Trình độ dân trí cũng ảnh hưởng đến cách thức mua sắm của người tiêu dùng. Do trình độ văn hoá, hiểu biết của người tiêu dùng tăng lên làm dịch chuyển nhu cầu tiêu dùng đối với nhiều loại sản phẩm dịch vụ. Nếu doanh nghiệp không đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng thì chắc chắn xí nghiêp sẽ thất bại trong cạnh tranh cũng như trong hoạt động kinh doanh.
e. Nhân tố thuộc về thị trường
Thị trường cũng là một nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động tiêu thụ sản phẩm của xí nghiệp. Trên thị trường, cung cấp sản phẩm nào đó có thể lên xuống do nhiều nguyên nhân làm cho giá cả sản phẩm cũng biến động và ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn và ngược lại. Việc cung ứng vừa đủ để thoả mãn nhu cầu về một loại sản phẩm trong một thời điểm nhất định là trạng thái cân bằng cung cầu.
* Tình hình tiêu thụ sản phẩm giầy ở một số nước trong khu vực:
Ngày nay với sự lớn mạnh của nền kinh tế nhu cầu làm đẹp của con người không ngừng tăng lên. Xu hướng trong cách mua sắm của con người không chỉ là bền, chắc mà là đẹp và hợp mốt. Với những nước phát triển nhu cầu về hàng hoá chất lượng cao ngày càng tăng, những nước phát triển và những nước có dân số đông có thị trường rộng lớn như: Mỹ, Đức, Trung Quốc nhu cầu giầy dép ở những nước này cao cung không đủ cầu vì vậy họ phải nhập khẩu từ những nước khác.
56 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1004 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phẩm khác tăng gồm dép xăng đan, dép đi trong nhà, ví da, túi sách, nguyên liệu phục vụ sản xuất giầy dép. Năm 2004 đạt 7.476,511 tr/đ, so với năm 2003 tăng 3.053,176 tr/đ, với tỷ lệ tăng 69,02%. Xét về tỷ trọng, doanh thu các sản phẩm khác chiếm 29,66% giảm 7,25% so với năm 2003. Trong các mặt hàng chủ yếu thì giầy vải chiếm tỷ trọng lớn nhất, sau đó là giầy da và sau cùng là giầy thể thao, cụ thể là:
- Mặt hàng giầy vải:
Doanh thu mặt hàng này năm 2004 đạt 12.544,361 tr/đ, so với năm 2003 tăng 5.249,215 tr/đ với tỷ lệ tăng 71,86%. Xét về tỷ trọng năm 2004 chiếm 49,79% trong tổng doanh thu, so với năm 2003 giảm 11,16%.
- Mặt hàng giầy da:
Doanh thu mặt hàng này năm 2004 đạt 3.509,276 tr/đ so với năm 2003 tăng 3.215,857 trđ với tỷ lệ tăng 63,25%, xét về tỷ trọng năm 2004 chiếm 13,92% trong tổng doanh thu, so với năm 2003 tăng 11,78%.
- Mặt hàng giầy thể thao:
Doanh thu mặt hàng này năm 2004 đạt 1.670,550 tr/ đ, chiếm tỷ trọng 6,63% trong tổng doanh thu. Sở dĩ chỉ tiêu chỉ đạt được thấp như vậy vì đây là mặt hàng mới bắt đầu xâm nhập cho nên chưa thực sự tìm được thị trường của mình.
Vậy qua sự phân tích trên cho ta thấy rằng, doanh thu bán hàng tăng nhanh trong hai năm qua với tốc độ tăng rất nhanh 119,34% và mặt hàng giầy vải là mặt hàng chủ lực, truyền thống của xí nghiệp. Xí nghiệp cần quan tâm hơn nữa đến số lượng, chất lượng, giá cả, mẫu mã...để đáp ứng nhanh nhu cầu ngày càng tăng của người tiêu dùng. Xét về tỷ trọng, mặt hàng này năm 2004 giảm so với năm 2003. Nguyên nhân là do năm 2004 có nhiều biến động về thị trường thế giới và khu vực:
* Sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh trong và ngoài nước. Nước ngoài có Trung Quốc - một đất nước hơn tỷ dân, giá lao động rẻ, có nhiều lợi thế cạnh tranh hơn Việt Nam, sản phẩm đa dạng phong phú giá rẻ có tính cạnh tranh cao. Bên cạnh đó các công ty trong nước như công ty giầy Thăng Long, công ty da giầy Thượng Đình...
Về mặt hàng giầy thể thao là mặt hàng mũi nhọn đang được thị trường chấp nhận. Mặt hàng giầy da mặc dù là tỷ trọng không lớn nhưng tăng rất nhanh với tốc độ tăng doanh thu là 126,25%. Nguyên nhân là do bắt đầu từ tháng 8/1999 xí nghiệp mới quyết định tận dụng dây chuyền sản xuất giầy da cũ để đầu tư dây chuyền giầy nữ. Năm 2003 chưa sản xuất được nhiều, sang năm 2004 mới phát huy được công suất và mặt hàng này đã được thị trường chấp nhận. Thị trường tiêu thụ chủ yếu của mặt hàng này là Anh, Newzealand, Italia và một số thị trường khác. Vậy mặt hàng giầy da chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, còn tiêu dùng trong nước là rất ít. Công ty cần quan hơn nữa đến mặt hàng này để mở rộng thị trường tiêu thụ. Còn đối với mặt hàng giầy thể thao là mặt hàng mới chủ yếu là phục vụ xuất khẩu, thị trường chính là Thụy Điển. Trong những năm tới xí nghiệp cần mở rộng thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước để tăng doanh số bán ra. Còn các sản phẩm khác như dép xăng đan, dép đi trong nhà, ví da, túi sách, thắt lưng...làm đa dạng chủng loại sản phẩm tăng thu nhập cho xí nghiệp.
Tóm lại, qua bảng 1 trên chứng tỏ việc chuyển đổi ngành nghề của xí nghiệp là đúng đắn giúp cho công ty dần dần hồi phục và phát triển, lấy lại lòng tin đối với khách hàng. Doanh thu bán hàng ngày càng tăng, tính từ năm 2003 - 2005. Trong những năm tới xí nghiệp sẽ mở rộng sản xuất kinh doanh, mở rộng thị trường trong và ngoài nước, thu hút sự chú ý của khách hàng bằng giá cả, chất lượng sản phẩm, chất lượng mẫu mã...Năm 2004 xí nghiệp đã được cấp chứng chỉ ISO 9002 cho xí nghiệp sản xuất giầy vải. Đó là thành công to lớn đối với toàn xí nghiệp. Bước đầu đánh giá những bước đi đúng đắn của toàn xí nghiệp, tạo tiền đề cho việc áp dụng ISO 9002 cho xí nghiệp giầy vải năm 2005. Tiếp tục nâng cao chất lượng sản phẩm nâng cao năng suất lao động để đáp ứng nhu cầu thị trường.
2. Phương thức tiêu thụ
Để tiêu thụ sản phẩm đối với một xí nghiệp , xí nghiệp thương mại và doanh nghiệp sản xuất đều phải chuẩn bị cho mình những phương thức bán khác nhau, muốn đẩy mạnh việc tiêu thụ sản phẩm doanh nghiệp cần tìm hiểu, phân tích nghiên cứu các phương thức bán để thu được hiệu quả cao nhất.
Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam có chức năng vừa sản xuất vừa kinh doanh xuất khẩu cho nên hình thức tiêu thụ sản phẩm chủ yếu là bán buôn và xuất khẩu theo phương thức xuất khẩu trực tiếp và ủy thác. Tình hình tiêu thụ sản phẩm được thể hiện qua bảng 5 như sau:
Bảng 5: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo các hình thức năm 2003- 2005
Đ/v: triệu đồng
Chỉ tiêu
Thực hiện
2003
Thực hiện
2004
Thực hiện
2005
Tổng doanh thu
11.985,891
25.210,699
53.299000
1. Doanh thu trong nước:
+ Bán buôn
+ Bán lẻ
2.222,641
1.701,19
521,451
5.282,342
4.675,752
606,59
30.769000
29.315,621
1.453,379
2. Doanh thu xuất khẩu:
+ Trực tiếp
+ Xuất khẩu qua ủy thác
9.763,25
9.372,72
390,53
19.928,357
19.928,357
---
22.530000
22.530000
---
Năm 2005 đạt tổng doanh thu 53.299000 tr/đ tăng 28.088,301 so với năm 2004 và tăng 41.313,109 tr/đ so với năm 2003 mà cụ thể:
+ Doanh thu trong nước: đạt 30.769 tr/đ trong năm 2005 gấp gần 6 lần của năm 2004 và gấp hơn 13 lần của năm 2003. Nếu doanh thu bán buôn năm 2004 là 4.675,7521999 tr/đ tăng 2.974,562 tr/đ với tỷ lệ tăng 174,85% của năm 2003 thì sang năm 2005 con số này là 29.315,621 tr/đ. Điều này chứng tỏ hoạt động bán buôn của xí nghiệp phát triển khá mạnh do tìm được thị trường tiêu thụ sản phẩm. Còn thị phần bán lẻ của xí nghiệp qua biểu trên cho thấy đây không phải là phương thức hợp lý cho xí nghệp tiêu thụ sản phẩm của mình. Với tỷ trọng 4,35% trong tổng doanh thu trong nước của năm 2003 và 2,4% trong năm 2004 thực sự không phải là con số lớn trong tổng mức doanh thu của xí nghiệp.
