Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của công ty cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại (sona)

Mặc dù hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mới chính thức từ năm 1997, song cho đến nay hoạt động này của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và đã đem lại được nguồn thu đáng kể cho công ty. Từ đầu năm 1997 khi phòng kinh doanh xuất nhập khẩu bắt đầu hoạt động của mình bằng hoạt động nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất khẩu thì đến đầu năm 2001, hoạt động bán hàng xuất khẩu đã được triển khai. Sự gia tăng các khách hàng nội địa, kèm theo đó là sự gia tăng về số lượng hợp đồng đã làm cho hoạt động xuất nhập khẩu ở công ty ngày thêm khởi sắc. Lợi nhuận tăng khoảng 20 đến 30 % mỗi năm đã chứng tỏ được hiệu hoạt động kinh doanh của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Do điều kiện vốn lưu động còn quá ít, năm 2000 về trước , Công ty chủ yếu làm dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác và huy động vốn của khách hàng để kinh doanh. Năm 1997 doanh thu xuất nhập khẩu đã đạt con số đáng kể (6.868.654.000 VNĐ ). Tuy nhiên sang đến năm 1998 do chính phủ ban hành nghị định 57/CP mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, vì vậy nhiều khách hàng trước kia của SONA đã tự tiến hành xuất nhập khẩu trực tiếp. Do mất khá nhiều đơn hàng từ các đơn vị này nên năm 1999 và năm 2000 doanh thu từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã giảm đáng kể. Do đặc điểm hoạt động thương mại phát triển sau, các năm trước đây hoạt động cầm chừng, hạn chế, doanh thu thấp, mang lại hiệu quả chung cho Công ty chưa đáng kể, nhưng sang đến năm 2001 và năm 2002 hoạt động kinh doanh XNK đã tăng lên mạnh mẽ cùng với sự phát triển theo hướng qui mô lớn và có hiệu quả trên các mặt: Tổng doanh thu, nộp ngân sách, lợi nhuận, thị trường và cơ cấu ngành hàng, kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu và xuất khẩu . Cụ thể là: doanh thu XNK HH và các dịch vụ khác năm 2001 là: 78.382.000.000 VNĐ tăng 14 lần, nộp ngân sách là: 7.560.000.000 VNĐ tăng 8 lần, lợi nhuận là: 143.800.000 tăng 5 lần so với năm 2000 và các năm trước đây. Doanh thu XNK HH và các dịch vụ khác năm 2002 là: 120.516.000.000 tăng 1,54 lần so với năm 2001.

doc64 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1628 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của công ty cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại (sona), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Đội ngũ CBNV giỏi và tình thông cho hoạt động kinh doanh còn thiếu và yếu ở nhiều khâu trong hoạt động chung của Công ty và nhất là trong hoạt động xuất khẩu lao động, thương mại và đào tạo. Nhận biết được những tồn tại và hạn chế này, Công ty cần tìm ra nguyên nhân, và giải pháp, kết hợp với những bài học kinh nghiệm, và phải quyết tâm củng cố tăng cường bộ máy hoàn thiện hơn, đảm bảo cho cạnh tranh và cạnh tranh thắng lợi, đưa hoạt động kinh doanh của Công ty phát triển mạnh với tốc độ tăng trưởng cao hơn nữa. III- Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá của công ty SONA 1. Tình hình hoạt động XNK hàng hoá * Mặt hàng kinh doanh : Hàng hoá Công ty đang cung ứng trên thị trường chủ yếu là hàng xuất khẩu và hàng nhập khẩu: - Các mặt hàng nhập khẩu chủ yếu của Công ty là: máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và hàng tiêu dùng. + Máy móc thiết bị: Chủ yếu là máy công trình, ôtô vận tải phục vụ sản xuất và xây dựng. Hàng hoá của SONA đang tiếp tục được khẳng định bằng chất lượng và dịch vụ sau bán hàng. Chính vì cậy hàng tồn kho chậm luân