Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc nhập khẩu kinh doanh vật tư, thiết bị của công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị văn hóa

Qua ba chương của đề tài "Một số giải pháp nâng cao hiệu qủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá" cho thấy được khái quát nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị ở công ty hiện nay và thực trạng kinh doanh của công ty, đồng thời người viết đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu qủa kinh doanh nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá. Công ty đã và đang thực hiện tốt nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho là nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá để phục vụ cho sự phát triển và hiện đại hoá mạng hoá thiết bị văn hoá trong cả nước. Những gì mà công ty đã đạt được trong thời gian qua dưới sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của ban lãnh đạo công ty không chỉ là hiệu qủa về mặt tài chính cho doanh nghiệp, mà còn là hiệu qủa về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội ch đấtt nước, chợ nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong đề tài này, người viết cũng muốn nêu lên một số biện pháp nâng cao hiệu qủa trong công việc kinh doanh nhập khẩu dựa trên cách quản lý của các thành phần kinh tế khác cũng như bằng kinh nghiệm của bản thân qua thời gian học tập và nghiên cứu ở trường và công ty. Những giải pháp đó dù chưa phải là tối ưu song nếu tiếp tục nghiên cứu, bổ sung sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng và hiệu qủa kinh doanh của công ty.

doc31 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1522 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nâng cao hiệu quả việc nhập khẩu kinh doanh vật tư, thiết bị của công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị văn hóa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lời mở đầu Thế giới luôn là tổng thể thống nhất của các mối quan hệ tự n hiên, văn hoá, kinh tế, chính trị..và sự tồn tại của quan hệ thương mại giữacc nước về hàng hoá, tiền tệ trong lĩnh vực kinh tế, là sự tồn tại khách quan. Các sản phẩm cùng các dịch vụ để thoả mãn nhu cầu của con người ngày một dồi dào, cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước ngày một tăng. Đối với Việt Nam chúng ta, việc mở rộng quan hệ kinh tế Quốc tế là rất cần thiết và là một trong những điều kiện tiền quyết trong chính sách mở cửa của Đảng và nhà nước ta vì nước ta hiện nay vẫn là một trong những nước đang phát triển; về kinh tế, do cơ sở vật chất còn kém,về tốc độ phát triển dân số vẫn cao trong khu vực và trình độ dân trí so với bề mặt chung vẫn còn thấp…Do vậy, nó có ý nghĩa quyết định đến việc phát triển kinh tế của Việt Nam mà trong đó, hoạt động xuất nhập khẩu đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Để đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, rất nhiều công trình hạng mục công trình công nghiệp cũng như dân dụng đã và đang xây dựng. Từ đó nhu cầu, về vật tư, thiết bị cũng không ngừng tăng lên và ngày càng trở thành vấn đề rất đáng quan tâm của các Bộ, ngành. Trong đó, trang vật tư thiết bị văn hoá để nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân kèm theo nó là rất cần thiết. Nhận thức được vấn đề này, Đảng và Nhà nước đã cho phép các đơn vị kinh doanh chuyên ngành được phép nhập khẩu vật tư, thiết bị, phục vụ đời sống văn hoá của đất nước. Công ty xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá thuộc Bộ văn hoá thông tin đã có sự đóng góp không nhỏ vào quá trình trên trong những năm gần đây. Qua thời gian thực tập tại Công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị văn hoá, được sự giúp đỡi nhiệt tình của cán bộ và lãnh đạo công ty cũng như sự hướng dẫn nhiệt tình của giáo viên hướng dẫn tôi đã tập trung nghiên cứu tình hình kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị tại công ty và đưa ra một số ý kiến đóng góp nhằm hoàn thiện và nâng cao hơn nữa hiệu qủa công tác kinh doanh nhập khẩu tại công ty. Đề tài này gồm 3 chương: Chương I: Khái quát về nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị ở Việt Nam hiện nay. Chương II: Tình hình kinh doanh nhập khẩu vật tư thiết bị của công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị văn hoá. Chương III: Một số biện pháp nâng cao hiệu qủa việc nhập khẩu kinh doanh vật tư, thiết bị của công ty. Tuy nhiên, do thời gian hạn hẹp nên đề tài không tránh khỏi hạn chế nhất định, rất mong được sự đóng góp ý kiến của thầy cô và các bạn để đề tài được hoàn thiện hơn. Xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn nhiệt tình của cô giáo Nguyễn Thanh Bình cùng các thầy cô giáo trong khoa Kinh tế ngoại thương. Chương I Khái quát về nhu cầu nhập khẩu vật tư thiết bị ở Việt Nam hiện nay I. Tầm quan trọng của việc nhập khẩu vật tư, thiết bị đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay 1. Nhu cầu phát triển nền kinh tế trong nước Chúng ta đều biết nhập khẩu là 1 trong 2 hoạt động cấu thành nghiệp vụ ngoại thương xuất nhập khẩu, là một mặt không thể tách rời của thương mại quốc tế. Có thể hiểu đó là sự mua hàng hoá và dịch vụ từ nước ngoài phục vụ cho nhu cầu trong những hoặc tái sản xuất nhằm thu lợi nhuận. Nhập khẩu thể hiện sự phụ thuộc gắn bó lẫn nhau giữa nền kinh tế quốc dân với nền kinh tế thế giới, nó cũng quyết định sự sống còn đối với một nền kinh tế. Đặc biệt trong tình hình thế giới hiện nay, các nước thống nhất tăng cường buôn bán quốc tế, nền kinh tế quốc gia hoà nhập vào nền kinh tế thế giới thì vai trò của nhập khẩu càng trở nên quan trọng, cụ thể là: - Nhập khẩu làm đa dạng hoá mặt hàng về chủng loại, qui cách, cho phép thoả mãn hơn nhu cầu trong nước. - Nhập khẩu tạo ra sự chuyển giao công nghệ, do đó tạo ra phát triển vượt bậc của sản xuất xã hội, tiết kiệm chi phí và thời gian, tạo ra sự đồng đều về sự phát triển trong xã hội. - Nhập khẩu tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại, tức là tạo ra động lực bắt buộc các nhà sản xuất phải không ngừng vươn lên tạo ra sự phát triển xã hội và sự thanh lọc các đơn vị sản xuất kém hiệu qủa. - Nhập khẩu giải quyết được những nhu cầu đặc biệt (như hàng hoá hiếm, hoặc quá hiện đại kỹ thuật mà trong nước không sản xuất được). - Nhập khẩu là cầu nối thông suốt nền kinh tế trong và ngoài nước với nhau, tạo điều kiện cho phân công lao động là hợp tác quốc tế, phát huy được lợi thế so sánh của đất nước trên cơ sở chuyên môn hoá. Đặc biệt đối với Việt Nam, một nước đang phát triển với nền sản xuất còn lạc hậu, manh mún thì việc nhập khẩu vật tư, thiết bị là rất cần thiết cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Đời sống sinh hoạt đang có những chuyển biến thay đổi nhất định thì nhu cầu về tinh thần là không thể thiếu.Vậy để đáp ứng được những nhu cầu đó của con người thì những trang thiết bị đó lấy ở đâu? Trong giai đoạn hiện nay khi nền sản xuất trong nước chưa đáp ứng được, thì chúng ta phải nhập khẩu từ nước ngoài về. Việc nhập khẩu giúp chúng ta tận dụng được lợi thế so sánh, tiết kiệm được chi phí và thời gian nghiên cứu và sản xuất, nhanh chóng theo kịp trình độ phát triển của khu vực và thế giới. Hiện nay, việc nhập khẩu vật tự, thiết bị hiện đại vào Việt Nam lúc này là giải quyết được nhu cầu mở rộng sản xuất, kinh doanh ngày càng tăng, phá vỡ tình trạng độc quyền của sản xuất trong nước tạo ra sự ổn định kinh tế cho đất nước, tạo ra sự cạnh tranh giữa hàng nội và hàng ngoại và đó chính là động lực thúc đẩy nền kinh tế trong nước phát triển. 