Bên cạnh các thành tựu đạt được, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty còn những tồn tại sau:
- Do đặc điểm kinh doanh của Công ty là giao khoán chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu cho các phòng nghiệp vụ và chi nhánh, và trong cơ cấu tổ chức không có phòng Marketing chuyên trách đảm nhận công tác nghiên cứu thị trường nên công tác nghiên cứu thị trường chủ yếu là các phòng nghiệp vụ thị trường thực hiện, bộ phận thị trường trong cơ cấu phòng tổng hợp chỉ có chức năng giúp cho Giám đốc định hướng về kế hoạch phát triển thị trường chung của Công ty làm cơ sở để chỉ đạo cho các phòng nghiệp vụ thực hiện.
Việc nghiên cứu thị trường ở các phòng nghiệp vụ không có nhân viên chuyên trách thực hiện mà chủ yếu là do trưởng phó phòng đảm nhận bằng các mối quan hệ cá nhân, uy tín của Công ty và tài liệu về thị trường để tìm kiếm nguồn hàng, bạn hàng cho nhu cầu xuất nhập khẩu, nên công tác nghiên cứu thị trường chưa chuyên sâu, đã bỏ lỡ một số cơ hội xuất nhập khẩu, việc tìm kiếm bạn hàng mang tính manh mún, chụp giựt. Công ty chưa duy trì được sự có mặt thường xuyên của các thị trường mà vẫn ở trong tình trạng “năm được, năm mất”.
81 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1439 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
á
USD
10.000.927,77
10.068.129,76
67.201,99
100,67%
*Bán hàng nội địa
VND
15.024.967.210
490.000.000
14.534.967.210
3,26%
Cơ cấu hàng xuất khẩu :
Thời kì từ năm 1986-1997 , cơ cấu hàng xuất khẩu đã có nhiều thay đổi , nhiều mặt hàng giá trị đã được nâng cao thông qua chế biến , chúng ta đã xây dựng được một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực như Cao Su , sản phẩm Gỗ , Mây Tre , Lá gốm , Nước hoa , Hạt Điều ….
Phân tích bán ra theo tổng mức và kết cấu
tt
ngành hàng và mặt hàng kinh doanh
đvt
thực hiện 2000
thực hiện 2001
so
sánh
Tuyệt đối
Tương đối
A
Hàng xuất khẩu
1
Cao su
USD
2.956.867
5.098.586
2.141.719
172,43%
VND
32.909.927.484
62.666.714.749
29.756.787.265
190.42%
2
Sản phẩm gỗ
USD
1.314.862
1.416.540
101.678
108,97%
VND
14.634.417.733
17.410.612.894
2.776.195.161
118,97%
3
Mây,tre,lá,gốm
USD
952.448
838.301
-114.147
88,02%
VND
10.600.741.343
10.303.555.256
297.186.087
97,20%
4
Nước hoa
USD
118.072
0
0
VND
1.314.141.360
0
0
5
Gạo
USD
0
VND
0
6
Gạch
USD
1.750
0
VND
21.509.250
0
7
Vỏ dừa
USD
6.500
0
VND
79.891.500
0
8
Bao PP,PE
USD
36.180
0
VND
444.688.380
0
9
Quế
USD
388.759
100.000
-288.759
25,72%
VND
4.326.886.572
1.229.100.000
-3.097.786.572
28,41%
10
Hạt điều
USD
165.215
130.200
35.015
78,80%
VND
1.838.033.258
1.600.288.200
-237.745.058
87,06%
11
Máy gỗ
USD
68.500
0
VND
762.405.000
0
12
Đồ chơi trẻ em
USD
10.081
0
VND
112.201.530
0
13
Linh kiện vi tính
USD
23.625
0
VND
262.946.250
0
B
Gia công
Catalogue
USD
149.000
150.227
1.227
100,82%
VND
1.658.370.000
1.846.440.057
188.070.057
111,34%
C
Bán hàng nội địa
VND
15.024.967.210
490.000.000
-14.534.967.210
3,26%
Tổng doanh thu
VND
83.445.845.079
96.092.880.286
12.647.035.207
115,16%
Công ty đã xuất khẩu qua các nước gồm 12 mặt hàng các loại khác nhau và kinh doanh bán hàng nội địa 8 mặt hàng(như đã nêu ở biểu).trong số các mặt hàng mà Công ty thực hiện sản xuất-kinh doanh -gia công và xuất khẩu ,ta thấy nổi lên một số mặt hàng chủ yếu sau:
Ngành hàng lâm,đặc sản chiếm tỷ trọng khá cao,khoảng 30,24% năm 2000 và 28,84% năm 2001 trong tổng mức các mặt hàng thực hiện hai năm.
Ngành hàng nông sản thực hiện ở mức thấp,năm 2000 thực hiện được khoảng 6,02%,năm 2001 thực hiện khoảng 4,2% so với tổng mức các mặt hàng thực hiện trong hai năm.
Phần gia công thực hiện khá đều,năm sau cao hơn năm trước,song cũng chỉ chiếm tỷ trọng khá nhỏ khoảng 2,08% năm 2000 và 1,9% trong năm 2001 so với tổng mức thực hiện của hai năm.
Thị trường xuất khẩu .
Nhờ thực hiện chính sách đối ngoại , đa dạng hoá , đa phương hoá , Công ty muốn làm bạn với tất cả các Công ty khác trên thế giới , hợp tác bình đẳng các bên cùng có lợi , nên đến nay thị trường xuất khẩu của Công ty được mở rộng nhanh .
Phân tích bán hàng ra theo thị trường (khách hàng)
Stt
ngành hàng và mặt hàng kinh doanh
đvt
thực hiện 2000
thực hiện 2001
So sánh
Tuyệt đối
Tương đối
A
Châu á
1
Malaysia
VND
4.008.936.960
810.616.032
-3.198.320.928
20,22%
2
Singapore
VND
3.228.946.560
3
Hàn quốc
VND
903.934.080
4
Đài loan
VND
17.269.288.189
2.729.435.321
-14.539.852.868
15,81%
5
Hồng công
VND
107.702.784
6
Nhật bản
VND
1.658.370.000
1.846.440.057
188.070.057
111,30%
7
Trung quốc
VND
973.745.892
B
Châu mỹ
8
Hoa kỳ
VND
400.680.000
C
Châu Âu
9
Pháp
VND
7.194.874.974
58.179.768.434
50.984.893.460
808,62%
10
SNG
VND
19.178.626.110
4.473.481.524
-14.705.144.586
23,32%
11
Đức
VND
11.508.598.080
20.216.025.395
8.707.427.315
175,66%
12
Đan mạch
VND
1.414.237.902
3.004.211.574
1.589.973.762
212,42%
13
Hà lan
VND
237.625.500
3.905.465.250
3.667.839.750
1.643,53%
14
Italia
VND
222.600.000
415.927.440
193.327.440
186,85%
D
Thị trường nội địa
VND
15.024.967.210
490.000.000
-14.534.967.210
3,26%
Tổng doanh thu
VND
83.445.845.079
96.092.880.286
12.647.035.207
115,16%
Xét theo Châu Lục – Thị trường hàng xuất khẩu của Công ty chủ yếu diễn ra trên Châu á , sau thị trường Châu á là thị trường Châu âu . THị trường Châu á chiếm 75% tổng kim nghạch xuất khẩu của Công ty ( Singapo , Hàn Quốc , Nhật Bản ….) . Thị trường Châu âu chủ yếu là ( Hà Lan , Đức , Đan Mạch , Italia ) . Các thị trường Châu Mỹ và Châu Phi đang có nhiều hứu hẹn , tuy vậy hàng hoá xuất sang các thị trường này còn ở mức khiêm tốn .
Nhưng nội dung hoạt động xuất khẩu của Công ty .
