Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty Intimex

Trong những năm gần đây, Công ty đã đưa được hàng hoá vào thị trường của 34 nước. Trong đó có 7 nước trong khối ASEAN (Singapore, Campuchia, Mianma, Thái Lan, Lào, Malaysia, Bruney), giữ được sự có mặt của Công ty trên thị trường các nước khác : Nhật Bản, Triều Tiên , Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Tiệp, Đức, Đan Mạch, Ba Lan, Pháp, Hà Lan, Mỹ và bước đầu xâm nhập vào thị trường các nước Bỉ, Rumani, Anh, Ý, Ai cập. Tuy giá trị hàng xuất khẩu vào các thị trường này chưa cao, chỉ dao động từ 60.000 đến 70.000 USD / một thị trường nhưng nó lại đánh dấu một bước khởi đầu tốt đẹp cho việc tham dự vào thị trường Tây Âu, Châu Phi. Thị trường khu vực Châu Á vẫn dẫn đầu trong việc nhập khẩu các loại sản phẩm của Công ty. Đây là thị trường gần gũi về địa lý, phong tục tập quán, có mối quan hệ làm ăn lâu dài với Công ty và tương đối ổn định trong những năm qua. Như thị trường Trung Quốc, là một thị trường tiêu thụ lớn, gần gũi về địa lý, chi phí vận chuyển thấp, giá trị xuất khẩu sang thị trường này bị giảm trong những năm gần đây, năm 1998 giá trị xuất khẩu sang thị trường này là 1.458.216 USD. Năm 1999 là 4.627.381 USD, giảm xuống 2.181.058 USD trong năm 2000 và chỉ còn 453.272 USD năm 2001. Nguyên nhân của sự giảm sút này là năm 1999, Chính phủ Việt Nam mở của thương mại cho phép các thương nhân Trung Quốc vào làm ăn trực tiếp tại Việt Nam nên những thương nhân Trung Quốc năng động trước đây là khách hàng truyền thống của Công ty đã mau chóng “đánh hơi” thấy một thị trường nông sản dồi dào, phong phú lại mềm mại về giá cả thay thế cho một Công ty xuất nhập khẩu trung gian. Không phải chỉ riêng INTIMEX, một số Công ty khác như SIMEX, Vinafood, Seaprodex cùng nhiều Công ty khác đã gặp khó khăn khi các thương nhân Trung Quốc được phép kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam, hơn nữa người Trung Quốc đã quá thông hiểu cách làm ăn của Việt Nam, thông hiểu đất nước Việt Nam nên những thành công của họ đều gắn liền với những thất bại của ta là điều cũng dễ hiểu.

doc80 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở công ty Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng. Vấn đề này liên quan đến khả năng mở rộng quan hệ ngoại giao của các nhà kinh doanh Việt Nam trong việc tìm kiếm bạn hàng và thị trường. Thứ tư, vấn đề thông tin thương mại phục vụ xuất nhập khẩu còn hạn chế. Chúng ta nắm được rất ít thông tin về bạn hàng nên dễ gặp rủi ro trong ký kết và thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp trong nước còn cạnh tranh, ép giá lẫn nhau làm cho phía đối tác được lợi. Thứ năm, trong thời gian qua, quan hệ tỷ giá hối đoái chỉ khuyến khích nhập khẩu, các chuyên gia nước ngoài cho rằng Việt Nam mới chỉ lo quản lý người xuất khẩu mà chưa lo quản lý nguồn ngoại tệ, để cho các doanh nghiệp dùng ngoại tệ nhập khẩu tràn lan. Dưới tác động của tỷ giá hối đoái, năm 1986 một số doanh nghiệp đã lợi dụng sự giảm tỷ giá hối đoái USD_VND để nhập hàng thông qua bảo lãnh L/C trả chậm khiến nhập khẩu tăng vọt. Do vậy cần điều chỉnh lãi suất vay vốn bằng đồng tiền Việt Nam và ngoại tệ, rút bớt khoảng cách chênh lệch giữa hai loại lãi suất này. Thứ sáu, các chính sách quản lý của Nhà nước thay đổi thường xuyên làm cho các doanh nghiệp không kịp xoay xở, bị động, lúng túng trong hoạt động kinh doanh. Hoạt động thanh tra, kiểm tra, kiểm soát, xử lý vi phạm của các cơ quan bảo vệ pháp luật vẫn còn chồng chéo, trùng lặp, gây khó khăn cản trở tới hoạt động sản xuất kinh doanh, gây tâm lý lo lắng, đối phó của các nhà quản lý doanh nghiệp. Sự tùy tiện vận dụng pháp luật của các nhân viên chức thuộc các cơ quan này đang trở thành một tệ nạn gây ảnh hưởng không tốt đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp. II.Kế hoạch sản xuất kinh doanh năm 2002 và những phương hướng của Công ty trong thời gian tới. Năm 2002 là năm cuối cùng của kế hoạch 5 năm 1998á2002, năm có ý nghĩa quan trọng trong việc hoàn thành các mục tiêu của chiến lược ổn định và phát triển kinh tế_xã hội do Đại hội VIII đề ra, cũng là năm cần phải vươn lên phấn đấu tạo ra động lực và dấu ấn mạnh trong phát triển kinh tế_xã hội để bước vào thế kỷ 21. Năm 2002, phải tiếp tục khai thác triệt để các tiềm năng của đất nước, nâng cao hiệu quả kinh tế và sức cạnh tranh, tiếp tục thực hiện mục tiêu ổn định và phát triển bền vững. Các lợi thế của Công ty năm 2002: Sau 20 năm xây dựng và phát triển, uy tín của Công ty INTIMEX trên thị trường ngày càng cao. Đội ngũ CBCNV trải qua thử thách của kinh tế thị trường đã tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, có phương pháp xử lý kinh doanh nhạy bén hơn, đáp ứng tốt hơn với đòi hỏi khách quan. Hệ thống cơ sở vật chất của Công ty được một số cơ sở vật chất kỹ thuật đã đầu tư trong hai năm qua bắt đầu phát huy tác dụng là nguồn lực hỗ trợ cho phát triển kinh doanh của Công ty trong các năm tới. Chính sách đầu tư mở rộng thị trường trong và ngoài nước năm 2001 sẽ tạo đà mở rộng thị trường tiêu thụ cho Công ty trong thời gian tới. Sự quan tâm hỗ trợ của Bộ Thương Mại và mối quan hệ tốt giữa Công ty với các ngành quản lý liên quan chắc chắn sẽ là cơ sở tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh doanh của Công ty. Những thuận lợi và cơ hội khách quan: Nền kinh tế trong nước tiếp tục ổn định và phát triển, nền kinh tế thế giới cũng có dấu hiệu phát triển khả quan, đặc biệt là các nước trong khu vực. Trong quá trình hội nhập và tham gia tiến trình toàn cầu hoá nền kinh tế, Nhà nước đang và sẽ tiếp tục có các chính sách tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp phát triển, nâng cao thế cạnh tranh trên thị trường. Một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có uy tín và thứ hạng cao trên thị trường Quốc tế, nhất là các hàng cà fê, cao su, hạt tiêu, lạc nhân, may mặc... là những mặt hàng Công ty INTIMEX có thế mạnh xuất khẩu . Bảng 13: Kế hoạch phát triển sản xuất kinh doanh năm 2002. Các chỉ tiêu Đơn vị tính Kế hoạch 2002 I.Các khoản nộp ngân sách Nhà nước. 1.Thuế giá trị gia tăng 2.Thuế tiêu thụ đặc biệt 3.Thuế xuất nhập khẩu 4.Thuế thu nhập doanh nghiệp 5.Thu trên vốn 6.Các khoản nộp khác Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng Triệu