2. Sự cần thiết cho việc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước Động lực của phát triển đời sống xã hội là sự phát triển lực lượng sản xuất vật chất và kinh tế. Trong những điều kiện khách nhau (ở những nước cụ thể) sự phát triển kinh tế theo những mô hình chiến lược và bước đi khác nhau nhưng trong quá trình tăng trưởng kinh tế của tất cả các nước đều phải trải qua quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Trong văn kiện Đại hội IX Đảng cộng sản Việt Nam nêu rõ: Nước ta đã chuyển sang thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu của công nghiệp hoá và hiện đại hoá là xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật hiện đại, cơ cấu hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất; đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng văn minh. Đi lên chủ nghĩa xã hội từ một nước nông nghiệp lạc hậu, đời sống văn hoá thiếu thốn, Đảng ta luôn xác định xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, thực hiện công nghiệp hoá, xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ. Mục tiêu đến năm 2020 Việt Nam cơ bản sẽ trở thành một nước công nghiệp theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Hình thành nền kinh tế năng động tự chủ đủ sức cạnh tranh, hội nhập với các nước trong khu vực Đông Nam á, bắt kịp trình độ phát triển tiên tiến trong một số ngành và lĩnh vực, dựa trên sự tiếp nhận chuyển giao công nghệ gắn liền với xây dựng tiềm lực khoa học và công nghệ nội sinh, cụ thể là: Trang bị công nghệ tiên tiến và hiện dại cho các ngành và các hoạt động kinh doanh xã hội, sử dụng có hiệu qủa nguồn tài nguyên và bảo vệ môi trường sinh thái, sử dụng phổ cập những tiến bộ mới nhất của công nghệ sinh học, tiếp cận và hội nhập với nền kinh tế công nghiệp khu vực và thế giới. - Phát triển kinh tế đối ngoại: Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, đảm bảo nhập khẩu những vật tư, thiết bị chủ yếu, có tác động tích cực đến sản xuất kinh doanh. Tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng có khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phầm ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mạch các thị trường mới. Với phương hướng và mục tiêu như vậy, nhu cầu nhập khẩu vật tư thiết bị cho công nghiệp hoá và hiện đại hoá ở nước ta thật sự cấp bách và cần thiết. Điều này không chỉ đúng với riêng Việt Nam mà với tất cả mọi nước trên thế giới. Lịch sử đã cho thấy rằng không một nước nào trên thế giới thực hiện công nghiệp hoá và hiện đại hoá mà không nhập khẩu vật tư, thiết bị cả. 3. Trong nước không có khả năng tự đáp ứng Như đã trình bày ở trên, nhu cầu về thiết bị cho phát triển cộng đồng là vô cùng to lớn. Tuy nhiên với Việt Nam, một nước đi lên chủ nghĩa xã hội từ chế độ phong kiến lạc hậu, lại trải qua 2 cuộc chiến tranh tàn khốc thì việc tự đáp ứng đủ nhu cầu về vật tư, thiết bị quả thực là không thể.Sau khi đất nước thực hiện việc đổi mới, mở cửa nền kinh tế, đất nước đã đạt được những thành tựu đáng kể, tuy nhiên nền công nghiệp sản xuất về trang thiết bị của chúng ta vẫn còn nhiều hạn chế nếu không nói là rất lạc hậu và manh mún. Quả thực hiện nay chúng ta có rất ít các nhà máy có đủ trang thiết bị và trình độ kỹ thuạt có thể sản xuất ra các thiết bị phục vụ cho nhu cầu phát triển đất nước. II. Những đặc trưng cơ bản của việc nhập khẩu vật tư, thiết bị - Nhập khẩu phục vụ cho ngành là chủ yếu: Phần lớnn vật tư thiết bị được nhập khẩu là phục vụ cho ngành văn hoá và một số đơn vị khác. - Kim ngạch đầu tư nhập khẩu lớn: Vật tư, thiết bị là mặt hàng được sản xuất với yếu cầu kỹ thuật cao nên giá trị lớn do vậy, kim ngạch đầu tư nhập khẩu thường lớn. Điều này đòi hỏi côg ty kinh doanh nhập khẩu chúng phải có nguồn vốn lớn. - Trình độ giao dịch tập trung và chuyên môn hoá cao: Do các đặc tính của mình việc nhập khẩu vật tư, thiết bị đòi hỏi phải có các nhà chuyên môn có kinh nghiệm, tính thông nghiệp vụ và mức độ tập trung cao. - Khi tiến hành nhập khẩu vật tư, thiết bị các nhà nhập khẩu cần phải nghiên cứu thị trường thận trọng, nên tìm những nhà cung cấp có uy tín đáng tin tưởng, đặc biệt nên giao dịch với những bạn hàng quen biết. Chương II Tình hình kinh doanh nhập khẩu vật tư, thiết bị của công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị văn hoá I. Vài nét sơ lược về công ty 1. Thời gian thành lập và các lĩnh vực kinh doanh chính của công ty Công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị văn há được thành lập năm 1962, khi đó công ty mang tên "Công ty cung ứng vật tư ngành văn hoá" theo quyết định số 340 VH/QĐ ngày 15/6/1962 của Bộ văn hoá thông tin - Thể thao, trụ sở đặt tại phố Hàng Trống. Khi đó nguồn vốn của công ty hoạt động chủ yếu dựa vào ngân sách do nhà nước cấp phát phương thức kinh doanh là phân phối theo địa chỉ đã được Bộ văn hoá - Thông tin chỉ định. Sau khi Miền Nam giải phóng (sau năm1975) trước yêu cầu đòi hỏi khôi phục kinh tế sau chiến tranh và từng bước phát triển đất nước về mọi mặt, năm 1977 thì tách ngành điện ảnh để thành lập 2 côgn ty với chức năng chuyên sâu cụ thể là: Công ty cung cấp vật tư ngành in và công ty cung cấp vật tư ngành điện ảnh. Trong thời gian này, công ty cung ứng vật tư ngành văn hoá tiếp tục tồn tại và phát triển để cung ứng vật tư cho các ngành chủ đạo nghệ thuật, bảo tàng, thư viện, mĩ thuật, văn hoá quần chúng…Cùng với sự thay đỏi và phát triển của đất nước thì nhiệm vụ của công ty cũng ngày càng nặng nề. Với 2 lần đổi tên sau đó vào năm1980 và 1981 là công ty "Công ty cung ứng và sản xuất vật tư ngày văn hoá" và "Tổng công ty vật phẩm văn hoá" thì đến