Vì mục tiêu tối đa hoá lợi nhuận nên hiện nay Công ty cũng đang áp dụng một cách đa dạng các loại hình xuất khẩu nhằm nâng cao kim ngạch xuất khẩu. Những mặt hàng tham gia vào hoạt động xuất khẩu của Công ty đã đem lại doanh thu rất lớn cho Công ty.
- Xuất khẩu trực tiếp
Số lượng hàng xuất khẩu trực tiếp chiếm trung bình lên tới 67% giá trị xuất khẩu, hàng năm Công ty tự tổ chức thu mua từ các đầu mối thu gom trong nước, nguyên liệu từ nước ngoài về chế biến, sản xuất sau đó xuất khẩu ra nước ngoài. Hiện tại Công ty có một Xí nghiệp chế biến và kinh doanh xuất nhập khẩu nông sản và một Xí nghiệp may xuất khẩu. Hai Xí nghiệp này có nhiệm vụ thu gom nguồn hàng bảo đảm chất lượng để xuất khẩu.
- Xuất khẩu uỷ thác.
Hình thức xuất khẩu uỷ thác hiện nay vẫn đem lại cho Công ty một khoản lợi nhuận khá lớn, chiếm khoảng 33% giá trị xuất khẩu. Đây là hình thức kinh doanh thụ động vì nó phụ thuộc vào đơn vị có hàng, nếu các đơn vị này không có nhu cầu xuất khẩu hay khối lượng hàng xuất khẩu không ổn định thì cũng làm giảm doanh số xuất khẩu của Công ty.
- Xuất khẩu theo nghị định thư.
Công ty xuất khẩu trả nợ mặt hàng may mặc chủ yếu là quần len sang Nga. Hình thức xuất khẩu này có những ưu thế riêng là khối lượng xuất khẩu lớn, khả năng thanh toán được bảo đảm (vì thanh toán do Chính phủ thực hiện). Tuy nhiên, xuất khẩu theo hình thức này lại không thường xuyên vì chỉ khi nào được Nhà nước giao chỉ tiêu, Công ty mới có thể thực hiện hoạt động xuất khẩu. Đến nay Công ty đã thực hiện được hàng trăm hợp đồng theo hình thức này và đem lại hàng trăm triệu USD doanh thu.
-Xuất khẩu đối lưu.
Đây là hình thức giao dịch mà Công ty sử dụng khi xuất khẩu kết hợp chặt chẽ nhập khẩu. Trong quá trình kinh doanh, đôi lúc Công ty cũng sử dụng hình thức này để xuất khẩu hàng hoá với Lào, chấp nhận việc thanh toán bằng hàng hoá thay cho các loại ngoại tệ. Trường hợp này tính linh hoạt kém, đôi khi lại gặp khó khăn khi tiêu thụ hàng nhập về.
Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu Công ty .
Ưu điểm :
Các phòng nghiệp vụ và chi nhánh đã có nhiều cố gắng tìm kiếm đơn hàng, khách hàng và các biện pháp thích hợp để thực hiện các chỉ tiêu Công ty giao. Mặc dù đã cố gắng nhưng chưa vượt lên để hoàn thành mục tiêu đề ra mà chỉ đạt yêu cầu.
Năm 2001, Công ty đã đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng quy chế khen thưởng khuyến khích xuất khẩu, phát động các phong trào thi đua nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ được giao. Do Công ty tập trung chỉ đạo sát sao kinh doanh xuất nhập khẩu nên một số mặt hàng xuất khẩu lớn chẳng những giữ được kim ngạch khá cao mà còn góp phần mang lại hiệu quả và là một biện pháp để thực hiện cân đối ngoại tệ, bảo toàn vốn trong điều kiện tỷ giá biến động mạnh .
Về công tác tổ chức Cán bộ: Là một Công ty có truyền thống làm ăn nghiêm túc, Công ty luôn quan tâm đến công tác tổ chức Cán bộ với ý thức con người là nhân tố quyết định tất cả.
Công ty tổ chức thực hiện các phương án đổi mới nhất là lĩnh vực sắp xếp lại hoạt động kinh doanh_sản xuất_dịch vụ thông qua phương án tổ chức, Công ty có phương án bố trí, sắp xếp, sử dụng Cán bộ và lao động có hiệu quả, sử dụng được sức mạnh tổng hợp của CBCNV lao động, có chính sách hỗ trợ việc chuyển hướng tạo việc làm mới như hỗ trợ về tiền lương đối với người tìm việc làm mới trong 6 tháng, tạo điều kiện về vốn, cơ sở vật chất để người lao động tự tạo nguồn thu nhập theo kết quả lao động.
Công ty có chính sách ưu tiên trong lĩnh vực đào tạo và đào tạo lại cán bộ, có chương trình rõ ràng, dành chi phí hợp lý cho đào tạo. Hằng năm Công ty đều tổ chức các khoá học về nghiệp vụ, ngoại ngữ và vi tính cho CBCNN.
Về phương thức kinh doanh:
Kinh doanh và hiệu quả kinh doanh đóng vai trò quyết định sự tồn tại và phát triển của Công ty. Công ty quan tâm đến việc đa dạng hoá kinh doanh, đón trước những lĩnh vực có hiệu quả về mặt kinh tế và xã hội.
Phương châm kinh doanh là bám vào nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, bám vào nhu cầu khách hàng tạo ra những mặt hàng truyền thống và bạn hàng tin cậy.
Đa dạng hoá hoạt động kinh doanh sản xuất, xuất nhập khẩu và làm dịch vụ trên cơ sở tính toán năng lực quản lý trình độ cán bộ và hiệu quả công việc. Trong những năm qua, Công ty đã đề ra chủ trương và biện pháp cụ thể để đẩy mạnh xuất khẩu, xây dựng quy chế thưởng xuất khẩu. Bên cạnh hoạt động xuất nhập khẩu là chủ yếu, Công ty thường xuyên sản xuất những mặt hàng thủ công mỹ nghệ... cũng nhờ đa dạng hoá hoạt động kinh doanh nên tiềm lực Công ty không ngừng được phát triển. Những mặt hàng nào kinh doanh không hiệu quả có thể được nhanh chóng chuyển đổi sang mặt hàng có hiệu quả.
Thường xuyên chăm lo tạo vốn, bảo toàn và phát triển vốn cho đơn vị. Trong thực hiện kế hoạch chú trọng hiệu quả, đảm bảo an toàn và phát triển vốn. Từ số vốn ít ỏi trong những ngày đầu thành lập, Công ty đã có chính sách gây dựng và phát triển vốn cho hoạt động của Công ty, tăng cường tự doanh hàng xuất nhập khẩu, kinh doanh nội địa để tạo thêm vốn, chủ động chọn những lĩnh vực kinh doanh có hiệu quả.
Giữ chữ tín trong kinh doanh, sòng phẳng và có chiếu cố lẫn nhau trong quan hệ buôn bán là phương châm hoạt động trên thị trường nội và ngoại của Công ty. Nhờ vậy Công ty đã xây dựng được một mạng lưới bạn hàng rộng khắp. Tôn trọng và chấp hành pháp luật giúp Công ty tồn tại và phát triển vững vàng trong điều kiện kinh tế thị trường.
Tồn tại và nguyên nhân :
Bên cạnh các thành tựu đạt được, hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty còn những tồn tại sau:
Do đặc điểm kinh doanh của Công ty là giao khoán chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu cho các phòng nghiệp vụ và chi nhánh, và trong cơ cấu tổ chức không có phòng Marketing chuyên trách đảm nhận công tác nghiên cứu thị trường nên công tác nghiên cứu thị trường chủ yếu là các phòng nghiệp vụ thị trường thực hiện, bộ phận thị trường trong cơ cấu phòng tổng hợp chỉ có chức năng giúp cho Giám đốc định hướng về kế hoạch phát triển thị trường chung của Công ty làm cơ sở để chỉ đạo cho các phòng nghiệp vụ thực hiện.
Việc nghiên cứu thị trường ở các phòng nghiệp vụ không có nhân viên chuyên trách thực hiện mà chủ yếu là do trưởng phó phòng đảm nhận bằng các mối quan hệ cá nhân, uy tín của Công ty và tài liệu về thị trường để tìm kiếm nguồn hàng, bạn hàng cho nhu cầu xuất nhập khẩu, nên công tác nghiên cứu thị trường chưa chuyên sâu, đã bỏ lỡ một số cơ hội xuất nhập khẩu, việc tìm kiếm bạn hàng mang tính manh mún, chụp giựt. Công ty chưa duy trì được sự có mặt thường xuyên của các thị trường mà vẫn ở trong tình trạng “năm được, năm mất”.
Mặt khác do đặc điểm kinh doanh của Công ty là giao khoán chỉ tiêu về kim ngạch xuất nhập khẩu cho các phòng nghiệp vụ và chi nhánh, và cơ chế khoán này đã bộc lộ nhiều hạn chế. Trong Công ty có hiện tượng phân tán lực lượng, phần lo chung cho toàn Công ty chưa được chú ý, chỉ trong phạm vi từng phòng, từng đơn vị, chưa có sự phối hợp công tác giữa các phòng nghiệp vụ, còn có hiện tượng thụ động ai biết việc của người ấy. Các phòng nghiệp vụ thực hiện những thương vụ lớn, khó khăn có nhiều tình tiết phải tính toán thì chưa chặt chẽ. Cần sớm khắc phục hiện tượng này thì mới đẩy mạnh hoạt động kinh doanh nhất là kinh doanh xuất nhập khẩu đạt được kết quả tốt.
Thiếu nguồn tài chính để đảm bảo phát triển kinh doanh theo kế hoạch đã đặt ra. Nguồn tài chính hiện có không đủ đáp ứng được các yêu cầu về đầu tư lớn, đầu tư chiều sâu, khai thác thế mạnh cơ sở vật chất, đầu tư cho sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu. Trong kinh doanh một số đơn vị còn để xảy ra hiện tượng khách hàng chiếm dụng vốn của Công ty, tuy chưa đến mức nợ khó đòi nhưng đã tạo nên việc sử dụng vốn kém hiệu quả.
Trong những năm qua, tuy vượt chỉ tiêu về XNK và doanh thu nhưng cơ cấu kinh doanh chưa đạt mục tiêu chiếm tỷ trọng lớn cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu trực tiếp, mà thực hiện nghiệp vụ uỷ thác còn cao tuy về tâm lý là đảm bảo an toàn, ít rủi ro nhưng vì không bỏ sức ra để thu mua hàng từ cơ sở sản xuất và tìm khách hàng ngoại để bán nên bản thân Công ty không có doanh thu lớn và hiệu quả rất thấp: có mặt hàng doanh số lớn nhưng kim ngạch lại thấp vì Công ty không được xuất khẩu trực tiếp mà phải thông qua đầu mối.
Kinh doanh nội địa còn nhiều mặt yếu kém, trước hết là phương thức kinh doanh, doanh số và lợi nhuận. Mạng lưới kinh doanh bán lẻ tuy đã được phát triển thêm trơng năm 2001 nhưng chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển thương mại bán lẻ, phương thức kinh doanh bán lẻ cần phải được tiếp tục đổi mới. Khối kinh doanh sản xuất và dịch vụ còn kém phát triển, quy mô còn quá nhỏ chưa đủ sức để trụ vững trên thương trường.
Suy cho cùng việc kinh doanh là do từng người thực hiện các công việc cụ thể mà không phải ai cũng có đủ các yếu tố như ai. Yếu tố trình độ CBCNV trong hoạt động kinh doanh rất quan trọng. Nó chi phối tới phần lớn hiệu quả kinh doanh của Công ty. Kinh doanh trong cơ chế thị trường không thể chỉ dựa vào kinh nghiệm thực tế mà cần có sự đào tạo một cách chính quy, bài bản. ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II , mặc dù nguồn nhân lực của Công ty có tỷ lệ trình độ đại học và trên đại học cao nhưng đứng trước đòi hỏi của cơ chế mới cần được nghiêm túc đánh giá lại. Thứ nhất không phải tất cả cán bộ kinh doanh trong Công ty đều đáp ứng tiêu chuẩn về ngoại ngữ, nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu hiện nay, và đặc biệt là những tri thức khoa học kỹ thuật nhằm phục vụ cho hoạt động hiệu quả. Thứ hai, một bộ phận Cán bộ vẫn chưa có tư duy kinh doanh cơ chế thị trường, sự năng động trong việc tìm kiếm khách hàng, chủ động tạo công việc, đặc biệt là sự lôi kéo khách hàng, khuyếch trương uy tín của Công ty. Thực trạng này đòi hỏi Công ty phải quan tâm hơn nữa tới việc đào tạo cho đội ngũ nhân viên đặc biệt là phải đưa những kiến thức Marketing cơ bản vào vận dụng được trong hoạt động kinh doanh hàng ngày. Bên cạnh đó cần chú trọng tuyển mộ những nhân viên mới có năng lực, tư duy kinh doanh mới.
Chương III: Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty THương Mại Hữu Nghị II .
I. định hướng hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian tới .
Để đạt được những mục tiêu đề ra, Công ty Thương Mại Hữu Nghị II tiếp tục định hướng đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh trên cơ sở kế thừa những thành tựu của các năm qua, khắc phục những khó khăn còn tồn tại. Nhằm đạt được những hiệu quả kinh doanh cao, Công ty xác định phương hướng phát triển kinh doanh trong thời gian tới như sau:
Về thị trường: Công ty chủ trương trong những năm tới cố gắng duy trì và giữ vững thị trường Châu á và Châu Âu. Đây đang là những thị trường có mức xuất khẩu lớn của Công ty. Công ty sẽ tiếp tục tìm cách nối lại để khai thác thị trường truyền thống thuộc khu vực I trước đây, đồng thời cố gắng mở rộng thị trường sang các khu vực Tây Nam á, Châu Mỹ Latinh và Châu Phi. Tiếp cận các thương nhân vào Việt Nam để tìm kiếm mở rộng thị trường mới và tìm bạn hàng.
Quản lý kinh doanh: Công ty tiếp tục thực hiện cơ chế mở cho phép các Cán bộ kinh doanh được phép trực tiếp giao dịch đối nội, đối ngoại thực hiện các hợp đồng, thoả thuận giá cả và tiếp tục thực hiện việc giao khoán cho các phòng kinh doanh và các chi nhánh nhằm phát huy tính năng động sáng tạo của đội ngũ nhân viên. Đồng thời Ban giám đốc tăng cường kiểm tra giám sát tài chính các hợp đồng kinh doanh nhằm làm giảm tiêu cực có thể phát sinh.
Về mặt hàng và phương thức kinh doanh :
Tiếp tục giữ vững mặt hàng chuyên doanh nông sản. Trên cơ sở đó tìm kiếm khách hàng, thị trường, đầu tư sản xuất cho ngành nông sản nhằm hiện đại hoá các khâu sản xuất chế biến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm.
Về nguồn hàng phải củng cố xây dựng mạng lưới nguồn hàng ổn định vững mạnh. Ưu tiên đặt hàng cho các cơ sở truyền thống, từng bước trực tiếp thu mua tận nguồn cung ứng, thực hiện việc thanh toán sòng phẳng đúng hạn, giúp các cơ sở có thể trả thu nhập cho nông dân để họ tiếp tục yên tâm sản xuất.