chuyển là không đáng kể. Thị trường nhập khẩu chủ yếu là: Hàn quốc, Nhật Bản, Đức, Mỹ ... . Thị trường tiêu thụ chủ yếu là các tỉnh phía Bắc và miền Trung. + Nguyên vật liệu: Chủ yếu là sắt thép, mặt hàng sắt thép nhập khẩu của SONA đang rất được ưa chuộng trên thị trường nội địa. + Hàng tiêu dùng: SONA chủ yuế nhập khẩu những mặt hàng thiết yếu phục vụ đời sống mà trong nước chưa sản xuất được hoạc chưa đáp ứng được nhu cầu. Hàng tiêu dùng nhập khẩu của SONA luôn được khách hàng ưa chuộng và hầu như không có hàng tồn kho chậm luân chuyển . Thị trường nhập khẩu chủ yếu là: Mỹ, Đài loan, Singapore, Malaysia, Nhật Bản... - Các mặt hàng xuất khẩu chủ yếu của Công ty : chủ yếu là hàng nông sản và thủ công mỹ nghệ. + Hàng nông sản: Công ty chủ yếu xuất khẩu cao su và nước tương. Tuy mới vào thị trường hàng nông sản nhưng hàng hoá của SONA được đánh giá cao, chất lượng tốt, thời gian giao hàng đúng hạn, giá cả hợp lý. Khách hàng đang tiếp tục đặt mua hàng của SONA và mong muốn tăng số lượng và kim ngạch hàng nông sản. Thị trường chủ yếu các nước ASEAN, Trung quốc, Hàn quốc, EU, Nhật Bản, các nước Đông âu cũ... + Hàng thủ công mỹ nghệ: SONA cũng chỉ mới bắt đầu vào thị trường, tuy mới chỉ với số lượng nhỏ, kim ngạch còn hạn chế nhưng cũng đã khẳng định được uy tín của SONA rất được khách hàng nước ngoài ưa chuộng về mẫu mã, chất lượng và thời gian giao hàng, chắc chắn trong thời gian tới sẽ có bước nhảy vọt cả về số lượng đối với mặt hàng này. Thị trường chủ yếu là Đài loan, Nhật bản, Hồng kông, Trung quốc , Hàn quốc, EU, SNG... * Thị trường: Các khách hàng nội địa chủ yếu của Công ty SONA bao gồm: + Công ty TNHH Phú Thái + Công ty TNHH Tự Cường + Công ty TNHH Đại Minh + Công ty TNHH Toàn Thắng + Công ty Văn phòng phẩm Hà nội + Công ty Nam Tuấn + Công ty Tân Sao Việt + Xí nghiệp Xây lắp 7 ... Thị trường nước ngoài của Công ty như: Trung quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ, Singapore, Malaysia, Indonexia, Philipin, Thái lan, Taiwan... * Kim ngạch XNK - Tổng kim ngạch XNK của Công ty năm 2002 đạt 7,9 triệu USD. Trong đó xuất khẩu đạt 2,2 triệu USD, nhập khẩu đạt 5,7 triệu USD * Hiệu quả hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá: - Hiệu quả hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá được thể hiện qua bảng kết quả hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá dưới đây: Đơn vị tính: 1.000 đồng Stt Chỉ tiêu Năm Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1 Doanh thu 9.493.572 2.472.780 1.213.461 78.382.000 120.516.000 2 Nộp ngân sách 379.742 611.598 121.346 7.949.000 10.880.000 3 Lãi gộp 381.051 141.371 189.343 Mặc dù hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu mới chính thức từ năm 1997, song cho đến nay hoạt động này của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu đã đạt được những kết quả đáng khích lệ và đã đem lại được nguồn thu đáng kể cho công ty. Từ đầu năm 1997 khi phòng kinh doanh xuất nhập khẩu bắt đầu hoạt động của mình bằng hoạt động nhập khẩu và nhận uỷ thác xuất khẩu thì đến đầu năm 2001, hoạt động bán hàng xuất khẩu đã được triển khai. Sự gia tăng các khách hàng nội địa, kèm theo đó là sự gia tăng về số lượng hợp đồng đã làm cho hoạt động xuất nhập khẩu ở công ty ngày thêm khởi sắc. Lợi nhuận tăng khoảng 20 đến 30 % mỗi năm đã chứng tỏ được hiệu hoạt động kinh doanh của phòng kinh doanh xuất nhập khẩu. Do điều kiện vốn lưu động còn quá ít, năm 2000 về trước , Công ty chủ yếu làm dịch vụ xuất nhập khẩu uỷ thác và huy động vốn của khách hàng để kinh doanh. Năm 1997 doanh thu xuất nhập khẩu đã đạt con số đáng kể (6.868.654.000 VNĐ ). Tuy nhiên