Tiền gửi là bộ phận tài sản nợ chủ yếu của NHTM. Nghiệp vụ này là đặc trưng cơ bản trong nghiệp vụ nợ của ngân hàng. Tiền gửi bao gồm các loại:
- Tiền gửi thanh toán (tiền gửi không kỳ hạn).
Tiền gửi thanh toán được ký thác vào ngân hàng để thực hiện các khoản chi trả về mua hàng hoá, dịch vụ và thực hiện các khoản chi khác. Đây không phải là tiền để dành mà là bộ phận tiền đang chờ thanh toán, vì vậy khách hàng có thể rút tiền ra hoặc sử dụng thanh toán bất cứ lúc nào theo yêu cầu. Tiền gửi thanh toán thường được bảo quản tại ngân hàng trên hai loại tài khoản:
85 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1328 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Á Châu Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là cao hơn 1, hay nói cách khác với 1 đồng vốn tự có các DNNN thường phải vay 2, 3, 4...đồng vốn của ngân hàng. Như vậy các DNNN nếu phải thế chấp tài sản mới được vay vốn ngân hàng thì không thể là hiện thực; mặt khác nếu nói đến khả năng phát mại tài sản của các DNNN để trả nợ vay ngân hàng thì hiện nay lại càng phi thực tế.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hiện nay thủ tục thế chấp cầm cố còn khá phức tạp. Trong thực tế các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thường dùng bất động sản để thế chấp vay vốn ngân hàng. Việc dùng bất động sản để thế chấp đã xảy ra khá nhiều tiêu cực trong quá khứ mà một trong những ví dụ điển hình là vụ án Công ty Minh Phụng. Hiện nay các ngân hàng đã thận trọng hơn trong việc nhận thế chấp bất động sản, chủ yếu do các nguyên nhân: bất động sản trong giai đoạn hiện nay rất khó phát mại, thủ tục giấy tờ sở hữu tài sản là bất động sản hiện nay đói với nhiều nơi là khá rườm rà và phức tạp (thủ tục qua công chứng nhà nước là một ví dụ), ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác nữa.
Về vấn đề này Tôi xin có một số đề nghị như sau:
+ Khi nhà nước giao vốn, giao tài sản cho các DNNN quản lý sử dụng đồng thời phải cấp các giấy chứng nhận quyền sở hữu, sử dụng và quản lý tài sản cho các doanh nghiệp để họ có đủ giấy tờ về mặt pháp lý khi vay vốn của ngân hàng.
+ Nhà nước cần nhanh chóng triển khai thực hiện qui chế bán đấu giá tài sản thế chấp ban hành kèm theo Nghị định số 86 CP ngày 19/12/1996 nếu không việc xử lý tài sản thế chấp rất khó khăn.
Chẳng hạn, luật doanh nghiệp Nhà nước, luật hợp đồng dân sự và thông tư liên bộ số 01/TT - LB của Ngân hàng Nhà nước - Tài chính - Tư pháp chỉ mới qui định đầu vào là doanh nghiệp có quyền mang tài sản thuộc quyền quản lý của mình để thế chấp, cầm cố; còn đầu ra là việc xử lý tài sản thế chấp, cầm cố khi doanh nghiệp không trả được nợ thì chưa được luật pháp qui định (trừ trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản).
Do đó, hiện nay hầu hết các món khách hàng vay không trả được không có cơ quan nào đứng ra xử lý tài sản thế chấp để trả nợ ngân hàng. Bản thân các ngân hàng thì khá khó khăn trong việc xử lý tài sản thế chấp, còn các khách hàng thì chây ỳ, dẫn đến nợ quá hạn trong các ngân hàng ngày càng tăng.
Vì thế, Nhà nước cần lập ra một cơ quan chuyên trách giúp các ngân hàng trong việc phát mại tài sản thế chấp một cách nhanh chóng, hiệu quả.
Như vậy về phía Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu làm rõ hơn các nguyên tắc tín dụng trong cơ chế thị trường ở nước ta hiện nay. Từ nguyên tắc này mà cụ thể hoá trong nghiệp vụ sử dụng vốn vay của khách hàng, tín dụng ngân hàng sao cho vừa bảo đảm tính hiệu quả trong việc sử dụng vốn vay của khách hàng vừa bảo đảm hạch toán kinh doanh cuả ngân hàng.
* Đối với điều kiện vay vốn:
Theo “Thể lệ tín dụng ngắn hạn đối với các Tổ chức kinh tế do Thống đốc Ngân Hàng Nhà Nước ban hành theo Quyết định 198/QD/NH14 ngày 16 tháng 9 năm 1994”, điều kiện vay vốn như sau:
- Đối với mọi khách hàng vay:
+ Có đầy đủ tư cách pháp nhân, hoạt động sản xuất, kinh doanh theo đúng pháp luật hiện hành của Việt Nam.
+ Sản xuất kinh doanh có lãi, không có nợ quá hạn.
+ Có vốn tự có theo quy định
+ Tổ chức hạch toán và quản lý tài chính theo đúng pháp lệnh kế toán và thống kê, sẵn sàng cung cấp các tài liệu cần thiết khi ngân hàng có yêu cầu.
+ Phải có phương án sử dụng vốn vay nêu được mục đích, hiệu quả, tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn vay.
- Đối với doanh nghiệp tư nhân ngoài những quy định trên phải có:
+ Giấy phép kinh doanh
+ Vốn tự có tham gia ít nhất là 30% trong tổng nhu cầu vốn
+ Trụ sở doanh nghiệp cùng địa bàn với ngân hàng
Như vậy, nếu nhìn một cách tổng quát điều kiện vay vốn đã nhấn mạnh chủ yếu đến tính pháp lý của khoản vay, trong khi đó các điều kiện về kinh tế thì phần lớn lại không rõ ràng và như vậy sẽ khó xác định được chính xác và như vậy có thể “vận dụng” trong quá trình xét duyệt cho vay.
Để đảm bảo an toàn vốn, hạn chế rủi ro, trong cơ chế tín dụng hiện hành của ngân hàng Nhà nước và các văn bản hướng dẫn của các NHTM đã đưa ra những điều kiện tín dụng khá chặt chẽ. Song với tình hình thực tế hiện nay, có một số điều chưa hợp lý, chưa phù hợp, gây cản trở việc mở rộng tín dụng, nhưng lại không chặn được nợ quá hạn phát sinh. Sau đây Tôi xin bàn đến một số vấn đề của “Điều kiện vay vốn”:
- Về vốn tự có
Luật doanh nghiệp Nhà nước, Luật công ty đã qui định rõ mỗi doanh nghiệp khi thành lập phải có đủ vốn pháp định, vốn kinh doanh này được quy định cụ thể tuỳ theo ngành nghề kinh doanh. Trên thực tế, các doanh nghiệp ở nước ta khi được thành lập, vấn đề vốn tự có hay xảy ra các trường hợp sau:
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, khi thành lập mới hoặc khi thành lập lại, số vốn pháp định được ghi rõ trong quyết định thành lập cũng như trong giấy phép kinh doanh. Tuy nhiên trong nhiều trường hợp số vốn này vốn này không có giá trị thực như số vốn đã được ghi, cụ thể: vốn cố định có thể là nhà xưởng, máy móc thiết bị.... đã cũ nát nhưng lại để giá trị giao vốn cao hơn; vốn lưu động có thể là các hàng hoá, vật tư tồn kho....mà trong nhiều trường hợp không còn đúng giá trị như đã được ghi vốn. Ngoài ra còn có một số trường hợp có quyết định thành lập nhưng trên thực tế nhà nước không giao vốn mà “thả nổi” doanh nghiệp. Trong giai đoạn vừa qua Chính phủ đã có những quyết định như: nghiêm cấm việc thành lập các doanh nghiệp nhà nước mà không giao vốn, cấp bổ sung vốn lưu động đợt 1, đợt 2 cho các doanh nghiệp, xác định công nợ giwua ngân hàng và các DNNN trong các giai đoạn trước (để khoanh nợ, xoá nợ).....Trong thực tế, các quyết định trên đã không được thực hiện nghiêm túc hoặc rất chậm chạp. Từ tình hình trên, dẫn đến tình hình tài chính của doanh nhiệp ngay từ khi thành lập và sau đó được phản ánh không đúng, có sự mất cân đối giữa nguồn vốn và tài sản, doanh nghiệp luôn có cảm giác thiếu nguồn vốn. Phần lớn các DNNN của Việt Nam hiện nay hoạt động sản suất kinh doanh bằng nguồn vốn vay ngân hàng. Với cơ cấu vốn kinh doanh: vốn chủ sở hữu chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn, phần vốn bù đắp từ bên ngoài trong điều kiện hiên nay chỉ bằng hai nguồn là vay ngân hàng và vốn chiếm dụng giữa các doanh nghiệp; Như vậy, cơ cấu vốn của các DNNN trong nhiều trường hợp không lành mạnh, chi phí cho vốn hoạt động cao, an toàn vốn kinh doanh thấp.