Về công tác khác: Đẩy mạnh công tác thanh tra trong hoạt động xây dựng cơ bản nhằm giảm bớt các tiêu cực. Tích cực chăm lo tới đời sống của CBCNV. Đẩy mạnh công tác thực hành tiết kiệm trong Công ty, rà soát lại và cắt bỏ những chi phí kinh tế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh .
Tiếp tục nghiên cứu và tìm nguồn vốn để đầu tư chiều sâu theo hướng khai thác hiệu quả cơ sở vật chất, cải tạo hệ thống kho tàng, nhà xưởng máy móc để nâng cao tỷ trọng mặt hàng tự sản xuất chế biến gia công xuất khẩu. Chuẩn bị các điều kiện để tham gia hội nhập với khu vực và các tổ chức quốc tế. Nghiên cứu xúc tiến mở một số văn phòng đại diện tại một số thị trường trọng điểm.
II. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty .
1.Giải pháp về phía Công ty .
1.1 Hoạt động thị trường
Thị trường cho xuất khẩu hàng hoá là vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường. Đối với một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu thì hoạt động thị trường là nhân tố hết sức quan trọng quyết định kết quả kinh doanh. Trong những năm tiếp theo, hoạt động thị trường của Công ty phải đảm bảo đạt được mục tiêu là tăng được thị phần ở thị trường đã có, phát triển mở rộng sang những thị trường tiềm năng mới. Để thành công, Công ty cần chú ý đến:
Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường. Trong hoạt động xuất khẩu, vấn đề tìm kiếm thị trường, bạn hàng tiêu thụ giữ vai trò quan trọng hàng đầu. Để mở rộng thị trường Công ty phải nghiên cứu kỹ nhu cầu của thị trường về chủng loại, số lượng, chất lượng...và các bạn hàng. Sau khi có các kết quả của nghiên cứu thị trường, Công ty tiếp tục đánh giá các điểm mạnh, yếu, so sánh với các đối thủ cạnh tranh trong nước , và các đối thủ cạnh tranh nước ngoài. Trong những năm trước mắt , Công ty cần tập trung khai thác các thị trường sau:
Thị trường các nước Châu á, đây là thị trường chính của Công ty, tiêu thụ hơn 50% kim ngạch xuất khẩu hàng năm. Thị trường Châu á thường tiêu thụ những sản phẩm, Cao Su, Quế, sản phẩm Gỗ , Hạt Điều ... là các mặt hàng kinh doanh chủ chốt của Công ty. Khu vực thị trường này cũng có quy mô dân số cao nên tiềm năng tiêu dùng lớn. Hơn nữa do thuận lợi về điều kiện địa lý, thời gian vận chuyển hàng ngắn và đặc biệt quan hệ giữa các chính phủ ngày càng được củng cố nên hướng phát triển kinh doanh này của Công ty tương đối được bảo đảm. Chiến lược mà Công ty nên áp dụng đối với thị trường này là xâm nhập thị trường, phát triển sản phẩm. Công ty nên duy trì sự hiện diện trên thị trường bằng cách tiếp tục củng cố quan hệ với các bạn hàng hiện tại, đồng thời dựa trên những kinh nghiệm kinh doanh trên thị trường này để tìm kiếm thêm bạn hàng mới. Các hoạt động khuyến mãi, quảng cáo và dịch vụ sau mua hàng cũng cần được đẩy mạnh để tăng sức mua sản phẩm của các khách hàng hiện thời, thu hút khách hàng của đối thủ cạnh tranh và khách hàng mới.
Tuy thị trường này không có sự đòi hỏi quá khắt khe về chất lượng song lại có yêu cầu mạnh về độ đa dạng của sản phẩm và mức giá cả hợp lý nên Công ty cần có kế hoạch cải tiến sản phẩm, tạo các điểm khác biệt với đối thủ cạnh tranh. Mặt khác do hàng của Công ty xuất sang thị trường này chủ yếu là sản phẩm nông nghiệp nên phương cách phát triển sản phẩm phù hợp nhất chính là tăng chất lượng hàng xuất khẩu. Công ty có thể tăng chất lượng hàng thông qua việc tạo ra các nguồn hàng ổn định về chất lượng và số lượng hay có thể đẩy mạnh công tác chế biến tạo nên những sản phẩm đa dạng.
Thị trường Âu, Mỹ cũng có thể xác định là thị trường tiềm năng của Công ty. Thị trường Mỹ là thị trường lý tưởng cho việc xuất khẩu hàng sơ chế vì họ có ngành công nghiệp chế biến rất hiện đại phục vụ cho nhu cầu trong nước và xuất khẩu.
Công ty khi quyết định tham gia vào thị trường Châu Âu thì phải nghiên cứu đến các sản phẩm chế biến bởi nhu cầu về các sản phẩm thô ở khu vực này rất thấp, công tác phát triển thị trường khó thành công ở đây với các chủng loại hàng hiện nay của Công ty. Việc chinh phục các thị trường này thường rất khó khăn bởi khoảng cách về địa lý, về tâm lý tiêu dùng, về những quy chế bảo hộ ngành lâm nghiệp của các nước và các đòi hỏi về các thông số kỹ thuật , song Công ty nên xác định đây là thị trường chính của Công ty sau này.
Do cộng đồng Châu Âu có những mức quy định chung nên khi hàng của Công ty đã gia nhập thị trường của một nước trong khối thì sẽ dễ dàng trong việc phát triển ra thị trường các nước khác. Quy mô của thị trường Châu Âu khá lớn và khả năng thu lợi nhuận cao.
Trong những năm trước việc xuất hàng đi các nước Phương Tây là tương đối khó khăn do ở thị trường Đông Âu tuy nhu cầu tiêu thụ hàng còn khá lớn nhưng những hạn chế về chính trị đã gây khá nhiều trở ngaị, thị trường Tây Âu thì lại là thị trường mới hoàn toàn với rất nhiều quy định hạn chế.
Gần đây, nhờ xúc tiến tích cực của chính phủ, khu vực thị trường này lại trở nên hấp dẫn với rất nhiều Công ty. Chính vì thế Công ty nên đẩy mạnh việc thăm dò, tìm kiếm mở rộng thị trường.
Với khu vực Tây Âu, Mỹ, Công ty phải đưa ra các sản phẩm chế biến hay những mặt hàng mang tính khu vực : Hoa hồi quế,Hạt Điều, Hạt tiêu... Đây là các thị trường đầy triển vọng nên Công ty phải tập trung các nỗ lực Marketing để đạt được thành công.
Đối với thị trường khác: Do Công ty có quan hệ kinh tế không thường xuyên với khá nhiều nước nên kim ngạch vào thị trường này tuy cao nhưng lại không ổn định. Trong thời gian tới, Công ty nên có định hướng duy trì và phát triển ở thị trường này thông qua việc tăng cường nâng cao chủng loại hàng bán, tạo ra độ đa dạng trên thị trường, để góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
1.2Phát triển kênh phân phối.
Một mạng lưới kênh phân phối rộng khắp và hợp lý chính là nhân tố thúc đẩy tiêu thụ. Chính vì thế các Công ty luôn phải tiến hành các nghiên cứu nhằm hoàn thiện hơn mạng lưới phân phối của mình.
Kênh phân phối của Công ty Thương Mại Hữu Nghị II trong thời gian tới.