đồng 43.838 15.000 2.500 25.000 448 690 200 II.Tổng kim ngạch xuất khẩu *Xuất hàng trực tiếp *Xuất hàng uỷ thác Mặt hàng xuất khẩu chủ yếu *Mặt hàng may mặc dệt kim *Mặt hàng nông sản 1000USD 1000USD 1000USD 1000USD 1000USD 20.000 15.000 5.000 1.500 15.000 III.Tổng kim ngạch nhập khẩu *nhập khẩu uỷ thác *nhập khẩu trực tiếp Mặt hàng nhập khẩu chủ yếu *Mặt hàng ôtô, xe máy *Hàng tiêu dùng *Máy móc thiết bị 1000USD 1000USD 1000USD 1000USD 1000USD 1000USD 15.000 8.000 7.000 1.500 2.500 2.000 VI.Tổng doanh thu *Doanh thu từ xuất khẩu *Doanh thu từ bán hàng trên thị trường nội địa *Doanh thu từ dịch vụ Mặt hàng chủ yếu bán ra *Ôtô, xe máy *Hàng tiêu dùng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng Tỷ đồng 360 210 148 2 40 70 V.Lợi nhuận thực hiện Triệu đồng 1.400 VI.Các chỉ tiêu quản lý lao động tiền lương 1.Mức định biên lao động 2.Mức chi phí tiền lương 3.Tổng quỹ lương 4.Quỹ tiền lương làm thêm giờ 5.Hệ số lương cấp bậc bình quân 6.Các khoản phụ cấp 7.Mức lương tối thiểu áp dụng Người Đ/triệu Doanh thu Triệu đồng Triệu đồng 1 1000 đồng 1000 đồng 700 19.912 7.168 10 2,73 24.000 312 *Tỷ giá tính mức chung là 14.000 Đ/USD Để đạt được những mục tiêu trên, Công ty INTIMEX tiếp tục định hướng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các năm qua, khắc phục những khó khăn còn tồn tại. Nhằm đạt được những hiệu quả kinh doanh cao, Công ty xác định phương hướng phát triển kinh doanh trong thời gian tới như sau: Về thị trường: Công ty chủ trương trong những năm tới cố gắng duy trì và giữ vững thị trường Châu á và Tây Âu. Đây đang là những thị trường có mức xuất khẩu lớn của Công ty. Công ty sẽ tiếp tục tìm cách nối lại để khai thác thị trường truyền thống thuộc khu vực I trước đây, đồng thời cố gắng mở rộng thị trường sang các khu vực Tây Nam á, Châu Mỹ Latinh và Châu Phi. Tiếp cận các thương nhân vào Việt Nam để tìm kiếm mở rộng thị trường mới và tìm bạn hàng. Quản lý kinh doanh: Công ty tiếp tục thực hiện cơ chế mở cho phép các Cán bộ kinh doanh được phép trực tiếp giao dịch đối nội, đối ngoại thực hiện các hợp đồng, thoả thuận giá cả và tiếp tục thực hiện việc giao khoán cho các phòng kinh doanh và các chi nhánh nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của đội ngũ nhân viên. Đồng thời Ban giám đốc tăng cường kiểm tra giám sát tài chính các hợp đồng kinh doanh nhằm làm giảm tiêu cực có thể phát sinh. Về mặt hàng và phương thức kinh doanh : Tiếp tục giữ vững mặt hàng chuyên doanh nông sản, phải đảm bảo kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản luôn chiếm tỷ trọng trên 70% kim ngạch xuất khẩu trực tiếp. Trên cơ sở đó tìm kiếm khách hàng, thị trường, đầu tư sản xuất cho ngành nông sản nhằm hiện đại hoá các khâu sản xuất chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Xây dựng chính sách hỗ trợ để đẩy mạnh xuất khẩu hàng may mặc và thủ công mỹ nghệ truyền thống và hỗ trợ cho các đơn vị kinh doanh trong việc xuất khẩu mặt hàng mới và vào các thị trường mới. Bên cạnh đó Công ty cũng tích cực kinh doanh các loại hình dịch vụ như cho thuê phương tiện, dịch vụ du lịch, kinh doanh nhà hàng khách sạn, nhận uỷ thác xuất nhập khẩu nhưng phải tính đến hiệu quả kinh doanh . Về nguồn hàng phải củng cố xây dựng mạng lưới nguồn hàng ổn định vững mạnh. Ưu tiên đặt hàng cho các cơ sở truyền thống, từng bước trực tiếp thu mua tận nguồn cung ứng, thực hiện việc thanh toán sòng phẳng đúng hạn, giúp các cơ sở có thể trả thu nhập cho nông dân để họ tiếp tục yên tâm sản xuất. Về công tác khác: Đẩy mạnh công tác thanh tra trong hoạt động xây dựng cơ bản nhằm giảm bớt các tiêu cực. Tích cực chăm lo tới đời sống của CBCNV. Đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm trong Công ty, rà soát lại và cắt bỏ những chi phí kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh . Tiếp tục nghiên cứu và tìm nguồn vốn để đầu tư chiều sâu theo hướng khai thác hiệu quả cơ sở vật chất, cải tạo hệ thống kho tàng, nhà xưởng máy móc để nâng cao tỷ trọng mặt hàng tự sản xuất chế biến gia công xuất khẩu. Chuẩn bị các điều kiện để tham gia hội nhập với khu vực và các tổ chức quốc tế. Nghiên cứu xúc tiến mở một số văn phòng đại diện tại một số thị trường trọng điểm. Trước mắt, trong năm 2002, đặt văn phòng đại diện INTIMEX tại một số nước Đông Âu cũ. III.Một số giải pháp về phía Công ty nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu . 1.Hoạt động thị trường. Thị trường cho xuất khẩu hàng hoá là vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì hoạt động thị trường là nhân tố hết sức quan trọng quyết định kết quả kinh doanh. Trong những năm tiếp theo, hoạt động thị trường của Công ty phải đảm bảo đạt được mục tiêu là tăng được thị phần ở thị trường đã có, phát triển mở rộng sang những thị trường tiềm năng mới. Để thành công, Công ty cần chú ý đến: Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Trong hoạt động xuất khẩu, vấn đề tìm kiếm thị trường, bạn hàng tiêu thụ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Để mở rộng thị trường Công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng...và các bạn hàng. Sau khi có các kết quả của nghiên cứu thị trường, Công ty tiếp tục đánh giá các điểm mạnh, yếu, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong nước như SIMEX, VINALIMEX, VINAFOOD... và các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Trong những năm trước mắt , Công ty cần tập trung khai thác các thị trường sau: Thị trường các nước Châu á, đây là thị trường chính của Công ty, tiêu thụ hơn 50% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Thị trường Châu á thường tiêu thụ những sản phẩm lạc nhân, cà fê, cao su, quế, ngô... là các mặt hàng kinh doanh chủ chốt của Công ty. Khu vực thị trường này cũng có quy mô dân số cao nên tiềm năng tiêu dùng lớn. Các nước như Inđônêxia, Malaysia... là các nước có đông dân theo đạo Hồi, họ thường sử dụng lạc nhân cho nhu cầu tiêu dùng hàng ngày và vì vậy các sản phẩm nông nghiệp cuả Việt Nam hay được tiêu thụ tại đây. Hơn nữa do thuận lợi về điều kiện địa lý, thời gian vận chuyển hàng ngắn và đặc biệt quan hệ giữa các chính phủ ngày càng được củng cố nên hướng phát triển kinh doanh này của Công ty tương đối được bảo đảm. Chiến lược mà Công ty nên áp dụng đối với thị trường này là xâm nhập thị trường, phát