+ Doanh thu xuất khẩu: cũng giống như phương thức tiêu thụ bán buôn và bán lẻ, hình thức xuất khẩu tại xí nghiệp có hai dạng trực tiếp và xuất khẩu qua ủy thác. Nhưng hình thức xuất khẩu trực tiếp là phương thức chính trong việc xuất khẩu của xí nghiệp. Nếu như năm 2003 doanh thu xuất khẩu trực tiếp là 9.372,72 tr/đ, xuất khẩu qua ủy thác là 390, 53 tr/đ thì sang năm 2004, 2005 thì doanh thu xuất khẩu qua ủy thác là không có. Điều này cũng là hợp lý bởi việc xuất khẩu trực tiếp sẽ giúp xí nghiệp chủ động trong sản xuất, ký kết hợp đồng...
Để hiểu rõ hơn về tình hình tiêu thụ sản phẩm theo các phương thức khác nhau ta có thể theo dõi biểu sau để thấy được tỷ trọng doanh thu trong hai năm 2004 - 2005
Biểu 1: Tỷ trọng doanh thu theo hình thức năm 2004 - 2005
Nếu như theo phân tích trên thì tỷ lệ doanh thu trong hai năm 2003 – 2004 là tương đối đều với tỷ trọng lớn là doanh thu xuất khẩu. Trong năm 2004 tỷ trọng doanh thu nội địa là 20,95% trong tổng số doanh thu của xí nghiệp tương ứng với 79,05% doanh thu xuất khẩu thì tới năm 2005 tỷ trọng giữa doanh thu nội địa và doanh thu xuất khẩu lại lệch nhau rất lớn. Lúc này tỷ trọng của doanh thu xuất khẩu chỉ còn chiếm 42,28% trong khi con số của doanh thu nội địa là 57,72%. Nguyên nhân dẫn tới điều này trước hết là do thị trường xuất khẩu hiện nay bị mất dần do có nhiều đối thủ mới cạnh tranh, đồng thời cũng bị ảnh hưởng phần nào từ những cuộc khủng hoảng kinh tế, chính trị tại châu Âu, châu Mỹ...Song phần chủ yếu nhất vẫn là do chính sách mới của xí nghiệp là tập trung nghiên cứu mở rộng thị trường nội địa, nâng cao thị phần sản phẩm xí nghiệp tạo tầm ảnh hưởng lớn hơn trong tương lai.
3. Địa bàn tiêu thụ sản phẩm.
* Thị trường xuất khẩu:
Việc nghiên cứu thị trường là một việc làm khổng thể thiếu được trong hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Thị trường là vấn đề quan tâm đầu tiên của xí nghiệp khi xí nghiệp muốn đưa sản phẩm tới người tiêu dùng. Xí nghiệp muốn hoạt động xuất khẩu phải có thị trường xuất khẩu. Theo lý thuyết Marketing hiện đại thì mọi việc đều bắt đầu từ thị trường, từ khách hàng, từ người tiêu dùng.
Xí nghiệp thương mại dich vu da giầy Việt nam mới chú trọng hoạt động xuất nhập khẩu trong một vài năm trở lại đây nên thị trường xuất khẩu không nhiều. Thị trường xuất khẩu hiện nay của xí nghiệp chủ yếu là một số nước như Anh, Pháp, Đức...Kết quả tiêu thụ được thể hiện qua biểu 1.
Nhìn vào biểu 2 ta thấy doanh thu xuất khẩu tăng nhanh. Năm 2004 đạt 19.928,375 tr/đ. Năm 2003 đạt 9.763,25 tr/đ. Năm 2004 so với năm 2003 tăng 10.165,125 tr/đ với tỷ lệ tăng 104,12%. Doanh thu xuất khẩu tăng là do:
+ Doanh thu qua thị trường Anh: Năm 2004 đạt 955,63 tr/đ so với năm 2003 tăng 3857,39 tr/đ, với tỷ lệ tăng 351,223%. Xét về tỷ trọng doanh thu tại thị trường Anh chiếm 25,07% tăng 13,82% so với năm 2003. Điều này chứng tỏ hoạt động tiêu thụ ở Anh là rất tốt, không những tốc độ tiêu thụ tăng mà còn cả về tỷ trọng. Nguyên nhân tăng nhanh như vậy là do năm 2003 xí nghiệp chỉ có xuất khẩu giầy vải nhưng sang năm 2004 cộng thêm cả giầy da.
+ Thị trường Pháp: Doanh thu tiêu thụ năm 2004 đạt 2118,21 tr/đ so với năm 2003 tăng 176,98 tr/đ, xét về tỷ trọng doanh thu năm 2004 chiếm tỷ trọng 10,62% giảm -9,35% so với năm 2003.
+ Thị trường Đức: Doanh thu xuất khẩu năm 2004 đạt 5319,85 tr/đ so với năm 2003 tăng 1679,3 tr/đ với tỷ lệ tăng là 46,13%. Nhưng xét về mặt tỷ trọng năm 2003 chiếm 26,69% so với năm 2004 giảm 10,6%.
+ Thị trường Hà Lan: Doanh thu xuất khẩu năm 2004 đạt 1721,33 tr/đ chiếm 8,6% trong tổng doanh thu so với năm 2003 tăng 725,58 tr/đ với tỷ lệ tăng 72,87% nhưng về tỷ trọng lại giảm đi 1,59%.
+ Thị trường Thụy Sĩ: Doanh thu xuất khẩu năm 2004 đạt 2678,47 tr/đ chiếm 13,44% trong tổng doanh thu xuất khẩu, so với năm 2003 tăng 1236,09 tr/đ với tỷ lệ tăng 85,69%, nhưng tỷ trọng giảm 1,33%.
+ Thị trường Thụy Điển: Doanh thu tiêu thụ năm 2004 đạt 755,98 tr/đ chiếm tỷ trọng 3,79% trong tổng doanh thu.
+ Thị trường úc và Newzealand: Doanh thu tiêu thụ năm 2004 đạt 975,42 trđ chiếm tỷ trọng 4,47% trong tổng doanh thu.
+ Thị trường khác: bao gồm Bỉ, Italia, Đài Loan...doanh thu tiêu thụ năm 2004 đạt 1403,985 tr/đ chiếm tỷ trọng 7,04% so với năm 2003 tăng 767,885 tr/đ, với tỷ lệ tăng 120,72%, xét về tỷ trọng năm 2004 tăng 0,52% so với năm 2003.
Qua sự phân tích trên ta thấy rằng doanh thu tiêu thụ qua các nước tăng lên rõ rệt. Trong các nước trên thì nổi trội vẫn là các nước Anh, Đức, Pháp, Thụy Sĩ chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng doanh thu xuất khẩu. Các nước này là khách hàng truyền thống của xí nghiệp, họ có quan hệ làm ăn buôn bán lâu dài. Còn các thị trường khách doanh thu tiêu thụ chiếm tỷ trọng nhỏ không đáng kể mà chủ yếu là khách hàng mới như Thụy Điển, úc, Newzealand. Sang năm 2005 công ty mở rộng thị trường xuất khẩu sang Đan Mạch với sản phẩm giầy thể thao, sang Hồng Kông với sản phẩm giầy da nữ. Chúng ta có thể phân tích kỹ hơn thông qua biểu sau:
Biểu 2: Tình hình xuất khẩu của xí nghiệp trong năm 2005
Đơn vị tính: USD
Qua biểu đồ trên ta thấy với thì trường mới như Đan Mạch, Hồng Kông thì đó không phải là con số thấp trong tổng doanh thu xuất khẩu của xí nghiệp. Song với thị trường Italia và Hà Lan thì thật sự không mấy khả quan bởi đây vốn là những thị trường truyền thống canopy xí nghiệp trước đây. Trong khi đó ba thị trường truyền thống là Đức, Anh, Thụy Sĩ vẫn khẳng định là thị phần quan trọng của xí nghiệp trên con đường nâng cao thị trường xuất khẩu.