Người sản xuất, chế biến nông sản
Các đại lý thu mua của công ty
Văn phòng công ty
Các đơn vị kinh doanh nước ngoài
Các chi nhánh của công ty
Đại diện của công ty ở nước ngoài
Người tiêu dùng cuối cùng
Một trong những hạn chế khi phát triển thị trường ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II là hiện nay kênh phân phối hàng của Công ty mới dừng ở các nhà buôn nước ngoài. Sản phẩm của Công ty thường bị đem đi chế biến lại và đưa ra thị trường với nhãn mác khác nên không được người tiêu dùng thực sự biết đến. Và chính kênh phân phối này khiến Công ty bị phụ thuộc vào đối tác nước ngoài, khó chủ động trong việc dự đoán nhu cầu thị trường. Để có thể phát triển thị trường tốt Công ty nên xây dựng lại kênh phân phối hàng bằng nhiều hướng: qua các đối tác kinh doanh nước ngoài, qua các phòng đại diện hay chi nhánh Công ty ở nước ngoài...
Ngoài ra Công ty cũng có thể sử dụng phương pháp liên doanh liên kết sản xuất để tăng cao sự xuất hiện trên thị trường nước ngoài.
1.3Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng.
Muốn hoạt động xuất khẩu tiến hành được thì điều kiện đầu tiên là phải có hàng hoá để xuất khẩu, nghĩa là phải có nguồn hàng xuất khẩu. Vì vậy công tác tạo nguồn chiếm phần lớn thời gian trong cả quá trình thực hiện các nghiệp vụ xuất khẩu và đóng vai trò quan trọng đối với kết quả hoạt động xuất khẩu của Công ty. ở Công ty Thương Mại Hữu Nghị II, hoạt động tạo nguồn chủ yếu là do thu mua từ các địa phương, cơ sở sản xuất rồi đem về chế biến lại. Nhưng nếu Công ty chỉ duy trì một hình thức tạo nguồn này thì sẽ không đạt hiệu quả cao trong công tác tạo nguồn hàng xuất khẩu vì Công ty đã vô tình thu nhỏ các mối quan hệ của mình đối với các đơn vị sản xuất. Công ty không thể tự đi thu gom hàng hoá từ các hộ sản xuất nhỏ lẻ mà phải mua lại qua các đầu mối trung gian, như vậy hiệu quả kinh doanh mang lại bị giảm đi rất nhiều.
Do đó, Công ty nên tìm ra các hình thức tạo nguồn hàng xuất khẩu mới thông qua mạng lưới bạn hàng của mình. Cụ thể là ngoài việc thu mua hàng xuất khẩu Công ty có thể tiến hành tự sản xuất hàng xuất khẩu, liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất chế biến, các nhà máy chế biến. Có những mặt hàng Công ty tự sản xuất lại đem về lợi nhuận lớn hơn là thu mua lại, đồng thời Công ty có thể gia công chế biến hàng nông sản theo đúng như mong muốn của bên nước ngoài. Công ty có thể chủ động về số lượng, chất lượng, khống chế số lượng hàng sản xuất ra cho phù hợp với đơn hàng xuất khẩu tránh dư thừa, tồn kho do không kiểm soát được chất lượng hàng xuất khẩu để khách hàng từ chối nhận hàng. Công ty cũng có thể chế biến thuê cho các đơn vị khác khi họ gặp khó khăn về khối lượng, thời gian, trình độ công nghệ. Ngược lại, Công ty cũng có thể liên doanh liên doanh liên kết với các đơn vị sản xuất chế biến để thu mua hàng xuất khẩu của họ khi chưa sản xuất được hoặc thuê họ chế biến khi Công ty gặp phải hợp đồng quá gấp gáp về thời gian, khối lượng quá lớn hoặc công nghệ chế biến của Công ty chưa đạt yêu cầu chất lượng hay mặt hàng nào đó không thể sản xuất được.
Tất cả các hình thức mở rộng nguồn hàng xuất khẩu đều nhằm làm cho Công ty tăng thu, giảm chi, ổn định nguồn hàng, là một đối tác uy tín lớn đối với bên nước ngoài.
1.4 Hoàn thiện cơ cấu hàng xuất khẩu.
Bên cạnh lĩnh vực tạo nguồn hàng xuất khẩu, Công ty cần thực hiện cải thiện cơ cấu mặt hàng xuất khẩu. Mặc dù hàng của Công ty đưa ra thị trường quốc tế gồm nhiều loại khác nhau nhưng để cạnh tranh được với các đối thủ lớn khác, Công ty cần phải không ngừng thay đổi, bổ sung những chủng loại hàng mới, chuyển đổi cơ cấu mặt hàng xuất khẩu theo yêu cầu của thị trường. Bên cạnh một số mặt hàng truyền thống như :Cao Su, Hạt Điều , Công ty cần tiếp tục phát huy vai trò chủ lực của các mặt hàng trên nhưng cũng cần phải quan tâm khai thác các mặt hàng, nhóm hàng khác mà thế giới có nhu cầu như: Dầu lạc, Hạt Tiêu… Hạt Điều là một trong những hàng hoá đang chiếm được cảm tình của người tiêu dùng nên trong thời gian tới Công ty phải nhanh chóng đưa mặt hàng này vào danh mục mặt hàng kinh doanh xuất khẩu của Công ty. Ngoài ra trong thời gian tới cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Công ty cũng nên có một sự cải biến cho phù hợp với xu thế tiêu dùng của thế giới và tiềm năng sẵn có của Công ty, của quốc gia, đó là sự bổ sung những mặt hàng mới như Chè, Tinh Dầu… Kinh doanh những mặt hàng mới sẽ gặp nhiều khó khăn, song muốn tồn tại và phát triển, Công ty không còn cách nào khác là phải đối mặt và giải quyết những khó khăn đó.
1.5Chính sách khuyếch trương, quảng cáo hàng xuất khẩu với bạn hàng
Để mở rộng thị trường, đẩy mạnh xuất khẩu thì sau khi đã nghiên cứu thị trường, xác định thị trường mục tiêu và đưa ra các chiến lược phát triển thị trường thì Công ty không thể bỏ qua việc xúc tiến bán hàng. Trong thị trường ngày nay, nếu ta chỉ mới cung cấp các sản phẩm chất lượng tốt và giá cả hợp lý thì vẫn chưa đủ. Công ty chỉ bán được hàng khi những giá trị của sản phẩm được thông tin đến cho người mua, thúc đẩy nhu cầu về hàng hoá của Công ty.
Các chính sách về quảng cáo và xúc tiến bán hàng có vai trò như các chất xúc tác, nếu được thực hiện tốt chúng sẽ đem lại hiệu quả cao trong hoạt động kinh doanh, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty, tăng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay ngân sách dành cho quảng cáo của Công ty vẫn còn hạn chế, mới chỉ đủ cho các chương trình quảng cáo nhỏ. Các hoạt động quảng cáo xúc tiến bán hàng của Công ty vẫn còn rất đơn điệu, chưa tạo được nét hấp dẫn cần thiết. Để xúc tiến bán hàng xuất khẩu, Công ty nên áp dụng các hình thức như: gửi catalog ra nước ngoài, tham gia hội chợ hàng tiêu dùng ở nước ngoài hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng doanh nghiệp tại nước ngoài. Gửi catalog cho nước ngoài sẽ giúp rút ngắn khoảng cách giữa người bán và người mua. Thông qua catalog khách hàng có được các thông tin về chủng loại hàng hoá, kích cỡ màu sắc... vì thế catalog phải được in ấn đẹp đẽ, dễ đọc, dễ hiểu, màu sắc bố cục ấn tượng, dễ nhớ. Ngoài ra Công ty còn có thể sử dụng hình thức gửi hàng mẫu qua bưu điện cho các khách hàng quan tâm nhằm cung cấp cho họ nhận biết về hình dáng, chất lượng, hương vị của hàng hoá. Đặc biệt đối với mặt hàng lâm sản không một hình thức nào hay hơn là để khách hàng tiếp xúc trực tiếp với hàng hoá để họ tự cảm nhận.
