Vđ.k + VKH - Vc.k
ở đây:
Vkh/KH = Quỹ khấu hao cơ bản phảI trích kì KH( đ).
Vđ.k = Quỹ khấu hao cơ bản năm trước chuyển sang ( đ).
VKH = Tổng trị giá khấu hao cơ bản kì KH ( đ).
Vc.k = Quỹ khấu hao cơ bản chuyển sang năm sau ( đ).
Có thể so sánh năm kế hoạch với năm báo cáo để thấy rõ mức độ tăng giảm của chỉ tiêu nói trên và xác định nguyên nhân tăng giảm đó.
3.5 Những chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định.
- Hiệu xuất vốn cố định:
Chỉ tiêu này phản ánh một đồng vốn cố định được đầu tư mua sắm và sử dụng tài sản cố định trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu.
Hiệu suất vốn cố định = Doanh thu thuần trong kỳ
Tổng vốn cố định sử dụng trong kỳ
Để đánh giá chính sác hơn người ta có thể sử dụng chỉ tiêu hiệu suất tài sản cố định. Các chỉ tiêu càng lớn càng tốt.
Hiệu suất tài sản cố định = Doanh thu thuần trong kỳ
Tài sản cố định sử dụng trong kỳ.
* Chỉ tiêu hàm lượng vốn cố định
chỉ tiêu này phản ánh số vốn cố định cần thiết để tạo ra một đồng doanh thu trong kỳ.
Hàm lượng vốn cố định = Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
Doanh thu thuần trong kỳ
Chỉ tiêu này càng nhỏ thì càng thể hiện trình độ quản lý và sử dụng tài sản cố định đạt trình độ càng cao.
* Hiệu quả sử dụng vốn cố định
Chỉ tiêu này nói lên một đồng vốn cố định sử dụng trong kỳ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận ròng.
Hiệu quả sử dụng = Lãi thuần trong kỳ
vốn cố định Vốn cố định sử dụng bình quân trongkỳ
Chỉ tiêu này càng lớn hiệu quả sử dụng vốn càng tốt.
Tuy nhiên cần lưu ý, khi sử dụng những chỉ tiêu trên thì tất cả các nguồn thu nhập, lợi nhuận, doanh thu phải do vốn cố định tham gia tạo nên. Ngoài ra các chỉ tiêu trên hiệu quả sử dụng vốn cố định còn được đánh giá qua một số chỉ tiêu khác như: hệ số sử dụng tài sản cố định, hệ số hao mòng tài sản cố định.
Hệ số sử dụng tài sản cố định = Công suất thực tế
Công suất thiết kế (kế hoạch)
Hệ số này chứng minh năng lực hoạt động của máy móc là cao hay thấp. Hệ số này càng cao chứng tỏ doanh nghiệp sử dụng máy móc có hiệu quả.
Hệ số hao mòn = Giá trị còn lại của tài sản cố định
Tài sản cố định Nguyên giá của tài sản cố định
Thông qua việc phân tích, so sánh các chỉ tiêu giữa các thời kỳ, doanh nghiệp sẽ có cơ sở đánh giá ưu nhược điểm trong công tác quản lý sử dụng vốn cố định và đề ra các biện pháp khắc phục.
II. Vấn đề tạo nguồn huy động và sử dụng vốn kinh doanh.
1. Tín dụng thương mại – nguồn tài trợ chính vốn trong kinh doanh .
Theo tác động của quy luật cung cầu, cùng với sự phát triển của sản xuất, nhu cầu về vốn của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi ngày một tăng, cả về vốn đầu tư dài hạn và ngắn hạn. Hoạch định Ngân sách và khai thác các nguồn vốn đầu tư mang lại lợi nhuận trong tương lai có ý nghĩa rất quan trọng và là một vấn đề khó khăn phức tạp đối với các nhà quản trị doanh nghiệp. Ngoài nguồn vốn đầu tư từ ngân sách và nguồn vốn tự có, nguồn vốn bổ xung quan trọng cho hoạt động tài chính của Doanh nghiệp là nguồn vốn tín dụng ngắn hạn và tín dụng dài hạn.
Tín dụng ngắn hạn được định nghĩa như là các món nợ vay dự trù phải trả trong vòng một năm, xếp hạng từ trên xuống dưới theo khối lượng tín dụng cung cấp cho doanh nghiệp bao gồm:
+. Mua bán chịu giữa các doanh nghiệp .
+. vay ngân hàng thương mại .
+. Thương phiếu.
Các nhu cầu tài trợ trên cung cấp nhu cầu chính yếu cho nguồn vốn ngắn hạn. Việc xác định hiệu quả của việc sử dụng và khai thác vốn tín dụng ngắn hạn trong việc mua bán chịu giữa các doanh nghiệp còn gọi là tín dụng thương mại. Khi sử dụng phương thức mua chịu như một nguồn tài trợ tín dụng ngắn hạn, cần cân nhắc ba điểm sau:
1.1. Thời hạn mua chịu: có 4 yếu tố chính ảnh hưởng đến thời hạn mua chịu:
Tính chất kinh tế của sản phẩm :
Một sản phẩm có thời gian luôn chuyển cao được bán ra với thời hạn mua chịu cao được bán ra với thời họn mua chịu ngắn, người mua sẽ bán lại sản phẩm một cách nhanh chóng, thu được tiền mặt giúp họ có tiền trả lại cho nhà cung cấp.
Tình trạng tài chính của người bán:
Nếu người bán không có lượng tài chính dồi dào sẽ đòi hỏi người mua phải trả tiền ngay hoặc chỉ chấp nhận thời hạn mua chịu rất ngắn.