triển sản phẩm. Công ty nên duy trì sự hiện diện trên thị trường bằng cách tiếp tục củng cố quan hệ với các bạn hàng hiện tại, đồng thời dựa trên những kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường này để tìm kiếm thêm bạn hàng mới. Các hoạt động khuyến mãi, quảng cáo và dịch vụ sau mua hàng cũng cần được đẩy mạnh để tăng sức mua sản phẩm của các khách hàng hiện thời, thu hút khách hàng của đối thủ cạnh tranh và khách hàng mới. Tuy thị trường này không có sự đòi hỏi quá khắt khe về chất lượng song lại có yêu cầu mạnh về độ đa dạng của sản phẩm và mức giá cả hợp lý nên Công ty cần có kế hoạch cải tiến sản phẩm, tạo các điểm khác biệt với đối thủ cạnh tranh. Mặt khác do hàng của Công ty xuất sang thị trường này chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp nên phương cách phát triển sản phẩm phù hợp nhất chính là tăng chất lượng hàng xuất khẩu. Công ty có thể tăng chất lượng hàng thông qua việc tạo ra các nguồn hàng ổn định về chất lượng và số lượng hay có thể đẩy mạnh công tác chế biến tạo nên những sản phẩm đa dạng. Ví dụ như với mặt hàng lạc nhân: hiện nay Công ty mới chỉ xuất lạc thô mới qua bóc vỏ, tỷ lệ hạt không đạt tiêu chuẩn vẫn còn lớn, cỡ hạt còn nhỏ nên giá trị thương phẩm chưa cao. Công ty cần phải có hướng phát triển các sản phẩm được chế biến từ lạc, nâng cao giá trị hàng xuất và phát triển được cơ cấu nghành hàng kinh doanh. Thị trường Âu, Mỹ cũng có thể xác định là thị trường tiềm năng của Công ty. Thị trường Mỹ là thị trường lý tưởng cho việc xuất khẩu hàng sơ chế vì họ có ngành công nghiệp chế biến rất hiện đại phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Quy mô của thị trường lớn và việc bình thường hoá quan hệ Việt_Mỹ đang ảnh hưởng tích cực đến giao dịch thương mại song phương giữa hai nước. Công ty khi quyết định tham gia vào thị trường Châu Âu thì phải nghiên cứu đến các sản phẩm chế biến bởi nhu cầu về các sản phẩm thô ở khu vực này rất thấp, công tác phát triển thị trường khó thành công ở đây với các chủng loại hàng hiện nay của Công ty. Việc chinh phục các thị trường này thường rất khó khăn bởi khoảng cách về địa lý, về tâm lý tiêu dùng, về những quy chế bảo hộ ngành nông nghiệp của các nước và các đòi hỏi về các thông số kỹ thuật , song Công ty nên xác định đây là thị trường chính của Công ty sau này. Do cộng đồng Châu Âu có những mức quy định chung nên khi hàng của Công ty đã gia nhập thị trường của một nước trong khối thì sẽ dễ dàng trong việc phát triển ra thị trường các nước khác. Quy mô của thị trường Châu Âu khá lớn và khả năng thu lợi nhuận cao. Trong những năm trước việc xuất hàng đi các nước Phương Tây là tương đối khó khăn do ở thị trường Đông Âu tuy nhu cầu tiêu thụ hàng còn khá lớn nhưng những hạn chế về chính trị đã gây khá nhiều trở ngaị, thị trường Tây Âu thì lại là thị trường mới hoàn toàn với rất nhiều quy định hạn chế. Gần đây, nhờ xúc tiến tích cực của chính phủ, khu vực thị trường này lại trở nên hấp dẫn với rất nhiều Công ty. Chính vì thế Công ty nên đẩy mạnh việc thăm dò, tìm kiếm mở rộng thị trường, chú trọng việc khôi phục lại thị trường Đông Âu, thị trường truyền thống của Công ty. Đây là khu vực thị trường có quy mô lớn và lại là bạn hàng quen thuộc của Công ty nên khả năng phát triển khá khả quan. ở đây Công ty phải sử dụng chính sách tăng cường quảng cáo, cung cấp những sản phẩm với mức giá hợp lý và chất lượng đảm bảo để thâm nhập trở lại thị trường. Với khu vực Tây Âu, Mỹ, Công ty phải đưa ra các sản phẩm chế biến hay những mặt hàng mang tính khu vực : sản phẩm tơ tằm, hoa hồi quế, hạt tiêu... Đây là các thị trường đầy triển vọng nên Công ty phải tập trung các nỗ lực Marketing để đạt được thành công. Đối với thị trường khác: Do Công ty có quan hệ kinh tế không thường xuyên với khá nhiều nước nên kim ngạch vào thị trường này tuy cao nhưng lại không ổn định. Trong thời gian tới, Công ty nên có định hướng duy trì và phát triển ở thị trường này thông qua việc tăng cường nâng cao chủng loại hàng bán, tạo ra độ đa dạng trên thị trường, để góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu. 2.Phát triển kênh phân phối. Một mạng lưới kênh phân phối rộng khắp và hợp lý chính là nhân tố thúc đẩy tiêu thụ. Chính vì thế các Công ty luôn phải tiến hành các nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn mạng lưới phân phối của mình. Kênh phân phối của Công ty INTIMEX trong thời gian tới. Người sản xuất, chế biến nông sản Các đại lý thu mua của công ty Văn phòng công ty Các đơn vị kinh doanh nước ngoài Các chi nhánh của công ty Đại diện của công ty ở nước ngoài Người tiêu dùng cuối cùng Một trong những hạn chế khi phát triển thị trường ở Công ty INTIMEX là hiện nay kênh phân phối hàng của Công ty mới dừng ở các nhà buôn nước ngoài. Sản phẩm của Công ty thường bị đem đi chế biến lại và đưa ra thị trường với nhãn mác khác nên không được người tiêu dùng thực sự biết đến. Và chính kênh phân phối này khiến Công ty bị phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, khó chủ động trong việc dự đoán nhu cầu thị trường. Để có thể phát triển thị trường tốt Công ty nên xây dựng lại kênh phân phối hàng bằng nhiều hướng: qua các đối tác kinh doanh nước ngoài, qua các phòng đại diện hay chi nhánh Công ty ở nước ngoài... Ngoài ra Công ty cũng có thể sử dụng phương pháp liên doanh liên kết sản xuất để tăng cao sự xuất hiện trên thị trường nước ngoài. 3.