sang đến năm 1998 do chính phủ ban hành nghị định 57/CP mở rộng quyền xuất nhập khẩu cho tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, vì vậy nhiều khách hàng trước kia của SONA đã tự tiến hành xuất nhập khẩu trực tiếp. Do mất khá nhiều đơn hàng từ các đơn vị này nên năm 1999 và năm 2000 doanh thu từ hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu đã giảm đáng kể. Do đặc điểm hoạt động thương mại phát triển sau, các năm trước đây hoạt động cầm chừng, hạn chế, doanh thu thấp, mang lại hiệu quả chung cho Công ty chưa đáng kể, nhưng sang đến năm 2001 và năm 2002 hoạt động kinh doanh XNK đã tăng lên mạnh mẽ cùng với sự phát triển theo hướng qui mô lớn và có hiệu quả trên các mặt: Tổng doanh thu, nộp ngân sách, lợi nhuận, thị trường và cơ cấu ngành hàng, kết hợp hài hoà giữa nhập khẩu và xuất khẩu ... Cụ thể là: doanh thu XNK HH và các dịch vụ khác năm 2001 là: 78.382.000.000 VNĐ tăng 14 lần, nộp ngân sách là: 7.560.000.000 VNĐ tăng 8 lần, lợi nhuận là: 143.800.000 tăng 5 lần so với năm 2000 và các năm trước đây. Doanh thu XNK HH và các dịch vụ khác năm 2002 là: 120.516.000.000 tăng 1,54 lần so với năm 2001. Như vậy có thể nhận định rằng hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty tuy đã khởi sắc và đạt được những thành tích đáng khích lệ trong hai năm 2001, năm 2002 và đang dần dần đi vào ổn định, song vẫn có sự bấp bênh trong việc thực hiện chỉ tiêu kế hoạch các năm tiếp theo của công ty. Điều này là do nguyên nhân hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Công ty không mang tính chuyên doanh, chủ yếu vẫn là hoạt động xuất nhập khẩu uỷ thác, nên phần lớn hoạt động kinh doanh của công ty còn phụ thuộc rất nhiều vào các công ty khác ở trong nước. Đây chính là mặt hạn chế trong kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá mà Công ty cần khắc phục. 2. Các hình thức kinh doanh XNK của Công ty SONA a/ Hình thức kinh doanh xuất khẩu: - Hình thức xuất khẩu chủ yếu là : Xuất khẩu uỷ thác và xuất khẩu trực tiếp. Nhìn chung hoạt động xuất khẩu chính của SONA vẫn là nhận uỷ thác xuất khẩu cho các công ty trong nước. Mọi quá trình chuẩn bị, đóng gói và vận chuyển hàng hoá tới cảng đều do bên uỷ thác đảm nhận. Công ty chỉ có vai trò trong việc đàm phán, ký kết hợp đồng ngoại thương, hướng dẫn bên uỷ thác trong việc đóng gói, vận chuyển và giúp đỡ vmọi việc cần thiết để giải quyết các khiếu nại (nếu có). Từ đầu năm 2001, khi Công ty tiến hành tìm hiểu thị trường tiêu thụ ở nước ngoài thì đồng thời Công ty cũng trực tiếp tham gia vao khâu thu mua hàng hoá xuất khẩu ở thị trường trong nước. Điều này đồng nghĩa với việc gia tăng trách nhiệm của Công ty đối với quá trình xuất nhập khẩu và cùng với đó là việc phải kiểm soát rủi ro ở mức độn lớn hơn. * Quá trình xuất khẩu hàng hoá ở SONA được thực hiện theo quy trình sau: Đàm phán, ký kết hợp đồng với khách ngoại và nội Lập phương án kinh doanh Giục bên mua mở L/C Tiến hành thủ tục vay tiền Ngân hàng để mua hàng SONA chuyển tiền đặt cọc mua hàng Kiểm tra xem L/C đã mở chưa? Chuẩn bị hàng xuất khẩu Làm thủ tục xuất khẩu Lấy mẫu đi giám định chất lượng (nếu khách hàng yêu cầu) SONA thuê tàu (Tuỳ theo tong hợp đồng) Mua bảo hiểm (Tuỳ theo tong hợp đồng) Mang hàng đi đóng Công ten nơ ( SONA thuê đội ở cảng đóng) Giao hàng lên tàu và thuyền trưởng giao lại cho Công ty vận đơn đường biển (nếu hàng xuất khẩu theo giá FOB) SONA gửi bộ chứng từ nhận hàng cho khách nước ngoài Lập bộ chứng từ thanh toán và xuất trình cho ngân hàng để thanh toán Thanh lý hợp đồng, đóng thuế xuất khẩu (nếu có) b/ Hình thức kinh doanh nhập khẩu: Hình thức kinh doanh nhập khẩu chủ yếu là: nhập khẩu uỷ thác và nhập khẩu trực tiếp, trong đó nhập khẩu uỷ thác là chủ yếu trong hợp đồng mua bán ngoại thương của công ty. Tuy nhiên sang đến năm 2002 Công ty cũng đã tiến hành rất nhiều mặt hàng nhập khẩu trực tiếp chủ yếu là nguyên vật liệu như : sắt, thép.... Đối với hàng hoá được nhập khẩu theo hợp đồng uỷ thác, công ty sẽ uỷ thác cho cơ quan giao thông (ga, cảng) để giao hàng cho đơn vị uỷ thác. Mọi trách nhiệm về tiếp nhận, vận chuyển hàng hoá đều do đơn vị uỷ thác đảm nhận. Công ty được miễn trách nhiệm đối với những trường hợp chậm nhận hàng, không nhận hàng, hàng bị hư hỏng, thiếu hàng... song phải thay mặt đơn vị uỷ htác thực hiẹn việc khiếu nại. Đối với hàng hoá nhập khẩu theo đơn đặt mua hàng, công ty tham gia từ khâu tìm hiểu nguồn cung ứng ở thị trường nước ngoài, đàm phán, kí kết hợp đồng ngoại thương, tiến hành tiếp nhận và giao hàng cho đơn vị đặt hàng từ cảng, ga. Mặc dù công ty không có kho chứa hàng nhập khẩu, song hoạt động bán hàng nhập khẩu vẫn được thực hiện một cách thuận lợi nhờ vào việc công ty trực tiếp hoặc uỷ thác giao hàng ngay tại ga, cảng. * Quy trình nhập khẩu hàng hoá ở SONA được thực hiện thưo quy trình sau: Đàm phán, ký kết hợp đồng với khách ngoại và nội Lập phương án kinh doanh Làm thủ tục vay vốn Xin mở L/C Mua bảo hiểm ( Tuỳ theo từng hợp đồng) Thuê tàu (Tuỳ theo từng hợp đồng) Tiếp nhận bộ chứng từ của Ngân hàng Lấy lệnh giao hàng Làm thủ tục hải quan Thanh toán tiền lưu kho bãi Tổ chức nhận hàng Kiểm tra hàng nhập khẩu và lập biên bản khiếu nại (nếu hàng hoá bị giao thiếu, giao không đúng phẩm chất). chương iii Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của công ty cung ứng nhân lực quốc tế và thương mại (sona) I- Định hướng phát triển về hoạt động kinh doanh của công ty SONA 1. Định hướng phát triển chung của Công ty trong thời gian tới Trong những năm qua Công ty SONA đã có rất nhiều cố gắng trong bước đường đi của mình nhằm nâng cao doanh thu và lợi nhuận. Nếu như trong năm 1999, Công ty có sự giảm sút trong doanh thu từ hoạt động xuất khẩu lao động và xuất nhập khẩu hàng hoá. Thế nhưng sang năm 2000, năm 2001 sự khởi sắc trở lại của cả 2 hoạt động này đã làm cho tình hình kinh doanh của Công ty có nhiều nét sáng sủa hơn. Đặc biệt là năm 2002 là năm đạt được những thành quả cao nhất kể từ trước tới nay về tất cả các mặt hoạt động kinh doanh của Công ty. Dựa trên tình hình hoạt động của Công ty trong những năm qua, dựa vào những khả năng nguồn lực có thể khai thác, dựa vào những chuyển biến của nền kinh tế và định hướng hoạt động xuất nhập khẩu của nhà nước, cũng như xu hướng của thị trường thế giới, Công ty chủ trương trong thời gian tới sẽ tiếp tục tìm kiếm đa dạng hoá các mặt hàng kinh doanh, khai thác cơ hội phát triển ở thị trường mới trong hoạt động cung ứng lao động quốc tế cũng như xuất nhập khẩu hàng hoá. Mở rộng và phát triển các loại hình kinh doanh như: làm đại lý bán vé máy bay, tư vấn du học, lắp đặt dây chuyền lắp ráp xe máy. Cải tạo nâng cấp cơ sở đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo.... Tuy nhiên trọng tâm trong kế hoạch phát triển ở giai đoạn tới vẫn là đẩy mạnh hoạt động cung ứng nhân lực quốc tế, tăng cường hoạt động xuất nhập khẩu mà tầm quan trọng tương đối được đặt vào việc kích hoạt thị trường cho xuất khẩu hàng hoá. Về Cơ cấu tổ chức - Trên cơ sở quy mô phát triển hoạt động kinh doanh của Công ty, trong giai đoạn tới, bộ máy hoạt động của Công ty sẽ được đổi mới và bổ sung về cơ cấu để phù hợp với tình hình phát triển mới. Tuyển chọn nhân viên có trình độ, quy hoạch, bồi dưỡng năng lực chuyên môn, nhận thức chính trị