năm 1993 cănướcứ vào quyết định thành lập theo nghị định 388/HĐBT của Hội đồng Bộ trưởng và quyết định 786/QĐ ngày 26/3/1993 của Bộ văn hoá - Thông tin đổi tên thành "Công ty xuất nhập khẩu vật tư thiết bị văn hoá" tên giao dịch là CEMCO (Company for the export - import of Cultural equipsorent and merterial). Công ty CEMCO là một doanh nghiệp thuộc Bộ văn hoá thông tin chuyên sản xuất kinh doanh các loại vật tư, thiết bị văn hoá phục vụ cho thông tin, biểu diễn nghệ thuật chuyên nghiệp, nghiệp dư cũng như phục vụ các nhu cầu văn hoá khác của nhân dân. Ngày 02/07/1993, trọngt ài kinh tế Hà Nội đã cấp đăng ký kinh doanh số 108890 cho côngty vàđến ngày 18/12/1993 thì Bộ Thương Mại cấp giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu số 1.17.1.033/GD để công ty bắt đầu chính thức đi vào hoạt động. Ngày 28/3/1993 công ty đã được cấp giấy chứng nhận hội viên phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam số 875/PTM. HN do phòng Thương mại và Việt Nam cấp. Công ty CEMCO có tổng sốvốn pháp định là 1.545.667.623 đồng Trong đó: Vốn cố định : 709.761.043 đồng Vốn lưu động : 835.906.580 đồng Hiện nay trụ sở chính của công ty đóng tại 67 Trần Hưng Đadọ Hà Nội Việt Nam. CEMCO là doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trải qua nhiều năm và có kinh nghiệm cao. CEMCO là đại lý phân phối sản phẩm âm thanh và ánh sáng chuyên dung của nhiều hãng nổi tiếng trên thế giới Công ty còn có một lượng hàng hoá phong phú về chủng loại, đủ về số lượng sẵn sàng đáp ứng các yêu cầu đồng bộ cũng như đột xuất của khách hàng. Đặc biệt CEMCO là đại lý phân phối chính hãng TOA - một hãng sản xuất thiết bị âm thanh nổi tiếng trên thế giới của Nhật Bản. Thiết bị TOA đã được khách hàng Việt Nam tin tưởng, nhất là thiết bị truyền thanh, thiết bị âm thanh phục vụ hội nghị, hội thảo, thiếtbị phục vụ thông tin cổ đông và hoạt động văn hoá nghệ thuật cơ sở. CEMCO đã xây dựng được một mạng lưới đại lý bán hàng TOA trải rộng khắp cả nước và đã tổ chức một trung tâm bảo hành các thiết bị này với tinh thần "Tất cả để phục vụ khách hàng". * Các lĩnh vực kinh doanh chính của công ty - Xuất nhập khẩu các mặt hàng phục vụ hoạt động văn hoá nghệ thuật, thông tin tuyên truyền và các nhu cầu đời sống văn hoá tinh thần của nhân dân. - Nhận uỷ thác xuất nhập khẩu cho các ngành hàng Công ty đang kinh doanh. - Cung cấp trang thiết bị vật tư cho hoạt động văn hoá nghệ thuật, thông tin cổ động và và các hoạt động của các cơ quan và tổ chức. - Nhận thiết kế hệ thống âm thanh cho biểu diễn nghệ thuật, cho truyền thanh, hệ thống điện nhẹ, hệ thống điện chiếu sáng, sân khấu, hệ thống thu truyền hình từ vệ tinh (T.V.R.O) hệ thống kiểm tra, báo động (C.C.T.V), các phòng học ngoại ngữ. - Cung cấp, lắp đặt, chuyển giao công nghệ các hệ thống truyền hình thu vệ tinh, truyền hình cáp, Camera giám sát, âm thanh, báo cháy, an ninh, hệ thống điện. - Cung cấp thiết bị, vật tư chụp ảnh dương bản (chụp ảnh lấy ngay, không qua phim, âm bản) của hãng POLAROID (mỹ). Cung cấp hệ thống thiết bị làm ảnh nhận dạng theo công nghệ POLAROID. 2. Cơ cấu tổ chức của công ty - Giám đốc - Phó giám đốc - Các phòng bán quản lý gồm: + Phòng hành chính + Phòng kế hoạch tài chính + Phòng kinh doanh + Phòng xuất nhập khẩu + Phòng kho vận + Phòng kỹ thuật tư vấn và thiết kê - Các đơn vị trực thuộc công ty + Chi nhánh Công ty tại Thành phố Hồ Chí Minh + Cửa hàng 67 Trần Hưng Đạo - Hà Nội + Cửa hàng 53 Hàng Bài - Hà Nội + Cửa hàng 97 Lê Hồng Phong - Hà Nội + Cửa hàng POLAROID, 37 Hàng Bài - Hà Nội + Các đại lý, kho hàng * Giám đốc: là người đại diện pháp nhân của công ty chịu trách nhiệm trước Bộ văn hoá - thông tin và cán bộ công nhân viên Công ty. Giám đốc có quyền điều hành cao nhất trong công ty, chịu trách nhiệm phụ trách toàn diện công tác sản xuất,kinh doanh tuyển dụng lao động. * Phó giám đốc: là người trực tiếp giúp việc cho giám đốc và chịu trách nhiệm trước giám đốc nội dung công việc được giao theo chức trách hoặc nội dung công việc mà giám đốc uỷ quyền. Công ty có 2 phó giám đốc - Một Phó giám đốc phụ trách hành chính - Một Phó giám đốc phụ trách kinh doanh * Các phòng ban thuộc khối quản lý của công ty. 1. Phòng tổ chức hành chính: Chịu trách nhiệm về công tác tổ chức, quản lý cán bộ và chăm lo đời sống văn hoá tinh thần của cán bộ, nhân viên toàn công ty. 2. Phòng kế hoạch - Tài chính: Nhiệm vụ của phòng là thực hiện các nghiệp vụ thanh toán kinh tế, thống kê, tài chính, thông tin kinh tế cho công ty lập và thực hiện các kế hoạch tài chính và báo cáo tài chính, cung cấp tài chính kịp thời và có hiệu qủa cho mọi hoạt động kinh doanh của công ty. Tham mưu giám đốc về các chế độ tài chính, thể lệ kế toán của nhà nước. 3. Phòng kinh doanh: Có nhiệm vụ mở rộng thị trường trong nước, tìm kiếm khách hàng, thiết lập và duy trì mạng lưới đại lý bán buôn, bán lẻ, thực hiệ các hợp đồng bán hàng trong nước. 4. Phòng xuất, nhập, khẩu: Chịu trách nhiệm thiết lập, duy trì và thực hiện các đầu mối xuất nhập khẩu, thực hiện các hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu kinh doanh của công ty và các nghiệp vụ có liên quan tiến hành nhập khẩu uỷ thác, tạm nhập tái xuất. Phòng xuất nhập khẩu ví như bộ máy khởi động cho cỗ máy làm việc liên tục của công ty kinh doanh đều đặn trong năm có hàm lượng hàng hoá dự trữ của công ty. 5. Phòng kho vận: Đảm bảo dự trữ kho, bảo quản các loại vật tư hàng hoá, thiết bị… Thực hiện tốt các nghiệp vụ tiếp nhận, giao xuất để ngăn chặn vật tư, thiết bị kém phẩm chất…Tiến hành vận chuyểnn 2 cách kịp thời, nhanh gọn tới các công trình theo yêu cầu của chủ hàng. 6. Phòng kỹ thuật và tư vấn thiết kế: Hướng dẫn đào tạo cán bộ kỹ thuật trong công ty, tư vấn thiết kế các hệ thống âm thanh cho khách hàng. Thực hiện các hoạt động thiết kế, thi công lắp ráp đặt trang thiết bị cho công trình theo thoả thuận. - Các đơn vị trực thuộc gồm: + Các đại lý, cửa hàng của công ty: Thực hiện trực tiếp công tác bán hàng cho công ty, chủ yếu là bán lẻ cho khách mua với số lượng nhỏ là đầu mối tiêu thụ hàng hoá. + Kho hàng: Với nhiều dãy, kho luôn luôn dự trữ hàng hoá phục vụ cho kinh doanh. Các nhân viên làm việc tại kho luôm đảm bảo cho hàng hoá được bảo quản tốt, thực hiện các nghiệp vụ xuất nhập hàng hoá, đảm bảo ghi sổ sách báo cáo chính xác để công ty có thể nắm vững hàng dự trữ Giám đốc P. giám đốc hành chính P. giám đốc Kinh doanh Phòng kinh doanh Phòng XNK Phòng kế hoạch tài vụ Phòng hành chính tổ chức Phòng kho vận Phòng kỹ thuật tư vấn & thiết kế Các đại lý Hệ thống cửa hàng Các kho hàng và tồn đọng trong