Tiến xa hơn nữa Công ty có thể thành lập các phòng đại diện ở nước ngoài. Việc thành lập các văn phòng đại diện ở nước ngoài sẽ giúp Công ty rất nhiều trong hoạt động giao dịch, ký kết hợp đồng, giới thiệu sản phẩm với khách hàng và nhanh chóng đưa sản phẩm vào thị trường.
1.6 Huy động tốt các nguồn vốn phục vụ cho xuất khẩu.
Vốn luôn là vấn đề khó khăn đối với mọi đơn vị kinh doanh nói chung và Thương Mại Hữu Nghị II nói riêng. Công ty thường không thể đảm bảo đủ vốn cho các hoạt động kinh doanh của mình và phải huy động vốn từ các nguồn trong nước và nước ngoài.
Việc huy động vốn trong nước Công ty có thể huy động thông qua một số nguồn sau:
Công ty có thể huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được hàng năm. Đây phải là nguồn vốn cơ bản và lâu dài của Công ty và tuỳ thuộc vào kết quả sản xuất kinh doanh của mỗi năm mà nguồn vốn này có thể thay đổi. Nguồn vốn tự có này thể hiện quy mô của doanh nghiệp và nó thường chiếm tỷ trọng lớn. Tuy nhiên vì điều kiện thực tế là Công ty kinh doanh trong nhiều lĩnh vực vốn bị rải rác, trong khi hoạt động xuất nhập khẩu lại yêu cầu phải có một lượng vốn lớn nên ngoài vốn tự có, Công ty phải sử dụng các hình thức khác để huy động vốn.
Huy động thông qua hình thức vay Ngân hàng. Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện các hệ thống Ngân hàng và các hoạt động của Ngân hàng ở nước ta. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Đây là nguồn vốn rất quan trọng giúp Công ty thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt là các nguồn vay ngắn hạn. Nhu cầu vay vốn cho các hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng lớn. Chính vì vậy Công ty nên tận dụng các khoản cho vay của ngân hàng.
Việc huy động vốn nước ngoài có thể thông qua một số hình thức sau:
Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của Công ty, đặc biệt là bạn hàng quen thuộc có mối quan hệ lâu dài. Hoặc tận dụng nguồn vốn của khách hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng hay xin ứng trước vốn khi xuất hàng. Cụ thể là với một số hợp đồng xuất khẩu, Công ty yêu cầu người mua (người nhập khẩu) ứng trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng, Công ty có thể sử dụng số tiền ứng trước đó như một phần vốn của mình. Đối với những hợp đồng có giá trị quá lớn vượt xa khả năng của Công ty thì Công ty có thể áp dụng hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng. Bên cạnh hình thức yêu cầu hỗ trợ tín dụng Công ty cũng có thể thực hiện hợp đồng bằng cách mời một nhà xuất khẩu Việt Nam khác cùng tham gia và 2 bên cùng nhau chia sẻ lợi nhuận.
Công ty có thể tiến hành nghiên cứu dự án liên doanh, liên kết với bạn hàng nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ bên ngoài vào Công ty. Cùng với chủ trương chung của Nhà nước là kêu gọi, khuyến khích sự đầu tư của các nước phát triển vào Việt Nam thì việc Công ty tiến hành liên doanh liên kết với các bên đối tác nước ngoài nhằm nâng cao nguồn vốn và sử dụng các dây chuyền công nghệ hiện đại, học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh của những nước phát triển là việc nên làm. Tuy nhiên để tiến hành liên doanh liên kết có lợi cho Công ty mà không làm ảnh hưởng đến tương lai lâu dài của Công ty cũng như lợi ích xã hội mới là điều đáng quan tâm. Trước hết, đối tác mà Công ty lựa chọn phải có cùng lĩnh vực hoạt động mà Công ty định liên kết kinh doanh. Sau nữa là phải có bề dày kinh nghiệm tức là đã hoạt động trong lĩnh vực này lâu và có uy tín mạnh trên thị trường quốc tế, có khả năng chinh phục khách hàng trên toàn thế giới. Ngoài ra cần thiết phải có những thoả thuận chi tiết về thời hạn liên doanh liên kết, tỷ lệ góp vốn, phạm vi hoạt động... trên cơ sở đã nghiên cứu cụ thể, chi tiết về thực trạng, xu hướng phát triển của Công ty, của đối tác, của thị trường mặt hàng kinh doanh, các chính sách và pháp luật của Nhà nước. Có thể nói liên doanh là một hình thức huy động vốn tương đối mới nhưng cũng đã phổ biến ở nước ta. Song để đạt được hiệu quả cao thì cần phải có một sự nghiên cứu, chuẩn bị thật kỹ lưỡng trước khi thực hiện.
Vốn luôn là vấn đề nan giải đối với mọi đơn vị kinh doanh nhưng chắc chắn nó không phải là vấn đề bế tắc bởi có rất nhiều cách huy động vốn. Điều quan trọng hơn là làm thế nào để sử dụng những đồng vốn đó một cách hiệu quả. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thiếu vốn cũng là do việc sử dụng vốn lãng phí, bừa bãi, không tiết kiệm. Công ty cần có những biện pháp tích cực nhằm tăng nhanh vòng quay của vốn, tránh ứ đọng vốn ở khâu này trong khi thiếu vốn ở khâu khác, đó là việc phân phối nguồn vốn hợp lý có kiểm tra, kiểm soát vòng tuần hoàn của vốn và đánh giá mức sinh lợi của mỗi đồng vốn bỏ ra.
Sau đây là một số biện pháp Công ty cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sử dụng đồng vốn:
+ Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu, thực hiện thanh toán đúng thời hạn, tránh để tình trạng bị chiếm dụng vốn.
+ Phân bố cơ cấu vốn hợp lý trong kinh doanh. Đảm bảo nguyên tắc cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định là 8:2 ưu tiên sử dụng vốn lưu động vào việc khai thác các nguồn hàng có tốc độ vòng quay lớn. Thực hiện tỷ lệ doanh thu hàng hoá 8:2 (tức là 80% doanh thu từ 20% mặt hàng chủ lực)
+ Có các biện pháp giảm các chi phí bất hợp lý, đặc biệt là chi phí giao dịch, đi lại hiện vẫn còn chiếm tỷ lệ lớn.
+ Tranh thủ các điều kiện tín dụng mà phía bạn hàng dành cho Công ty như các hợp đồng trả trước bằng tiền mặt, thúc đẩy thực hiện các hợp đồng gia công.
1.7 Chú trọng bồi dưỡng nâng cao trình độ của đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu.
Để làm ăn có hiệu quả với khách hàng nước ngoài, Công ty phải có một đội ngũ cán bộ kinh doanh giỏi bởi con người là yếu tố quan trọng nhất quyết định sự thành công hay thất bại của hoạt động xuất nhập khẩu. Yêu cầu đối với Cán bộ là phải giỏi nghiệp vụ ngoại thương, có đầu óc tư duy, phải năng động sáng tạo, có khả năng dự báo, ứng phó kịp thời với những biến động trên thị trường, thông thạo ít nhất là một ngoại ngữ, đọc thông viết thạo và hiểu rõ những nội dung của thư chào hàng, thư hỏi giá, nội dung hợp đồng, làm hợp đồng...
Hàng năm thông qua hệ thống kiểm tra tuyển dụng và bổ nhiệm, Công ty có tuyển thêm một số cán bộ trẻ có bằng cấp, có trình độ, thực sự am hiểu về nghiệp vụ, về thị trường, có phương pháp đánh giá và tư duy tốt. Tuy nhiên cho đến nay Công ty vẫn chưa có hình thức nâng cao và bổ sung kiến thức rộng rãi cho cán bộ xuất nhập khẩu vì lý do quá bận rộn công việc, mà chỉ tổ chức các lớp bồi dưỡng nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ làm ở các phòng ban khác. Vì vậy, để đảm bảo cho Công ty có được đội ngũ cán bộ xuất nhập khẩu không bị lạc hậu về trình độ thì hàng năm Công ty phải có kế hoạch đào tạo lại cán bộ thông qua các hình thức :
Gửi cán bộ, các nhân viên có năng lực đi nghiên cứu, học tập ở các lớp đào tạo cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu trong và ngoài nước.