Trong khi đó, theo quy định của Ngân hàng Nhà nước và văn bản hướng dẫn của các NHTM: Khách hàng muốn vay vốn thực hiện một phương án kinh doanh ít nhất phải có 30% vốn tự có tham gia, một dự án đầu tư mới ít nhất phải có 40% vốn tự có tham gia, hoặc quy định mức cho vay tối đa đối với một khách hàng theo vốn tự có của đơn vị. Nếu theo đúng các qui định này thì rất khó khăn trong việc cho vay, hoặc nói ngắn gọn các quy định đó ít tính thực tế.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, vấn đề xác định chính xác vốn tự có của doanh nghiệp trong nhiều trường hợp là khó chính xác.
Để đảm bảo điều kiện về vốn tự có, Tôi xin có một số đề nghị sau:
+ Đối với các doanh nghiệp Nhà nước thành lập mới hoặc thành lập lại phải có đủ vốn tự có theo qui định thì các cơ quan có thẩm quyền mới cấp quyết định thành lập và giấy phép kinh doanh. Vốn tự có phải được xác định là vốn tự có thực của đơn vị, không tính những khoản “vốn chết”. Ngân sách Nhà nước cần tạo điều kiện và cấp đủ vốn lưu động pháp định cho các doanh nghiệp hoạt động.
+ Đối với doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, các cơ quan cấp giấy phép thành lập và giấy phép kinh doanh cần thẩm tra kỹ về số vốn tự có thực của những sáng lập viên, tránh tình trạng mượn vốn gửi vào ngân hàng để được ngân hàng xác nhận đủ điều kiện thành lập công ty, sau đó lại rút ra trả nợ.
+ Nếu các doanh nghiệp đã có đủ vốn tự có trong quyết định thành lập, khi cho vay ngắn hạn, các ngân hàng không cần quy định chi tiết doanh nghiệp cần có tỷ lệ vốn tự có tham gia vào phương án sản xuất, kinh doanh là bao nhiêu mà mức cho vay cụ thể của ngân hàng là tuỳ thuộc vào tình hình tài chính cụ thể của doanh nghiệp, tính khả thi của dự án và các điều kiện tín dụng khác. Riêng đối với các dự án cho vay dài hạn thì nhất thiết phải có vốn tự có thực của doanh nghiệp với tỷ lệ nhất định tham gia vào dự án. Như vậy khi xét duyệt cho vay các ngân hàng phải tăng cường công tác thẩm định của chính mình và có ý kiến tự quyết định việc cho vay, không máy móc, hình thức.
- Về vấn đề “Phải có phương án sử dụng vốn vay nêu được mục đích, hiệu quả, tính khả thi và khả năng hoàn trả vốn vay”.
Đối với các khoản vay bổ sung vốn lưu động của các doanh nghiệp, về phía ngân hàng để xác định hiệu quả, tính khả thi....của các phương án vay vốn phụ thuộc rất nhiều vào năng lực, trình độ, kinh nghiệm của các cán bộ tín dụng. Đồng thời các phương án kinh doanh tự nó đều tiềm ẩn tính rủi ro trong đó. Chính vì những nguyên nhân đó, khi xem xét các khản vay các NHTM thường xem xét tuần tự như sau: Một là: khả năng, năng lực tài chính của khách hàng vay vốn; hai là: phương án sử dụng vốn vay có hiệu quả; ba là: tài sản thế chấp, cầm cố đảm bảo cho khoản vay. Như vậy, khi xem xét tính khả thi của phương án kinh doanh, nhiều khi bản thân các cán bộ tín dụng cũng vấp phải vấn đề khó mà khẳng định được tính khả thi của phương án.
Đối với các khoản vay trung và dài hạn - vay theo các dự án đầu tư. Việc thẩm định tính khả thi lại càng khó khăn hơn. Trong thực tế nếu chỉ để tính toán xác định lại tính khả thi của dự án về mặt tài chính theo các chương trình sẵn có thì khá đơn giản. Nhưng tất cả các tính toán tài chính đó sẽ không có ý nghĩa thực tế hoặc sai hàon toàn khi các số liệu đầu vào không chính xác. Các số liệu đầu vào ở đây quan trong nhất là việc dự báo về thị trường tiêu thụ của sản phẩm, dịch vụ. Do việc thông tin thị trường cũng như tính dự báo về thị trường là rất khó khăn, nên việc xác định hiệu quả của dự án trong nhiều trường hợp không chính xác. Như vậy, với các ngân hàng thương mại để thực hiện tốt điều kiện vay vốn như đã nêu không phải đơn giản.
Để làm tốt điều kiện cho vay này Tôi có kiến nghị:
+ Thứ nhất: Công tác kiểm toán số liệu tài chính, kế toán đối với các doanh nghiệp phải là bắt buộc, chỉ khi chế độ kiểm toán các số liệu được làm tốt thì các ngân hàng thương mại mới có khả năng xem xét về các khách hàng vay vốn được rõ ràng hơn. Các ràng buộc về mặt pháp lý đối với các số liệu tài chính kế toán do các doanh nghiệp đưa ra cũng phải cao hơn.
+ Thứ hai: Ngân hàng nhà nước tổ chức tốt công tác thông tin trên nhiều mặt. Việc thông tin không chỉ dừng như đã nêu ở kiến nghị ở trên Tôi đã nêu mà còn phải mở rộng thông tin ra hơn nữa, ví dụ: thông tin về thị trường, thông tin về các nghành, thông tin về tiêu chuẩn nghành kinh tế...Chỉ khi có đủ thông tin việc xem xét quết định cho vay đối với các ngân hàng thương mại mới được cải thiện hơn.
* Đối với các khoản nợ quá hạn của các ngân hàng
Tỷ lệ nợ quá hạn chưa được Ngân hàng Nhà nước qui định chuẩn mực. Trong việc giám sát từ xa các hoạt động ngân hàng của Ngân hàng nhà nước, thanh tra ngân hàng nhà nước khống chế tỷ lệ nợ quá hạn ở mức < 5%. Trong thực tế thực hiện, có một số ngân hàng thương mại đã cho khách hàng vay theo hình thức “đảo nợ”, hình thức này thực tế đã làm giảm tỷ lệ nợ quá hạn trong các báo cáo gửi thanh tra ngân hàng, nhưng nó là nguy cơ tiềm ẩn lớn của nợ khó đòi hoặc không đòi được.
Ngân hàng Nhà nước cần có biện pháp hữu hiệu nhằm sớm phát hiện ra các hiện tượng cho vay đảo nợ nhằm ngăn chặn hiện tượng này ở các ngân hàng thương mại. Đồng thời nghiêm khắc xử lý các trường hợp ngân hàng thương mại cho vay đảo nợ, không chuyển nợ quá hạn đúng thời gian, gia hạn nợ nhiều lần không đúng qui định.
Việc nghiên cứu và ban hành quy chế cụ thể qui định chỉ tiêu, chuẩn mực mang tính định lượng trong thời gian tới đây nhằm nâng cao chất lượng tín dụng là hết sức cần thiết. Riêng tỷ lệ nợ quá hạn cần được khống chế ở một mức hợp lý trên cơ sở khoa học có tính đến các chỉ tiêu tương quan về vốn huy động, dư nợ cho vay so với vốn tự có và các quỹ, tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong từng thời kỳ thích hợp.