kỳ báo cáo. II.Tình hình kinh doanh nhập khẩu, vật tư, thiết bị của công ty trong thời gian qua 1. Tình hình chung Trong vài năm gần đây sự ổn định về chính trị và sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam đã thúc đẩy việc phát triển về thông tin văn hoá rộng khắp cả nước, kéo theo một khối lượng lớn nhu cầu về thiết bị, vật tư mà sản xuất trong nước chưa có khả năng hoặc chưa kịp đáp ứng. Vì vậy, để phát triển một cách đồng bộ về văn hoá, chính trị, kinh tế, xã hội…, Nhà nước đã cho phép các đơn vị kinh doanh chuyên ngành nhập khẩu,vật tư, thiết bị nhằm phục vụ cho nhu cầu phát triển đất nước. Là đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị, công ty xuất nhập khẩu thuộc Bộ văn hoá thông tin, cho phép kinh doanh nhập khẩu vật tư, thiết bị về âm thanh,ánh sáng và ngành in, ngành ảnh để phục vụ cho các đơn vị, các cơ quan trong ngành văn hoá và một số đơn vị cơ quan khác việc kinh doanh vật tư, thiết bị là một hoạt động rất phức tạph do tính chất của mặt hàng, do thị trường luôn biến động và tính cạnh tranh cao bởi ngày càng có nhiều doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế cùng tham gia kinh doanh. Nhưng nhờ sự nỗ lực cố gắng cho nên giá trị kim ngạch nhập khẩu vật tư thiết bị đã không ngừng tăng lên, cụ thể là qua các năm trong bảng sau: Bảng kim ngạch nhập khẩu của công ty từ năm 2000 đến năm 2004 Đơn vị: USD STT Năm Tổng kim ngạch nhập khẩu 1 2000 850.000 2 2001 924.000 3 2002 990.000 4 2003 1.025.000 5 2004 1.057.000 (Theo báo cáo tổng kết doanh số nhập khẩu hàng của phòng xuất nhập khẩu ) 2. Kết quả kinh doanh nhập khẩu vật tư, thiết bị của công ty Đơn vị tính: Triệu đồng STT Năm Chỉ tiêu 2003 2004 1 Doanh số bán ra 43.200 59.300 2 Giá vốn hàng bán 35.470 46.111 3 Chi phí bán hàng 6.825 8.872 4 Chi phí quản lý 4.819 6.264 5 Lợi nhuận thuần 1.425 1.852 6 Nộp ngân sách 6.725 9.648 7 Thu nhập trước thuế (lãi) từ kinh doanh 1.516 1.560 (Theo báo cáo kinh doanh các năm 2003 - 2004) Qua biểu trên ta thấy lợi nhuận đạt được qua việc kinh doanh nhập khẩu vật tư, thiết bị của công ty tăng đều qua các năm kinh doanh nhập khẩu vật tư, thiết bị của công ty không những có mức tăng trưởng cao mà ngày càng chiếm tỷ trọng rất lớn trong hoạt động kinh doanh nhập khẩu Công ty. Cụ thể là năm 2003 doanh số bán ralà 43 tỷ 200 triệu đồng, năm 2004 doanh số đạt 59.300 triệu đồng tăng 37,85%. Còn lợi nhuận năm 2004 là 1 tỷ 560 triệu đồng so với năm 2003 là 1 tỷ 516 triệu đồng tăng 3%. Những kết quả đạt được này là nhờ sự chỉ đạo sáng suốt của lãnh đạo công ty và sự nỗ lực của tập thể cán bộ công nhân viên. Trong quá trình hoạt động không ngừng học hỏi và nâng cao nghiệp vụ do đó ngày càng tạo được uy tín đối với bạn hàng trong và ngoài nước, nhờ đó đã thu được những kết quả tốt và đem lại lợi nhuận cao cho công ty. 3. Kết quả kinh doanh của bộ phận bán hàng nhập khẩu của công ty Đơn vị: 1000 đồng STT Tên bộ phận bán hàng Năm 2003 Năm 2004 Tăng trưởng 1 Phòng kinh doanh Doanh thu 4.170.983 5.433.194 30,2% 2 Đại lý các tỉnh phía bắc Doanh thu 2.443.042 2.836.841 16,1% 3 Phòng XNK Doanh thu 3.385.828 6.343.936 87,3% 4 Cửa hàng 67 - Trần Hưng Đạo Doanh thu 11.444.148 12.176.313 6,4% 5 Cửa hàng 93 Lê Hồng Phong Doanh thu 6.528.780 4.256.930 - 34,8% 6 Cửa hàng 66 Hai Bà Trưng Doanh thu 7.419.416 19.534.500 163,2% 7 Cửa hàng 53 Hàng Bài Doanh thu 293.840 675.354 129889% 8 Chi nhánh Doanh thu 5.036.367 5.850.301 16,16% 9 (Theo báo cáo tổng kết kinh doanh năm 2003 - 2004) Qua số liệu trên cho thấy đứng đầu tăng doanh số bộ phận năm 2004 so 2003 tăng là phòng kinh doanh, đại lý các tỉnh phía Bắc, phòng xuất nhập khẩu, cửa hàng 67 Trần Hưng Đạo, chi nhánh và cửa hàng 66 Hai Bà Trưng. Qua 2 năm cho thấy sự tăng trưởng cao của các bộ phận bán hàng của công ty cho thấy sự phấn đấu và phát huy không ngừng của toàn công ty. 4. Qui cách chủng loại mặt hàng nhập khẩu Từ khi thành lập đến nay, công ty luôn là một trong những doanh nghiệp hàng đầu kinh doanh về mặt thiết bị và văn hoá. Các mặt hàng mà công ty kinh doanh hầu hết những sản phẩm có giá trị tương đối lớn khó có thể thay đổi trong thời gian ngắn, do vậy, khách hàng luôn đòi hỏi công ty phải có mặt hàng có chất lượng cao, ổn điịnh và có thời gian bảo hàng cũng như dịch vụ chăm sóc khách hàng. Các mặt hàng vật tư, thiết bị nhập khẩu của công ty Đơn vị: USD Tên mặt hàng Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Thiết bị âm thanh 906.666 1.087.734 1.549.136 Thiết bị ánh sáng 72.102 146.976 162.056 Vật tư thiết bị ngành in 141.102 242.575 498.619 Vật tư ngành ảnh 8.534 12.801 16.641 (Theo báo cáo tổng kết năm 2002, 2003 của phòng xuất nhập khẩu) Với đội ngũ cán bộ năng động và chịu khó học hỏi của công ty đã tạo được uy tín lớn với bạn hàng trong và ngoài nước nhờ khâu tiếp thị và nghiên cứu thị trường rất chu đáo. Ngoài việc nhập khẩu kinh doanh, Công ty cũng nhận được nhiều hợp đồng uỷ thác nhập khẩu và không ngừng phát triển mặt hàng kinh doanh của mình. Chương III Một số giải pháp nâng cao hiệu qủa việc nhập khẩu vật tư, thiết bị của công ty I. Đánh giá chung về hoạt động nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá của công ty. 1. Hiệu quả Trước hết cần phải khẳng định rằng hoạt động nhập khẩu vật tư, thiết bị của công ty đã phần nào đáp ứng được nhu cầu về đời sống tin thần ngày càng tăng của đất nước, của nhân dân, góp phần không nhỏ cho việc gữi gìn nền văn hoá, kinh tế ổn định và phát triển. Trong thời gian qua mặc dù gặp rất nhiều khó khăn nhưng công ty luôn đảm bảo và thực hiện đúng kế hoạch mà Bộ giao cho về công tác xuất nhập khẩu, chỉ số nộp lãi cho ngân sách Nhà nước không ngừng tăng lên qua các năm. Trong quá trình hoạt động cũng tẩo một đội ngũ cán bộ kinh doanh giàu kinh nghiệm. Bên cạnh đó đã đưa giá trị kim ngạch nhập khẩu và tổng kim ngạch xuất nhập khẩu tăng lên. Nhưng những kết quả đạt được vẫn chưa phản ánh hết được thế mạnh và tiềm lực to lớn của Công ty. Mặc dù thị trường vật tư, thiết bị là rất phức tạp, ngày càng nhiều công ty cũng tham gia kinh doanh mặt hàng này, do vậy tính cạnh tranh cao; tuy vậy, công ty chưa biết phát huy hết thế mạnh và uy tín của mình trên thương trường để ký kết các hợp đồng với giá ưu đãi với các nhà sản xuất nước ngoài, từ đó nâng cao được khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và có thể thu được nhiều lợi nhuận hơn nữa. 2. Công tác nhập khẩu và thị trường nhập khẩu - Về nghiệp vụ nhập khẩu Nhìn chung công ty đã thực hiện tốt công tác nhập khẩu, tạo được nhiều uy tín với khách hàng. Công ty đã được nhiều đơn vị bạn