Từ những phân tích trên xí nghiệp cần phải có những chính sách phù hợp, kịp thời nhằm nâng cao thị phần đã có cũng như mở rộng những thị trường còn thấp, đặc biệt là những thị trường truyền thống.
Tóm lại qua sự phân tích trên ta thấy xu hướng xuất khẩu sản phẩm tập trung vào EU. Sở dĩ có được điều này là do chính sách khuyến khích xuất khẩu của Việt Nam đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp,xí nghiệp tham gia kinh doanh xuất khẩu. Chính phủ có các nghị định như nghị định 57/CP đã mở rộng đối tượng xuất khẩu, chủ thể tham gia kinh doanh xuất khẩu ở các thành phần kinh tế. Chúng ta được hưởng chế độ ưu đãi chung GSP (General System of Preference). Đây là hệ thống ưu đãi phổ cập; là cơ chế chủ yếu của các nước phương Tây nhằm miễn thuế cho các nước kém phát triển. Theo quy chế này sản phẩm của Việt Nam xuất khẩu sang EU được hưởng ưu đãi về thuế. Đó là ưu thế của chúng ta trong quá trình cạnh tranh với các nước như Trung Quốc, Đài Loan...Hơn nữa đây là thị trường đầy tiềm năng có mức tiêu dùng cao (6 - 7 đôi/năm/người), đặc biệt là Anh, Pháp, Đức, Thụy Sĩ những bạn hàng truyền thống không thể mất trong quá trình xí nghiệp tìm kiếm thị trường mới,
* Thị trường trong nước:
Như đã nói ở trên thị trường là vô cùng quan trọng đối với khâu tiêu thụ sản phẩm. Vậy việc nghiên cứu thị trường là việc không thể thiếu được đối với bất kì một xí nghiệp nào. Cũng như thị trường xuất khẩu, thị trường trong nước cũng có những điểm mạnh điểm yếu của nó. Đặc biệt là đối với mặt hàng giầy dép thì tiêu thụ trong nước là không thể thiếu được vì mặt hàng này ai cũng có nhu cầu chỉ khác là ở mức độ cao hay thấp. Để đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, xí nghiệp thương mại dịch vu da giầy Viêt nam đã và đang cho ra hàng loạt sản phẩm mới với đủ chủng loại mẫu mã, mầu sắc. Sản phẩm của xí nghiệp đã được bán trên 40 đại lý ở khắp cả nước. Doanh thu tiêu thụ được thể hiện qua biểu 3.
Doanh thu bán hàng năm 2005 đạt 145,54 tr/đ chiếm tỷ trọng 9,67% trong tổng doanh thu so với năm 2004 tăng 5,62 tr/đ, với tỷ lệ tăng 4,02% nhưng tỷ trọng giảm 1,08%. Để phân tích kỹ hơn về điều này sẽ phân tích cụ thể một số đại lý cụ thể:
+ Đại lý 63 Hàng Bồ: Doanh thu bán hàng năm 2005 đạt 189,95 tr/đ chiếm tỷ trọng 12,62% trong tổng doanh thu các sản phẩm giầy dép. So với năm 2004 tăng 14,67% với tỷ lệ tăng ,37% nhưng tỷ trọng giảm 0,85%.
+ Đại lý 47 Quán Thánh: Doanh thu bán hàng năm 2005 đạt 132,24 tr/đ, chiếm tỷ trọng 8,79%. So với năm 2004 tăng 16,7 tr/đ với tỷ lệ tăng 14,46%, tỷ trọng giảm 0,09%.
+ Đại lý chị Hoà (Nguyễn Trãi): Doanh thu bán hàng năm 2005 đạt 110,5 tr/đ chiếm tỷ trọng 7,34% so với năm 2004 doanh thu bán hàng tăng 11 tr/đ với tỷ lệ tăng 11,05 tr/đ nhưng tỷ trọng giảm 0,31%.
Như vậy qua phân tích trên cho ta thấy mặc dù doanh thu bán hàng của các đại lý đều tăng nhưng xét về mặt tỷ trọng giảm (tuy không đáng kể) chứng tỏ việc kinh doanh của các đại lý này chưa thật tốt. Nguyên nhân là do xí nghiệp mới chuyển đổi ngành nghề sản xuất kinh doanh từ thuộc da sang sản xuất kinh doanh mặt hàng giầy dép. Vì vậy mà mặt hàng giầy dép vẫn còn khá mới mẻ với khách hàng. Việc mở các đại lý và các của hàng với mục đích là để bán và giới thiệu sản phẩm nhưng giới thiệu sản phẩm là chính. Qua các đại lý cửa hàng, khách hàng có thể xem hàng, thoả thuận mua hàng ký kết hợp đồng mua bán. Các cửa hàng và đại lý của xí nghiệp được trang bị đầy đủ về cơ sở vật chất để phục vụ bán hàng. Khách hàng có thể tự chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình, vì các sản phẩm của xí nghiệp được niêm yết giá, tiết kiệm được thời gian mua sắm của khách hàng. Nhân viên bán hàng chỉ là người chỉ dẫn, thu tiền và giải thích nếu khách hàng yêu cầu. Mỗi sản phẩm của xí nghiệp đều có nhãn hiệu riêng, phân biệt với các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Các đại lý của xí nghiệp được bố trí ở các địa điểm tương đối thuận lợi đảm bảo thuận tiện xe cộ đi lại và ra vào. Nhưng chỉ có một số đại lý là thu hút được nhiều khách hàng còn lại là chưa thu hút được khách hàng mà chủ yếu là để giới thiệu sản phẩm và hiện nay thị trường tiêu thụ của xí nghiệp còn gặp nhiều khó khăn.
Sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh có nhiều lợi thế hơn xí nghiệp, ví dụ như Trung Quốc một thị trường giầu tiềm năng, có đầy đủ nguyên vật liệu phục vụ sản xuất giầy dép, nhân công rẻ, phù hợp với mức thu nhập của người dân Việt Nam. Bên cạnh đó còn có các đối thủ cạnh tranh trong nước như công ty giầy Thượng Đình, giầy Việt Thắng, công ty Bitis...trong khi đó sản phẩm của xí nghiệp lại quá ít về mẫu mã, chủng loại, giá cả lại cao, chưa đáp ứng hết nhu cầu của người dân Việt Nam. Xí nghiệp cần phải có biện pháp đúng đắn để thúc đẩy tiêu thụ trong nước tăng doanh thu bán hàng.
4. Giá cả và chất lượng sản phẩm tiêu thụ.
Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại Da giầy Việt Nam thành lập riêng cho mình một hội đồng làm giá. Hội đồng giá khi xây dựng chính sách đều đảm bảo tuân thủ theo nguyên tắc: “Đảm bảo bù đắp hoàn toàn những chi phí sản xuất, phân phối, tiêu thụ; đảm bảo mức lợi nhuận công bằng vì những công sức và rủi ro phải gánh chịu”.
Tuy nhiên khi sản phẩm được mang đi tiêu thụ thì tuỳ tình hình biến động của thị trường mà có sự điều chỉnh hợp lý, thể hiện sự linh hoạt của chính sách giá và phù hợp với mục tiêu của xí ngiệp khi đó. Sau đây là một số loại chiến lược giá cả mà hiện nay xí nghiệp đang áp dụng.
Một số loại chiến lược giá cả:
+ Chiến lược ổn định giá cả: là chiến lược duy trì cho được mức giá hiện đang bán. Tùy từng sản phẩm, địa bàn khu vực tiêu thụ xí nghiệp có chính sách nhằm ổn định giá bán ví dụ như khi sản phẩm của xí nghiệp đã có được uy tín với khách hàng, đầu ra ổn định lâu dài, thị trường tiêu thụ có nền kinh tế ổn định.
+ Chiến lược tăng giá: là chiến lược đưa giá lên cao hơn các mức giá đang bán của xí nghiệp. Bởi nếu xét thấy sản phẩm của mình có vị trí tốt trong thị trường tiêu thụ, được sự tín nhiệm, đánh giá cao của khách hàng xí nghiệp có thể đẩy giá lên cao trong điều kiện cho phép nhằm thu lợi nhuận cao hơn.
+ Chiến lược giảm giá: là chiến lược hạ thấp các mức giá đang bán của xí nghiệp bởi có một số thị trường khu vực cạnh tranh quyết liệt, xí nghiệp thực hiện chiến lược giảm giá nhằm thu hút khách hàng, giữ vững thị phần tiêu thụ.