* Nhằm giúp các doanh nghiệp sử dụng vốn có hiệu quả, nhà nước cần có các chính sách mang tính định hướng lâu dài về chiến lược phát triển hàng hoá dịch vụ; Thành lập cơ quan tư vấn đầu tư để hỗ trợ các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ xây dựng các dự án khả thi, tìm đối tác đầu tư, lựa chọn công nghệ phù hợp và áp dụng công nghệ đó vào sản xuất. Đồng thời giúp các doanh nghiệp giới thiệu sản phẩm ra nước ngoài, tìm kiếm đối tác tiêu thụ sản phẩm tại nước ngoài, hỗ trợ bằng các chính sách ưu đãi ...
* Nhìn lại tổng quan chung về các vấn đề mang tính vĩ mô liên quan đến chất lượng tín dụng và các chính sách của nhà nước: Qua cuộc khủng hoảng tài chính của các nước trong khu vực vừa qua, kể cả khủng hoảng tài chính tại Nhật Bản - một nước công nghiệp phát triển, một trong những nguyên nhân chính là do hệ thống ngân hàng thương mại quá yếu kém. Nguyên nhân chính là do tổng mức tài sản có không sinh lời của các ngân hàng thương mại gia tăng, theo đó là nợ quá hạn, nợ khó đòi tăng cao ở nhiều ngân hàng thương mại, tất cả dần triệt thoái các nguồn lực đầu tư, làm tê liệt động lực tài chính xương sống của nền kinh tế. Tại Việt Nam trong thời gian vừa qua cũng có tình trạng tương tự. Tình trạng những khoản nợ đọng liên quan đến tài sản thế chấp khó phát mại và các khoản nợ “đóng băng” của các ngân hàng cả các ngân hàng thương mại quốc doanh và các ngân hàng thương mại cổ phần đều dâng cao. Mặt khác tình trạng phổ biến tại các ngân hàng thương mại quốc doanh là sự can thiệp quá sâu của các cấp chính quyền vào hoạt động kinh doanh, vốn điều lệ tại các ngân hàng không được nhà nước cấp đủ, công nợ giai đoạn hai giữa ngân hàng và các DNNN đến nay chưa được giải quyết dứt điểm...Các vấn đề đó đòi hỏi Ngân hàng nhà nước cũng như Chính Phủ trong thời gian tới phải giải quyết dứt điểm.
Ngoài ra, cần tăng cường quyền hạn và trách nhiệm của tổ chức thanh tra, giám sát và kiểm toán tài chính - ngân hàng, minh bạch và cập nhật hoá thông tin, báo cáo tài chính, kế toán. Khẩn trương hoàn tất hệ thồng các luật lệ liên quan đến hoạt động ngân hàng, khởi thảo và ban hành nhanh chóng các nghị định triển khai Luật ngân hàng để tạo lập hành lang pháp lý an toàn cho mọi hoạt động ngân hàng, vói các nội dung then chốt nhất là tổ chức, tài chính, thanh tra giám sát của Ngân hàng Nhà nước, điều kiện đảm bảo tiền vay và an toàn tiền gửi cho các ngân hàng thương mại. Kết hợp với việc triển khai có hiệu quả hai Luật thuế mới ( thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp) đồng thời từng bước tổ chức đưa thị trường chứng khoán vào hoạt động một cách phù hợp và an toàn.
Cuối cùng phải hoàn chỉnh sớm mô hình tổ chức và hoạt động đào tạo, bố trí hợp lý hoá cán bộ trong hệ thống ngân hàng. Chú trọng chấn chỉnh các ngân hàng thương mại cổ phần. Tổng kết, nghiên cứu, áp dụng các loại hình ngân hàng, công ty tài chính mới, bao gồm trong đó có tổ chức dạng quỹ hoặc công ty đảm trách việc sử lý tài sản thế chấp, mua bán nợ để thu hồi vốn cho ngân hàng. Từng bước củng cố kiện toàn năng lực hoach định và điều hành chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước. Nhanh chóng cụ thể hoá chính sách, cơ chế, thể lệ, quy chế để phát triển hệ thống các ngân hàng thương mại đủ tiêu chuẩn kinh doanh đa năng, thích ứng với cơ chế thị trường, được phân định rạch ròi giữa thực hiện nhiệm vụ chính sách và kinh doanh, có sự thể hiện rõ vai trò trung gian tài chính và không ngừng nâng cao chất lượng cung ứng các dịch vụ tài chính, tín dụng cho nền kinh tế.
1.2. Kiến nghị đối với ngân hàng á Châu - Hội sở
Thứ nhất: Hoàn thiện cơ chế tín dụng đối với các doanh nghiệp.
Trong thời gian tới đây, khi Luật ngân hàng và các tổ chức tín dụng bắt đầu có hiệu lực, chắc chắn Ngân hàng Nhà nước sẽ có các văn bản sửa đổi, bổ sung cơ chế tín dụng mới. Ngân hàng á Châu - Hội sở cần nhanh chóng ban hành các văn bản hướng dẫn của riêng Ngân hàng á Châu để các Chi nhành của ngân hàng có khả năng nhanh chóng áp dụng các quy chế mới. Một trong những yếu điểm căn bản của quá trình ra các văn bản mới là không có sự rà soát lại các văn bản cũ đã hết hiệu lực thi hành hoặc đã lạc hậu so với tình hình mới. Vì vậy đây cũng là một dịp để ngân hàng á Châu - Hội sở rà soát kiện toàn lại các văn bản hướng dẫn trước đây, các văn bản nào hết giá trị sử dụng phải có quyết định thay thế bằng văn bản. Đồng thời nên tạo các văn bản hướng dẫn có tính đồng bộ, có khoa học và ngắn gọn, có như vậy mới tạo điều kiện cho quá trình thực hiện của các nhân viên. Trong trường hợp cần thiết có thể phải tổ chức các lớp tập huấn ngắn hạn cho các cán bộ của các Chi nhánh để sau đó họ có khả năng hướng dẫn các nhân viên dưới quyền làm việc đúng quy trình, quy phạm. Việc hoàn thiện các quy trinh nghiệp vụ ngân hàng là một việc không thể làm một lần là xong, vì vậy về mặt tổ chức ngân hàng cần có một phòng chức năng chuyên trách để luôn xem xét, rà soát, hướng dẫn, giúp cấp trên ra các quyết định đúng đắn về mặt pháp luật, đồng thời đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng.
Thứ hai: Cần có chính sách nhân sự hợp lý
Ngân hàng là một doanh nghiệp như mọi doanh nghiệp hoạt động sản suất kinh doanh khác, yếu tố con người luôn là một trong những yếu tố quan trọng. Kinh nghiệm hoạt động trong quá khứ của các ngân hàng cũng như của nhiều doanh nghiệp khác đã chỉ ra rằng con người luôn luôn là một yếu tố quyết định sự thành đạt của doanh nghiệp. Tuy nhiên đối với ngân hàng á Châu, điểm yếu nhất của nó chính là ở chính sách nhân sự. Để một ngân hàng hoạt động tốt không thể chỉ dựa trên chính sách hướng tới khách hàng mà bản thân nó lại không hướng tới chính những con người - nhân viên, đang hàng ngày tiếp xúc với khách hàng. Chính sách nhân sự không phải chỉ bao gồm lương cao mà là cả một chính sách rộng lớn. Bất kỳ một nhân viên nào cũng đều muốn thoả mãn các điều kiện sau khi làm việc cho một tổ chức nào đó: Thứ nhất: họ được làm một công việc đúng với nghành nghề được đào tạo, sở thích và đúng với khả năng, năng lực. Thứ hai: họ được trả lương phù hợp với năng lực cũng như sức lao động mà họ đã bỏ ra. Thứ ba: họ luôn được học tập, đào tạo và đồng thời luôn có cơ hội để có thể thăng tiến trong công việc. Thứ tư: Họ được làm việc trong một môi trường tốt, các đồng nghiệp hiểu biết, thông cảm và luôn giúp đỡ nhau trong công việc. Các điều kiện trên có thể là quá lý tưởng, tuy nhiên ít nhất cái mà ban lãnh đạo ngân hàng phải tạo ra là: bằng cơ chế rõ ràng, gắn người lao động với sản phẩm và dịch vụ mà họ tạo ra cho khách hàng. Cụ thể, phải có chính sách rõ ràng về nghĩa vụ, trách nhiệm và quyền lợi của từng vị trí công việc, qua đó gắn từng người lao động đang làm ở các vị trí đó vào công việc mà họ đang làm. Hiện nay, khi bất kỳ một nhân viên nào hỏi: Tôi sẽ được gì khi làm việc tốt hơn? thì chắc chắn sẽ không có câu trả lời; như vậy động năng làm việc của người lao động ở đây đã bị triệt tiêu. Trong phạm vi bài viết này, Tôi xin không bàn kỹ đến vấn đề này.