hàng tin cậy, do đó đã nhận được nhiều hợp đồng uỷ thác không những cho các đơn vị trong ngành mà với rất nhiều đơn vị khác. Các hợp đồng nhập khẩu đều được thực hiện theo đúng các điều khoản đã ký kết, hạn chế tối đa các trường hợp sai sót về nghiệp vụ. Công tác giao nhận có nhiều tiến bộ, đảm bảo giải phóng hàng đúng tiến bộ, có rất ít trường hợp bị lưu kho, lưu bãi. Với hình thức kinh doanh linh hoạt và nhạy bén, công ty đã nhập khẩu được nhiều loại mặt hàng vật tư thiết bị phục vụ cho nhu cầu văn hoá tinh thần trong nước. Công tác kinh doanh nhập khẩu luôn bán sát và đảm bảo đúng quy định nhà nước. Thông qua nhập khẩu và thiết bị cho các đơn vị thuộc công ty và các đơn vị khác, công ty đã thu được nhiêu lợi nhuận từ các phí uỷ thác, đặc biệt tạo được nhiều mỗi khách hàng lớn tạo đà cho việc kinh doanh lâu dài. Bên cạnh đó việc kinh doanh những mặt hàng nhập khẩu từ doanh ngày càng tăng lên. Kết quả này tạo đà thuận lợi để công ty đẩy mạnh hoạt động kinh doanh trong thời gian tới. Song trong công tác nghiệp vụ nhập khẩu công ty vẫn còn một số hạn chế cần được khắc phục như khi đôi còn chậm trễ các đơn hàng lẻ, đồng thời các thủ tục tiến hành nhập khẩu còn rườn rà, các khấu thanh toán tiến hàng của khách hàng phải trả qua các thủ tục hành chính không cần thiết. Do vậy nhiều khi không ăn nhập với cơ chế kinh doanh ngoài thị trường trong thời điểm hiện tại. 1.3 Về thị trường nhập khẩu. Trong thời gian qua công ty đã tiến hành nhập khẩu vật tư thiết bị từ nhiều nước khác nhau. Nhờ có hoạt động nhập khẩu công ty đã tạo ra mỗi quan hệ bạn hàng lâu dài và thân thiết với nhiều hãng khác nhau trên thế giới. Hàn Quốc, Nhật Bản, Sinpapore, Đài Loan, Thái Lan… là những thị trường chủ yếu cung cấp vật tư thiết bị cho công ty. Nhìn chung nhưng mặt hàng sản xuất tại các nước nói trên rất phù hợp với nhu cầu ở Việt Nam giá cả lại hợp lý và đồng thời tập quán thương mại ở các nước này rất phù hợp với tình thương mại ơ Việt Nam tại thời điểm hiện tại. Thị trường các nước Châu Âu như Đức, ý cũng bắt đầu chiếm tỷ trọng lớn trong hàng hoá nhập khẩu của Công ty. Máy móc thiết bị được sản xuất từ các nước này có chất lượng và kỹ thuật cao và giá thành ngày càng co xu hướng giảm. Trong vài năm tới nền kinh tế nước ta ngày càng đạt mức tăng trưởng cao nhu cầu về vật tư thiết bị ngày càng tăng. Để tạo sự ổn định và phát triển lâu dài, công ty cần có kế hoạch cụ thể nhằm đẩy mạnh công tác tiếp cận và nghiên cứu thị trường tại các nước này để khi thị trường trong nước có nhu cầu thì có thể ứng ngay một cách nhanh chóng nhất. Về công tác nghiên cứu thị trường Công tác nghiên cứu thị trường ở tổng công ty được tiến hành một cách tương đối đầy đủ, nhưng những thông tin chưa được xử lý chính xác. Trong nghiên cứu thị trường cán bộ tiếp thị mới chỉ dừng lại việc quan sát giá cả thị trường kết hợp với việc tìm bạn hàng trước mắt để thực hiện từng trường hợp. Do vậy việc dự đoán nhu cầu thị trường trong tương lai như việc dự đoán giá cả tăng giảm, khả năng tiêu thụ thay đổi (cả không gian và thời gian), thị trường đầu vào có ổn định không thì cán bộ tiếp cận thị trường chưa dự đoán chính xác được. II. Các giải pháp để nâng cao hiệu qủa việc kinh doanh vật tư, thiết bị của công ty 1. Nhanh chóng nắm bắt thông tin thị trường a. Thu nhập và xử lý thông tin từ thị trường mua Từ nhiều năm trước ở Việt Nam hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu theo cơ chế cũ, những bạn hàng quen thuộc của Việt Nam là các nước xã hội chủ nghĩa để tính, trao đổi hàng hoá còn thông qua các nghị định thư. Còn về thị trường các nước khác chưa có quan hệ làm ăn nhiều nên không có thông tin đầy đủ, ngược lại các nước cũng không biết đến Việt Nam hiện đang làm gì và có gì. Do đó hiện nay cần phải xúc tiến ngay công tác thông tin quảng cáo ở các nước nhằm gây dựng lại hình ảnh của Việt Nam ngày càng tốt hơn. Không có thông tin chính xác, kịp thời thì không thể kinh doanh có hiệu quả đây là một thực tế hiển nhiên. Ví dụ ở anh khoảng 60% thu nhập quốc dân được mang lại bằng dịch vụ thương mại nguyên liệu chủ yếu của dịch vụ này là chất lượng thông tin. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam, việc thu lượm và xử lý thôngtin thường chậm qua nhiều khâu vì thế không đầy đủ chính xác nên hay bỏ lỡ các cơ hội làm ăn. Qua đó ta thấy công tác thông tin và tiếp cận thị trường là vô cùng quan trọng, không thể bỏ qua. Hiện tượng các doanh nghiệp Việt Nam đơn phương độc mã nhảy ra thị trường nước ngoài mà không được trang bị đầy đủ về thông tin và nghệ thuật thương mại thì chẳng khác gì một đoàn quân ra trận chưa được tập luyện, không được trịnh sát trước, vì vậy không có phương án tác chiến thích hợp, nên việc trả giá nặng nề là điều dễ hiểu. Thương trường cũng như chiến trường đều có quy luật riêng của nó, ai không vận dụng và nhận thức được thì không thể chiến thắng. Vì vậy để tiếp cận hoà nhập vầo thị trường quốc tế, công tác tiếp cận thông tin thị trường phải thực hiện tốt bảo đảm cho hoạt động kinh doanh,vận dụng được các cơ hội làm ăn, tránh rủi ro và mang lại lợi nhuận cao nhất. * Công tác thông tin và tiếp cậnh thị trường bán Như ta đã biết thị trường máy móc thiết bị trên thế giới luôn có sự biến động lớn về giá cả và lượng cung hàng hoá. Do vậy vần phải thu nhập đầy đủ các thông tin về thị trường, đặc biệt là thị trường các nước mà công ty thường có quan hệ buôn bán. Công việc nghiên cứu phải tiến hành một cách tỷ mỉ chính xác. Cần có những thông tin sau: - Khả năng đáp ứng của mỗi nước nước. - Giá cả - Tiến độ ký kết hợp đồng, thực hiện hợp đồng Trong quá trình giao dịch nên biết rằng ở nước ngoài đặc biệt là các nước Châu á bên cạnh các công ty sản xuất và buôn bán đứng đắn còn có không ít các công ty "ma" chỉ có một lượng vốn ít ỏi hoặc các công ty nhỏ dựa vào các công ty lớn. Làm ăn với các công ty này rất nguy hiểm do đó phải nghiên cứu tình hình tài chính, uy tín của các công ty nước ngoài một cách cẩn thận để đảm bảo cho hoạt động kinh doanh của mình. Nghiên cứu thị trường máy móc thiết bị trên thế giới sẽ giúp cho công ty tìm được những bạn hàng mới, mở rộng thị trường, chủ động giao dịch và ký kết hợp đồng với các hãng trực tiếp sản xuất, hạn chế dao dịch với các đại diện trung gian để hạ thấp giá nhập khẩu. Điều này công ty đãd áp dụng rất hiệu quả trong các năm qua. Ban đầu do thông tin về thị trường còn ít công ty thường giao dịch với các công ty thương mại của Singapo, Hồng Kông, Thái Lan…nhưng sau khi tìm hiểu kỹ qua các nguồn thông tin khác nhau công ty đã giao dịch và ký kết hợp đồng trực