Đào tạo cán bộ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ mới để họ nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Cử các đoàn cán bộ kinh doanh ra nước ngoài để nắm bắt nhu cầu thị trường, kinh nghiệm làm ăn, tạo dựng mối quan hệ bạn hàng vững chắc.
1.8 Thực hiện từng bước cổ phần hoá Công ty.
Giải pháp cổ phần hoá Công ty có tính chất chiến lược dài hạn. Do vậy, nó không thể thực hiện được ngay trong một năm, giải pháp cổ phần hoá Công ty đóng vai trò quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá của Công ty nói riêng, nó còn tạo nguồn động lực tốt cho phát triển và mở rộng toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty nói chung. Giải pháp này cũng phù hợp với xu hướng chung của Đảng và Nhà nước về việc chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần. Về mặt cơ sở pháp lý có nghị định 28CP ngày 07/05/1996 về chuyển một số doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần và quyết định của Bộ trưởng, trưởng Ban chỉ đạo trung ương cổ phần hoá về việc ban hành quy trình chuyển doanh nghiệp Nhà nước thành Công ty cổ phần số 01/CPH ngày 04/09/1996 và một số văn bản khác có liên quan tới cổ phần hoá.
Việc cổ phần hoá Công ty nhằm đa dạng hoá hình thức sở hữu, đưa các yếu tố cạnh tranh làm động lực để tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh và xác lập một mô hình doanh nghiệp hữu hiệu trong nền kinh tế thị trường.
Mục đích cổ phần hoá Công ty nhằm:
Thứ nhất, huy động vốn của các CBCNV trong Công ty, cá nhân các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước để đầu tư đổi mới công nghệ nhằm mở rộng và phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ của Công ty nói chung và đẩy mạnh phát triển xuất khẩu nói riêng (tức là nâng cao nội lực của Công ty lên một bước mới)
Thứ hai, tạo điều kiện để những người góp vốn và công nhân viên chức trong Công ty có cổ phần, nâng cao vai trò làm chủ thực sự, tạo động lực thúc đẩy hoạt động kinh doanh trong Công ty có hiệu quả. Thực hiện thành công cổ phần hoá Công ty sẽ góp phần quan trọng cho việc đẩy mạnh xuất khẩu vì thông qua cổ phần hoá nó thay đổi cơ Cấu lãnh đạo điều hành, phát huy tính độc lập tự chủ của Cán bộ công nhân viên với Công ty.
Trong quá trình tiến hành cổ phần hoá Công ty THương mại Hữu Nghị II có thể lựa chọn một trong các hình thức cổ phần sau:
Giữ nguyên giá trị hiện có của Công ty, phát hành cổ phiếu thu thêm vốn để đầu tư cho phát triển Công ty.
Bán một phần giá trị hiện có của Công ty.
Hoặc tách một phần (bộ phận) của Công ty có đủ điều kiện để cổ phần hoá. Căn cứ vào điều kiện cụ thể của Công ty để áp dụng một trong các hình thức nêu trên. ở đây nên sử dụng hình thức thứ ba là tách một bộ phận Công ty có đủ điều kiện để tiến hành cổ phần hoá là phù hợp nhất vì làm theo hình thức này Công ty vừa làm vừa rút kinh nghiệm thực tế trong quá trình thực hiện cổ phần hoá phát sinh. Qua đây sẽ tạo ra nhiều kinh nghiệm hơn và có nhiều giải pháp, hướng đi tốt hơn cho việc cổ phần hoá những bộ phận tiếp theo.
Để thực hiện cổ phần hoá thành công, Công ty cần phải tiến hành làm các công việc sau:
Trước tiên, thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, thuộc Công ty xuất nhập khẩu Thương Mại Hữu Nghị II gồm từ 5 đến 6 đồng chí trong đó gồm: một đồng chí trưởng ban và các uỷ viên là những người có trình độ chuyên môn trong công tác tổ chức điều hành hoạt động doanh nghiệp, có kiến thức chuyên môn trong kinh doanh, có quan điểm nhất quán, mong muốn và thực sự quan tâm tới việc đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá Công ty.
Sau đó, tiến hành xây dựng phương án cổ phần hoá Công ty bao gồm:
Phân tích, đánh giá chính xác quá trình và đầy đủ thực trạng và triển vọng của Công ty trong ba năm trước thời điểm cổ phần hoá.
Nêu khái quát quá trình hình thành, đặc điểm sản xuất_kinh doanh của Công ty về: nghề nghiệp, quy mô, nhiệm vụ sản xuất kinh doanh.
đánh giá triển vọng phát triển của Công ty trong tương lai.
Phân tích tình hình kinh tế tài chính.
Tiếp theo là, lập phương án kinh doanh sau khi cổ phần hoá thời gian khoảng 3á5 năm.
Tiếp đến, lập báo kiến nghị xử lý lao động, vốn tự có, công nợ, thanh lý tài sản … trước, trong và sau khi cổ phần hoá.
Vấn đề tiếp theo là xác định cổ phiếu và phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Cùng với quá trình này Công ty tiến hành thành lập bộ máy quản lý và soạn thảo điều lệ Công ty để sớm đưa Công ty đi vào hoạt động có hiệu quả.
Nhìn chung để thực hiện cổ phần hoá thành công Công ty phải có một tỷ lệ sinh lợi hấp dẫn, có thông tin và quản lý thông báo công khai trên thị trường chứng khoán, có cơ chế để thu hút nguồn vốn đầu tư của xã hội. Công ty có thể sử dụng các hình thức ưu đãi sau để khuyến khích người mua:
Cho phép mua cổ phiếu trả tiền dần nhiều lần, những lần thanh toán dần có thể từ 3á6 tháng trong khi lợi tức cổ phần lại được tính ngay từ đầu. Người mua cổ phiếu và giữ cổ phiếu không bán lại cho người khác trong một thời gian nhất định thì được hưởng theo tỷ lệ số cổ phiếu hiện có.
Đối với viên chức và công nhân trong Công ty có bán cổ phiếu rộng rãi đều được hưởng những ưu đãi khi mua cổ phiếu, chẳng hạn được mua giá thấp hơn, hoặc được hưởng thêm cổ phiếu tỷ lệ với số lượng cổ phiếu đã mua, được quyền mua trước người ngoài Công ty.
Cổ phần hoá Công ty cũng là một giải pháp tích cực nâng cao năng lực cạnh tranh của Công ty về vốn, cơ cấu bộ máy tổ chức lãnh đạo, trách nhiệm của cán bộ công nhân viên đối với Công ty... tất cả vì sự phát triển chung của Công ty.
2. Một số kiến nghị đối với Nhà Nước
Doanh nghiệp là một thực thể trong nền kinh tế, nó hoạt động trong môi trường kinh doanh nhất định bao gồm môi trường chính trị, kinh tế, xã hội, luật pháp nhất định của mỗi quốc gia. Các doanh nghiệp chịu sự tác động mạnh mẽ và bị chi phối bởi các yếu tố môi trường vĩ mô này chẳng hạn đối với môi trường luật pháp, nếu không nhất quán và ổn định sẽ tác động trực tiếp (có lợi-hại) cho các doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu. Ta nhận thấy rõ hơn về luật thuế xuất nhập khẩu sẽ tác động trực tiếp đến khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp thực hiện xuất khẩu về mặt giá cả. Đó là các nhân tố thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp nói chung và hoạt động xuất khẩu nói riêng.