cho cán bộ thông qua các khoá đào tạo lại theo hướng chuyên sâu nghiệp vụ phù hợp với vận hành của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và đường lối, chủ trương của Đảng và Nhà nước. - Chuyên môn hoá bộ máy tổ chức kinh doanh, phân công công tác hợp lý để phát huy cao nhất năng lực cán bộ. 2. Định hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới về hoạt động thương mại 2.1. Tăng cường đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu lao động Trong hoạt động kinh doanh của Công ty thì chủ yếu vẫn tập trung vào hoạt động xuất khẩu lao động, nên trong thời gian tới, nên trong thời gian tới Công ty vẫn chú trọng vào việc đưa lao động ra nước ngoài , cụ thể là phấn đấu năm 2003 sẽ đưa được khoảng 2800 lao động sang làm việc ở nước ngoài. Đồng thời ổn định số lao động đang làm việc ở nước ngoài và tạo điều kiện gia hạn hợp đồng cho số lao động đã hết thời hạn hợp đồng. Hạn chế tối đa số lao động phải về nước trước hạn. - Tiếp tục củng cố giữ vững thị trường truyền thống và phát triển thị trường mới. - Tăng cường quản lý lao động ở nước ngoài, phối hợp chặt chẽ và thường xuyên với phía đối tác giải quyết kịp thời các vấn đề phát sinh của lao động để nâng cao uy tín của lao động do Công ty cung cấp và trách nhiệm của Công ty trong quá trình hợp tác nhằm tăng thêm số lao động được tuyển dụng mới. Mở rộng thêm các đối tác có nhu cầu sử dụng lao động. Nâng cao chất lượng lao động đi làm viẹc tại nước ngoài thông qua công tác tuyển chọn và đào tạo, chuẩn bị nguồn 2.2. Tăng cường đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu Trên quan hệ mối quan hê giữa hoạt động xuất khẩu lao động với hoạt động kinh doanh hàng háo, nhằm khai thác hết lợi thế của hoạt đoọng xuất khẩu kao động, đồng thời tạo nên sự phát triển bền vững của mình; trên cơ sở khả năng và kết quả đã thực hiện được trong năm 2002, Công ty chủ trương phát triển mạnh mẽ và vững chắc hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá. Xuất phát từ tình hình hiện nay và yêu cầu phát triển của đất nước trong thời kỳ mới, theo nghị quyết đại hội lần thứ IX, đường lối kinh tế của Đảng và nhà nước ta được xác định là: “ Đẩy mạnh công nghiệp hoá, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa đất nước trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội ngập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững”. Đẩy mạnh xuất khẩu, đặc biệt là những mặt hàng, ngành hàng Việt nam có lợi thế so sánh như dệt may, thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản, nông sản... Duy trì ổn định nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu, máy móc phục vụ sản xuất, giảm dần các mặt hàng tiêu dùng. Trên cơ sở phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa giai đoạn 2001 - 2010, và những tiềm năng của Việt nam nói chung và của SONA nói riêng, được sự quan tâm và chỉ đạo của Bộ Lao động - Thương binh và xã hội, Công ty SONA đã tự đánh giá năng lực kinh doanh thông qua các kết quả kinh doanh đã đạt được, từ đó vạch ra định hướng phát triển theo hướng: Tập trung đẩy mạnh xuất khẩu, kết hợp chặt chẽ giữa xuất khẩu lao động và xuất khẩu hàng hoá, tăng cường nhập khẩu ngành nguyên vật liệu thiết bị máy móc phục vụ sản xuất, phát triển sản xuất, chế biến một số mặt hàng nông sản xuất khẩu và hàng công nghiệp thay thế hàng nhập khẩu với mục tiêu đưa công ty SONA trở thành doanh nghiêp mạnh, hoạt động tốt có hiệu quả trên các lĩnh vực xuất khẩu lao động,thương mại và kinh doanh dịch vụ. - Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, tìm kiếm và mở rộng thị trường xuất khẩu, phấn đấu đạt tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 2001 - 2005 là: 40.000.000 USD, cụ thể như sau: + Trong năm 2002, Công ty đặt mục tiêu phấn đấu kim ngạch xuất khẩu đạt 5.000.000 USD và tộc độ tăng trwognr hàng năm phấn đấu đạt 16% tổng kim ngạch đến năm 2005 là 40.000.000 USD. Đẩy mạnh kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng đã có thị trường ổn định và có sức cạnh tranh cao như: cao su, nông sản... mở rộng thị trường xuất khẩu mới như: Mỹ, Nga, Hàn quốc... + Tăng kim ngạch xuất khẩu những mặt hàng thủ công mỹ nghệ, thuỷ sản sang thị trường: Đài loan, Nhật Bản, Tây Âu, Châu Phi... + Hoàn thiện công tác xuât khẩu từ khâu mua hàng, chế biến đến khâu thanh toán hàng xuất khẩu. + Tăng cường kim ngạch xuất khẩu thông qua đối lưu hàng hoá, quy chế trả nợ liên bang Nga. - Duy trì ổn định nhập khẩu các mặt hàng nguyên liệu, máy móc phục vụ sản xuất: Đạt tổng kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 2001 - 2005 là: 50.000.000 USD. + Trong năm 2002, Công ty tiếp tục duy trì những mặt hàng nhập khẩu đã có đầu ra ổn định là: sắt, thép, ô tô, máy móc phục vụ sản xuất, hàng tiêu dùng thiết yếu. Kim ngạch nhập khẩu ước tính là sẽ đạt 6.000.000 USD. Duy trì mức tăng trưởng nhập khẩu 14% năm. Đến năm 2005 đạt kim ngạchnhập khẩu là: 50.000.000 USD. + Hoàn thiện hệ thống phân phối sản phẩm nhập khẩu, có chính sách và biện pháp đẩy mạnh dịch vụ sau bán hàng - Mở rộng quy mô kinh doanh, phát triển sản xuất hàng xuất khẩu như: xây dựng nhà máy chế biến nông sản để xuất khẩu sang các nước như: Đài loan, Mỹ, Nga... II - Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của công ty sona Để có thể đạt được những mục tiêu đã đề ra, công ty phải có sự nỗ lực rất nhiều, trước hế là phải khắc phục những tồn tại trong bản thân công ty, đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường trong và ngoài nước, phát triển các kế hoạch marketing nhằm tìm kiếm cơ hội tiếp cận với thị trường và khách hàng. Đồng thời phải nâng cao hiệu quả của việc thực hiện hợp đồng xuất nhập khẩu vì đây là yếu tố quan trọng quyết định đến kết quả kinh doanh của Công ty. Để hỗ trợ cho nỗ lực này, yêu cầu đối với công ty là phải từng bước hoàn thiện tổ chức bộ máy kinh doanh, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn và huy động vốn cũng như hiệu quả của công tác phòng tránh giải quyết rủi ro trong quá trình thực hiện hợp đồng ngoại thương. Kết hợp với định hướng của Công ty trong thời gian tới, để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh doanh, công ty cần có những biện pháp sau đây: 1. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường Kinh doanh trong cơ chế thị trường, hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường có vai trò rất quan trọng và nó là một đòi hỏi tất yếu đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hoạt động này quyết định đến khả năng tiêu thụ sản phẩm, quy mô thị trường, khách hàng và do đó quyết định đến hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Công tác nghiên cứu thị trường trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ cho phép Công ty xác định được nhu cầu thị trường trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại hàng hóa, nghiên cứu được khả năng cung cấp của các nhà nhập khẩu trong nước để làm cơ sở lập kế hoạch xuất nhập khẩu của Công ty. Nghiên cứu thị trường ngoài nước sẽ cho phép Công ty thấy được bạn hàng nào đó có khả năng đáp ứng tối ưu nhu cầu thị trường trong nước. Tìm kiếm thị trường có vai trò rất quan trọng, trên cơ sở nghiên cứu thị trường Công ty cần phải tìm kiếm thị trường để xác định thị trường nào Công ty có thể tham gia được và hiệu quả