Tình trạng người mua:
Thông thường các nhà bán lẻ có tài chính khá mạnh và muốn mua chịu của các nhà cung cấp với thời gian lâu hơn.Và loại hình bán lẻ trong các lĩnh vực được xem như nhiều rủi ro (như quần áo) thường được chấp thuận một thời hạn mua chịu rất lâu. nhưng do được khuyến khích trả nhanh bằng các khoản giảm giá hàng lớn.
Giảm giá hàng:
Giảm giá hàng được thực hiện, nếu người mua thanh toán trong một thời hạn nào đó. Phí tổn không nhận giảm giá thường cao hơn lãi suất mà người mua đi vay nợ. Do đó, Doanh nghiệp cần phải rất cẩn thận trong việc mua chịu như là nguồn tài trợ, vì tổn phí rất cao. Nếu Doanh nghiệp vay tiền để nhận giảm giá mua hàng, thời gian mà các khoản phải trả còn ghi ở sổ sách sẽ giảm đi. Như thế thì thời hạn mua chịu bị ảnh hưởng bởi tầm quan trọng của việc giảm giá.
1.2 Sử dụng việc mua bán chịu:
Việc mua chịu là con dao hai lưỡi đối với Doanh nghiệp. Nó là một nguồn tín dụng để tài trợ việc mua hàng và là một phương thức cung ứng nhu cầu vốn để tài trợ việc bán cho khách hàng.
Điều quan trọng là Doanh nghiệp phải tận dụng việc mua chịu như là nguồn tài trợ tín dụng, nhưng đồng thời cũng phải giảm đến mức tối thiểu việc vốn của mình bị chiếm dụng trong các khoản phải thu.
1.3 Các điểm lợi của việc mua chịu như là các nguồn tài trợ.
Mua chịu rất tiện lợi và là việc thông thường của hoạt động kinh doanh. Một Doanh nghiệp thiếu điều kiện được vay của cơ quan tín dụng Ngân hàng có thể vẫn mua chịu được. Nhờ mối quan hệ trong kinh doanh, người bán ở vị trí thuận lợi để xét đoán khả năng thanh toán của khách hàng để đo lường mức độ rủi ro trong việc bán chịu.
Mua chịu có phí tổn cao hay thấp hơn các hình thức tài trợ khác? Đó là một câu hỏi cần phải thảo luận nhiều. Đôi khi mua chịu rất đắt đối với người mua, nhưng họ phải chấp nhận vì không thể có hình thức tài trợ nào khác và phí tổn mua chịu có lẽ cũng tương ứng với độ rủi ro mà người bán phải gánh chịu, nhưng trong nhiều trường hợp , mua chịu được chấp nhận vì người mua không tính toán được tổn phí mua chịu là bao nhiêu. Do vậy cần phân tích kỹ để có thể thay thế việc mua chịu bằng hình thức tài trợ khác có lợi hơn.
ở thái cực khác, bán chịu trở thành một công cụ khuyến mại của người bán. Có nhiều trường hợp nhà sản xuất chế biến hầu như tài trợ hoàn toàn cho các Doanh nghiệp bằng cách bán chịu với thời hạn thật dài. Có nhà sản xuất chế biến vì muốn tìm Doanh nghiệp bán lẻ sản phẩm trong một lĩnh vực đặc biệt, chấp nhận cho Doanh nghiệp mới vay tiền đủ để trang trải mọi chi phí điều hành trong thời gian đầu và sẽ nhận hoàn trả khi Doanh nghiệp mới thu về được tiền mặt. Đây là một hình thức tài trợ tương đối phổ biến hiện nay trong các hợp đồng mua bán với các Doanh nghiệp nước ngoài.
2. Một số giải pháp tạo vốn của các doanh nghiệp thương mại .
Trong chiến lược ổn định và phát triển kinh tế – xã hội Đảng ta chỉ rõ: “Chính sách tài chính quốc gia” hướng vào việc tạo vốn và sử dụng vốn có hiệu quả trong toàn xã hội, tăng nhanh sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân....”. Tạo vốn và sử dụng vốn một cách có hiệu quả là những vấn đề đang được Chính phủ, ngành Ngân hàng và các doanh nghiệp đặc biệt quan tâm. Bởi có huy động được vốn mới có thể đáp ứng yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Theo kinh nghiệm của nhiều nước trên thế giới, vào giai đoạn đầu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, không có một nước nào không ở tình trạng “đói vốn” đầu tư một cách gay gắt. Tuy nhiên, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể, mà mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp tự tìm những biện pháp phù hợp.
Thứ nhất: Tiếp tục sắp xếp lại các doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của nó trên thị trường.
Một vấn đề nổi cộm trong các doanh nghiệp là sự tách rời lợi ích của những người quản lý doanh nghiệp với lợi ích kinh doanh của doanh nghiệp. Không phải trong mọi trường hợp, hễ doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả cũng tự động gia tăng lợi ích tối đa của người quản lý. Trái lại trong nhiều trường hợp lợi ích của người quản lý thoả mãn tốt hơn khi doanh nghiệp từ bỏ phương thức làm ăn có hiệu quả nhất.
Xét trên góc độ tích luỹ vốn, việc không tạo ra được các chủ sở hữu đích thực đối với những tài sản thuộc về doanh nghiệp không chỉ có hịa ở chỗ chúng không được sử dụng một cách có hiệu quả mà còn tạo điều kiện cho tiêu dùng lãng phí.