+ Chiến lược giá thấp: có thể thu hút được khách hàng tăng lên nhưng cũng có thể tạo ra tâm lý nghi ngờ cho người tiêu dùng về chất lượng sản phẩm của mình. Mặt khác có thể gây bất lợi cho xí nghiệp khi áp dụng trong một thời gian dài.
+ Chiến lược giá cao: Thông thường chính sách này sử dụng khi xí nghiệp kiểm soát được thị trường, lúc này xí nghiệp cần bán với giá cao để thu lợi nhuận độc quyền. Bán ở mức giá tương đối cao so với thị trường có thể coi là một thủ pháp tạm thời trong một số điều kiện nhất định.
Với những chiến lược giá cả cụ thể như hiện nay xí nghiệp vẫn luôn chủ động tìm kiếm, nghiên cứu thị trường nhằm đưa ra những quyết định chính xác cho từng khu vực thị trường tiêu thụ. Hàng năm xí ngiệp vẫn xây dựng hệ thống giá, hệ thống quản lý chất lượng cho những sản phẩm tiêu thụ, so sánh đối chiếu giữa các năm để từ đó có sự điều chỉnh hợp lý, linh hoạt hơn. Đặc biệt xí ngiệp luôn luôn tập trung nghiên cứu, xác định rõ những nhân tố ảnh hưởng tới sự biến động của giá sản phẩm như mức tiêu dùng, thu nhập bình quân...
Một công cụ hữu ích trong việc xác định mức tiêu dùng đó là biểu phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm theo các quý. Dưới đây là biểu 13 với những thông số thể hiện tình hình tiêu thụ theo quý trong 3 năm 2003 - 2005.
Biểu 3: Tình hình tiêu thụ sản phẩm theo quí tại công ty da giầy Hà Nội
Đơn vị tính: triệu đồng
+ Quí I năm 2004 đạt 8001,29 tr/đ, so với năm 2003 tỷ trọng tăng 15,39% nhưng con số này còn được nâng rất cao trong năm 2005 với 23.215,923 tr/đ doanh thu. Điều này chứng tỏ tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong quí I là rất tốt.
+ Quí II năm 2004 đạt 5.199,54 tr/đ tiền doanh thu bán hàng, chiếm tỷ trọng 20,62% trong tổng doanh thu bán hàng, so với năm 2003 tăng 3799,56 tr/đ tương ứng tỷ lệ tăng 271,4%. Trong khi đó tỷ trọng năm 2005 lại giảm xuống còn 9.096,012 so với Quí I tương ứng với giá trị 13.255, 13 tr/đ.
+ Quí III đạt doanh thu rất thấp cùng trong cả 3 năm gần đây. Nếu như năm 2003 có tăng 2.141,25 tr/đ thì cũng trong quí này năm 200, 2004 đều giảm rõ rệt, tương ứng với doanh thu 4.211,44 tr/đ và 3.874,608 tr/đ. Đặc biệt là năm 2005 doanh thu quí III chỉ bằng 0,5 lần quí II và bằng 0,16 lần quí I.
+ Quí IV tăng tương đối đều trong 3 năm gần đây trong đó năm 2005 tăng tương đối mạnh là 17.112,156 tr/đ và 7.798,429 tr/đ trong năm 2000. Trong khi đó con số của năm 2003 là không thực sự thuyết phục khi chỉ tăng 1.545,241 tr/đ so với quí III.
Tóm lại, qua sự phân tích trên cho ta thấy được mức tiêu thụ của xí nghiệp chủ yếu tập trung vào Quí I và Quí IV. Quí nào nhiều hơn còn phụ thuộc vào tiết nguyên đán và tháng nào của dương lịch. Qua đây, xí nghiệp nắm được thời điểm tiêu thụ để có kế hoạch sản xuất, điều chỉnh giá cả, tổ chức giới thiệu quảng cáo sản phẩm cho phù hợp chủ động. Từ đó ,xí nghiệp chủ động chuẩn bị các nguyên liệu đầu vào phục vụ sản xuất kinh doanh, máy móc thiết bị nhà xưởng...
Vào các Quí I, Quí IV xí nghiệp tập trung sản xuất các mặt hàng giầy vải, giầy da và giầy thể thao. Còn Quí II, Quí III xí nghiệp sản xuất thêm các mặt hàng dép, xăng đan, túi da, ví, thắt lưng... để giải quyết công ăn việc làm cho công nhân, duy trì chế độ làm việc của công nhân. Bên cạnh đó xí nghiệp cũng chủ động tìm kiếm khách hàng mới ký kết các hợp đồng mua bán, nhận các đơn hàng, thu thập các mẫu hàng trên thị trường cũng như những sản phẩm đang thu hút người tiêu dùng hiện nay để từ đó có những chính sách về giá cả phù hợp hơn khi tung ra thị trường.
III. Đánh giá hoạt động tiêu thụ sản phẩm.
1. Những kết quả đạt được trong công tác tiêu thụ sản phẩm
- Từ năm 2002 xí ngiệp đã xác định đúng hướng đi cho mình bằng cách đầu tư vào 2 dây chuyền sản xuất giầy vải xuất khẩu với tổng số vốn 2,7 tỷ đồng Việt Nam . Nhờ có sự đầu tư lớn này một xí nghiệp đã được ra đời trong xí nghiệp tạo điều kiện làm việc cho hơn 500 lao động, và hiện nay có thêm 1 xí nghiệp giầy da, 1 xí nghiệp cao xu phục vụ sản xuất giầy, dép các loại tăng giá trị xuất khẩu từ 450.000 USD năm 2003 lên 1.105.170 USD năm 2004 và 1.502.000 USD năm 2005, tạo điều kiện làm việc cho hơn 800 lao động.
- Xí nghiệp thực hiện cơ chế khoán sản phẩm cho các đơn vị sản xuất nhằm kích thích sản xuất, nâng cao năng suất lao động. Trong 3 năm trở lại đây kết quả hoạt động kinh doanh của xí ngiệp là rất tốt, đảm bảo tăng mức thu nhập cho công nhân (thu nhập bình quân năm 2003 là 400.000 đồng 1 người/1 tháng, năm 2004 là 450.000 đồng 1 người/ 1 tháng, năm 2005 là 623.000đồng 1 người/1 tháng.
Năm 2005 mặc dù có nhiều khó khăn nhưng so với năm 2004 Xí nghiệp tương mại dịch vụ da giầy Việt nam đã thực hiện hoàn thành vượt mức tất cả chỉ tiêu thực hiện năm trước. Doanh thu tăng 113,34%, nộp ngân sách tăng 41,86% so với năm 2004.
Với mục tiêu không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm thoả mãn yêu cầu của khách hàng, năm 2005 Xí nghiệp đã xây dựng và áp dụng thành công hệ thống quản lý chất lượng quốc tế theo tiêu chuẩn ISO - 9002. Tháng 10/2004 tập đoàn chứng nhận quốc tế, SGS đã đánh giá và chứng nhận hệ thống quản lý chất lượng của xí nghiệp đạt tiêu chuẩn hệ thống quản lý chất lượng quốc tế ISO - 9002, và cấp chứng chỉ ISO - 9002 cho công ty số: Q18727 ngày 20/10/2004. Đây là thành quả to lớn sau 15 tháng phấn đấu liên tục, không mệt mỏi của toàn thể cán bộ xí nghiệp đứng vững và phát triển trong cơ chế thị trường, là giấy thông hành để xí nghiệp thâm nhập và mở rộng thị trường, đặc biệt là những thị trường mới.
- Để chủ động và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thời gian qua Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại Da giầy Việt Nam đã chú trọng đầu tư và xây dựng một trung tâm mấu chốt khá mạnh, với đội ngũ cán bộ gần 30 cán bộ công nhân viên thiết kế và chế thử mẫu.
Năm 2005, Xí nghiệp đã cho ra đời hàng trăm mẫu mốt mới, đáp ứng nhanh chóng và kịp thời các yêu cầu của khách hàng. Trong đó nhiều mẫu được khách hàng chấp nhận và đặt hàng sản xuất trong những năm qua. Đây là điều kiện quan trọng để xí nghiệp thực hiện phương thức kinh doanh mua đứt bán đoạn (FOB) 90%, phương thức gia công chỉ còn 5-10%.