Đầu tư vào chế biến để tăng chất lượng sản phẩm. Hiện nay hoạt động của Công ty mới chỉ là kinh doanh hàng nông sản thô, mới qua sơ chế nên hiệu quả kinh doanh chưa cao. Mức độ chênh lệch giữa giá hàng nông sản sơ chế và hàng nông sản đã qua chế biến tinh ngày càng lớn. Và trong xu thế chung hiện nay ở Việt Nam là tiến tới đẩy mạnh hàng chế biến nên Công ty cũng nên có sự đầu tư vào việc nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Khi hàng nông sản được xuất khẩu tức là đưa ra tiêu thụ ở thị trường nước ngoài thì nó phải chịu sự cạnh tranh khốc liệt với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Đối thủ cạnh tranh của nó không chỉ là những sản phẩm của các doanh nghiệp trong nước mà còn là sản phẩm của rất nhiều hãng từ các nước khác, trong đó có trình độ khoa học kỹ thuật phát triển cao. Bởi thế vấn đề cần được đặt ra là phải tạo ra và duy trì được uy tín với khách hàng thông qua việc đầu tư vào mua sắm và thay đổi thiết bị công nghệ cũ kỹ, lạc hậu, nâng cao trình độ của người sản xuất. Lúc này Công ty có thể đầu tư mạnh vào sản xuất thông qua việc áp dụng phương thức hàng đổi hàng, một phương thức đang được áp dụng trong quan hệ kinh tế giữa các nước tiên tiến với các nước đang phát triển. Do công nghiệp chế biến hàng nông sản gắn liền với sản xuất hàng xuất khẩu nên phương thức hàng đổi hàng chính là hình thức mà giá trị của các trang thiết bị do các đối tác nước ngoài cung cấp sẽ được hoàn trả bằng chính các sản phẩm của công nghệ đó sản xuất ra. Qua hình thức trao đổi này Công ty có được công nghệ tiên tiến, tăng được chất lượng hàng hoá đáp ứng được yêu cầu của từng loại thị trường và từng bước đưa sản phẩm xâm nhập mạnh hơn vào thị trường nước ngoài. Lúc này sản phẩm của Công ty sẽ có được trị giá cao hơn và khả năng cạnh tranh cũng mạnh hơn. Ngoài ra Công ty cũng có thể cùng các Công ty nước ngoài xây dựng các liên doanh để chế biến hàng nông sản. 4.Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng. Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động xuất khẩu của Công ty. ở Công ty INTIMEX, hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương, cơ sở sản xuất rồi đem về chế biến lại. Nhưng nếu Công ty chỉ duy trì một hình thức tạo nguồn này thì sẽ không đạt hiệu quả cao trong công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu vì Công ty đã vô tình thu nhỏ các mối quan hệ của mình đối với các đơn vị sản xuất. Công ty không thể tự đi thu gom hàng hoá từ các hộ sản xuất nhỏ lẻ mà phải mua lại qua các đầu mối trung gian, như vậy hiệu quả kinh doanh mang lại bị giảm đi rất nhiều. Do đó, Công ty nên tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Cụ thể là ngoài việc thu mua hàng xuất khẩu Công ty có thể tiến hành tự sản xuất hàng xuất khẩu, liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất chế biến, các nhà máy chế biến. Có những mặt hàng Công ty tự sản xuất lại đem về lợi nhuận lớn hơn là thu mua lại, đồng thời Công ty có thể gia công chế biến hàng nông sản theo đúng như mong muốn của bên nước ngoài. Công ty có thể chủ động về số lượng, chất lượng, khống chế số lượng hàng sản xuất ra cho phù hợp với đơn hàng xuất khẩu tránh dư thừa, tồn kho do không kiểm soát được chất lượng hàng xuất khẩu để khách hàng từ chối nhận hàng. Công ty cũng có thể chế biến thuê cho các đơn vị khác khi họ gặp khó khăn về khối lượng, thời gian, trình độ công nghệ. Ngược lại, Công ty cũng có thể liên doanh liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất chế biến để thu mua hàng xuất khẩu của họ khi chưa sản xuất được hoặc thuê họ chế biến khi Công ty gặp phải hợp đồng quá gấp gáp về thời gian, khối lượng quá lớn hoặc công nghệ chế biến của Công ty chưa đạt yêu cầu chất lượng hay mặt hàng nào đó không thể sản xuất được. Tất cả các hình thức mở rộng nguồn hàng xuất khẩu đều nhằm làm cho Công ty tăng thu, giảm chi, ổn định nguồn hàng, là một đối tác uy tín lớn đối với bên nước ngoài. 5.Hoàn thiện cơ cấu hàng xuất khẩu. Bên cạnh lĩnh vực tạo nguồn hàng xuất khẩu, Công ty cần thực hiện cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặc dù hàng của Công ty đưa ra thị trường quốc tế gồm nhiều loại khác nhau nhưng để cạnh tranh được với các đối thủ lớn khác, Công ty cần phải không ngừng thay đổi, bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh một số mặt hàng truyền thống như lạc nhân, hạt tiêu, cà fê, may mặc, Công ty cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực của các mặt hàng trên nhưng cũng cần phải quan tâm khai thác các mặt hàng, nhóm hàng khác mà thế giới có nhu cầu như hạt điều, dầu lạc, cao su. Nếu như ở mặt hàng hạt tiêu, lạc nhân, cà fê, may mặc Công ty có những biện pháp tiếp tục duy trì và đẩy mạnh vị trí vốn có của nó thì đối với mặt hàng cao su, dầu lạc, quế Công ty lại phải khôi phục vai trò của ba mặt hàng trong hoạt động xuất khẩu của Công ty. Hạt điều là một trong những hàng hoá đang chiếm được cảm tình của người tiêu dùng nên trong thời gian tới Công ty phải nhanh chóng đưa mặt hàng này vào danh mục mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của Công ty. Ngoài ra trong thời gian tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty cũng nên có một sự cải biến cho phù hợp với xu thế tiêu dùng của thế giới và tiềm năng sẵn có của Công ty, của quốc gia, đó là sự bổ sung những mặt hàng mới như chè, ngô, tinh dầu… Kinh doanh những mặt hàng mới sẽ gặp nhiều khó khăn, song muốn tồn tại và phát triển, Công ty không còn cách nào khác là phải đối mặt và giải quyết những khó khăn đó. 6.Chính sách khuyếch trương, quảng cáo hàng xuất khẩu với bạn hàng Để mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu thì sau khi đã nghiên cứu thị trường, xác định thị trường mục tiêu và đưa ra các chiến lược phát triển thị trường thì Công ty không thể bỏ qua việc xúc tiến bán hàng. Trong thị trường ngày nay, nếu ta chỉ mới cung cấp các sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hợp lý thì vẫn chưa đủ. Công ty chỉ bán được hàng khi những giá trị của sản phẩm được thông tin đến cho người mua, thúc đẩy nhu cầu về hàng hoá của Công ty. Các chính sách về quảng cáo và xúc tiến bán hàng có vai trò như các chất xúc tác, nếu được thực hiện tốt chúng sẽ đem lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty, tăng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay ngân sách dành cho quảng cáo của Công ty vẫn còn hạn chế, mới chỉ đủ cho các chương trình quảng cáo nhỏ. Các hoạt động quảng cáo xúc tiến bán hàng của Công ty vẫn còn rất đơn điệu, chưa tạo được nét hấp dẫn cần thiết. Để xúc tiến bán hàng xuất khẩu, Công ty nên áp dụng các hình thức như: gửi catalog ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài. Gửi catalog cho nước ngoài sẽ giúp rút ngắn khoảng cách giữa người bán và người mua. Thông qua catalog khách hàng có được các thông tin về chủng loại hàng hoá, kích cỡ màu sắc... vì thế catalog phải được in ấn đẹp đẽ, dễ đọc, dễ hiểu, màu sắc bố cục ấn tượng, dễ nhớ. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết về hình dáng, chất lượng, hương vị của hàng hoá. Đặc biệt đối với mặt hàng nông sản không một hình thức nào hay hơn là để khách hàng tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá để họ tự cảm nhận. Tiến xa hơn nữa Công ty có thể thành lập các phòng đại diện ở nước ngoài. Việc thành lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ giúp Công ty rất nhiều trong hoạt động giao dịch, ký kết hợp đồng, giới thiệu sản phẩm với khách hàng và nhanh chóng đưa sản phẩm vào thị trường. 7.Huy động tốt các nguồn vốn phục vụ cho xuất khẩu. Vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nói chung và INTIMEX nói riêng. Công ty thường không thể đảm bảo đủ vốn cho các hoạt động kinh doanh của mình và phải huy động vốn từ các nguồn trong nước và nước ngoài. Việc huy động vốn trong nước Công ty có thể huy động thông qua một số nguồn sau: Công ty có thể huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản và lâu dài của Công ty và tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nguồn vốn tự có này thể hiện quy mô của doanh nghiệp và nó thường chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên vì điều kiện thực tế là Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực vốn bị rải rác, trong khi hoạt động xuất nhập khẩu lại yêu cầu phải có một lượng vốn lớn nên ngoài vốn tự có, Công ty phải sử dụng các hình thức khác để huy động vốn. Huy động thông qua hình thức vay Ngân hàng. Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện các hệ thống Ngân hàng và các hoạt động của Ngân hàng ở nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là nguồn vốn rất quan trọng giúp Công ty thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt là các nguồn vay ngắn hạn. Nhu cầu vay vốn cho các hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng lớn. Chính vì vậy Công ty nên tận dụng các khoản cho vay của ngân hàng. Việc huy động vốn nước ngoài có thể thông qua một số hình thức sau: Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của Công ty, đặc biệt là bạn hàng quen thuộc có mối quan hệ lâu dài. Hoặc tận dụng nguồn vốn của khách hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng hay xin ứng trước vốn khi xuất hàng. Cụ thể là với một số hợp đồng xuất khẩu, Công ty yêu cầu người mua (người nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, Công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như một phần vốn của mình. Đối với những hợp đồng có giá trị quá lớn vượt xa khả năng của Công ty thì Công ty có thể áp dụng hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng. Bên cạnh hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng Công ty cũng có thể thực hiện hợp đồng bằng cách mời một nhà xuất khẩu Việt Nam khác cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận. Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào Công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho Công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của Công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Công ty định liên kết kinh doanh. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín mạnh trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới. Ngoài ra cần thiết phải có những thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh liên kết, tỷ lệ góp vốn, phạm vi hoạt động... trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng, xu hướng phát triển của Công ty, của đối tác, của thị trường mặt hàng kinh doanh, các chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có thể nói liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì cần phải có một sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện. Vốn luôn là vấn đề nan giải đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn cũng là do việc sử dụng vốn lãng phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở khâu này trong khi thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra. Sau đây là một số biện pháp Công ty cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn: + Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu, thực hiện thanh toán đúng thời hạn, tránh để tình trạng bị chiếm dụng vốn. + Phân bố cơ cấu vốn hợp lý trong kinh doanh. Đảm bảo nguyên tắc cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định là 8:2 ưu tiên sử dụng vốn lưu động vào việc khai thác các nguồn hàng có tốc độ vòng quay lớn. Thực hiện tỷ lệ doanh thu hàng hoá 8:2 (tức là 80% doanh thu từ 20% mặt hàng chủ lực) + Có các biện pháp giảm các chi phí bất hợp lý, đặc biệt là chi phí giao dịch, đi lại hiện vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn. + Tranh thủ các điều kiện tín dụng mà phía bạn hàng dành cho Công ty như các hợp đồng trả trước bằng tiền mặt, thúc đẩy thực hiện các hợp đồng gia công. 8.Chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu. Để làm ăn có hiệu quả với khách hàng nước ngoài, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi bởi con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất nhập khẩu. Yêu cầu đối với Cán bộ là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy, phải năng động sáng tạo, có khả năng dự báo, ứng phó kịp thời với những biến động trên thị trường, thông thạo ít nhất là một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng... Hàng năm thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên cho đến nay Công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ sung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn công việc, mà chỉ tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ làm ở các phòng ban khác. Vì vậy, để đảm bảo cho Công ty có được đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Công ty phải có kế hoạch đào tạo lại cán bộ thông qua các hình thức : Gửi cán bộ, các nhân viên có năng lực đi nghiên cứu, học tập ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu trong và ngoài nước. Đào tạo cán bộ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mới để họ nâng cao trình độ nghiệp vụ. Cử các đoàn cán bộ kinh doanh ra nước ngoài để nắm bắt nhu cầu thị trường, kinh nghiệm làm ăn, tạo dựng mối quan hệ bạn hàng vững chắc. Trong các năm tới, quy mô hoạt động của Công ty sẽ lớn hơn (Công ty đang xây dựng chi nhánh mới ở Nghệ An) do đó có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Đây là điều kiện quan trọng giúp Công ty bổ sung thêm được cán bộ có trình độ cao. Công ty cần có kế hoạch tuyển dụng hợp lý, việc tuyển dụng