Thứ hai: Cho phép các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả phát hành trái phiếu doanh nghiệp. Vốn là một trong những yếu tố quan trọng, cần thiết đối với tất cả các doanh nghiệp. Để tồn tại và phát triển đòi hỏi sản phẩm của các doanh nghiệp phải cần phải có sức cạnh tranh, doanh nghiệp cần phải đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm phù hơp với nhu cầu của thị trường.
Việc huy động vốn của các doanh nghiệp thông qua phát hành trái phiếu chỉ thực sự đạt hiệu quả cao một khi lạm phát được kiềm chế ở mức thấp và lãi suất huy động thích hợp với một thị trường chứng khoán hoạt động có hiệu quả.
Thứ ba: Nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng thuê mua đối với các doanh nghiệp.
Trong thời gian qua, doanh nghiệp có kinh nghiệm huy động vốn truyền thống là vay của các tổ chức tín dụng bằng các hình thức thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Song việc vay vốn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi một năm nguồn vốn trung và dài hạn của ngân hàng có hạn, mặt khác các Doanh nghiệp thiếu những điều kiện nhất định về tài sản thế chấp, cầm cố. Vì vậy quan điểm thuê máy móc thiết bị đã trở thành xu hướng của nhiều doanh nghiệp. Để đi thuê phải có người cho thuê. Thực chất đi thuê và cho thuê là một giải pháp cấp tín dụng bằng hiện vật hoặc trợ giúp về mặt tài chính để các doanh nghiệp mua máy móc thiết bị.
ở nước ta có một số doanh nghiệp quốc doanh triển khai hình thức tín dụng thuê mua này và coi đây và hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn rất hiệu quả.
Tín dụng thuê mua là hình thức tài trợ vốn trung và dài hạn mới mẻ đối với nước ta. Vì vậy để nhanh chóng triển khai hình thức tín dụng này cần phải khẩn trương hoàn thiện cơ chế nghiệp vụ thuê mua, xác lập và mở rộng đối tượng tài sản thuê mua, khách hàng thuê mua, cũng như hoàn thiện hệ thống luật pháp hiện hành tạo điều kiện cho tín dụng thuê mua hoạt động.
Thứ tư: giải quyết những vướng mắc trong việc thế chấp, cầm cố, bảo lãnh, vay vốn ngân hàng để các doanh nghiệp nhận được nguồn tài trợ nhiều hơn từ các tổ chức tín dụng.
Thế chấp, cầm cố, bảo lãnh vay vốn ngân hàng là việc bên cho vay vốn hoặc bên thứ ba dùng tài sản thuộc sở hữu của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ với bên cho vay. Song trong quá trình thực hiện vẫn còn rất nhiều vướng mắc.
Bởi hầu hết các tài sản tại các Doanh nghiệp đã lạc hậu; giá trị trên sổ sách còn lớn, nhưng giá trị còn lại theo đánh giá thực tế làm căn cứ để cho vay lại rất nhỏ. Từ đó giá trị tài sản thế chấp và cầm cố của các Doanh nghiệp nhỏ hơn rất nhiều so với nhu cầu vay vốn. Để giải quyết vấn đề nghịch lý trong nền kinh tế là: doanh nghiệp thiếu vốn, ngân hàng lại thừa vốn không cho vay được, một mặt Nhà nước cần sớm hoàn thiện hành lang pháp lý để tạo điều kiện cho ngân hàng hoạt động, mặt khác ngân hàng có thể xem xét đến những yếu tố : nưh tư cách của doanh nghiệp; năng lực quản lý của doanh nghiệp; triển vọng của doanh nghiệp, khả năng sinh lời cũng như khả năng đối phó với những bât lợi của doanh nghiệp; cuối cùng mới xem đến tài sản thế chấp của doanh nghiệp. Nếu tất cả yếu tố trên đều chấp nhận được nhưng điều kiện về tài sản thế chấp chưa đảm bảo, vẫn có thể cho vay được. Cách cho vay này tại ngân hàng các nước phát triển vẫn áp dụng đối với khách hàng có uy tín và có quan hệ tốt với ngân hàng.
Tóm lại: Nếu giải quyết đồng bộ và triệt để những vấn đề nêu trên có lẽ lời giải bài toán về vốn cho các DNTM sẽ có nhiều khả quan. Đồng thời nó cũng phù hợp với sự vận động của nền kinh tế nước ta trong giai đoạn hiện nay theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước.
3. Giải pháp cho khó khăn về vốn tại các doanh nghiệp thương mại.
Vốn là giá trị của các tài sản hiện có của doanh nghiệp được biểu hiện bằng tiền. Dưới giác độ vật chất mà xét thì phân thành hai loại: Vốn tài chính chướng khoán và các giấy tờ khác có giá trị như tiền. Theo hình thái biểu hiện, vốn chia ra: vốn hữu hình (công cụ lao động, đối tượng lao động, tiền giấy, tiền kim loại, chứng khoán, v.v....) và vốn vô hình (lợi thế trong kinh doanh, bằng phát minh sáng chế, chi phí thành lập doanh nghiệp , v.v...). Căn cứ vào phương thức luôn chuyển giá trị, người ta chia ra vốn cố định và vốn lưu động. Và cũng có thể theo thời hạn luôn chuyển vốn để chia thành vốn ngắn hạn, trung hạn, dài hạn. Trong thực tếthì mỗi cách phân loại vốn đều có ý nghĩa hết sức quan trọng trong công tác quản lý vốn để đạt hiệu qủa cao. Chẳng những phân loại vốn của nội dung mà người ta còn chú trọng phân loại nguồn vốn hình thành vốn của doanh nghiệp.