Thứ ba: Tăng cường đào tạo và tiêu chuẩn hoá cán bộ lãnh đạo điều hành trực tiếp tại các chi nhánh và các cán bộ tín dụng.
Trên một phương diện nào đó chính sách đào tạo và tiêu chuẩn hoá cán bộ là một phần của chính sách nhân sự đã được nêu ở trên. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân dẫn đến những sai sót trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng á Châu Hà Nội trong thời gian qua chính là do yếu tố con người.
Việc đào tạo và tiêu chuẩn hoá cán bộ phải được bắt đầu từ khâu tiêu chuẩn hoá việc tuyển chọn cán bộ, nhân viên mới; đào tạo nghiệp vụ cho cán bộ nhân viên sau khi được tuyển chọn; thường xuyên đào tạo lại, nâng cao trình độ cho các cán bộ nhân viên; phát hiện năng lực thực tế của nhân viên mới để sắp xếp công việc một cách hợp lý; và cuối cùng là thi tuyển sát hạch trình độ định kỳ nhằm đánh giá đúng trình độ trên cơ sở đó nâng lương hay chuyển đổi vị trí công tác cho phù hợp với năng lực thực tế. Tất cả các khâu nêu trên phải được tiến hành đồng bộ, nhất quán và kiên quyết; tránh tình trạng chỉ nói mà không làm.
Do đặc thù của kinh doanh ngân hàng là một nghành kinh doanh rủi ro, trong việc đào tạo nhân viên và tiêu chuẩn hoá cán bộ phải được tiến hành song song hai mặt: Thứ nhất là: đào tạo về mặt nghiệp vụ, trình độ chuyên môn; Thứ hai là: giáo dục về mặt tư tưởng, đạo đức...cho cán bộ nhân viên. Chỉ có làm được như vậy mới nâng cao được chất lượng trong hoạt động tín dụng.
Thực tế trong thời gian vừa qua, đội ngũ cán bộ tín dụng ở các chi nhánh được tuyển dụng còn chưa theo các tiêu chuẩn thống nhất. Đa phần cán bộ tín dụng là các sinh viên mới ra trường, kinh nghiệm trong kinh doanh cũng như trong cuộc sống còn rất hạn chế. Một số còn không được đào tạo đúng chuyên ngành về ngân hàng. Nhìn chung yếu điểm của các cán bộ tín dụng là: nghiệp vụ ngân hàng còn có nhiều hạn chế, trình độ chuyên môn về tài chính - kế toán trong nhiều trường hợp chưa đáp ứng được yêu cầu. Mặt khác, các cán bộ tín dụng cũng thiếu hiểu biết về các ngành nghề nói riêng và thị trường nói chung, kinh nghiệm kinh doanh chưa có...Chính vì các nguyên nhân trên nên chất lượng thẩm định tín dụng còn chưa cao, không thể tránh khỏi thiếu sót.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, Ngân hàng TMCP á Châu Hội sở cần có chính sách thống nhất trong toàn hệ thống về việc tuyến chọn, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ cán bộ tín dụng. Trong tình hình hiện nay, ngân hàng phải có chính sách nhân sự đúng đắn, có như vậy mới thu hút được các cán bộ có năng lực, giữ được họ và phát huy được khả năng cán bộ phục vụ cho kinh doanh ngân hàng.
Về đào tạo, hiện nay ngân hàng đã có kế hoạch đào tạo nhân viên trong thời gian tới, tuy nhiên về nội dung đào tạo cần gắn liền với thực tế của Việt Nam cũng như từng vùng lãnh thổ, bởi vì đặc điểm của Việt Nam có nhiều điều khác với các nước trong khu vực cũng như đặc điểm giữa các vùng khác nhau cũng khác nhau. Việc đào tạo cán bộ không nhất thiết phải tập trung về một nơi - hội sở mà có thể được tổ chức ngắn hạn tại các Chi nhánh theo nội dung đào tạo thống nhất do Hội sở ngân hàng soạn thảo.
Cuối cùng, ngân hàng TMCP á Châu Hội sở cũng cần ban hành qui chế về cán bộ tín dụng. Quy chế phải xác định rõ tiêu chuẩn của từng chức danh cán bộ tín dụng, quyền hạn, chức năng, nhiệm vụ phải được xác định rõ ràng. Ai không đủ năng lực và phẩm chất cần thiết, nhất thiết không để họ tiếp tục làm cán bộ tín dụng nữa.
Thứ tư: Hoàn thiện công tác tổ chức xét duyệt tín dụng
Hiện nay việc xét duyệt các khoản vay của ngân hàng á Châu vẫn hầu như tập trung toàn bộ về hội sở ngân hàng theo cơ chế: Các ban tín dụng ở tại các Chi nhánh, Hội đồng tín dụng ở tại Hội sở. Ngân hàng đã quy định hạn mức phán quyết cho vay của các ban tín dụng tại các Chi nhánh hiện nay là: 300 triệu VND cho một khách hàng. Trong trường hợp cho vay trên hạn mức phán quyết thì phỉa chuyển về Hội sở. Với cách tổ chức như vậy việc xét duyệt cho vay đối với một khoản vay nhìn trên một khía cạnh nào đó là khá chắc chắn. Tuy nhiên mặt trái của nó thể hiện ở các khía cạnh sau:
- Thứ nhất: hiện nay quy mô hoạt động của ngân hàng còn tương đối nhỏ (tổng mức dư nợ của toàn hệ thống hiện nay ở mức trên dưới 1.000 tỷ VND - bằng tổng mức dư nợ của 02 chi nhánh ngân hàng Công thương hoặc VCB). Với quy mô hoạt động như vậy, việc kiểm soát chặt chẽ của Hội sở còn có tác dụng. Nếu quy mô hoạt động sau này tăng lên chắc chắn cách quản lý như vậy sẽ không đảm bảo.
- Thứ hai: Việc xem xét, thẩm định cho vay đối với một món vay kéo dài và phức tạp. Do tập trung phán quyết về hội sở theo chu trình: Chi nhánh xem xét trình về phòng tín dụng hội sở, cán bộ tín dụng hội sở tập hợp hồ sơ tái xem xét lại (ở đây Tôi nới là “tái xem xét lại” chứ không phải tái thẩm định lại), sau đó trình lên Hội đồng tín dụng xem xét. Trong trường hợp được Hội đồng tín dụng thông qua, lúc đó mới có quyết định cho vay. Trong trường hợp có thắc mắc từ phía Hội đồng tín dụng, hồ sơ sẽ được trả về để bổ sung thêm. Như vậy về mặt thời gian để xem xét một khoản vay là khá lâu và phức tạp. Trong nhiều trường hợp do sự cách biệt về địa lý (Miền Bắc với Miền Nam) nên việc xem xét lại của các cán bộ tín dụng tại hội sở không chính xác và mang tính hình thức. Đứng về phía khách hàng, việc kéo dài thời hạn xem xét cũng làm hạn chế đáng kể cảm tình của khách hàng.