lao động phải thật trong sáng, vô tư và phải dựa vào các điều kiện: là người có bằng cấp, có sức khoẻ, kinh nghiệm đặc biệt là có trình độ thực sự trong kinh doanh. Ngoài ra Công ty cũng cần phải có chính sách khuyến khích vật chất, tinh thần để động viên các cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, thực hiện thưởng phạt nghiêm minh, phân phối công bằng. Sử dụng cơ chế khoán có quản lý như trước tới nay phần nào cũng khuyến khích được CBCNV tích cực tham gia kinh doanh. Công ty vẫn cần tiếp tục hoàn thiện hơn nhất là ở khâu giao chỉ tiêu và gắn nó vào chủ trương đẩy mạnh xuất khẩu. 9.Thực hiện từng bước cổ phần hoá Công ty. Giải pháp cổ phần hoá Công ty có tính chất chiến lược dài hạn. Do vậy, nó không thể thực hiện được ngay trong một năm, giải pháp cổ phần hoá Công ty đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Công ty nói riêng, nó còn tạo nguồn động lực tốt cho phát triển và mở rộng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung. Giải pháp này cũng phù hợp với xu hướng chung của Đảng và Nhà nước về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Về mặt cơ sở pháp lý có nghị định 28CP ngày 07/05/1998 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần và quyết định của Bộ trưởng, trưởng Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá về việc ban hành quy trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần số 01/CPH ngày 04/09/1998 và một số văn bản khác có liên quan tới cổ phần hoá. Việc cổ phần hoá Công ty nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đưa các yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường. Mục đích cổ phần hoá Công ty nhằm: Thứ nhất, huy động vốn của các CBCNV trong Công ty, cá nhân các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ nhằm mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của Công ty nói chung và đẩy mạnh phát triển xuất khẩu nói riêng (tức là nâng cao nội lực của Công ty lên một bước mới) Thứ hai, tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong Công ty có cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong Công ty có hiệu quả. Thực hiện thành công cổ phần hoá Công ty sẽ góp phần quan trọng cho việc đẩy mạnh xuất khẩu vì thông qua cổ phần hoá nó thay đổi cơ Cấu lãnh đạo điều hành, phát huy tính độc lập tự chủ của Cán bộ công nhân viên với Công ty. Trong quá trình tiến hành cổ phần hoá Công ty INTIMEX có thể lựa chọn một trong các hình thức cổ phần sau: Giữ nguyên giá trị hiện có của Công ty, phát hành cổ phiếu thu thêm vốn để đầu tư cho phát triển Công ty. Bán một phần giá trị hiện có của Công ty. Hoặc tách một phần (bộ phận) của Công ty có đủ điều kiện để cổ phần hoá. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Công ty để áp dụng một trong các hình thức nêu trên. ở đây nên sử dụng hình thức thứ ba là tách một bộ phận Công ty có đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá là phù hợp nhất vì làm theo hình thức này Công ty vừa làm vừa rút kinh nghiệm thực tế trong quá trình thực hiện cổ phần hoá phát sinh. Qua đây sẽ tạo ra nhiều kinh nghiệm hơn và có nhiều giải pháp, hướng đi tốt hơn cho việc cổ phần hoá những bộ phận tiếp theo. Để thực hiện cổ phần hoá thành công, Công ty cần phải tiến hành làm các công việc sau: Trước tiên, thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thuộc Công ty xuất nhập khẩu_dịch vụ_thương mại(INTIMEX) gồm từ 5 đến 6 đồng chí trong đó gồm: một đồng chí trưởng ban và các uỷ viên là những người có trình độ chuyên môn trong công tác tổ chức điều hành hoạt động doanh nghiệp, có kiến thức chuyên môn trong kinh doanh, có quan điểm nhất quán, mong muốn và thực sự quan tâm tới việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Công ty. Sau đó, tiến hành xây dựng phương án cổ phần hoá Công ty bao gồm: Phân tích, đánh giá chính xác quá trình và đầy đủ thực trạng và triển vọng của Công ty trong ba năm trước thời điểm cổ phần hoá. Nêu khái quát quá trình hình thành, đặc điểm sản xuất_kinh doanh của Công ty về: nghề nghiệp, quy mô, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh. đánh giá triển vọng phát triển của Công ty trong tương lai. Phân tích tình hình kinh tế tài chính. Tiếp theo là, lập phương án kinh doanh sau khi cổ phần hoá thời gian khoảng 3á5 năm. Tiếp đến, lập báo kiến nghị xử lý lao động, vốn tự có, công nợ, thanh lý tài sản … trước, trong và sau khi cổ phần hoá. Vấn đề tiếp theo là xác định cổ phiếu và phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Cùng với quá trình này Công ty tiến hành thành lập bộ máy quản lý và soạn thảo điều lệ Công ty để sớm đưa Công ty đi vào hoạt động có hiệu quả. Nhìn chung để thực hiện cổ phần hoá thành công Công ty phải có một tỷ lệ sinh lợi hấp dẫn, có thông tin và quản lý thông báo công khai trên thị trường chứng khoán, có cơ chế để thu hút nguồn vốn đầu tư của xã hội. Công ty có thể sử dụng các hình thức ưu đãi sau để khuyến khích người mua: Cho phép mua cổ phiếu trả tiền dần nhiều lần, những lần thanh toán dần có thể từ 3á6 tháng trong khi lợi tức cổ phần lại được tính ngay từ đầu. Người mua cổ phiếu và giữ cổ phiếu không bán lại cho người khác trong một thời gian nhất định thì được hưởng theo tỷ lệ số cổ phiếu hiện có. Đối với viên chức và công nhân trong Công ty có bán cổ phiếu rộng rãi đều được hưởng những ưu đãi khi mua cổ phiếu, chẳng hạn được mua giá thấp hơn, hoặc được hưởng thêm cổ phiếu tỷ lệ với số lượng cổ phiếu đã mua, được quyền mua trước người ngoài Công ty. Cổ phần hoá Công ty cũng là một giải pháp tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty về vốn, cơ cấu bộ máy tổ chức lãnh đạo, trách nhiệm của cán bộ công nhân viên đối với Công ty... tất cả vì sự phát triển chung của Công ty. IV.Một số kiến nghị 1.Kiến nghị từ phía Nhà nước. Doanh nghiệp là một thực thể trong nền kinh tế, nó hoạt động trong môi trường kinh doanh nhất định bao gồm môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp nhất định của mỗi quốc gia. Các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ và bị chi phối bởi các yếu tố môi trường vĩ mô này chẳng hạn đối với môi trường luật pháp, nếu không nhất quán và ổn định sẽ tác động trực tiếp (có lợi-hại) cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Ta nhận thấy rõ hơn về luật thuế xuất nhập khẩu sẽ tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu về mặt giá cả. Đó là các nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng. Đề tài xin kiến nghị một vài ý kiến về tạo môi trường kinh doanh xuất khẩu lành mạnh và thông thoáng hơn, lập các quỹ bảo hiểm và trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu. 1.1Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng dẫn đơn giản hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường. Những quy định về xuất nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu nông sản, may mặc nói riêng và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là: Hệ thống các văn bản pháp lý, quy định phải được đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các Công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bàn thành phẩm không được hưởng các ưu đãi. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này. Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số vấn đề bất cập không thích hợp với những diễn biến của hoạt động xuất khẩu làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu và đòi hỏi phải giải quyết. Về lâu dài, các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung và sửa đổi tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi. Hiện nay ở nước ta, thủ tục xuất khẩu vẫn còn rườm rà gây phức tạp, lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu khi tiến hành các thủ tục xuất khẩu. Vì thế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính Việt Nam cần đặc biệt chú trọng đến cải cách công tác quản lý các hoạt động xuất khẩu, từng bước bãi bỏ các thủ tục không cần thiết để tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức cho các doanh nghiệp. Về khâu tổ chức xuất khẩu hàng hoá có hạn ngạch Nhà nước không thể thả nổi cho các doanh nghiệp tự do xuất khẩu hàng hoá vì thế dễ dẫn đến trường hợp cơ cấu hàng xuất khẩu không phù hợp nhưng cũng không nên quá cứng nhắc trong việc chỉ định các doanh nghiệp xuất khẩu. Chếđộ cấp và phân bổ hạn ngạch phải đúng, đủ và kịp thời để các doanh nghiệp được giao nhiệm vụ xuất khẩu có điều kiện chủ động trong hoạt động kinh doanh. Chế độ phân bổ hạn ngạch theo từng tháng, quý như hiện nay cũng cần phải được chấn chỉnh vì nó hạn chế khả năng của các doanh nghiệp trước những biến động của thị trường. Thay vào đó Nhà nước nên sử dụng chế độ phân bổ hạn ngạch một cách tương đối ổn định cho các doanh nghiệp đã được lựa chọn. Về lâu dài Nhà nước cần phải thay quản lý xuất khẩu và điều hành xuất khẩu qua việc định đầu mối xuất khẩu, phân bổ hạn ngạch xuất khẩu và cấp quota bằng đấu thầu quota hay đánh thuế xuất khẩu cho mọi thành phần cùng tham gia xuất khẩu. Nguồn thu từ đấu thầu quota xuất khẩu sẽ bổ sung vào ngân sách Nhà nước, quỹ bình ổn giá và quỹ phát triển sản xuất. Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu. Đây là chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. Nhà nước có chính sách khuyến khích xuất khẩu những hàng nông sản đã qua chế biến để giảm tỷ lệ xuất khẩu thô, sơ chế. 1.2. Lập các quỹ bảo hiểm. Do cung, cầu hàng hoá trên thị trường thế giới không ổn định nên giá cả cũng lên xuống thất thường. Vì việc thiết lập ra các quỹ bảo hiểm để hạn chế bớt rủi ro là rất cần thiết. Thông thường Nhà nước không xây dựng quỹ từ nguồn ngân sách Nhà nước mà khuyến khích các hiệp hội ngành tự nguyện thành lập. Quỹ bảo hiểm có nhiệm vụ trợ giúp các thành viên hiệp hội khi giá cả biến động thất thường . Cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định , nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm, đảm bảo cho người sản xuất thu hồi vốn đầu tư và có mức lợi nhuận thoả đáng. 1.3.Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu. Giúp đỡ về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu nông sản nói riêng. Ta thấy hàng nông sản là một mặt hàng xuất khẩu và thu mua mang tính thời vụ đậm nét với chu kỳ sản xuất tương đối dài. Trong khi đó hoạt động xuất khẩu lại diễn ra cả năm và đạt được giá cao hơn khi giáp vụ. Chính vì lẽ đó các doanh nghiệp luôn phải có một lượng vốn khá lớn để đáp ứng công tác thu mua trong vụ thu hoạch và có thể dự trữ cho xuất khẩu cả năm. Hiện nay có một thực tế là nhiều doanh nghiệp do thiếu vốn nên đã bị hạn chế trong kinh doanh, trong khi đó ở các Ngân hàng lại xảy ra tình trạng ứ đọng vốn do các doanh nghiệp khó có thể đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn... nên rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này. Trong thời gian tới, Nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho các Công ty vay vốn để sản xuất, thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước cũng nên bỏ quy định khống chế hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu. Về phía Ngân hàng, Nhà nước cần xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là điều kiện đảm bảo an toàn vốn cho vay chứ không phải là vật căn cứ giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Trường hợp giá nông sản trên thị trường thế giới và giá thu mua nông sản trong nước tăng lên gây thua lỗ cho các cơ sở chế biến, kinh doanh nông sản xuất khẩu thì Nhà nước có thể xem xét qua quỹ bình ổn giá cả để giảm đi một phần lãi suất tín dụng. Đẩy mạnh xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy tổ chức tốt khâu cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết và là vấn đề chiếm vị trí quan trọng trong việc thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta thông tin về thị trường vẫn còn rất thiếu và chậm, mức độ chính xác không cao nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến xuất khẩu. Trong thời gian tới, Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan cần chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo thị trường thế giới. Đồng thời tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường. Nhà nước đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc phối hợp với các doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng thị trường, giúp các doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn ở tầm vĩ mô. Qua đó tạo điều kiện cho họ tiếp cận và xâm nhập vào thị trường mới, có cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình cho khách hàng nước ngoài. Thông qua các chính sách kinh tế đối ngoại như mở rộng