Tài sản của doanh nghiệp được chia thành hai loại: tài sản cố định và tài sản lưu động. Tài sản cố định gồm: Tài sản cố định hữu hình và tài sản cố định vô hình.
Để quản lý tốt tài sản cố định doanh nghiệp, người ta còn phân loại tài sản cố định theo công dụng kinh tế, như tài sản cố định trong sản xuất kinh doanh cơ bản và tài sản cố định dùng ngoài sản xuất kinh doanh cơ bản: hoặc người ta phân chia tài sản cố định theo tình hình sử dụng: đang dùng, chưa cần dùng, không cần dùng và chờ thanh lý. Tỷ lệ kết cấu của giá trị tài sản cố định của mỗi phân tố này với tổng giá trị tài sản cố định của doanh nghiệp trong mỗi thời kỳ sẽ giúp mỗi doanh nghiệp phân tích tình hình quản lý và sử dụng tài sản cố định.
Trong quá trình sử dụng tài sản cố định hữu hình làm cho tài sản bị hao mòn. Có hai loại hao mòn: hữu hình và vô hình.
Việc chuyển dịch dần mỗi phần giá trị tài sản cố định tương ứng với mức độ hao mòn của tài sản cố định vào chi phí sản xuất – kinh doanh của doanh nghiệp, còn gọi là khấu hao cơ bản. Ngoài khấu hoa cơ bản, mỗi doanh nghiệp còn phải trích khấu hao sửa chữa lớn tài sản cố định để làm nguồn vốn sửa chữa lứon định kỳ tài sản cố định.
Khấu hao tài sản cố định doanh nghiệp có nhiều phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm nhất định.
Phương pháp khấu hao theo thời gian sử dụng có ưu điểm như : việc tính mức khấu hao đơn giản, mứu khấu hao cơ bản hàng tháng tính vào chi phí sản xuất – kinh doanh tương đối đều đặn; như có nhược điểm là: việc tính mức khấu hao thoát li lượng sản phẩm sản xuất trong tháng và không tính đến hao mòn vô hình, không thích hợp với doanh nghiệp quy mô lớn, tài sản cố định có sự biến động nhiều.
Phương pháp khấu hao theo số dư giảm dần có ưu điểm là: doanh nghiệp có khả năng thu hồi vốn nhanh, tránh được mất giá do hao mòn vô hình; nhưng phương hướng này lại có nhược điểm: số tiền khấu hao tích luỹ kể đến năm cuối cùng của thời gian sử dụng không bù đắp được nguyên giá tài sản cố định .
Do vậy, nhiều doanh nghiệp thường kết hợp phương pháp này với phương pháp khấu hao theo thời gian sử dụng để khắc phục tình trạng nêu trên.
Phương pháp khấu hao theo tỷ lệ khấu hao giảm dần có ưu điểm: thu hồi vốn nhanh, có khả năng phòng ngừa hao mòn vô hình, số tiền khấu hao tích luỹ kể đến năm cuối cùng của thời gian sử dụng tài sản cố định sẽ bù đắp đủ giá trị ban đâù tài sản cố định.
Tuy có nhiều phương pháp khấu hao cơ bản tài sản cố định hữu hình, nhưng mỗi phương pháp đều có ưu điểm, nhược điểm, đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải xuất phát từ đặc điểm tài sản cố định và thực trạng sản xuất – kinh doanh của chính doanh nghiệp mình để lựa chọn phương pháp khấu hao tài sản cố định một cách hợp lý, đảm bảo bảo toàn và phát triển vốn của doanh nghiệp.
4. Một số chỉ tiêu hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
Hiệu quả sử dụng vốn (còn gọi là hiệu suất sử dụng vốn) của doanh nghiệp có thể được biểu hiện.
Khi tính hiệu suất sử dụng vốn cố định, hiệu suất sử dụng vốn lưu động biểu hiện bằng số lợi nhuận (lợi tức) mà vốn đưa lại (còn gọi là lợi nhuận).
Nếu gọi P là lợi nhuận thực hiện trong kỳ, V là toàn bộ vốn sử dụng bình quân trong kỳ, Vsh là vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ, ta lần lượt có 2 chỉ tiêu chính như sau:
1 – Tỷ suất lợi nhuận trên vốn
(P/V) = P
Vsh
2. – Tỷ suất lợi nhuận trên vốn sở hữu (P/Vsh) = P
Vsh
Công thức trên nói lên 1 đồng vốn trong kỳ đã làm ra bao nhiêu đồng lợi nhuận; còn công thức dưới nói lên 1 đồng vốn của chủ sở hữu trong kỳ làm ra nhiều đồng lợi nhận.
Cả hai công thức đều có tử số là lợi nhuận. Vấn đề ở đây là nên lấy chỉ tiêu lợi nhuận nào? Nhìn trong biểu kết quả kinh doanh ta có: Lợi tức gộp; Lợi tức thuần từ hoạt động kinh doanh; Lợi tức trước thuế và lợi tức sau thuế. Lấy chỉ tiêu lợi tức nào là tuỳ theo giác độ đánh giá. Theo chúng tôi, tốt nhất là lấy chỉ tiêu lợi tức từ hoạt động kinh doanh, vì đánh giá ở đây là đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu lấy lợi tức gộp thì chưa phản ánh đúng kết quả kinh doanh vì chưa trừ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Cũng không nên lấy lợi tức trước thuế vì trong này bao gồm cả lợi tức hoạt động tài chính và lợi tức bất thường, nếu đưa cả các phần lợi tức này vào cũng sẽ phản ánh không chính xác kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Càng không nên lấy lợi tức sau thuế, vì ngoài ảnh hưởng của kết quả hoạt động tài chính và lợi tức bất thường, còn có ảnh hưởng của tỷ suất thuế lợi tức mà như mọi người đều biết: thuế lợi tức tồn tại nhiều thuế suất (sau này thay bằng thuế thu nhập doanh nghiệp cũng vậy). Nếu lấy chỉ tiêu này thì những doanh nghiệp chịu thuế suất coa, tỷ suất lợi nhuận sẽ thấp, do đó không phản ánh đúng kết quả kinh doanh và không công bằng.