- Thứ ba: Việc áp dụng thống nhất một hạn mức cho các Chi nhánh là chưa thoả đáng. Hiện nay hạn mức phán quyết áp dụng cho các Ban tín dụng tại tất cả các Chi nhánh là thống nhất. Việc áp dụng như vậy là bất hợp lý nếu so sánh một Chi nhánh ở Đồng bằng sông Cửu Long - nơi chủ yếu cho vay nông nghiệp (mức vay thấp) với Chi nhánh Hà Nội - nơi cho vay các khách hàng là các Tổng công ty lớn quốc doanh (mức vay cao gấp nhiều lần).
Để khắc phục tình trạng trên chỉ bằng cách thành lập các trung tâm vùng. Hội sở khi đó chỉ ra các quy chế tín dụng thống nhất trong toàn hệ thống và làm công tác kiểm tra kiểm soát các hoạt động tín dụng tại các Chi nhánh. Đồng thời Hội sở đưa ra các định hướng chiến lược trong kinh doanh. Phần còn lại về điều hành các công việc cụ thể sẽ do các trung tâm vùng và các Chi nhánh thực hiện. Có tổ chức như vậy, quy mô hoạt động của ngân hàng mới tăng lên được, đồng thời hoạt động tín dụng mới được kiểm soát an toàn, chặt chẽ, không rơi vào tình trạng hình thức, không làm phiền nhiễu khách hàng.
Thứ năm: Tăng cường công tác hoạch định chính sách tín dụng và xây dựng kế hoạch tín dụng.
Hiện nay hàng năm Hội sở vẫn xây dựng kế hoạch kinh doanh trong năm và từng quý để các Chi nhánh thực hiện. Tuy nhiên ngân hàng hiện nay còn chưa có một chính sách kinh doanh tín dụng cụ thể. Chính sách kinh doanh tín dụng dựa trên cơ sở chính sách thị trường sản phẩm và chính sách sản phẩm tín dụng. Tuỳ theo điều kiện đặc điểm của từng Chi nhánh, việc xác định chính sách thị trường tín dụng hưỡng vào đâu, phục vụ cho khách hàng nào? đưa ra các sản phẩm dịch vụ nào phục vụ cho khách hàng trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài?...Tất cả các vấn đề đó phải được xây dựng và soạn thảo một cách cụ thể.
Về việc xây dựng kế hoạch kinh doanh. Hiện nay theo yêu cầu của Hội sở các Chi nhánh chủ động trong việc xây dựng kế hoạch kinh doanh của mình. Trong kế hoạch đó, hội sở kiểm soát chặt chẽ kế hoạch về lợi nhuận sẽ thực hiện trong năm của Chi nhánh. Tuy nhiên trong việc xây dựng kế hoạch, điểm khó của nó là đánh giá sự phát triển của thị trường và các biện pháp hữu hiệu để thực hiện các kế hoạch đó. Điểm yếu hiện nay trong việc xây dựng kế hoạch là tính khoa học của nó cũng như sự tập hợp được trí tuệ của tập thể các cán bộ, nhân viên còn hết sức hạn chế.
Thứ sáu: Hiện đại hoá hệ thống thông tin ngân hàng.
Công nghệ ngân hàng luôn là vấn đè được nhiều ngân hàng quan tâm đặc biệt. Một ngân hàng muốn có công nghệ cao trước hết đòi hỏi phải có hệ thống thông tin ngân hàng hiện đại, nhất là trong giai đoạn bùng nổ về công nghệ máy tính và sử lý thông tin như hiện nay. Để có thể phục vụ khách hàng ngày một tốt hơn, để có thể cạnh tranh được với các ngân hàng khác, đòi hỏi phải đầu tư nâng cấp, đổi mới hệ thống thông tin ngân hàng. Hệ thống thông tin của ngân hàng á Châu hiện nay đã không đáp ứng được yêu cầu của hoạt động kinh doanh. Trong thời gian tới đây, ngân hàng phải đầu tư các thiết bị thông tin và sử lý thông tin mới cho toàn hệ thống ngân hàng. Đồng thời phải có các chương trình máy tính hữu hiệu để cập nhật, sử lý và lưu trữ các thông tin.
Thứ bảy: Tăng cường cơ sở vật chất của ngân hàng.
Ngân hàng á Châu Hà Nội kể từ khi bắt đầu hoạt động đến nay đã được 04 năm. Từ lúc là một ngân hàng nhỏ bé, đến nay đã trở thành một trong những ngân hàng thương mại hoạt động có uy tín trên địa bàn Hà Nội. Sự lớn mạnh của hoạt động ngân hàng lại không đi đôi với việc nâng cao cơ sở vật chất cho nó. Vấn đề trụ sở của ngân hàng cũng như các phương tiện làm việc cho các cán bộ nhân viên ngày càng trở lên bức xúc. Tuy nhiên việc này lại không thể do ngân hàng á Châu Hà Nội tự quyết định mà phải do Hội sở quyết định. Việc chậm chễ trong việc xây dựng trụ sở mới cũng như đầu tư nâng cấp cơ sở vật chất cùng hệ thống thông tin đã phần nào ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng và hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong thời gian tới đây hội sở cần hỗ trợ tích cực Chi nhánh Hà Nội đ có thể hoàn thành công vịệc xây dựng trụ sở ngân hàng mới.
Thứ tám: Các kiến nghị về các vấn đề khác
Về thế chấp cầm cố, tài sản để thế chấp ngân hàng. Như đã phân tích ở trên về việc thế chấp cầm cố tài sản của các DNNN, việc thế chấp cầm cố không có ý nghĩa thực tế và hiện nay đa phần các ngân hàng thương mại quốc doanh đều cho vay tín chấp đối với các DNNN. Điều kiện cho vay tín chấp ở đây là: doanh nghiệp làm ăn có lãi trong ba năm gần nhất, đồng thời có phương án kinh doanh có hiệu quả có khả năng thu hồi vốn. Đối với ngân hàng á Châu hiện nay, các DNNN khi vay vốn vẫn phải thế chấp tài sản mới được vay vốn. Thực chất việc thế chấp tài sản trong nhiều trường hợp chỉ có ý nghĩa hình thức, không có ý nghĩa kinh tế. Mặt khác, khi xét duyệt cho vay ngân hàng không bao giờ coi việc thế chấp tài sản là điều kiện chủ yếu để vay vốn ngân hàng, mà thường dựa vào phân tích tình hình SXKD cũng như tài chính của doanh nghiệp, đồng thời xem xét tính khả thi của dự án xin vay để quyết định cho vay. Như vậy khi có văn bản tháo gỡ phần nào thủ tục về vấn đề này đối với việc cho các DNNN vay vốn sẽ giúp cho việc làm các thủ tục vay vốn đơn giản hơn.
Cuối cùng, để phù hợp với cơ chế tín dụng trong nền kinh tế thị trường, ngân hàng cần nghiên cứu, cho phép áp dụng và hướng dẫn thực hiện một số phương thức tín dụng mà các nước đang áp dụng một cách phổ biến như:
- Cho vay theo số dư (thấu chi): khách hàng có số dư tiền gửi và số dư tiết kiệm tại ngân hàng trên 1 năm thì được ngân hàng cho vay thấu chi. Chênh lệch giữa số tiền gửi và số tiền rút là số tiền mà ngân hàng cho vay thấu chi. Nhưng mức rút tiền phải có giới hạn do ngân hàng xác định.
- Chiết khấu chứng từ: Sắp tới đây khi thị trường chứng khoán ở nước ta đi vào hoạt động, các luật về lưu thông hối phiếu và kỳ phiếu được ban hành thì nghiệp vụ chiết khấu chứng từ sẽ là nghiệp vụ phổ biến. Vì thế, ngân hàng cần nghiên cứu, có chuẩn bị về việc thực hiện nghiệp vụ này ngay từ bây giờ để cán bộ tín dụng có thời gian nghiên cứu, tìm hiểu.