Đề tài xin kiến nghị một vài ý kiến về tạo môi trường kinh doanh xuất khẩu lành mạnh và thông thoáng hơn, lập các quỹ bảo hiểm và trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu.
2.1Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng dẫn đơn giản hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường.
Những quy định về xuất nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu. Để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động xuất khẩu nông lâm sản nói riêng và xuất khẩu hàng hoá dịch vụ nói chung ở nước ta hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là:
Hệ thống các văn bản pháp lý, quy định phải được đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các Công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các Công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bàn thành phẩm không được hưởng các ưu đãi. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này.
Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu: Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số vấn đề bất cập không thích hợp với những diễn biến của hoạt động xuất khẩu làm ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả của hoạt động xuất khẩu và đòi hỏi phải giải quyết. Về lâu dài, các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung và sửa đổi tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu diễn ra thuận lợi.
Hiện nay ở nước ta, thủ tục xuất khẩu vẫn còn rườm rà gây phức tạp, lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu khi tiến hành các thủ tục xuất khẩu. Vì thế trong công cuộc cải cách thủ tục hành chính Việt Nam cần đặc biệt chú trọng đến cải cách công tác quản lý các hoạt động xuất khẩu, từng bước bãi bỏ các thủ tục không cần thiết để tiết kiệm thời gian, tiền của, công sức cho các doanh nghiệp.
Về khâu tổ chức xuất khẩu hàng hoá có hạn ngạch Nhà nước không thể thả nổi cho các doanh nghiệp tự do xuất khẩu hàng hoá vì thế dễ dẫn đến trường hợp cơ cấu hàng xuất khẩu không phù hợp nhưng cũng không nên quá cứng nhắc trong việc chỉ định các doanh nghiệp xuất khẩu. Chế độ cấp và phân bổ hạn ngạch phải đúng, đủ và kịp thời để các doanh nghiệp được giao nhiệm vụ xuất khẩu có điều kiện chủ động trong hoạt động kinh doanh.
Chế độ phân bổ hạn ngạch theo từng tháng, quý như hiện nay cũng cần phải được chấn chỉnh vì nó hạn chế khả năng của các doanh nghiệp trước những biến động của thị trường. Thay vào đó Nhà nước nên sử dụng chế độ phân bổ hạn ngạch một cách tương đối ổn định cho các doanh nghiệp đã được lựa chọn.
Về lâu dài Nhà nước cần phải thay quản lý xuất khẩu và điều hành xuất khẩu qua việc định đầu mối xuất khẩu, phân bổ hạn ngạch xuất khẩu và cấp quota bằng đấu thầu quota hay đánh thuế xuất khẩu cho mọi thành phần cùng tham gia xuất khẩu. Nguồn thu từ đấu thầu quota xuất khẩu sẽ bổ sung vào ngân sách Nhà nước, quỹ bình ổn giá và quỹ phát triển sản xuất.
Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu.
Đây là chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường.
2.2. Lập các quỹ bảo hiểm.
Do cung, cầu hàng hoá trên thị trường thế giới không ổn định nên giá cả cũng lên xuống thất thường. Vì việc thiết lập ra các quỹ bảo hiểm để hạn chế bớt rủi ro là rất cần thiết. Thông thường Nhà nước không xây dựng quỹ từ nguồn ngân sách Nhà nước mà khuyến khích các hiệp hội ngành tự nguyện thành lập. Quỹ bảo hiểm có nhiệm vụ trợ giúp các thành viên hiệp hội khi giá cả biến động thất thường . Cơ chế hoạt động sẽ do từng hiệp hội tự xác định , nhưng nhìn chung nên đặt ra một mức giá bảo hiểm, đảm bảo cho người sản xuất thu hồi vốn đầu tư và có mức lợi nhuận thoả đáng.
2.3.Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu.
Giúp đỡ về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu nói chung và doanh nghiệp xuất khẩu lâm sản nói riêng .
Hiện nay có một thực tế là nhiều doanh nghiệp do thiếu vốn nên đã bị hạn chế trong kinh doanh, trong khi đó ở các Ngân hàng lại xảy ra tình trạng ứ đọng vốn do các doanh nghiệp khó có thể đáp ứng được các đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn... nên rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này.
Trong thời gian tới, Nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho các Công ty vay vốn để sản xuất, thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước cũng nên bỏ quy định khống chế hạn mức tín dụng đối với các ngân hàng thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu. Về phía Ngân hàng, Nhà nước cần xem xét lại các quy định về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là điều kiện đảm bảo an toàn vốn cho vay chứ không phải là vật căn cứ giữa ngân hàng và doanh nghiệp.
Đẩy mạnh xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu. Vì vậy tổ chức tốt khâu cung cấp thông tin thị trường cho các doanh nghiệp là hết sức cần thiết và là vấn đề chiếm vị trí quan trọng trong việc thành công hay thất bại của doanh nghiệp. Hiện nay ở nước ta thông tin về thị trường vẫn còn rất thiếu và chậm, mức độ chính xác không cao nên đã ảnh hưởng rất nhiều đến xuất khẩu. Trong thời gian tới, Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan cần chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo thị trường thế giới. Đồng thời tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường.
Nhà nước đóng vai trò tích cực hơn nữa trong việc phối hợp với các doanh nghiệp tìm kiếm, mở rộng thị trường, giúp các doanh nghiệp giải quyết được những khó khăn ở tầm vĩ mô. Qua đó tạo điều kiện cho họ tiếp cận và xâm nhập vào thị trường mới, có cơ hội giới thiệu sản phẩm của mình cho khách hàng nước ngoài.
Thông qua các chính sách kinh tế đối ngoại như mở rộng các quan hệ song phương, đa phương, ký kết các hiệp định thương mại sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường các nước đó. Sự tham gia của nước ta vào các hiệp định chung về thương mại và các tổ chức thương mại quốc tế sẽ dẫn dắt các doanh nghiệp xuất khẩu tiếp cận tốt với thị trường thế giới, nắm bắt nhu cầu tốt hơn. Đặc biệt sự tham gia của nước ta vào các khối liên kết kinh tế như ASEAN đã tạo điều kiện rất thuận lợi cho xuất khẩu của nước nhà. Vì vậy trong thời gian tới, Nhà nước cần phấn đấu tích cực để tiếp tục tham gia hơn nữa vào các tổ chức kinh tế khu vực cũng như toàn cầu nhằm từng bước tạo ra thị trường ổn định, định hướng đúng đắn cho các nhà sản xuất, kinh doanh xuất khẩu.
Kết luận
Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng trong hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế, là tiền đề để thực hiện Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước.
Việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cũng chính là đã góp phần quan trọng vào công cuộc phát triển xuất khẩu và phát triển hoạt động kinh tế đối ngoại của đất nước.
THương mại Hữu Nghị II cũng là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Sau hơn 10 năm hoạt động, phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, do những biến động về kinh tế, chính trị trên thế giới song Công ty đã không chịu bó tay mà ngược lại, vẫn đang tìm những hướng đi mới, những giải pháp mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu.
Qua thời gian thực tập ở Công ty em đã làm chuyên đề nghiên cứu về thực trạng xuất khẩu của Công ty Thương Mại Hữu Nghị II , cùng với một số ý kiến đề xuất của bản thân về một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
Do thời gian có hạn và năng lực bản thân còn hạn chế nên nội dung chuyên đề còn rất nhiều thiếu sót, rất mong có sự góp ý của các thầy cô giáo và các bạn quan tâm đến vấn đề này nhằm bổ sung hoàn thiện hơn.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo Thạc sỹ Nguyễn Anh Minh, người đã trực tiếp hướng dẫn em thực hiện đề tài này. Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến các cô chú trong Công ty đã tận tình tạo điều kiện giúp đỡ em trong suốt thời gian thực tập ở Công ty.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0429.doc