- Năm 2005 xí nghiệp đã xây dựng một đội ngũ cán bộ Marketing trẻ được đào tạo cơ bản kể cả đối với thị trường trong nước và xuất khẩu. Xí nghiệp liên tục tham gia các hội chợ triển lãm quốc tế và Việt Nam tổ chức, công ty đã thiết lập một hệ thống bao gồm 40 đại lý bán và giới thiệu sản phẩm của xí nghiệp trên phạm vi toàn quốc từ TP. Hồ Chí Minh ra, sản phẩm của xí nghiệp đã có mặt ở nhiều nước trên thế giới như Pháp, Anh, Đức, Hà Lan, Bỉ...
- Năm 2005 các đoàn thể trong xí nghiệp đã phối hợp chặt chẽ với chính quyền, giáo dục đoàn viên cán bộ công nhân viên hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị sản xuất kinh doanh của xí nghiệp, ban chấp hành công đoàn, ban chấp hành đoàn thanh niên cũng tổ chức chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho cán bộ công nhân viên, tổ chức các hoạt động văn hoá, văn nghệ thể dục thể thao tham gia tích cực các hoạt động cho Tổng công ty Da giầy Việt Nam và quận Hai Bà Trưng tổ chức và đã đạt được nhiều giải thưởng cao trong các phong trào thi đua. Xí nghiệp đã được Bộ Công nghiệp tặng cờ đơn vị thi đua xuất sắc năm 2005.
PHầN iii
Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại Xí nghiệp sản xuất dịch vụ THƯƠNG MạI DA GIàY VIệT NAM
I. định hướng
1. Định hướng phát triển ngành đến năm 2010
Trong chiến lược phát triển đến năm 2010, ngành Da giầy xác định mục tiêu hướng ra xuất khẩu thu hút ngoại tệ, tự cân đối các điều kiện sản xuất và phát triển. Để vươn lên đứng vững và phát triển ngành da giầy đã đề ra.
- Khẳng định quan điểm hướng ra xuất khẩu, chuyển từ gia công xuất khẩu sang chủ động sản xuất bằng nguyên liệu trong nước, tìm kiếm thị trường và xuất khẩu đảm bảo nâng cao thành quả, hiệu quả, lợi nhuận, tăng nhanh tích luỹ, nâng cao chất lượng và đa dạng sản phẩm các mặt hàng xuất khẩu.
- Ưu điểm phát triển các cơ sở sản xuất nguyên phụ liệu, phẩm chất, phụ tùng phục vụ cho sản xuất nhằm tiết kiệm ngoại tệ đồng thời tạo thế chủ động trong kinh doanh.
- Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa công nghiệp thuộc da, cao su, dệt, phẩm chất...Khuyến khích các thành phần kinh tế cùng phát triển.
- Khai thác tối đa tiềm năng của đất nước nhằm phục vụ cho sản xuất, xuất khẩu.
- Chú trọng khâu thiết kế và tạo các mẫu, đổi mới thiết bị, đồng bộ sản phẩm, tạo thế chủ động sản xuất. Đồng thời đáp ứng yêu cầu phát triển ngành cũng như mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đến 2020.
- Bồi dưỡng nâng cao trình độ cho cán bộ mỹ thuật của ngành đảm bảo tiếp thu nhanh chóng công nghệ, kỹ thuật, dây chuyền sản xuất hiện đại.
- Chú trọng đầu tư chiều sâu để cân đối lại các dây chuyền sản xuất cho đồng bộ, bổ sung thiết bị, thay thế các thiết bị lạc hậu, cải tạo nâng cấp một số thiết bị, đổi mới công nghệ nhằm tăng năng suất, giảm chi phí, mở rộng mặt hàng, khắc phục ô nhiễm môi trường.
- Ưu tiên mở rộng và đầu tư mới nhằm củng cố phát triển.
- Trong bối cảnh khu vực hoá, toàn cầu hoá, Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam tham gia phân công lao động quốc tế thể hiện sản phẩm giầy Da Việt Nam được chấp nhận trên thị trường thế giới. Điều đó có nghĩa là ngành Da giầy Việt Nam phải cạnh tranh, tìm kiếm vị trí xứng đáng, đồng thời phải có nhãn hiệu mác Việt Nam.
Với quan điểm và định hướng trên, Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam cần có chiến lược phát triển thích hợp, có kế hoạch ngắn hạn hay dài hạn cụ thể, đầu tư một cách toàn diện, công nghệ, nghiên cứu thị trường, đào tạo nhân lực...làm được điều đó thì ngành da giầy sẽ là ngành sản xuất và xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.
2. Định hướng hoạt động của Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam.
Từ thực trạng sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, các xu thế phát triển của thị trường, xu hướng phát triển của ngành Da giầy nói chung của các doanh nghiệp giầy xuất khẩu Việt Nam nói riêng, Xí nghiệp đã đề ra hướng đi đúng đắn nhằm đẩy mạnh sản xuất kinh doanh đồng thời mở rộng quy mô sản xuất nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên đáp ứng được nhu cầu của sản xuất trong tương lai.
* Một số chỉ tiêu phấn đấu của Xí nghiệp:
Để cụ thể hoá phương hướng hoạt động kinh doanh Xí nghiệp đã đưa ra các chỉ tiêu.
Bảng 6: Các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất kinh doanh đến năm 2009
Chỉ tiêu
ĐVT
TH 2005
KH 2006
KH 2009
Tổng doanh thu:
Tr.đ
53 299
70000
80000
Sản phẩm chủ yếu:
- Giầy vải
- Giầy da
1000 đôi
1001
272
600
400
1200
1000
Vốn kinh doanh:
- Vốn cố định
- Vốn lưu động
Tr.đ
5030
55321
7126
70000
15000
140000
Nộp ngân sách
Tr.đ
1 200
1 300
1800
Thu nhập bình quân
Tr.đ
0,62
0,7
1,00
Tổng số lao động
Người
800
1000
2000
Ngoài ra chỉ tiêu trên Xí nghiệp còn đề ra các chỉ tiêu cần đạt được.
- Mở rộng thị trường EU, xâm nhập thị trường Mỹ và Nhật Bản.
- Đến năm 2009 Xí nghiệp phải có 10 dây chuyền sản xuất đặc biệt là dây chuyền sản xuất giầy thể thao.
- Nâng cao đời sống của người lao động, tạo việc làm cho khoảng 2000 người lao động.
- Bảo vệ tốt môi trường.
- Đến 2009 tất cả công nhân phải lành nghề, cán bộ kỹ thuật giỏi, cán bộ kinh doanh xuất khẩu giỏi nghiệp vụ, năng động sáng tạo, có nhiều kinh nghiệm.
Tóm lại, Xí nghiệp đã đề ra những chỉ tiêu mà có thể đạt được từ nay đến năm 2009. Các kế hoạch sẽ biến thành hiện thực nếu mọi người trong Xí nghiệp đều nỗ lực phấn đấu vì sự phát triển của Xí nghiệp.
II. Một số giảI pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm tại xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giày việt nam.
Qua việc phân tích những lý luận chung nhất về công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm của Xí nghiệp sản xuất, qua việc phân tích tình hình chung về kết quả sản xuất kinh doanh, đặc biệt là chất lượng của công tác tiêu thụ sản phẩm xí nghiệp Da giầy Việt nam trong thời gian qua, em nhận thấy Xí nghiệp Da giầy Việt Nam muốn tồn tại và phát triển trong điều kiện hiện nay phải luôn coi trọng và quan tâm tới công tác tổ chức tiêu thụ sản phẩm.
Trên cơ sở nghiên cứu tình hình thực tế rút ra một số thành tựu, những mặt hạn chế và các nguyên nhân dẫn đến sự hạn chế đó cũng như dựa trên căn cứ vào những mục tiêu Xí nghiệp đề ra em xin đưa ra một số ý kiến góp phần nâng cao chất lượng công tác tiêu thụ sản phẩm ở Xí nghiệp Da giầy Việt Nam.
1. Những khó khăn hạn chế của Xí nghiêp và nguyên nhân.
a. Khó khăn, hạn chế:
Tuy nhiên bên cạnh những thành tích đạt được, trong những năm qua, hoạt động sản xuất kinh doanh của xí nghiệp cũng còn nhiều mặt hạn chế cụ thể như sau:
- Lĩnh vực sản xuất giầy dép các loại là lĩnh vực mới mẻ đối với xí nghiệp nên xí nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm về kỹ thuật sản xuất, thị trường.
- Bạn hàng của xí nghiệp chưa nhiều, việc tìm kiếm thị trường còn hạn chế, chủ yếu là các bạn hàng cũ cung cấp nguyên liệu phục vụ sản xuất.