Về mẫu số của các công thức trên, cũng có vấn đề tương tự như khi biểu hiện bằng số doanh thu thuần làm ra. Chúng tôi cho rằng nên quán triệt nguyên tắc khoản vốn nào làm ra lợi nhuận thì mới đưa vào mẫu số để tính tỷ suất lợi nhuận. Nếu ta lấy tử số là lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh thì mẫu số cũng chỉ nên gồm vốn kinh doanh, cụ thể là các khoản vốn cố định, vốn lưu động, không nên bao gồm các khoản đầu tư tài chính dài hạn, đầu tư tài chính ngắn hạn, càng không nên bao gồm chi phí XDCB dở dang.
Việc đánh giá hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp là hết sức quan trọng. Nó có liên quan đến việc Nhà nước sử dụng để hoạch định nhiều chính sách có liên quan, đồng thời cũng rất cần thiết đối với những nhà đầu tư.
III. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
1. Những giải pháp cho khó khăn về vốn tại các DNTM.
Thực trạng về vốn trong các doanh nghiệp như hiện nay thì việc giải quyết nhu cầu bức xúc về vốn là rất cần thiết song mấu chốt của vấn đề này là vốn đưa vào đâu và đồn vốn được sử dụng, quản lý như thế nào? Tình hình sẽ ra sao nếu như DNNN tiếp tục tạo ra những sản phẩm thiếu sức cạnh tranh và không tiêu thụ được?
Xung quanh các giải pháp về vốn cho doanh nghiệp thời gian qua.
Quan điểm xử lý vốn của Chính phủ trước hết là tạo cơ chế hợp lý cho các doanh nghiệp trong sử dụng các tiềm lực tài chính đang tồn đọng tại doanh nghiệp và hỗ trợ theo nguyên tắc ưu tiên xử lý khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp đang làm ăn hiệu quả (nới lỏng cơ chế quản lý tín dụng, bổ xung vốn lưu động cho các doanh nghiệp ). Mặt tích cực của những giải pháp này là đảm bảo một phần vốn cho các doanh nghiệp phát triển ổn định, chuẩn bị cho sự hội nhập khu vực và thế giới. Tuy nhiên, có những mặt hạn chế và khó khăn trong triển khai và giải pháp trên.
Giải pháp nới lỏng cơ chế tín dụng: Doanh nghiệp vay vốn các ngân hàng thương mại, căn cứ vào hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong khi tình hình kinh doanh không mấy thuyết phục thực sự là mối lo ngại của ngân hàng, bởi nếu cho vay thì sự rủi ro của ngân hàng rất cao và liệu giải pháp này có đẩy hệ thống ngân hàng vốn có nhiều yếu kém lún sâu vào khó khăn hay không,
Giải pháp bổ xung vốn lưu động: giải pháp này một mặt, có thể hiểu là sự ưu đãi của Nhà nước.Việc chuyển một số khoản vay ngân hàng thành vốn ngân sách cấp cho doanh nghiệp có thể đầy các doanh nghiệp ngân hàng vào thế khó khăn và khó thực thi, bởi vậy quy định như vậy, chỉ có thể rút bớt vốn pháp định của ngân hàng quốc doanh để bổ xung vốn cho doanh nghiệp.
Như vậy, những giải pháp tình thế chỉ giải quyết được một phần chứ không thể xử lý dứt điểm những vướng mắc về vốn.
2. Giải pháp cho vấn đề ứ đọng vốn hiện nay.
Một nghịch lý là trong khi các doanh nghiệp còn đang thiếu vốn thì hệ thống Ngân hàng thương mại đang gặp phải một trở ngại đáng tiếc là sự ứ đọng vốn đã được huy động cho tìm kiếm được đầu ra. Điều này cần phải tìm cho hệ thống Ngân hàng thương mại một giải pháp thích hợp để giải toả số vốn đang ứ đọng. Sự hạn chế đầu ra của tín dụng trong nước còn do thị trường tiêu thụ hàng hoá của ta đã bão hoà, chưa có biện pháp mở rộng thị trường. Bên cạnh đó hàng hoá nước ngoài đang cạnh tranh khốc liệt trên thị trường nội địa nước ta do các nguồn nhập trả chậm, nhập lậu làm cho các doanh nghiệp trong nước không mở rộng phát triển sản xuất được.Trong khi đó, các doanh nghiệp Việt Nam chậm cải tiến kỹ thuật, thay đổi mẫu mã, nâng cao chất lượng, chậm cải tiến quy trình quản lý, không có mặt hàng mới... càng làm cho sản xuất trong nước gặp khó khăn. Tất yếu điều đó dẫn đến hạn chế tín dụng.
Trên cơ sở các dự án sản xuất kinh doanh đã được cấp có thẩm định chu đáo chứng tỏ dự án là cần thiết có hiệu qủa kinh tế xã hội cao, có tính khả thi, Nhà nước phát hành các trái phiếu dài hạn với lãi suất tương đối hấp dẫn để thu hút nguồn vốn tiết kiệm trong xã hội. Điều này sẽ thu hút một bộ phận vốn đang có ngoài hệ thống ngân hàng và cả một bộ phận vốn đang năm trong hệ thống ngân hàng do dân chúng rút lại tiền gửi để mua trái phiếu dài hạn của Nhà nước.