tiếp với nhà sản xuất, do vậy hiện nay số lượng các công ty thương mại ký kết hợp đồng chính thức với công ty còn rất ít, công ty chỉ giao dịch với họ để lấy thông tin, đặc biệt số công ty thương mại của Singapo giảm hẳn. Vì hầu hết các công ty của Singapo là các công ty thương mại, đất nước Singapo hầu như không có nhiều ngành sản xuất lớn. Tuy nhiên theo thông lệ buôn bán của một số hãng lớn để duy trì một thị trường hay mạng lưới tiêu thụ ổn định họ thường quan hệ vì hình thành một nhà phân phối chính (hưởng giá mua ưu đãi hơn các công ty khác), các công ty này là các công ty thương mại. Do vậy muốn mua với giá cạnh tranh ta phải mua qua các công ty trên. Nhật bản là nước có sự hình thành các công ty thương mại như trên một cách chuẩn mực nhất, họ tuân theo những nguyên tắc bất di bất dịch, thậm chí nhiều khi một số doanh nghiệp Việt Nam cho rằng rất cứng nhắc và ấu trĩ tuy nhiên xét về tổng thẻ nó lại đem lại hiệu quả cao, chắc chắn và ổn định. Do vậy công ty cần phải giữ vững thị trường thiết bị âm thanh TOA, một hãng nổi tiếng của Nhật Bản. Tóm lại khi quyết định nhập một năm hàng qua các công ty thương mại hay nhà sản xuất cần phải xét thăm giò thật kỹ lưỡng các thông tin khác nhau, cụ thể là phải cố gắng thu thập nhiều đơn chào hàng từ các hãng để xem xét, tổng kết. Để nghiên cứu thị trường vật tư thiết bị, công ty có thể thu thập thông tin từ: - Các tài liệu là các tạp chí thương mại quốc tế, tạp chí giá cả, ngoại thương, các bản tin tức do bộ thương mại, ngân hàng, tổng cục thống kê…cung cấp; ngoài ra còn có thể mua thông tin từ các công ty tư vấn quốc tế… - Tại hiện trường: công ty có thể cử người sang các nước để nghiên cứu hoặc nắm thông tin qua nhân viên, cán bộ của hãng đó sang giao dịch trực tiếp với công ty và các đơn vị khác. * Xác định thị trường trọng điểm Thông qua các công tác thông tin và tiếp cận thị trường cần xác định được thị trường trọng điểm. Vì thị trường trọng điểm có ưu điểm là có thể nhập với khối lượng lớn hàng hoá thường xuyên với giá cả ổn định, khả năng thanh toán thuận lợi. Đối với thị trường trọng điểm, yếu tố quan trọng nhất là phải chú trọng thông tin. Mọi hoạt động muốn có kết quả cao cần phải có thông tin. Thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng thường chậm nên công ty phải có hệ thống thông tin riêng của mình. Đối với những thị trường quan trọng công ty cần có đại diện và các đại diện này phải luôn thông báo các thông tin về tình hình thị trường. Đối với thị trường công ty không có đại diện thì phải chấp nhận các thông tin qua báo, tạp chí…Tuy nhiên cần thiết lập trao đổi thông tin giữa công ty với đại diện Việt Nam ở nước ngoài và các công ty có quan hệ buôn bán. * Trong giải pháp về thông tin cần chú trọng các mặt: + Thông tin cần phải kịp thời, đáng tin cậy, có hiệu quả. + Thông tin nắm được cần phải được phân tích kỹ lưỡng. Nói tóm lại, công tác thông tin và tiếp cận thị trường cần phải được tiến hành thường xuyên liên tục, quá trình xử lý thông tin phải nhanh nhạy, chính xác, loại bỏ kịp thời những thông tin nhiễu, thông tini giả. Do vậy việc nghiên cứu thị trường không những giúp cho việc lập kế hoạch kinh doanh của Công ty mà còn giúp cho việc dự đoán nhu cầu đột xuất, tạo ra thời cơ thuận lợi cho kinh doanh và tính được thiệt hại tổn thất. b. Xây dựng kế hoạch mua hàng: Để đảm bảo cung cấp đầy đủ khối lượng vật tư thiết bị phục vụ cho ngành và phục vụ các ngành kinh tế quốc dân khác, đòi hỏi các công ty trước mỗi quý, mỗi tháng, mỗi năm cần lên chương trình xây dựng kế hoạch mua hàng. Đồng thời đây cũng là việc làm hết sức cần thiết để tiến hành có hiệu qủa các bước nghiệp vụ. Điều này đòi hỏi hàng loạt quyết định nhằm đảm bảo những mục tiêu đặt ra. Quyết định chủ yếu về các mặt hàng trên gồm những nội dung sau: + Mua những chủng loại gì? + Mua bao nhiêu? + Mua khi nào? + Mua với giá nào? + Mua tại đâu? + Mua của ai? * Mua những chủng loại gì? Khi mua hàng công ty cần lựa chọn phương thức mua hàng, lựa chọn những hàng hoá có chất lượng tốt và đang có khả năng bán chạy trên thị trường nội địa. Do đó công ty cần nghiên cứu kỹ nhu cầu trong nước và xác định được thị trường trong nước đang cần những mặt hàng nào? giá cả bao nhiêu? Từ đó tiến hành mua hàng. * Mua bao nhiêu? Dựa trên cơ sở các đơn đặt hàng của các bạn hàng, chỉ tiêu mà Bộ giao cho, công ty cần phải tính được số lượng tiêu thụ trong thời gian tới. Tiếp đó công ty sẽ dự tính số lượng cần phải nhập dựa trên dự tính về nhu cầu đó. Do trong nước còn nhiều nhà nhập khẩu khác, nên công ty phải dựh tính được tỉ trọng của mình trên thị trường. Để có thể dự tính chính xác cần phải có khối lượng thông tin và phân tích kỹ lưỡng về nhu cầu nội địa, nguồn cung cấp trên thị trường quốc tế, tình hình giá cả. Điều này thường được thực hiện ở khâu nghiên cứu thị trường. Sau đó công ty mới có thể mua bao nhiêu vào một thời gian nhất định. * Mua khi nào? Trong kinh doanh thời điểm là rất quan trọng. Công ty phải chọn thời điểm thích hợp để "nhảy" vào thị trường. Cần xem xét hoạt động kinh doanh nhập khẩu của các công ty khác. Bởi vì việc nhiều công ty cùng tham gia nhập khẩu một mặt hàng sẽ đẩy giá nhập khẩu lên cao và giá bán trong nước. Ngoài ra công ty cần quan tâm tới các thời điểm gắn liền với tỷ giá hối đoái của VND với các ngoại tệ khác. Nên chọn thời điểm tỷ giá VND so với ngoại tệ giảm để nhập khẩu. * Mua với giá nào? Trên thị trường quốc tế không có giá ổn định hay giá chuẩn đối với nhiều mặt hàng. Quyết định của công ty không chỉ đơn giản đặt giấ ở mức thấp nhất mà còn quan hệ với nhiều yếu tố khác như chất lượng, uy tín, quan hệ lâu dài…Do vậy công ty cần p hải sử dụng các phương pháp và các nguồn thông tin khác để nắm vững về giá cả. Tuy nhiên có thể tham khảo thông qua đại diện thương mại của các nước tại Việt Nam, qua thường vụ của mình tại nước ngoài, qua các hội chợ, triển lãm hoặc các bản báo giá công bố ở các thời điểm. * Mua tại đâu? Cần xét nhiều yếu tố trước khi quyết định vấn đề này. Những thống kê về thương mại, sản xuất, tiêu thụ có thể cung cấp con số tổng quát về khả năng của một thị trường, về mặt hàng đáng quan tâm. Tuy nhiên còn nhiều yếu tố khác mà công ty có thể xác định tiềm năng cung ứng của thị trường như: Quan hệ thương mại giữa hai nước, điều kiện vận tải có thuận lợi không, cước phí vận chuyển…. Nghiên cứu kỹ các vấn đề này sẽ có lợi cho công ty trong quá trình mua. Vì nếu ít hiểu biết vềnó có thể dẫn tới lãng phí sưu tầm, cuối cùng không đi tới giao dịch được hoặc gặp phải những bạn hàng tồi. * Mua của ai? Công ty cần