- Trong những năm tới chắc chắn ngày càng khó khăn hơn đối với ngành giầy nói chung và Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam nói riêng, nguyên nhân là do:
+ Sự mất giá của đồng EURO đã làm ảnh hưởng lớn đến khối lượng giầy dép sản xuất vào thị trường EU và dẫn tới sản lượng giầy xuất khẩu vaò thị trường EU năm 2005 giảm, đặc biệt là giầy vải.
+ Trung Quốc, một đất nước lớn (hơn 1 tỷ dân) với lao động rẻ, một đối thủ cạnh tranh lớn có đầy đủ tiềm năng và ưu thế như ngành da giầy Việt Nam nhưng lớn hơn và mạnh hơn ta nhiều lần. Mới đây, Trung Quốc lại có những lợi thế thương mại hơn ta đó là chính thức trở thành thành viên của tổ chức Thương mại thế giới WTO. Bên cạnh đó Trung Quốc đã chủ động sản xuất được hầu hết nguyên phụ liệu cho ngành da giầy nên đa dạng về mẫu mã và giá thành lại thấp hơn Việt Nam từ 10 - 20%. Đây là thách thức lớn cả hiện tại cũng như tương lai đối với ngành da giầy Việt Nam nói chung và xí ngiệp thương mại và dịch vu Da giầy Việt Nam nói riêng.
- Thị trường xuất khẩu còn hạn chế, hiện nay thị trường của xí nghiệp chỉ có một số nước trong khu vực EU.
- Bộ máy quản lý của xí nghiệp vẫn còn yếu và thiếu nhất là về kỹ thuật, mẫu mốt, quản lý sản xuất và chi phí chất lượng sản phẩm.
- Tình hình tài chính của xí ghiệp còn gặp nhiều khó khăn do hậu quả của những năm hoạt động theo cơ chế bao cấp để lại. Vốn cho sản xuất kinh doanh thiếu nghiêm trọng, vốn kinh doanh hiện nay của xí nghiệp chỉ hơn 8 tỷ VNĐ, một con số khiêm tốn đối với khả năng và quy mô của xí nghiệp. Vốn kinh doanh có được do Nhà nước cấp, song còn hạn hẹp không đáp ứng được khả năng mở rộng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp
b. Nguyên nhân:
Những mặt hạn chế trên đây tồn tại trong xí nghiệp do rất nhiều nguyên nhân, song có thể tóm lại bằng hai nhóm nguyên nhân cơ bản sau:
* Nguyên nhân khách quan:
- Sự thả nổi nguyên liệu da do tư nhân xuất lậu qua biên giới và nhập lậu đồ da, giầy dép Trung Quốc, sự cạnh tranh gay gắt trên thị trường da giầy.
- Chịu ảnh hưởng cuộc khủng hoảng tài chính Châu á đã và đang gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp – xí nghiệp da giầy Việt Nam. Đồng thời có tác động đến các ngành có liên quan.
- Công tác cung cấp nguyên liệu chưa được chuyên môn hoá, còn nhiều thụ động trong công tác thu mua. Một số cơ sở thu mua hoạt động kém hiệu quả do chưa bắt kịp sự thay đổi của thị trường.
- Công nhân ngành da giầy chưa được đào tạo chuyên nghiệp, hệ thống tuyển chọn lao động cũng chỉ mang tính chất tạm thời, rời rạc thiếu đồng bộ.
* Nguyên nhân chủ quan:
- Do máy móc thiết bị chưa được đồng bộ.
- Chất lượng sản phẩm chưa cao, giá đắt mà mẫu mã còn đơn giản.
- Công tác nghiên cứu tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm, quản lý sản xuất kinh doanh chưa được tốt.
- Trình độ tay nghề của công nhân chưa cao.
- Tuy đã có chiến lược về sản phẩm, giá cả chủng loại giầy song mẫu mã còn hạn chế do xí nghiệp chưa lắm bắt kịp nhu cầu của thị trường.
- Xí nghiệp chưa có phòng Marketing riêng, ảnh hưởng đến công tác nghiên cứu thị trường, lắm bắt thông tin chậm, độ chính xác không cao, ảnh hưởng lớn tới việc ra quyết định sản phẩm.
2. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Ngành.
Để Xí nghiệp tồn tại và phát triển được không chỉ cần các biện pháp nằm trong khả năng của xí nghiệp mà còn cần có sự tác động từ phía Nhà nước cũng như ngành chức năng chủ quản.
a. Về phía Nhà nước:
Môi trường kinh tế xã hội ảnh hưởng rất lớn tới hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đặc biệt là chính sách thương mại, luật doanh nghiệp, chính sách tiền tệ.v..v..
* Chính sách thương mại:
Chính phủ kết hợp với Bộ thương mại xây dựng chính sách thương mại phù hợp vừa khuyến khích vừa hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Phải thiết lập một chính sách thương mại mở cửa, ký các hiệp định thương mại với các chính phủ khai thác với tổ chức khác. Đó chính là nỗ lực của chính phủ nhằm tìm kiếm thị trường, khách hàng cho các doanh nghiệp. Hiện nay Việt Nam đã có các hiệp định buôn bán song phương với các nước và tổ chức khác như hiệp định thương mại giữa Việt Nam và EU, hiệp định thương mại Việt - Mỹ vừa mới ký kết sẽ tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trên đất Mỹ trong đó có Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam.
* Hỗ trợ thuế:
Chính phủ cần có các biện pháp miễn giảm thuế cho các doanh nghiệp xuất khẩu bởi việc đóng thuế cũng là một vẫn đề khó giải quyết đối với bất cứ một doanh nghiệp nào tham gia hoạt động sản xuất. Những loại thuế nhập khẩu nguyên liệu đầu vào, thuế xuất khẩu sản phẩm..v.v.Nên có một mức thuế hợp lý thì các doanh nghiệp sẽ yên tâm hơn trong sản xuất kinh doanh và tránh tiêu cực xảy ra như trốn thuế, gian lận thương mại....Do đó chính phủ cần miễn giảm thuế để các doanh nghiệp có thể phát triển sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi.
b. Về phía Tổng Công ty Da giầy Việt Nam và Ngành cơ quan chủ quản.
Vấn đề đầu tiên là vốn kinh doanh, hiện nay Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam có số vốn kinh doanh chỉ khoảng 8 tỉ đồng, đó là con số quá khiêm tốn so với vị trí của xí nghiệp trong cùng ngành. Để xí nghiệp phát triển mạnh mẽ vững chắc trong môi trường kinh doanh hiện nay thì Nhà nước và ngành cần có những chính sách hỗ trợ cụ thể:
- Thứ nhất là cần hỗ trợ thêm vốn cùng với những chính sách ưu đãi khi vay vốn Ngân hàng thương mại, vốn phải được cấp từng năm và theo khả năng sản xuất kinh doanh của xí nghiệp.
- Thứ hai là tạo điều kiện giúp đỡ về công nghệ khoa học kỹ thuật trong sản xuất bởi hiện nay xí nghiệp vẫn còn đang phải sử dụng một số thiết bị cũ kĩ, lạc hậu.
- Thứ ba là xí nghiệp cần hỗ trợ về đào tạo bồi dưỡng cán bộ cả về kỹ thuật và quản lý. Hình thức có thể đào tạo trong nước hoặc nước ngoài để tiếp thu kỹ thuật tiên tiến, phương pháp quản lý hiện đại.
Trên đây là một số giải pháp về phía xí nghiệp và một số kiến nghị đối với Nhà nước cũng như Ngành quản lý trực thuộc nhằm hỗ trợ công tác xây dựng chiến lược kinh doanh có hiệu quả, tạo điều kiện thuận lợi cho Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam có thể phát triển mạnh mẽ hơn.
3. Các giải pháp của Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam.
a. Hoàn thiện mạng lưới tiêu thụ trong nước:
Hiện nay xí nghiệp có khoảng 35 cửa hàng và đại lý bán và giới thiệu sản phẩm . Tập chung chủ yếu ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, mới tập chung nhiều dân cư và thu nhập khá cao, vì vậy nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm bằng da khá cao. Đòi hỏi sản phẩm phải đa dạng phong phú về mẫu mã kích cỡ, chủng loại. Các đại lý phải được bố trí sao cho việc mua bán được diễn ra thuận lợi, các đại lý quan tâm đến việc trưng bầy sản phẩm sao cho dễ thấy, dễ lấy, dễ tìm để tiết kiệm được thời giam mua sắm của khách hàng. Các đại lý chỉ nên bán một sản phẩm của xí nghiệp để từ đó đánh giá được thực chất kết quả tiêu thụ, xem xem mặt hàng nào là chủ yếu, mặt hàng nào không tiêu thụ được, nguyên nhân do đâu và cuối cùng xí nghiệp biết được điểm mạnh điểm yếu của mình để khắc phục.