có thể mang lại. Tìm kiếm thị trường là cơ sở cho Công ty mở rộng cả thị trường mua và thị trường bán. Mặc dù hoạt động nghiên cứu, tìm kiếm và mở rộng thị trường có vai trò quan trọng như vậy nhưng cho đến nay Công ty chưa có bộ phận nào đảm nhiệm chức năng này. Hoạt động kinh doanh của Công ty chủ yếu là các mối quan hệ có sẵn, khách hàng, bạn hàng tìm đến. Việc tìm kiếm khách hàng vẫn còn hạn hẹp. Cạnh tranh trong cung cấp các loại hàng hoá đặc chủng đang trở nên gay gắt, nhiều công ty xuất nhập khẩu tham gia vào thị trường. Các doanh nghiệp có nhu cầu có thể xuất nhập khẩu trực tiếp. Vì vậy nếu Công ty không thực hiện tốt hoạt động Marketing, Công ty sẽ mất dần thị trường. Công ty cần thiết phải thành lập bộ phận Marketing để thực hiện các chức năng sau: - Nghiên cứu nhu cầu thị trường trong nước ( ngoài nước) về hàng hoá xuất nhập khẩu. - Tổ chức giới thiệu sản phẩm, phương thức bán hàng nhằm thu hút khách hàng. - Nghiên cứu thị trường xuất nhập khẩu để lựa chọn nhà cung cấp đáp ứng tốt nhất yêu cầu của người xuất nhập khẩu: chất lượng, giá cả, chế độ hậu đãi... Việc nghiên cứu cần tập trung xác định nhu cầu hàng năm về các loại máy móc thiết bị, phụ tùng thay thế, nhu cầu đổi mới, nhu cầu thay thế các loại máy móc thiết bị của tất cả các công ty trong nước. Xác định nhu cầu về số lượng, chất lượng, giá cả từng loại hàng hóa. Sau khi xác định được nhu cầu, cần phải giới thiệu giá cả, chất lượng hàng hoá cũng như phương thức bán hàng để cho các công ty có nhu cầu nhập khẩu có thể chấp thuận hàng hoá của Công ty. Trong kinh doanh có rất nhiều đối thủ cạnh tranh, vì vậy Công ty cần phải nghiên cứu kỹ nhu cầu thị trường và giá cả của các nhà nhập khẩu đang cung cấp trước khi quyết định có nên tham gia vào thị trường này không. Công ty nên tập trung vào nhập khẩu một số hàng hoá mà hàng hoá đó thị trường trong nước đang khan hiếm hoặc đang có nhu cầu cao, hàng hoá đó Công ty có lợi thế về nhà cung cấp như: giá cả, chất lượng, hàng hoá đó Công ty cung cấp có sức cạnh tranh hơn so với các nhà cung cấp khác. Về nghiên cứu thị trường nước ngoài, Công ty có thể trực tiếp hoặc thông qua các tổ chức thương mại, tổ chức tư vấn quốc tế để xác định rõ các thị trường cung cấp từng loại hàng hóa cũng như nhu cầu về các loại hàng hoá mà Công ty cung ứng về giá cả, chất lượng, sau đó cân nhắc chi phí vận chuyển, uy tín bạn hàng và khả năng làm ăn lâu dài để quyết định nên nhập khẩu hàng hoá đó từ thị trường nào hay xuất khẩu loại hàng nào cho thị trường nào. * Yêu cầu đối với tổ chức bộ phận Marketing: Để đáp ứng được yêu cầu của hoạt động nghiên cứu, tìm kiếm mở rộng thị trường, khi tổ chức bộ phận Marketing cần chia ra làm hai nhóm công việc: nhóm nghiên cứu thị trường ngoài nước - nhóm nghiên cứu thị trường trong nước. Đối với các nhân viên nghiên cứu thị trường trong nước đòi hỏi: - Phải có nghiệp vụ Marketing , hiểu biết về Marketing để nghiên cứu, xác định đúng nhu cầu thị trường. - Phải có hiểu biết về các loại hàng hoá chính của Công ty, nên cần phải biết thị trường sản xuất trong ngành cần những loại nguyên liệu, máy móc nào với số lượng bao nhiêu, chất lượng như thế nào để làm cơ sở giới thiệu các hàng hoá nhập khẩu của Công ty. Đối với nhân viên nghiên cứu thị trường nước ngoài, yêu cầu: - Phải có nghiệp vụ Marketing, biết ngoại ngữ, hiểu biết về thương mại quốc tế, kinh tế quốc tế, luật pháp quốc tế. - Hiểu biết rộng rãi về các tổ chức thương mại, tổ chức tư vấn quốc tế. * Kết quả có thể đạt được Nếu Công ty thực hiện tốt công tác nghiên cứu tìm kiếm và mở rộng thị trường thì Công ty có thể thu được một số kết quả sau đây: - Nắm