Nhà nước cho phép các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, có triển vọng mở rộng sản xuất, kinh doanh và trên cơ sở đó phát hành các trái phiếu dài hạn, hoặc cổ phiếu để thu hút vốn, tạo vốn cơ bản cho nền kinh tế.
Việc chiết khấu trái phiếu hoặc cho vay cầm cố trái phiếu do Nhà nước phát hành, hoặc do các doanh nghiệp tốt phát hành tạo điều kiện cho hệ thống Ngân hàng thương mại chuyển dần cho vay ứng trước (nhiều rủi ro) sang cho vay chiết khấu (ít rủi ro hơn). Ngân hàng Nhà nước có thể tái chiết khấu các trái phiếu này hoặc cho vay cầm có các trái phiều này khi cần đưa thêm tiên vào lưu thông.
Cần phải nghiêm túc nhìn nhận rằng sự ứ đọng vốn trong nền kinh tế hiện nay, đặc biệt là trong hệ thống ngân hàng là kết quả của toàn bộ hoạt động của quá trình kinh tế. Vì vậy, cần phải có biện pháp quản lý ngoại tệ chặt chẽ, tích cực sử dụng nguồn ngoài tệ chặt chẽ, tích cực sử dụng nguồn ngoại tệ thu hút được trong nền kinh tế để phục vụ cho nhập khẩu hàng hoá tư liệu sản xuất không nên để tình trạng ngoại tệ đang có thì trôi nổi trên thị trường tham gia tự do vào lưu thông hàng hoá, còn các doanh nghiệp thì tiếp tục đi vay bên ngoài để chi tiêu.
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của DNTM.
Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cố định.
*áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật nâng cấp đổi mới máy móc thiết bị, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Trong khi điều kiện cách mạng công nghệ, việc mạnh dạn áp dụng tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh là một trong các điều kiện quyết định lợi thế và khả năng phát triển của xí nghiệp. Thiết bị kỹ thuật được đầu tư đổi mới và sản xuất kinh doanh và điều kiện vật chất để xí nghiệp mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu đa dạnh sản phẩm, chủng loại cho khách hàng. Với việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và đầu tư đổi mới tài sản cố định, công ty có thể rút ngắn chu kỳ kinh doanh, giảm tiêu hao nguyên nhiên vật liệu nhằm tăng tốc độ luân chuyển vốn, tiết kiệm chi phí vậy tư, hạ giá thành sản phẩm.
Tuy nhiên khi áp dụng tiến bộ kỹ thuật để đầu tư vào sản xuất kinh doanh, công ty nên lựa chọn công nghệ sao cho phù hợp với điều kiện hiện có của mình có tác dụng làm tăng năng suất lao động, giải quyết thêm việc làm và không gây lãng phí vốn. Để làm được điều đó, xí nghiệp nên chú ý hơn đến hiệu quả tài chính bằng các phương pháp như: giá trị hiện tại ròng (NPV), tỷ lệ nội hoàn (IRR) và thời gian thu hồi vốn…
Hoàn thiện cơ sở vật chất hạ tầng nhằm khai thác triệt để vốn kinh doanh. Vậy cần phải đầu tư vào việc đổi mới, hoàn thiện cơ sở hạn tầng- trang thiết bị nhằm thu hút khách hàng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường.
Ngoài ra doanh nghiệp nên tiến hành thanh lý tài sản cố định không cần dùng hoặc đã hết thời gian sử dụng( thời gian khấu hao) nhằm thu hồi vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, giảm bớt chi phí bảo quản tài sản cố định không cần dùng đó. Doanh nghiệp nên xây dựng kế hoạch cụ thể cho việc mua sắn đầu tư mới tài sản cố định trong thời gian tới.
*Thường xuyên đánh giá và đánh giá lại tài sản cố đinh.
Nền kinh tế thị trường với sự biến động liên tục của giá cả, hiện tượng hao mòn vô hình thường xuyên diễn ra dưới nhiều hình thức khác nhau. Điều đó làm cho giá trị nguyên thuỷ và giá trị còn lại của tài sản cố định bị phản ánh sai lệch so với mặt giá trị thực tế của nó. Vì vậy việc thường xuyên đánh giá lại tài sản cố định là xác định giá trị thực của tài sản cố định, là cơ sở cho việc xác định mức khấu hao để thu hồi vốn hoặc kịp thời sử ký những tài sản cố định bị mất mát, hư hỏng để chống lại sự thất thoát vốn trong kinh doanh.
Không để tài sản cố định bị mất mát, hư hỏng trước thời gian khấu hao bằng cách phân cấp quản ký tài sản cố định cho từng bộ phận trong Công ty nhằm nâng trách nhiệm trong việc sử dụng và quản lý tài sản cố định. Quy định rõ quyền hạn và trách nhiệm cụ thể cho từng bộ phận, từng thành viên trong việc bảo quản nhằm đảm bảo tính an toàn cao trong sử dụng tài sản cố định.
*Tiến hành trích, phân bổ và sử dụng quỹ khấu hao hợp lý.
Trong quá trình sử dụng, do chịu nhiều ảnh hưởng khác nhau, tài sản cố định của doanh nghiệp sẽ bị hao mòn làm giảm sút về tính năng kỹ thuật ban đầu. Để bù đắp giá trị tài sản cố định bị hao mòn trong quá trình sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải chuyển dịch dàn giá trị hao mòn đó vào giá trị sản phẩm sản xuất trong kỳ- gọi là khấu hao tài sản cố định. Mục đích của khấu hao tài sản cố định là nhằm tích luỹ vốn để tái sản xuất. Quỹ khấu hao tài sản cố định là nguồn tài chính quan trọng để giúp Công ty đầu tư phát triển và mở rộng sản xuất.
Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động.
*Giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thương mại.
Để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế đề ra, doanh nghiệp thương mại tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý và phương thức kinh doanh, tìm kiếm mở rộng thị trường, tạo thị trường ổn định trong nước. Mặt khác tích cực đầu tư cơ sở vật chất, đổi mới công nghệ. Tuy nhiên để giải quyết được những vấn đề trên việc cần quan tâm giải quyết đầu tiên là vốn. Thông qua công tác tìm hiểu nhu cầu thị trường và mục tiêu đầu tư cho phát triển sản xuất kinh doanh trong từng thời kỳ, doanh nghiệp có thể xác định được nhu cầu vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Từ đó tìm ra các giải pháp tạo vốn để đáp ứng nhu cầu về vốn một cách tốt nhất. Tăng tích luỹ là yếu tố quan trọng, là điều kiện không thể thiếu được để phát triển kinh doanh, thực hiện chuyển đổi cơ cấu tài sản phù hợp với nhu cầu kinh doanh trên thị trường theo nguyên tắc nâng cao hiệu quả kinh doanh, bảo toàn và phát triển được vốn.
Đối với hình thức tín dụng thuê mua, doanh nghiệp có thể cân nhắc đến phương thức này vì nó sẽ giúp doanh nghiệp có được phương tiện, thiết bị hiện đại mà không cần phải bỏ ra một lượng tiền lớn ngay lập tức. Tuy nhiên, khi quyết định có nên áp dụng hình thức này hay không, doanh nghiệp nên có sự cân nhắc tới chi phí thuê vì chi phí này thường cao, có thể ảnh hưởng nhiều tới chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.
Việc huy động và sử dụng vốn đa dạng, thích hợp vừa bảo đảm tập trung được lượng vốn cần thiết cho như cầu sản xuất kinh doanh, vừa đảm bảo độ an toàn của đồng vốn nhằm tối đa hoá lợi ích của chủ đầu tư. Đối với doanh nghiệp, nguồn vốn tự bổ sung trong những năm tới cần tiếp tục tăng là điều kiện không thể thiếu được để khai thác các nguồn vốn khác, tăng tính tự chủ tài chính của doanh nghiệp là nhân tố quan trọng để thu hút các nguồn vốn đầu tư khác.
*Bảo toàn vốn lưu động, hạn chế tới mức tối thiểu lượng vốn lưu động bị chiếm dụng.
Muốn sử dụng hiệu quả vốn lưu động, trước hết doanh nghiệp cần phải bảo toàn được giá trị thực tế vốn lưu động đã sử dụng trong từng thời kỳ. Về cơ bản, bảo toàn vốn lưu động giúp cho doanh nghiệp xác định được số lợi nhuận mà doanh nghiệp cần phải thu hồi. Trên cơ sở đó xác định số lợi nhuận mà doanh nghiệp phải thu được sau mỗi kỳ kinh doanh.
Như vậy, bảo toàn vốn lưu động là bảo toàn theo giá trị thực tế của đồng vốn. Đồng vốn phải gắn liền với giá cả vật tư hàng hoá biến động theo thời gian. Trong cơ chế thị trường thường xuyên biến động, giá hàng hoá đầu kỳ và cuối kỳ luôn có sự chênh lệch. Do vậy, yêu cầu đối với nhà quản lý là phải xác định được đúng giá giá trị đồng vốn mình đang quản lý.
Trong điều kiện hiện nay, việc chiếm dụng vốn lẫn nhau giữa các doanh nghiệp có xu hướng ngày càng gia tăng. Lượng vốn lưu động bị chiếm dụng không những không sinh lãi mà còn làm giảm vòng quay của vốn, hạn chế hiệu quả sử dụng vốn. Do vậy, doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau để hạn chế vốn bị chiếm dụng trong khâu lưu thông.
Một là, trước khi cung cấp tín dụng thương mại cho khách hàng, doanh nghiệp nên phân tích khả năng tín dụng của khách hàng trên cơ sở hệ thống hoá tiêu chuẩn hợp lý, kiểm tra kỹ về uy tín và khả năng thanh toán của khách hàng. Doanh nghiệp cần sớm hoạch định chính sách tín dụng thương mại nhằm thu hút được nhiều khách hàng theo xí nghiệp đồng thời hạn chế được số tiền nợ của khách hàng xuống mức thấp nhất.
Hai là, khi ký kết hợp đồng, doanh nghiệp cần có sự thoả thuận trong hợp đồng có phần phạt chậm thanh toán tiền hàng, mức độ tuỳ thuộc vào giá trị lô hàng và thờii gian khách hàng trả chậm. Như vậy cả hai bên mua và bán đều có trách nhiệm trong vấn đề thanh toán. Mặt khác, doanh nghiệp luôn sẵn sàng tạo điều kiện thuận lợi khi khách hàng thanh toán đúng tiến độ như trong hợp đồng đã ký kết. Doanh nghiệp nên áp dụng chính sách thưởng khuyến khích bán hàng… để thu hút khách hàng ngày càng đông và tăng tính cạnh tranh.