2. Kiến nghị đối với Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội
Trong giai đoạn trước năm 1997, do những sai sót trong điều hành quản lý cũng như trong công tác của phòng tín dụng, kết quả là nợ quá hạn đã lên cao. Tính đến thời điểm quý I năm 1998, toàn bộ các khoản nợ quá hạn và khó đòi đã được thể hiện hết trong các báo cáo về tín dụng. Các khoản nợ đó đến nay đã được chuyển sang ban thu hồi công nợ để giải quyết. Chính những sai sót như đã nêu ở phần II của bài viết này đã là nguyên nhân làm cho chất lượng tín dụng của ngân hàng á Châu Hà Nội bị giảm sút mạnh mẽ trong thời gian qua. Nhân thức rõ được điều đó, đồng thời được sự chỉ đạo của Hội sở ngân hàng á Châu, trong thời gian vừa qua ngân hàng á Châu Hà Nội đã có những chuyển biến sâu sắc. Tuy nhiên theo Tôi còn một số vấn đề trong thời gian sắp tới còn phải tiếp tục tiến hành, nếu không làm tích cực các vấn đề đó thì có thể trong thời gian sắp tới các vấn đề về chất lượng tín dụng sẽ lại một làn nữa là vấn đề nghiêm trọng.
Thứ nhất: Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức của phòng tín dụng nói riêng của ngân hàng nói chung.
Thời gian vừa qua hầu như toàn bộ các cán bộ tín dụng cũ của phòng tín dụng đã được thay bằng các nhân viên mới. Tuy nhiên như đã phân tích ở trên về mặt mạnh cũng như mặt yếu của các cán bộ tín dụng mới, hiện nay đa phần các cán bộ tín dụng vẫn còn non về nghiệp vụ, yếu về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm kinh doanh hầu như chưa có. Tuy nhiên xuyên suốt các vấn đề đó còn vấn đề tư tưởng của các cán bộ tín dụng hiện nay. Với cơ chế hiện nay khi mà trách nhiệm, nghĩa vụ và quyền lợi của các cán bộ tín dụng còn chưa rõ ràng. Tất cả chung ta đều biết làm cán bộ tín dụng trong giai đoạn hiện nay là hết sức khó khăn, một mặt công việc đòi hỏi nhiều kiến thức, kinh nghiệm; mặt khác trách nhiệm của các cán bộ tín dụng luôn luôn là cao nhất so với các cán bộ khác trong ngân hàng; ngoài ra trong công việc các cán bộ tín dụng còn chịu nhiều sức ép từ nhiều phía đối với công việc của mình. Nhưng về mặt quyền lợi nhằm khuyến khích người lao động còn chưa cân bằng với trách nhiệm và nghĩa vụ phải thực hiện. Hiện nay, ngoài khoản lương được hưởng hàng tháng với mức lương tương đương với các cán bộ nghiệp vụ ở các bộ phận khác, các cán bộ tín dụng không được hưởng thêm một khoản nào khác. Ngoài ra việc đi công tác đến khách hàng cũng cần chi phí, nhưng việc thanh toán các chi phí đó hiện nay là hết sức phức tạp và khó khăn. Một nguyên nhân quan trọng khác nữa là khi có bất kỳ một vấn đề gì nảy sinh trong hoạt động thì cán bộ tín dụng lại là người đầu tiên phải chịu trách nhiệm.
Tất cả các lý do nêu trên trong giai đoạn hiện nay đã không kích thích được cán bộ tín dụng làm việc. Ngoài ra theo Tôi nó còn làm cho các cán bộ tín dụng không muốn làm việc tại bộ phận tín dụng nữa.
Như vậy Tôi lại quay trở lại vấn đề chính sách nhân sự mà Tôi đã nêu ở phần trên. Đây là một vấn đè hết sức lớn không những với Ngân hàng á Châu hội sở mà đặc biệt còn đúng với ngân hàng á Châu Hà Nội. Theo Tôi trong phạm vi quyền hạn của mình, ban lãnh đạo ngân hàng á Châu Hà Nội cần tự mình nghiên cứu xây dưng cho riêng Chi nhánh một chính sách nhân sự thích hợp trong giai đoạn hiện nay khi chưa có chính sách của toàn hệ thống. Các giải pháp về tổ chức, nhân sự Tôi đã nêu một phần ở trên nên ở đây xin không nêu lại. Vấn đề kiện toàn bộ máy tổ chức ở đây Tôi chỉ xin nhấn mạnh một điểm: việc kiện toàn bộ máy trước hết phải thực hiện từ cán bộ khung của Chi nhánh, cán bộ khung có tốt thì sau đó các cán bộ cấp dưới tốt. Ngoài ra cần xây dựng một cơ chế rõ ràng trong điều hành tổ chức quản lý, có cơ chế rõ ràng mọi ngưòi mới có khả năng làm đúng, làm tốt nhiệm vụ được giao.
Trong khâu tổ chức, quản lý còn cần lưu ý việc phối hợp công việc giữa các phòng chức năng của ngân hàng. Hiện nay, khâu phối hợp hoạt động giữa các bộ phận trong ngân hàng còn yếu, trong nhiều trường hợp còn có tính chất “thủ công”. Trong thời gian tới đây, cùng với việc hiện đại hoá hệ thống thông tin ngân hàng, cần phải có các biện pháp đồng bộ để phối hợp hoạt động tốt hơn giữa các bộ phận của ngân hàng với nhau.
Thứ hai: Tăng cường bồi dưỡng đào tạo, nâng cao hơn nữa trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của các cán bộ tín dụng cũng như của toàn thể các nhân viên của ngân hàng.
Như trên đã nêu, hiện nay các cán bộ tín dụng cũng như các nhân viên ngân hàng phần lớn mới ra trường. Trong khả năng của mình, ngân hàng cần tổ chức việc bồi dưỡng đào tạo về nghiệp vụ và chuyên môn cho các cán bộ.
Thứ ba: Tăng cường hơn nữa chất lượng công tác thẩm định tín dụng.
Để đảm bảo an toàn vốn của ngân hàng thì trước khi quyết định cho vay biện pháp tích cực nhất của ngân hàng là thẩm định tín dụng. Thẩm định tín dụng bao gồm các khâu từ thẩm định tính pháp lý của khách hàng đến tình hình sản xuất kinh doanh và tài chính , thẩm định tính khả thi của phương án xin vay và cuối cùng là thẩm định về tài sản, thế chấp cầm cố của khách hàng để đảm bảo món vay.
Thẩm định khách hàng là một công tác đòi hỏi kiến thức và kinh nghiệm trên nhiều mặt. Đây là một công việc khó khăn nhất hiện nay đối với công tác thẩm định tín dụng. Mục tiêu của công tác thẩm định khách hàng là các cán bộ tín dụng phải trình bày được cũng như biết được tình hình thực tế của khách hàng, khả năng tài chính của khách hàng, khả năng trả nợ cũng như “ý chí sắn sàng trả các món nợ khi đến hạn” của khách hàng...Để làm tốt khâu này, không thể làm trong một thời gian ngắn, công tác này đòi hỏi phải hoàn thiện dần từng bước, có cập nhật thường xuyên và bám sát các khách hàng.
Thẩm định tính khả thi của dự án xin vay là một trong những khâu quan trọng. Tuy nhiên hiện nay do tình hình thực tế, bộ phận tín dụng của ngân hàng vẫn phải làm việc chung cả các phương án xin vay ngắn hạn cũng như dự án trung dài hạn, với thực tế đó công tác thẩm định về phương án xin vay của khách hàng còn gặp nhiều lúng túng. Mạt khác do kinh nghiệm thực tế kinh doanh của các cán bộ tín dụng còn ít, thông tin về các ngành nghề kinh doanh còn nhiều hạn chế...Tất cả những điều đó hiện nay cũng ảnh hưởng đến chất lượng việc đánh giá tính khả thi của dự án xin vay.
Ngoài những hướng dẫn trong qui trình thẩm định món vay, cán bộ tín dụng không chỉ lệ thuộc vào những tài liệu do khách hàng cung cấp để phân tích tình hình tài chính, năng lực kinh doanh, nguồn trả nợ v.v... mà đặc biệt còn phải chú ý đến năng lực quản lý, tư cách đạo đức, tuổi tác, tình trạng sức khỏe của người lãnh đạo doanh nghiệp...