chọn mua của những nhà cung cấp có nề nếp kinh doanh tốt. Cần cố gắng tìm hiểu trong qúa khứ nhà cung cấp ấy đã thực hiện những hợp đồng tương tự ra sao. Nguồn cung cấp cũng được đánh giá về mặt tin cậy và cạnh tranh. Tuy nhiên công ty phải cân nhắc mọi rủi ro có thể xảy ra,về mặt giá có lợi nhưng có khi phải trả giá về mặt chất lượng, trong trường hợp giá hàng nhập khẩu lớn, đòi hỏi vốn đầu tư lớn, thì vấn đề đáng tin cậy của nguồn cung cấp luôn đặt lên hàng đầu. Việc xây dựng kế hoạch mua như vậy sẽ giúp cho công ty tăng cường được hoạt động mua hàng được thuận thợi và khoa học hơn. c. Lựa chọn đúng đối tác và mặt hàng nhập khẩu. ã Lựa chọn đối tác Khi chọn nước để nhập khẩu công ty cần nghiên cứu tình hình sản xuất, khẩnng và chất lượng hàng xuất khẩu, chính sách và tập quán thươngmại của nước đó. Điều kiện về đại lý cũng là ván đề quan trọng khi công ty chọn nước giao dịch, yếu tố này cho phép công ty đánh giá được khả năng sử dụng ưu thế về địa lý. Ngoài ra công ty cần đặc biệt chú ý các mặt sau: - Tình hình sản xuất kinh doanh của hãng, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh để có được khả năng cung cấp lâu dài, thường xuyên liên kết kinh doanh và đặt hàng. - Khả năng về vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, để Công ty có thể đạt được những ưu thế trong thoả thuận giá cả, điều kiện thanh toán. - Thái độ và quan điểm kinh doanh và vươn tới chiếm lĩnh thị trường hay độc quyền về kinh doanh, giá cả, những quanđiểm đối với bạn hàng. Tìm hiểu uy tín và quan hệ của đối tác trong kinh doanh cũng là một điều kiện quan trọng cho phép đi đến những quyết định trong mua bán một cách nhanh chóng và có hiệu quả hơn. Lựa chọn đối tác giao dịch tốt nhất là nên lựa chọn những khách hàng chuyên ngành hay những nhà cung cấp lớn chuyên buôn bán hoặc sản xuất một vài mặt hàng chủ chốt, hạn chế các hoạt động trung gian. Còn đối với các khách hàng nước ngoài đến với công ty qua các nguồn thông tin quảng cáo ngày càng nhiều hơn. Thoạt đầu khách hàng có thể giới thiệu qua fax hay thư và đưa ra một số mặt hàng mà ta cần nhập. Nhận được thông tin này công ty phải tìm cách đánh giá đối tượng, tìm hiểu về hoạt động của đối tượng dựa trên cơ sở nghiên cứu như phân tích ở trên. Tìm hiểu đối tượng bằng cách liên hệ với bạn hàng trong và ngoài nước, nhưng cách tốt nhất là nên nhờ thương vụ của ta tại nước sở tại cungcấp những thông tin cần thiết. Tuy nhiên cách này ít được áp dụng vì nhận được kết quả mất nhiều thời gian mà trong kinh doanh không cho phép chậm trễ. Do vậy ta phải trả lời bạn ngay và yêu cầu gửi catalo và hàng mẫu (nếu có thể), sau khi nhậ được sẽ tiếp tục hỏi giá. Quá trình tìm hiểu về công ty này phải được tiến hành song song sao cho đến khi đặt hàng và ký hợp đồng ta đã có đầy đủ thông tin về mọi mặt của công ty này. ã Lựa chọn mặt hàng. Lựa chọn đúng mặt hàng kinh doanh là hết sức quan trọng lợi thế của công ty là những mặt hàng như máy móc trang thiết bị cho các nhà máy sản xuất, máy móc xây dựng, máy móc thi công…Do đó trong các năm tới các mặt hàng này sẽ được công ty đầu tư và chú trọng hơn, công ty cũng không ngừng đổi mới, mở rộng cơ cấu mặt hàng kinh doanh vì nhu cầu về máymóc thiếtbị luôn luôn phát triển. Công ty cố gắng làm sao để những mặt hàng do công ty nhập về luôn tạo được uy tín đói với các khách hàng trong nước. Để thực hiện tốt các bước công việc trên, tức là tổ chức tốt công tác mua hàng đòi hỏi công ty phải có một kế hoạch làm việc cụ thể, tuần tự các bước, không được làm tắt hoặc xem thường bấtt kỳ khâu nào. Xuất phát từ yêu cầu đó đòi hỏi công ty phải có đội ngũ cán bộ kinh doanh có trình độ chuyên môn cao, nắm vững nghiệp vụ của công tác xuất nhập khẩu, năng động sáng tạo trong việc kinh doanh nội địa trong tình trạng đất nước ta còn quá nhiều các văn bản dưới luật chi phối thay đổi nhanh theo từng thời điểm, chỉ một sơ suất nhỏlà dễ dàng vi phạm pháp luật nước nhà. 2. Thúc đẩy việc tiêu thụ hàng nhập khẩu a. Nghiên cứu khách hàng và thị trường tiêu thụ. Để củng cố vị trí của công ty đồng thời để tăng doanh số tiêu thụ việc nghiên cứu khách hàng và thị trường tiêu thụ là một điều hết sức cần thiết. Vì mọi giá bán tạo ra trong quá trình nhập khẩu đều được xây dựng trên cơ sở giá nhập khẩu, thuế, các chi phí khác. Do vậy đòi hỏi công ty phải nắm được các thông tin chính xác về thị trường, các vănbản quy định của các cơ quan chức năng về thuế nhập khẩu hay giá tính thuế cho các mặt hàng để xây dựng mộtgiá bán dự kiến sát với yêu cầu thực tế. Để tiếp cận được khách hàng và để tiêu thụ được nhanh chóng, thông suốt, công ty cần có những chính sách xúc tiến bán và đặc biẹtlà việc áp dụng nghệ thuật kinh doanh trên thương trường. Để giảm các chi phí xúc tiế bạn hàng cần yêu cầu hãng nước ngoài hỗ trợ, bằng cách cho họ thấy rằng việc ta tiêu thụ nhanh sản phẩm của họ cũng chính là vì lợi ích của họ, để nhằm tận dụng những chính sách giá cả ưu đằit công ty nước ngoài hay việc bán khuyến mại.v.v… Cần tăng cường giao tiếp khuyếch trương sản phẩm gắn liền với mục tiêu thị trường. Trong chừng mực cho phép quảng cáo là một biện pháp tốt để giới thiệu cho khách hàng đầy đủ về mẫu mã chất lượng của hàng hoá. Quảngcáo còn khởi động các nhu cầu tiền đề của khách hàng làm nảy sinh nhu cầu mới và quyết định mua hàng. Quảngcáo phải bảo đảm sự hài hoà và gặy chú ý tới khách hàng. Có thể quảngcáo bằng các ấn phẩm như: Tạp chí, sách báo; thông qua radio, truyền hình…Ngoài ra còn có thể quảngc áo bằng pano, áp phích, bảng yết thị… Trưng bày hàng hoá ở nơi bán hànglà phương pháp rất quan trọng để thu hút sự chú ý và thúc đẩy khách mua hàng bằng cách thamgia các hội chợ triển lãm chuyên ngành…. Công ty cũng nên tăng cường các công tác dịch vụ sau bán hàng như hướng dẫn, chạy thử, bảo hành…mở những hội nghị khách hàng, làm giảm bớt khoảng cách giữa người mua và người bán. Từ đó công ty có thể nắm được nhu cầu của khách háng sát thực hơn giúp cho việc tiêu thụ hàng hoá được nhanh hơn và đa dạng hoá mặt hàng kinh doanh. b. Tìm hiểu đối thủ cạnh tranh Đối thủ cạnh tranh là các công ty đối đầu với lợi ích của công ty. Nghiên cứu đối thủ cạnh tranh sẽ giúp công ty tránh được những thất bại trong kinh doanh. Nó giúp cho công ty đánh giá, cân đối cung cầu trên thị trường nội địa, từ đó có những quyết định đúng đắn trong kinh doanh. Đối với mặt hàng vật tư thiết bị có rất nhiều doanh nghiệp lớn tham gia kinh doanh trong số đó công ty cần phải biết được đâu là đối thủ cạnh tranh chính từ đó đưa ra những sách lược cụ thể hòng tăng khả năng cạnh tranh của mình