các quan hệ song phương, đa phương, ký kết các hiệp định thương mại sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước đó. Sự tham gia của nước ta vào các hiệp định chung về thương mại và các tổ chức thương mại quốc tế sẽ dẫn dắt các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận tốt với thị trường thế giới, nắm bắt nhu cầu tốt hơn. Đặc biệt sự tham gia của nước ta vào các khối liên kết kinh tế như ASEAN đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho xuất khẩu của nước nhà. Vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần phấn đấu tích cực để tiếp tục tham gia hơn nữa vào các tổ chức kinh tế khu vực cũng như toàn cầu nhằm từng bước tạo ra thị trường ổn định, định hướng đúng đắn cho các nhà sản xuất, kinh doanh xuất khẩu. 2.Một số kiến nghị lên Bộ Thương Mại. Bộ Thương Mại phải có sự giúp đỡ, hỗ trợ và tạo điều kiện cho Công ty: Được phân các hạn ngạch xuất khẩu hàng may mặc vào EU, Canada, Mỹ… để giúp đỡ Xí Nghiệp may xuất khẩu của Công ty duy trì và phát triển. Được tiếp tục làm đầu mối trả nợ cho một số nước theo Hiệp định liên Chính phủ khi được triển khai thực hiện. Tiếp tục chỉ đạo và hỗ trợ Công ty trong việc mở rộng thị trường ngoài nước và củng cố Công ty nhằm phù hợp với tình hình chung của đất nước trong quá trình phát triển. Bộ nghiên cứu điều chuyển một số kho tàng do các đơn vị thuộc Bộ quản lý, trước hết là tại khu vực Thành phố Hồ Chí Minh và miền Tây Nam Bộ, đang được khai thác kém hiệu quả cho INTIMEX để xây dựng hệ thống chế biến và bảo quản hàng hoá xuất khẩu. Điều chuyển cho INTIMEX hoặc thu xếp để INTIMEX có thể vay lại các khoản vốn của một số đơn vị đang gửi lấy lãi tại các Ngân hàng thương mại mà không đưa vào sản xuất kinh doanh tạo ra hiệu quả. 3.Một vài ý kiến đề xuất với Công ty. Hiện nay, Công ty chưa có một bộ phận chuyên trách về Marketing mà chủ yếu là do các phòng ban nghiệp vụ tự lực thực hiện, phòng Kinh tế tổng hợp của Công ty chỉ mới thực hiện tổng hợp các thị trường và tìm ra xu hướng chung chứ chưa có năng lực để nghiên cứu thị trường, tìm đến với các thị trường mới nên khả năng nắm bắt các cơ hội kinh doanh không lớn. Việc tìm được đối tác và mặt hàng xuất, nhập khẩu của Công ty mới chỉ chủ yếu dựa vào uy tín là phần nhiều. Để khắc phục hạn chế này, về mặt tổ chức bộ máy, Công ty nên thành lập phòng Marketing riêng biệt với các phòng khác và chỉ đạo trực tiếp hoạt động xuất khẩu. Thứ nhất, phòng Marketing thực hiện được nhiệm vụ nghiên cứu thị trường, xác định nhu cầu của thị trường đó, đánh giá toàn bộ khả năng của Công ty để đưa ra các quyết định về lựa chọn thị trường nào là hiệu quả. Từ đó phòng Marketing sẽ xác lập được các kế hoạch, chiến lược Marketing và triển khai chiến lược thông qua việc đề ra các mục tiêu xuất khẩu và kế hoạch hoá các chính sách Marketing_Mix cho cả nhóm sản phẩm xuất khẩu. Thứ hai, phòng Marketing sẽ thực hiện các công việc mà phòng kinh doanh vẫn làm như quảng cáo, chào hàng, giới thiệu sản phẩm, nghiên cứu thị trường tìm kiếm bạn hàng... Có một bộ phận chuyên trách như vậy chắc chắn việc kinh doanh xuất khẩu sẽ có hiệu quả hơn. Nhân viên trong phòng Marketing cần có trình độ về nghiệp vụ Marketing và kinh nghiệm hiểu biết về thị trường, do đó trước tiên để có thể tận dụng số Công nhân viên hiện đang làm trong phòng Kinh tế tổng hợp, Công ty cần cử đi đào tạo ở trong và ngoài nước. Trong quá trình đào tạo lại này kết hợp với các chuyến đi thực tế để kết hợp, vận dụng có hiệu quả những kiến thức lĩnh hội ở trường vào thực tế. Đây là một hình thức có tính khả thi cao vì các Cán bộ đă qua công tác ở Công ty nắm vững tình hình nội tại, những ưu và nhược điểm do vậy họ sẽ vận dụng được linh hoạt và hiệu quả hơn các kiến thức được trang bị... thứ hai, yêu cầu họ tự nghiên cứu sau đó cử họ đi thực tế theo sát các thương vụ, từng mặt hàng, từng thị trường cụ thể để họ phát huy tính độc lập, tự chủ trong quá trình nâng cao trình độ về Marketing. Thứ ba, Công ty tuyển mộ người mới về Marketing và huấn luyện cho họ thêm ở Công ty giúp cho họ hiểu biết về Công ty và quen với cách làm việc ở đây. Công tác đào tạo phải lên kế hoạch cụ thể, có thể ký các hợp đồng hay thoả thuận rõ ràng ràng buộc trách nhiệm của người đi học với Công ty và đưa ra những khuyến khích nhất định cho người đi học như hỗ trợ một phần kinh phí, trích tỷ lệ % về một thị trường mà họ có sáng kiến hay áp dụng có hiệu quả cho Công ty. Sau đợt đào tạo, đội ngũ Cán bộ Marketing phải có đủ năng lực để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu, khả năng đáp ứng nhu cầu đó của Công ty và tình hình đáp ứng của các đối thủ. Đồng thời phải nắm bắt được chính xác các thông tin về sự thay đổi của nhu cầu, giá cả thị trường quốc tế, những nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó ( như diễn biến về chính trị, quân sự, tài chính tiền tệ, sự ổn định của các chính sách kinh tế của Chính phủ...) cho dù là nhỏ bé hay nặng nề, thậm chí mang tính “tàn phá” cũng phải được cập nhật ngay lập tức. Kết luận Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là tiền đề để thực hiện Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước. Việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cũng chính là đã góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển xuất khẩu và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước. INTIMEX cũng là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Sau hơn 20 năm hoạt động, phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, do những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới song Công ty đã không chịu bó tay mà ngược lại, vẫn đang tìm những hướng đi mới, những giải pháp mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Qua thời gian thực tập ở Công ty em đã làm chuyên đề nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu của nước ta nói chung và Công ty INTIMEX nói riêng cùng với một số ý kiến đề xuất của bản thân về một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Do thời gian có hạn và năng lực bản thân còn hạn chế nên nội dung chuyên đề còn rất nhiều thiếu sót, rất mong có sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn quan tâm đến vấn đề này nhằm bổ sung hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0399.doc
Tài liệu liên quan