Ba là, Công ty phải theo dõi chặt chẽ các khoản phải thu, hàng tháng cần kiểm tra lại số khách hàng còn nợ, những khoản nào đã đến hạn thanh toán, những khoản nào đã quá hạn để lên kế hoạch thu hồi nợ. Với những khách hàng đã quá hạn mà chưa thanh toán, doanh nghiệp cần có những biện pháp để sử lý kịp thời. Để hạn chế tốc độ tăng công nợ, doanh nghiệp nên quản lý chặt chẽ hoạt động thanh toán của các cửa hàng, chi nhánh. Mỗi kỳ nên có xác nhận công nợ giữa doanh nghiệp và khách hàng để hai bên cùng đối chiếu và cũng là hình thức nhắc nhở khoản nợ của khách hàng để hai bên cùng đối chiếu và cũng là hình thức nhắc nhở khoản nợ của khách hàng. Ngoài ra để đề phòng tổn thất về các khoản phải thu khó đòi, doanh nghiệp cần có một nguồn vốn để bù đắp vào đó.
Cuối cùng, doanh nghiệp cần vận dụng linh hoạt các hình thức tín dụng thương mại. Chẳng hạn như đối với những khách hàng thường xuyên có mức công nợ vượt quá giới hạn cho phép thì doanh nghiệp có thể kiên quyết không cho khách hàng đó được lấy hàng hay được hưởng những chính sách chiết khấu, hoa hồng ưu đãi. Tỷ lệ chiết khấu cho các khoản phải trả trước thời hạn cũng được áp dụng linh hoạt cho từng trường hợp cụ thể.
* Tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động.
Tăng vòng quay của vốn tức là rút ngắn thời gian vốn lưu động nằm trong các lĩnh vực sản xuất lưu thông, từ đó mà giảm bớt số vốn lưu động bị chiếm dụng, để tăng nhanh vòng quay của vốn lưu động cần có những biện pháp sau đây:
Một là, cần tăng thêm doanh thu bán hàng. Việc tăng thêm doanh thu cũng có nghĩa là với số vốn nhất định đã phục vụ được khối lượng kinh doanh lớn hơn, hoặc cần thay đổi cơ cấu vốn nhằm nâng cao năng lực sản xuất kinh doanh thì tăng lượng hàng bán ra. Thêm vào đó nâng cao chất lượng hoạt động kinh doanh, hàng hoá chất lượng cao thường được bán với giá cao. Bởi vậy phấn đấu nâng cao chất lượng kinh doanh, giảm giá thành sản phẩm cũng là phương hướng quan trọng để nâng cao doanh thu của doanh nghiệp.
Hai là, hạ thấp chi phí: muốn vậy doanh nghiệp cần đổi mới các phương tiện máy móc, thiết bị hiện đại, hoàn thiện công tác tổ chức sản xuất kinh doanh theo hướng đồng bộ, nhịp nhàng giữa các bộ phận trong toàn doanh nghiệp. Trong từng khâu, phải bố trí lao động một cách khoa học và hợp lý, không để lãng phí lao động. Đồng thời doanh nghiệp xây dựng chế độ thưởng phạt rõ ràng cụ thể thông qua các hình thức khuyến khích vật chất như tiền lương, thưởng nhằm động viên cán bộ, công nhân viên tiết kiệm chi phí và nâng cao năng suất và chất lượng, hiệu quả lao động.
Ba là, rút ngắn số ngày trên các chặng luôn chuyển vốn bằng các biện pháp kinh tế – kỹ thuật để rút ngắn số ngày kinh doanh hợp lý và số ngày thanh toán ở khâu lưu thông sẽ có tác dụng làm cho số vốn lưu động ở các khâu giảm bớt, từ đó có thể nâng cao được hiệu suất luôn chuyển vốn cố định. Ngoài ra, doanh nghiệp cần tăng cường quản lý và kiểm tra chất lượng từng loại hình kinh doanh để có biện pháp nhanh chóng giải quyết tránh ứ đọng vốn, tăng nhanh tốc độ luân chuyển vốn.
Kết luận
Nền kinh tế ở nước ta từ khi bước sang giai đoạn mới, giai đoạn phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đã có nhiều thay đổi đáng mừng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế tăng liên tục qua nhiều năm nhưng hiện nay đang có xu hướng giảm xuống. Để nền kinh tế nước ta thực sự hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực đòi hỏi các doanh nghiệp không những có vốn mà còn phải không ngừng nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của mình.
Trong những năm qua, công tác quản lý và sử dụng vốn đã được các doanh nghiệp thương mại đặc biệt quan tâm, tuy nhiên hiệu quả sử dụng vốn nhìn chung chưa cao tương xứng với tiềm năng và mục tiêu đề ra. Việc nghiên cứu tìm ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong nền kinh tế đang chuyển đổi theo cơ chế thị trường là làm việc có ý nghĩa và thiết thực về cả lý luận và thực tiễn. Điều đó cho phép doanh nghiệp thương mại chủ động hơn trong hoạt động của mình, tạo điều kiên để doanh nghiệp thương mại hoàn thành tốt nghĩa vụ đối với Nhà nước, tập thể người lao động cũng như với bản thân doanh nghiệp.
Danh mục tài liệu tham khảo
- PGS. PTS. Hoàng Minh Đường và PTS. Nguyễn Thừa Lộc – Quản trị Doanh nghiệp Thương mại. NXB giáo dục
- PGS.PTS. Nguyễn Duy Bột và PGS. PTS. Đặng Đình Đào.Giáo trình kinh tế thương mại. NXB Giáo dục
- Thời báo kinh tế Việt Nam .
- Thời báo Tài chính.
- Các tạp chí:
+ Tạp chí Cộng sản
+ Tạp chí Tài chính
+ Thị trường Tài chính Tiền tệ
+ Ngân hàng
+ Xây dựng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 29593.doc