trên thị trường. Muốn vậy công ty phải có đầy đủ thông tin chính xác về đối thủ cạnh tranh như: + Thông tin về khả năng tài chính của đối thủ cạnh tranh. + Nguồn nhập khẩu ở đâu, phương thức buôn bán với nước ngoài (đại lý, người mua…thanh toán bằng cách thức gì). + Nghiên cứu xem xét đối thủ cạnh tranh đang kinh doanh mặt hàng gì? Có trùng với mặt hàng kinh doanh của mình về chủng loại, thời gian hay không. + Tìm hiểu kế hoạch kinh doanh của đối thủ cạnh tranh, về chính sách giá cả của họ như thế nào? + Phương pháp tung hàng ra thị trường, khuyếch trương quảng cá của họ ra sao? Phải luôn luôn tìm hiểu những lợi thế, những yếu điểm của họ để từ đó đưa ra được chiếnlược kinh doanh đúng đắn nhiều chiến thắng đối thủ cạnh tranh. Bên cạnh đó công ty cũng nên có quan hệ tốt với đối thủ của mình để lựa chiều phân chia thị trường kinh doanh nhằm khai thác mọi ưu thế của cả hai bên. Vì vậy để làm tốt công tác cần tẩo một quan hệ tốt đẹp của cán bộ công nhân viên trong công ty với bên ngoài, lấy đo làm xuất phát để kết hợp hài hoà lợi ích của các bên trong quá trình kinh doanh. 3. Hoàn thiện công tác tổ chức, quản lý Trong cơ chế thị trường công ty thực hiện một chính sách giao việc theo từng bộ phận chuyên môn, phòng kinh doanh có nhiệm vụ tổ chức các hoạt động xuất nhập khẩu nên phải chịu trách nhiệm trước cấp trên về các hoạt động đó trên cả tính kinh tế và tính hợp pháp. Tuy nhiênướcần có thưởng phạt hợp lý đối với bộ phận này cũng như đối với cán bộ công nhân viên để khuyến khích nỗ lực làm việc của họ. Hiện nay ở Việt Nam vẫn còn xảy ra tình trạng các nỗ lực của nhiều cán bộ công nhân viên chưa được khen thưởng thích đáng, việc vi phạm còn chưa bị xử phạt nghiêm minh, nhiều khi cả phòng cùng hưởng hay cùng phải chịu. Đây là vấn đề mà công ty đang trăn trở để tìm giải pháp hợp lý. Nếu làm tốt công tác này, nó không chỉ có tác dụng khuyến khích vật chất đơn thuần mà còn nâng cao ý thức chung của cán bộ công nhân viên trong công tác, giúp cho họ có lòng tin và nhận thấy sự công bằng ở các cấp lãnh đạo. Cần cho bán bộ công nhân viên thấy rằng ngoài lương ra họ sẽ còn có thêm thu nhập nếu doanh thu và lợi nhuận của công ty đạt cao hơn. Tạo các khuyến khích vật chất giúp cho mọi người hăng say công việc vì lợi ích chung của công ty. Các thành quả của công ty đạt được là thành quả của phối hợp từng cá nhân. Công ty ban cho cán bộ công nhân viên quyền tự chủ quyết định trong công việc và họ phải chịu trách nhiệm trong quyết định của mình. Đây chính là điều mà nhiều công ty lớn chưa làmđuoc do cơ chế quản lý còn quá cồng kềnh. Cho nên trong cơ chế thị trường hiện nay nếu quy mô kinh doanh thì sự thành công thường thuộc về cơ chế tư nhân vì sự "đơn giản, gọn nhẹ". Các hoạt động tìm khách hàng, tìm nguồn hàng đa số là công ty giao cho phòng kinh doanh chủ động tìm kiếm. Vìvậy đã tạo nên tính năng động cho cán bộ. Cán bộ lãnh đạo biết đào tạo cấp dưới, có nghệ thuật khơi dậy động cơ hành động thông qua các hành động nghe nhìn tạo nên sự kích thích đối với mỗi người. Cần có chính sách bồi dưỡng cán bộ trong công ty: Trong tình hình đất nước chuyển đổi cơ chế từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có điều tiết, Nhà nước đang có những cố gắng nhằm phát huy chức năng điều tiết của mình. Trong quá trình thử nghiệm, các cơ quan quản lý Nhà nước thường xuyên có những thay đổi trong chính sách, luật pháp, các nghị định nghị quyết để quản lý và hướng dẫn hoạt đọng của doanh nghiệp. Tình trạng này làm cho công ty và các doanh nghiệp khác rất khó khăn vì không theo kịp sự thay đổi đó. Vì vậy ở công ty để phục vụ cho hoạt động kinh doanh các cán bộ phải thường xuyên nghiên cứu các văn bản của Nhà nước trong quá trình thao thác nghiệp vụ. Để có trình độ và phân tích đúng đắn các vấn đề về luật pháp trong hoạt động kinh doanh, công ty nên cho cán bộ trong phòng kinh doanh thamgia các lớp học ngắn hạn về các vấn đề mới như đầu tư nước ngoài, thị trường chứng khoán và công ty cổ phần, marketing…và những vấn đề về luật pháp. Việc tổ chức cho cán bộ đi học có thể tốn kém chi phí nhưng sẽ mang lại hiệu qủa lâu dài không chỉ tăng khả năng hiểu biết về kinh tế xã hội nói chung và hiểu biết nghiệp vụ kinh doanh nói riêng mà còn tạo tâm lý tốt trong công tác cho cán trong công ty. Kết luận Qua ba chương của đề tài "Một số giải pháp nâng cao hiệu qủa hoạt động kinh doanh nhập khẩu tại Công ty xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá" cho thấy được khái quát nhu cầu nhập khẩu vật tư, thiết bị ở công ty hiện nay và thực trạng kinh doanh của công ty, đồng thời người viết đề xuất một số giải pháp để nâng cao hiệu qủa kinh doanh nhập khẩu ở công ty xuất nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá. Công ty đã và đang thực hiện tốt nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước giao cho là nhập khẩu vật tư, thiết bị văn hoá để phục vụ cho sự phát triển và hiện đại hoá mạng hoá thiết bị văn hoá trong cả nước. Những gì mà công ty đã đạt được trong thời gian qua dưới sự chỉ đạo sáng suốt, kịp thời của ban lãnh đạo công ty không chỉ là hiệu qủa về mặt tài chính cho doanh nghiệp, mà còn là hiệu qủa về mặt văn hoá, kinh tế, xã hội ch đấtt nước, chợ nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá của toàn Đảng, toàn dân ta. Trong đề tài này, người viết cũng muốn nêu lên một số biện pháp nâng cao hiệu qủa trong công việc kinh doanh nhập khẩu dựa trên cách quản lý của các thành phần kinh tế khác cũng như bằng kinh nghiệm của bản thân qua thời gian học tập và nghiên cứu ở trường và công ty. Những giải pháp đó dù chưa phải là tối ưu song nếu tiếp tục nghiên cứu, bổ sung sẽ góp phần đáng kể vào việc nâng cao chất lượng và hiệu qủa kinh doanh của công ty. Trong giới hạn là một bản báo cáo thu hoạch thực tập, do điều kiện thời gian còn hạn hẹp và năng lực, kinh nghiệm thực tế của người viết còn hạn chế do đó đề tài này không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong thầy cô cùng các bạn bổ sung để đề tài được hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo 1. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần IX năm 2001 2. Kinh doanh Thương mại Quốc tế trong cơ chế thị trường - PGS Trần Chí Thành năm 1995. 3. Thương mại Việt Nam trong tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế. 4. Các báo cáo hàng năm và các văn bản của công ty. 5. Giáo trình Thanh toán quốc tế và giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - Trường đại học Ngoại thương.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28079.doc
Tài liệu liên quan