- Thông qua các đại lý, nghiên cứu tâm lý khách hàng, họ thích sản phẩm gì? giá cả bao nhiêu? sản phẩm của xí nghiệp có đáp ứng được nhu cầu của khách hàng hay không?...Từ đó xí nghiệp dự báo mức sản phẩm tiêu thụ sau đó xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm phù hợp.
b. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá sản phẩm:
Để đẩy mạnh kế hoạch xây dựng chiến lược tiêu thụ sản phẩm một yếu tố cũng rất quan trọng là nâng cao chất lượng sản phẩm cũng như đa dạng hoá sản phẩm. Đối với Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam trong những năm tới cần phải có chiến lược cụ thể sau:
- Xác định rõ từng loại thị trường để từ đó có chính sách phù hợp với từng loại sản phẩm.
+ Đối với thị trường khu vực: thì sản phẩm chỉ cần chất lượng trung bình đáp ứng nhu cầu của người tiêu dùng có mức thu nhập trung bình của khu vực. Việc sản xuất sản phẩm có chất lượng trung bình cũng giải quyết một số khó khăn của xí nghiệp như tay nghề công nhân, thiết bị sản xuất, công tác thu mua nguyên liệu...
+ Đối với thị trường quốc tế: thì sản phẩm phải có chất lượng cao, mẫu mã đẹp hợp thời trang. Điều này là tất yếu bởi ngày nay xu hướng toàn cầu hoá càng rõ nét thì sản phẩm không chỉ bó hẹp trong thị trường khu vực, để cạnh tranh được thì sản phẩm của xí nghiệp phải thoả mãn được nhu cầu người tiêu dùng.
- Xí nghiệp cần phải phát triển trung tâm thiết kế mẫu hình cũng như mạnh dạn đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, có chiến lược đào tạo, khuyến khích nguồn lực chuyên sâu trong lĩnh vực thiết kế mẫu hình.
c. Thành lập bộ phận chuyên trách Marketing:
Kinh tế thị trường càng phát triển hoạt động Marketing càng giữ vai trò quyết định đến sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty trên thị trường, với 4 chức năng Marketing là: chức năng làm thích ứng sản phẩm với nhu cầu thị trường, chức năng phân phối, chức năng tiêu thụ hàng hoá, chức năng yểm trợ. Nếu hoạt động Marketing được đẩy mạnh cũng có nghĩa là công tác tiêu thụ của công ty được tăng cường. Bởi vậy, đẩy mạnh hoạt động Marketing là rất cấp thiết khi công ty chưa có bộ phận Marketing thì biện pháp này trở nên quan trọng để đẩy mạnh công tác tiêu thụ. Trong thời gian qua, các hoạt động mang tính Marketing Xí nghiệp chủ yếu do phòng hành chính- tổ chức cùng với ban giám đốc trực tiếp xúc tiến và đảm nhiệm do đó hoạt động Marketing còn rất mờ nhạt, manh mún vì chưa có bộ phận chức năng riêng để đảm nhiệm về vấn đề này. Theo mục đích kinh doanh ngắn hạn của công ty mở rộng thị trường sang châu Âu, châu Mỹbởi vì vấn đề cấp thiết là phải thành lập bộ phận chuyên trách Marketing mới mong đạt được mục tiêu đề ra. Trước mắt phong Marketing của Xí nghiệp nên được thành lập với đội ngũ cán bộ được lấy ngay trong công ty. Do yêu cầu của hoạt động Marketing là phải lắm chắc những thay đổi nhu cầu, phát hiện những nhu cầu chưa được đáp ứngđòi hỏi những nhân viên làm công tác này phải là những người am hiểu thị trường, am hiểu những đặc tính hàng hoá của công ty và phải có nghệ thuật tiếp cận với khách hàng, biện pháp thu thập và sử lý thông tin tốt
Sơ đồ 4: Dự kiến tổ chức phòng Marketing trong tương lai
Trưởng phòngMaketing
Bộ phận quản lý hàng chính Maketing
Bộ phận quản lý quảng cao và khuyến mại
Bộ phận quản lý cơ sở bán hàng
Bộ phận nghiên cứu Maketing
Bộ phận phát triẻn sản phẩm
Việc thành lập phòng Marketing sẽ tạo đIều kiện cho công ty có khả năng tìm kiếm và phát triển thị trường cả hiện tại và trong tương lai.
d. Giải pháp về dây chuyền công nghệ:
Trong năm vừa qua công ty đã liên tục đầu tư thêm các dây chuyền thiết bị hiện đại, Xí nghiệp đã đầu tư mua dây chuyền sản xuất giầy thể thao từ Hàn Quốc, đầu tư nồi hấp, máy may, máy cán tuy vậy công ty vẫn chưa áp dụng hết công suất của dây chuyền này do vậy cần có biện pháp sau:
Đối với dây chuyền sản xuất mới côngty có kế hoạch sản xuất phù hợp sao cho vừa phát huy tối đa vừa đảm bảo công suất.
Đối với dây chuyền cũ để có thể sản xuất các sản phẩm đảm bảo chất lượng công ty cần có kế hoạch thường xuyên, thay dần các thiết bị quá cũ.
e. Giải pháp đa dạng hoá sản phẩm:
Trong những năm qua công ty đã thiết kế nhiều mẫu mã sản phẩm nhưng chưa đa dạng, do vậy công ty cần chú ý thu nhập mẫu mã trên thị trường trong và ngoài nước để đa dạng hoá sản phẩm của mình bằng cách tìm hiểu thu thập các mẫu của các hãng nổi tiếng như NIKE, ADIDAS, Pama
f. Tìm kiếm và mở rộng các phân đoạn thị trường tiêu thụ:
Nghiên cứu thị trường, tìm khách hàng là công việc thường xuyên của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế mở hiện nay. Những sản phẩm sản xuất ra luôn cần phải có thị trường dù lớn hay nhỏ để tiêu thụ
* Giải pháp mở rộng thị trường xuất khẩu:
Với sản phẩm giầy vải, thể thao truyền thống công ty xác định thị trường tiêu thụ của mình là Mỹ, Nhật Bản, Đứctrước mắt công ty hợp tác với các bạn hàng Tây Ban Nha, Hàn Quốc, Anh, tiếp cận, xâm nhập và tìm hiểu thị trường để đIều chỉnh cơ cấu đầu tư, nhịp độ phát triển sản xuất cho phù hợp, phấn đấu đến năm 2010 sẽ xuất khẩu sản phẩm trực tiếp đến tay người tiêu dùng nước ngoài.
+ Phương hướng mở rộng
Hợp tác chặt chẽ với các bạn hàng để tìm hiểu nhu cầu thị hiếu người tiêu dùng, cung cấp sản phẩm có chất lượng cao theo đúng yêu cầu khách hàng, đảm bảo giữ vững những đơn hàng của năm trước Hàn Quốc, Đức, Anh, Pháp là những thị trường có tiềm năng tiêu thụ lớn
Khôi phục lại thị trường Nga, Đông Âu thông qua nghiên cứu lại thị trường này và tăng cường tiếp thị giới thiệu sản phẩm.
Xí nghiệp cần sửa đổi và hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn quốc tế ISO 9002 để làm tấm giấy thông hành thâm nhập vào thị trường.
Tìm các đối tác có tên tuổi như: ADIDAS, NIKE để khai thác tâm lý của người Mỹ thích các sản phẩm nổi tiếng.
Thiết lập mối quan hệ với bạn hàng thông qua cạnh tranh giá cả. Nếu giá giày thể thao ở Mỹ có xu thế bình quân là 7,5 USD / đôi thì sản phẩm công ty giá xuất bình quân chỉ 3,2 USD / đôi
EU là thị trường chính của công ty, sản phẩm được xuất khẩu chủ yếu sang thị trường này thông qua khách hàng trung gian theo đơn đặt hàng. Đây là thị trường rất khó tính và áp dụng hạn ngạch với Việt Nam vì vậy phải mở rộng thị trường xuất khẩu trực tiếp công ty cần quan tâm:
+ Tranh thủ hỗ trợ và giúp đỡ các quốc gia có thiện chí với Việt Nam như: Pháp, Bỉ, Thuỵ Điển, Đức thông qua hợp đồng kí kết với các quốc gia này để kí kết với các quốc gia khác.
+ Sản xuất đa dạng sản phẩm có vệ sinh công nghiệp đạt tiêu chuẩn quốc tế.
+ Triển khai hiệu quả phương thức mua nguyên vật liệu, bán thành phẩm để hai bên đều có lợi .