Đối với việc thẩm định tài sản thế chấp cầm cố phải xác định tính pháp lý của tài sản thế cấp cầm cố cho ngân hàng. Đánh giá đúng giá trị của tài sản thế chấp cầm cố để dùng làm cơ sở cho việc xác định tổng mức có thể cho khách hàng vay. Đánh giá khả năng mất giá hoặc hao mòn theo thời gian, đánh giá khả năng phát mại của tài sản khi xảy ra rủi ro.... Đối với trường hợp bảo lãnh phải xem tư cách của người bảo lãnh, uy tín của họ đối với ngân hàng và khách hàng... Đồng thời cũng phải xem xét các vật bảo đảm cho các khoản vay mà người bảo lãnh dùng đó đảm bảo cho món vay.
Thứ tư: Đẩy mạnh công tác Marketing ngân hàng.
Thực hiện tốt marketing ngân hàng là một biện pháp tích cực hồ trợ cho hoạt đọng kinh doanh ngân hàng. Hiện nay, việc Marketing ngân hàng vẫn còn là khâu yếu trong hoạt động kinh doanh. Ngân hàng á Châu Hà Nội hoạt động đã 04 năm trên thị trường Hà Nội, trong điều kiện hiện nay khi mà kinh doanh ngân hàng đang chịu sự cạnh tranh khá quyết liệt; để có thể đứng vững và phát triển kinh doanh khâu Marketing cần phải làm tốt hơn nữa. Về khâu tổ chức cần phải có cán bộ chuyên trách, có như vậy mới có thể làm tốt công tác này. Về phía ban lãnh đạo, cần có chính sách Marketting nhất quán, từ khâu xác định thị trường khách hàng, chính sách sản phẩm dịch vụ, đến các chính sách cụ thể đối với từng loại khách hàng cũng như từng loại hình dich vụ. Cần có chính sách ưu đãi và nhất quán đối với các khách hàng lớn cũng như các lĩnh vực mà ngân hàng cần tiếp cận hướng tới phục vụ trong thời gian trước mắt cũng như lâu dài.
Trong khâu marketing, một trong những công việc quan trọng là tổ chức hội nghị khách hàng. Ngân hàng cần tổ chức hội nghị khách hàng định kỳ hay đột xuất, định kì ở đây có thể là 6 tháng hay 1 năm tổ chức một lần. Việc tổ chức hội nghị khách hàng là rất cần thiết trong quá trình hoạt động của ngân hàng. Khi tình hình kinh tế gặp nhiều biến động việc “giao lưu” giữa ngân hàng và khách hàng giúp ngân hàng hiểu rõ hơn những khó khăn của khách hàng. Từ đó, ngân hàng có thể đưa ra những biện pháp thích hợp trong việc điều chỉnh lãi suất hay đưa ra hình thức huy động vốn hoặc cho vay đối với khách hàng nhằm mục tiêu “cả hai bên cùng có lợi”. Nếu ngân hàng không tổ chức hội nghị khách hàng định kì thì việc đưa ra các quyết định trong hoạt động của ngân hàng sẽ không đi sát với tình hình thực tế. Ví dụ nếu trong tình hình nền kinh tế gặp nhiều biến động xấu việc ngân hàng đặt mức lãi suất cho vay cao sẽ khiến khách hàng không thể vay được làm ứ đọng vốn của ngân hàng. Nếu thời gian sau ngân hàng mới biết được và hạ lãi suất xuống thì có thể đã mất đi một số khách hàng quan trọng rồi. Việc “giao lưu” thường xuyên với khách hàng sẽ giúp ngân hàng tránh được tình trạng ấy.
Việc tổ chức hội nghị khách hàng định kì cũng giúp ngân hàng hiểu thêm về hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng đồng thời làm cho quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thêm gắn bó.
Hội nghị khách hàng cũng nên tổ chức theo hình thức một buổi hội thảo, trao đổi dân chủ. Không phải chỉ có giới lãnh đạo ngân hàng mà các khách hàng cũng cùng diễn thuyết, trao đổi một cách dân chủ để cả hai phía ngân hàng và khách hàng đều cùng hiểu nhau. Đặc biệt, ngân hàng cũng cần chuẩn bị trước nội dung hội nghị khách hàng và cần báo trước cho những khách hàng chủ yếu (những khách hàng lớn hoặc khách hàng đang có nhiều vấn đề cần tháo gỡ). Việc chuẩn bị trước nội dung buổi hội nghị giúp ngân hàng có định hướng rõ ràng trong các vấn đề cần thảo luận, tránh tình trạng lan man để rồi cuối cùng không đạt được mục đích. Ngân hàng cần báo trước cho những khách hàng quan trọng để họ có thời gian chuẩn bị, nếu có gì vướng mắc thì có thể trao đổi trước với ngân hàng.
Thứ năm: Quy định rõ hơn kỳ hạn nợ, mức cho vay, lãi suất và giới hạn về mặt địa lý
Một số doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh ở nước ta, những người sáng lập viên thường là những người có quan hệ anh em, cha con, vợ chồng nên tài sản thế chấp, văn phòng, xưởng sản xuất thường không cùng một địa bàn. Tình trạng nhiều doanh nghiệp cùng một lúc thế chấp cùng một tài sản vay vốn ở nhiều ngân hàng khác nhau, nhất là các doanh nghiệp có tính chất gia đình cũng có khá nhiều. Vì vậy trong cơ chế tín dụng ngân hàng phải rất lưu ý qui định rõ các giới hạn về địa lý, mức tín dụng, thời hạn và lãi suất đối với các doanh nghiệp.
Trong vấn đề này ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội nên có một số qui định:
- Đối với doanh nghiệp Nhà nước thì được tự do lựa chọn để phục vụ. Còn đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thì chỉ cho vay trong địa giới hành chính (thành phố) chứ không nên chỉ giới hạn là chỉ cho các doanh nghiệp trên cùng địa bàn của ngân hàng vay vốn.
- Hạn mức cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung phụ thuộc chủ yếu vào tài sản thế chấp và khả năng nguồn vốn của ngân hàng. Song trường hợp cho vay đối với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh thì phải cho vay có tính chất thăm dò. Những món vay đầu tiên, dù có tài sản thế chấp, có phương án kinh doanh có thể chấp nhận được cũng chỉ nên cho vay khoảng 50% giá trị của tài sản thế chấp và số vốn cho vay không vượt quá vốn tự có của doanh nghiệp. Quá trình cho vay nếu có tín nhiệm sẽ tăng dần hạn mức.
- Thời hạn cho vay nói chung căn cứ vào chu kỳ luân chuyển vốn của đối tượng vật tư hàng hoá xin vay. Nhưng nói chung nên quy định thời gian ngắn phù hợp với khả năng quản lý của khách hàng và sau đó sử dụng việc kiểm tra, xem xét việc cho hay không gia hạn nợ để xử lý từng khoản vay.
Thứ sáu: Nâng cao chất lượng công tác thông tin về khách hàng nhằm mục đích phòng ngừa rủi ro.
Thông tin về khách hàng vay vốn với các ngân hàng trên địa bàn là cần thiết nhất để đảm bảo một khách hàng không vay vốn ở nhiều ngân hàng và đảm bảo khả năng hoàn trả của khoản vay.
Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đã có hệ thống trung tâm thông tin tín dụng song thông tin được cập nhật còn chưa nhanh và chưa đầy đủ, hình thức còn đơn điệu. Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội nên cử một số cán bộ chuyên trách về thông tin khách hàng nhằm thu thập thông tin nhanh, đầy đủ và kịp thời hơn. Đồng thời, ban lãnh đạo ngân hàng cũng phải thường xuyên nắm bắt thông tin về các khách hàng vay vốn của ngân hàng, không nên dựa hoàn toàn vào quyết định của cán bộ tín dụng.
Thứ bảy: Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát khách hàng vay vốn, theo dõi rủi ro có thể xảy ra đối với các khoản vay.
Công tác kiểm tra, giám sát có thể tiến hành theo các hình thức:
- Kiểm tra thường xuyên, đột xuất tại cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Kiểm tra tình hình sử dụng tiền vay, đôn đốc khách hàng trả nợ các khoản gốc và lãi đến hạn.
- Kiểm tra bằng các thông tin thu thập từ các nguồn khác nhau về khách hàng.
Thứ tám: Cần lập hồ sơ khách hàng để theo dõi khách hàng thường xuyên. Với yêu cầu:
- Hồ sơ khách hàng là bắt buộc.
- Thường xuyên bổ sung thông tin vào hồ sơ để phản ánh đúng và kịp thời về thực trạng của khách hàng, nghĩa là hồ sơ về khách hàng không phải chỉ lập lần đầu khi thiết lập giao dịch rồi để y nguyên như vậy mà phải thường xuyên bổ sung những thông tin mới để ngân hàng có thể theo dõi sít sao và chính xác tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng.
- Cán bộ cần định kì đánh giá khả năng của khách hàng thông qua hồ sơ. Một khách hàng trong thời gian này có thể là khách hàng tốt nhưng ở thời gian khác cũng có thể đã trở thành một khách hàng tồi. Chính vì thế, việc thường xuyên đánh giá khách hàng sẽ giúp ngân hàng chủ động hơn trong quan hệ với khách hàng.
Thứ chín: Mở rộng và phát triển hơn nữa nghiệp vụ tín dụng. Ngân hàng cần đa dạng hoá các sản phẩm của mình nhằm thu hút khách hàng như tín dụng thuê mua, tín dụng cầm đồ...
Thứ mười: Hoàn thiện công tác xử lý và thu hồi nợ quá hạn
Trong tình trạng dư nợ quá hạn của Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội tăng trong thời gian gần đây, ngân hàng cần tìm cách tốt nhất để thu hồi vốn. Cụ thể, ngân hàng có thể sử dụng biện pháp khai thác nếu thấy người vay còn có khả năng để duy trì, phát triển sản xuất kinh doanh. Ngân hàng có thể giúp họ khắc phục các khó khăn trước mắt bằng một số biện pháp như: hướng dẫn, đưa ra lợi khuyên nhằm tác động đến khả năng tạo và thu được lợi nhuận; có thể gia hạn, điều chỉnh hợp đồng tín dụng để giảm quy mô hoàn trả trước mắt, tìm cách tăng vốn, tăng sức mạnh tài chính bằng cách nhận thêm các bảo đảm tín dụng như tài sản thế chấp, kêu gọi người bảo lãnh... giúp họ quản lý chặt chẽ ngân quỹ, khôi phục sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp cần thiết, ngân hàng phải giám sát cho đến khi số nợ vay được hoàn trả. Đây là biện pháp tốt nhất cho cả khách hàng lẫn ngân hàng vì không những không đẩy khách hàng đến chỗ phá sản mà còn tạo khả năng thu hồi khoản nợ khó đòi cho ngân hàng.
Trong trường hợp xét thấy người vay không đủ khả năng để tiếp tục sản xuất kinh doanh thì việc áp dụng các biện pháp trên là vô vọng. Do thủ tục việc phát mại tài sản thế chấp rườm rà và mất thời gian dài nên để nhanh chóng thu hồi được vốn, ngân hàng cần động viên khách hàng tự giải quyết đối với các tài sản thế chấp để trả nợ ngân hàng.
Nếu phát hiện thấy khách hàng có mưu đồ xấu thì ngay lập tức ngân hàng phải đưa ra các biện pháp thu hồi vốn như: phát mại tài sản, đòi hỏi người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, chuyển quyền sở hữu tài sản cho đơn vị mới có khả năng nhận nợ hoặc tái sở hữu các tài sản có thể sử dụng cho thuê v.v...
3. Kiến nghị đối với khách hàng
Một là cần nâng cao trình độ của đội ngũ giám đốc, kế toán trưởng cũng như của cán bộ quản lý nhằm quản lý tốt doanh nghiệp.
Hai là khi vay vốn ngân hàng, các khách hàng cần phải thu thập những thông tin đáng tin cậy, điều tra thị trường nhằm xây dựng dự án mang tính khả thi.
Ba là khách hàng cũng cần phải tích cực hỗ trợ ngân hàng trong việc cung cấp thông tin cho ngân hàng để ngân hàng có thể đánh giá chính xác hiệu quả của dự án cũng khả năng thu nợ. Có thể có những dự án doanh nghiệp chưa tính hết những biến động theo chiều hướng xấu của thị trường nhưng ngân hàng lại phát hiện ra, tránh thiệt hại cho chính bản thân doanh nghiệp.
Bốn là cần tham khảo ý kiến các chuyên gia trong việc nhập máy móc thiết bị loại gì, của ai, chất lượng như thế nào thì phù hợp nhằm tránh việc nhập dây chuyền công nghệ không phù hợp, gây lãng phí vốn cho chính bản thân doanh nghiệp, ảnh hưởng đến việc trả nợ vay ngân hàng, từ đó gián tiếp gây ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế.
Kết luận
Ngân hàng có chức năng huy động mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để cho vay nên nó là công cụ tích tụ và tập trung vốn để hỗ trợ các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh, thực hiện tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và chiều sâu, thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao. Tín dụng ngân hàng cũng góp phần hút và đẩy tiền ra lưu thông, chống lạm phát, ổn định tiền tệ giá cả, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp.
Để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các doanh nghiệp, trước hết tín dụng ngân hàng cần phải có những giải pháp thích hợp để thu hút vốn và mở rộng các hình thức cho vay. Nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, các ngân hàng cần mở rộng cho vay trung và dài hạn để các doanh nghiệp từng bước đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng cho vay đối với tất cả các thành phần kinh tế.
Trước tình trạng số dư nợ quá hạn và nợ khó đòi ở các ngân hàng đang tăng cao, các ngân hàng cần đề ra các biện pháp để nâng cao chất lượng nghiệp vụ tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay, hạn chế thấp nhất các rủi ro thiệt hại có thể xảy ra. Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội cũng luôn nhận thức được điều này nên ngân hàng đã và đang tìm cách thu hồi nợ quá hạn và nợ khó đòi từ các năm trước tồn lại đồng thời nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng, đưa ra các qui định chặt chẽ trong cho vay... nhằm hạn chế tối đa rủi ro.
Bản Luận văn này, trên cơ sở nghiêm cứu, phân tích những nguyên nhân, khả năng có thể dẫn đến rủi ro cho tín dụng ngân hàng đã đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng tín dụng ngân hàng, mong rằng có thể góp một phần nhỏ bé vào việc nghiên cứu nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của hoạt động ngân hàng trong giai đoạn hiện nay.
Chắc chắn rằng trong thời gian tới, Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội nói riêng và các Ngân hàng thương mại nói chung sẽ có những định hướng, biện pháp tích cực hơn nữa để hạn chế các rủi ro, nâng cao chất lượng tín dụng nhằm phù hợp với yêu cầu của kinh tế thị trường, góp phần thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
Tài liệu tham khảo
Luật Các Tổ chức Tín dụng được Quốc Hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam khoá X thông qua trong kỳ họp thứ 2, tháng 12 năm 1997.
Pháp lệnh NHNN và Pháp lệnh ngân hàng, HTX tín dụng và công ty tài chính - 1990.
Ngân hàng thương mại - Edward W. Reed & Edward K. Gill.
Những điều cần biết về hoạt động ngân hàng - Theodore A.Platz, Sr.
Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại - David Cox - NXB Chính trị quốc gia.
Kinh doanh tiền tệ - Harold Barger.
Chiến lược phục vụ Công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước - Cao Sỹ Kiêm - Thời báo Ngân hàng số đặc biệt kỉ niệm 45 năm ngày thành lập ngân hàng.
Chính sách tài chính tiền tệ của NHNN Việt Nam 1996 - 2000, Tài liệu hội thảo khoa học NHNN Hà Nội tháng 8/1995 do NHNN tổ chức.
Tài liệu tập huấn tín dụng - Ngân hàng TMCP á Châu.
Báo cáo tổng kết Ngân hàng TMCP á Châu Hà Nội năm 1997, quý I - 1998.
Thời báo kinh tế năm 1997 và 1998.
Tạp chí ngân hàng năm 1997 và 1998.
Bài giảng các môn học của Trường Đại học Kinh tế quốc dân.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 3738.doc