* Giải pháp mở rộng thị trường nội địa:
Xí nghiệp phải đặc biệt quan tâm đến thị trường nội địa với 80 triệu dân ở các độ tuổi khác nhau, các vùng địa lí khác nhau. Hiện nay thị trường nội địa vẫn đang được mở rộng, tuy nhiên trong thời gian tới công ty cần phải coi trọng:
Tăng cường ngân quỹ cho quảng cáo, tiếp thị giới thiệu sản phẩm rộng rãi trên các thi trường. Đối với một số sản phẩm giầy trung bình, công ty chỉ nên tập trung vào một số tỉnh, huyện giáp ranh với các thành phố lớn.
Tích cực tham gia các hội chợ, triển lãm vừa mục tiêu quảng bá vừa mục tiêu xác định vị trí cạnh tranh của các sản phẩm.
Bám sát thị trường đề ra chính sách giá cả hợp lý kích thích tiêu thụ, mở thêm đại lí. Xây dựng quy chế “mở đại lý mới” để khuyến khích các đại lý, đồng thời tạo mọi điều kiện để các đại lý phát triển lớn mạnh, có khả năng xâm nhập thị trường tốt hơn
Nghiên cứu và thực hiện đúng quy định của nhà nước về sử dụng nhãn mác hàng hoá.
Thị trường đang là nỗi lo lớn nhất của ban lãnh đạo công ty. Hàng năm Xí nghiệp bỏ ra hàng tỷ VNĐ để đầu tư tăng năng lực sản xuất, sản phẩm sản xuất tăng theo hàng năm nhưng thị trường lại trì trệ (thu hẹp). Giải pháp trên nhằm giải quyết đầu ra cho sản xuất, tăng lợi nhuận, khơi thông vốn cho công ty.
e. Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ tay nghề cho người lao động, nhân viên hoạt động tiêu thụ
Để nâng cao hiệu quả tiêu thụ cần phải phát huy vai trò tích cực của nguồn nhân lực trong Xí nghiệp, từ công tác tuyển chọn, đào tạo đến bố trí sử dụng lao động sao cho người lao động làm chủ được công việc của mình và tiến hành công việc đạt hiệu quả cao nhất. Xí nghiệp cần có biện pháp đào tạo và đào tạo lại công nhân để khác phục kịp thời cho quá trình đổi mới, phát huy vai trò tự chủ của người lao động trong hoạt động sản xuất kinh doanh.
Các hướng giải quyết:
+ Xí nghiệp liên hệ với các trung tâm đào tạo và quản lí kinh tế để mở các lớp bồi dưỡng và cập nhật kiến thức kinh doanh cho cán bộ quản lý, thuê chuyên gia về ngành công nghiệp sản xuất giầy về giảng dạy nâng cao trình độ kĩ thuật cho công nhân theo kế hoạch đào tạo hàng năm.
+ Đào tạo cán bộ quản lý: căn cứ vào tiêu chuẩn cho các chức danh trong công ty để lập kế hoạch đào tạo cụ thể.
+ Thường xuyên tổ chức đào tạo cho cán bộ nhân viên chuyên môn để cập nhật kiến thức phục vụ kịp thời nhu cầu mới của khách hàng: chú trọng đào tạo nhân viên thiết kế mẫu, nhân viên kĩ thuật phân xưởng, nhân viên làm mẫu và nhân viên quảng cáo
+ Có kế hoạch đào tạo nâng cao tay nghề và dự trù đào tạo đột xuất ngắn hạn khi phát sinh thay đổi công nghệ, đầu tư thiết bị công nghệ mới
+ Thường xuyên trao đổi kinh nghiệm về các lĩnh vực quản lí, lĩnh vực kĩ thuật nghiệp vụ trong công ty. Tổ chức thi tay nghề 3 tháng một lần, 6 tháng một lần .
+ Tổ chức tuyển chọn thu hút nhân tài làm việc tai công ty. Đây là giải pháp thay thế đội ngũ kế cận nên công ty cần phải đặc biệt chú trọng.
+ Tổ chức tuyển dụng đội ngũ công nhân khoẻ mạnh, có lòng nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm và có khả năng phát triển tay nghề tốt. Sau khi tuyển dụng cần có sự đào tạo hợp lý: 6 tháng đầu học nghề và chỉ đưa công nhân vào làm việc khi họ thực sự nắm bắt được những điều đã học, còn những công nhân không đủ năng lực công ty có thể loại bỏ ngay mặc dù đã phải bỏ chi phí để tuyển dụng cũng như đào tạo.
+ Tổ chức sắp xếp bố trí cán bộ hợp lí, tránh bộ máy quản lí cồng kềnh
f. Về tổ chức mạng lưới tiêu thụ:
Hiện nay Xí nghiệp đã sử dụng hình thức bán buôn, đại lý, bán lẻ qua các cửa hàng giới thiệu sản phẩm. Trong thời gian tới công ty nên tổ chức mạng lưới tiêu thụ phong phú hơn theo hai cách sau:
+ Tổ chức thêm các cửa hàng bán lẻ qua giới thiệu sản phẩm mới, nếu làm được điều này sản phẩm của công ty sẽ đến được tận tay người tiêu dùng không thông qua bộ phận trung gian. Với cách làm này công ty sẽ có dịp để hiểu rõ hơn tâm tư, nguyện vọng, thị hiếu của người tiêu dùng với sản phẩm của công ty và công ty sẽ điều chỉnh lại chính sách sản phẩm hoặc chính sách giá cả để tăng khả năng thoả mãn nhu cầu khách hàng.
Thực hiện theo cách này công ty cần tập trung ưu tiên cho các thị trường ở xa như: Huế, Đà Nẵng, Nha Tranghoặc các thị trường có tốc độ tiêu thụ mạnh như: Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh
+ Mở rộng thêm các đại lý phân phối sản phẩm
Hiện nay, số lượng các đại lý của công ty có hơn 100 đại lý phân bố từ Bắc vào Nam, trong đó Hà Nội và thành phố HCM được xem là có nhiều đại lý hơn cả. do đó công ty cần tiếp tục mở rộng thêm các đại lý đồng thời cũng có thoả thuận quy định chặt chẽ hơn với các đại lý về các vấn đề như: tài sản thế chấp, chia sẻ thông tin tiêu thụ, cam kết thực hiện đúng nghĩa vụ ghi trong hợp đồngđể tránh tình trạng nhiều đại lý không trung thành với công ty trong công tác tiêu thụ sản phẩm.
Kết luận
Trong nền kinh tế thị trường có sự cạnh tranh khốc liệt hiện nay, Xí nghiệp sản xuất dịch vụ thương mại da giầy Việt Nam đã không ngừng đổi mới hoàn thiện mình để bắt nhịp với sự biến động của nền kinh tế từng bước làm ăn có hiệu quả, khẳng định vị trí của mình trên thị trường cũng như giữ vững chữ tín đối với khách hàng. Có được kết quả như vậy là do ban lãnh đạo xí nghiệp đã có cái nhìn đúng đắn trong công tác xây dựng chiến lược kinh doanh của xí nghiệp, đồng thời nó cũng giúp cho xí nghiệp có định hướng lâu dài trong quá trình hoạt động sản xuất hiện nay.
Thấy được tầm quan trọng của công tác xây dựng chiến lược kinh doanh đối với doanh nghiệp nói chung và Xí nghiệp dịch vụ thương mại Da giầy Việt Nam nói riêng và sau một thời gian đi sâu tìm hiểu tại Xí nghiệp .Em mạnh dạn đưa ra một số ý kiến đề xuất đóng góp nhằm nâng cao hiệu quả công tác xây dựng chiến lược kinh doanh tại xí nghiệp .Với thời gian thực tế không nhiều và khả năng trình độ kiến thức còn hạn chế nên bài viết khó tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp của các Thầy cô và bạn đọc.
Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của Thầy giáo hướng dẫn ThS. Nguyễn Thành Hiếu và ban lãnh đạo Xí nghiệp, các cô chú, các anh chị trong phòng xuất nhập khẩu đã giúp em hoàn thành chuyên đề này !
Sinh viên
Nguyễn Trần Cường
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình quản trị doanh nghiệp
Tác giả: TS. Phạm Vũ Luận - ĐHTM
2. Phân tích Kinh tế
Tác giả: TS. Trần Thế Dũng - ĐHTM
3. Marketing căn bản
Tác giả: Philip Koler. NXB Thống kê - Hà Nội 1994
4. Kinh tế thương mại dịch vụ
Tác giả: PGS.TS Đặng Đình Đào - ĐHKTQD
5. Các báo cáo tài chính, báo cáo tổng hợp của xí nghiệp trong 3 năm 2003-2005
Mục lục
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5405.doc