được đầy đủ nhu cầu về các loại hàng hoá mà Công ty cung cấp cho các thị trường trong và ngoài nước, trên cơ sở đó Công ty tiến hành đàm phán ký kết hợp đồng cung cấp các loại hàng hoá cho thị trường và tiến tới chiếm lĩnh toàn bộ thị trường này. - Trên cơ sở nghiên cứu thị trường ngoài nước, Công ty xác định được nên tham gia vào xuất nhập khẩu những loại hàng hoá nào cung cấp cho thị trường trong nước cũng như thị trường ngoài nước mà Công ty có thể thu được hiệu quả cao. - Tuy nhiên trong trường hợp thị trường nước ngoài có những biến động lớn về chính trị, kinh tế hoặc khách hàng không đủ khả năng tài chính hay giao hàng thì biện pháp phòng tránh rủi ro tốt nhất là bảo lưu quan hệ buôn bán với thị trường và khách hàng đó. 2. Mở rộng mặt hàng kinh doanh Công ty cần kinh doanh đa dạng mặt hàng hơn nưa, đây là cách thức kinh doanh chắc chắn và phổ biến nhất ở những doanh nghiệp sâu chuyên môn hoá và đa dạng sẽ khắc phục nhược điểm cho nhau. Công ty cần thay đổi cơ cấu mặt hàng theo hướng đa dạng hoá, chuyển cơ cấu xuất nhập khẩu theo hướng đáp ứng nhu cầu thị trường. Tìm kiếm bạn hàng mới nhưng đồng thời phải củng cố bạn hàng truyền thống, tạo nguồn hàng và thị trường ổn định. Bên cạnh mặt hàng truyền thống, cần mở rộng và xâm nhập sâu hơn vào các thị trường mới và nhiều mặt hàng khác nữa. Kinh doanh những mặt hàng mới rất cần có sự thận trọng và linh hoạt vì kinh nghiệm chưa có mà đối thủ cạnh tranh lại nhiều. còn những mặc hàng cũ cần có chính sách giá linh hoạt ( chẳng hạn chư giá ưu đãi cho bạn hàng truyền thống hoặc chính sách giá khuyến mại). Riêng những mặt hàng không cần kim ngạch phải tranh thủ những lô lớn. Yếu tố cân bằng xuất nhập khẩu cần thiết vì nó đánh giá khả năng sản xuất cũng như cạnh tranh cuả một nước, tuy nhiên không bắt buộc phải cân bằng mà tuỳ theo từng thời diểm tăng cường cho loại hàng nào để đem lại cho hiệu quả nhất. Ví dụ: Khi tỷ giá cao, đồng Việt nam mất giá ta cần tăng cường hàng xuất khẩu hạn chế tối đa hàng nhập khẩu, hoặc khi hàng ngoại thị trường trong nước tiêu thụ mạnh cần đẩy mạnh nhập khẩu. Tóm lại, lựa chọn mặt hàng chủ lực và đa dạng hoá mặt hàng đây là cốt lõi của quá trình kinh doanh để thực sự làm chủ chiếm lĩnh thị trường. Hơn nữa các mặt hàng cũ nhu cầu gần như bão hoà trên thị trường truyền thống, vì vậy đổi mới và tăng cường mặt hàng kinh doanh dựa trên một số mặt hàng chủ lực là bước đi đungs hướng. Đối với các thị trường mới cần đưa ra những mặtt hàng tốt đẹp, rẻ hơn..., để thu hút goị mở nhu cầu, còn các thị trường cũ phải duy trì và kích thích các nhu cầu mới. Cần quan tâm hơn nữa đến việc tạo nguồn hàng thiết lập quan hệ làm ăn với nhiều Công ty, với các mặt hàng giống nhau để thay thế dễ khi nước ngoài có nhu cầu có thể thu gom hàng xuất khẩu kịp thời. 3. Củng cố và quan hệ tốt với bạn hàng cũ, mở rộng phát triển với các bạn hàng mới Hiện nay, số lượng bạn hàng trong nước của Công ty chưa phong phú, Công ty mở rộng một số bạn hàng khác trong nước để tạo các chân hàng ổn định thường xuyên cho công tác nhập khẩu. Trong cơ chế cạnh tranh hiện nay thì có được các bạn hàng nhất là khách mua hàng đã là rất khó, giữ được mối quan hệ với bạn hàng cũ, đã hiểu và có uy tín với nhau còn khó hơn. Cái cốt yếu dành chiến thắng trên thương trường hiện nay là có sự tin tưởng, sự giúp đỡ lẫn nhau với các ban hàng, khách hàng cũ làm ăn có uy tín. Đó là chỗ dựa tin cậy trong hoạt động kinh doanh và muốn được như vậy thì phong cách làm ăn, cách cư xử của Công ty với bạn hàng và khách hàng cũng phải thể hiện chữ tín, sự giúp đỡ và đảm bảo lợi ích cho bạn hàng một cách sòng phẳng kể cả hi sinh lợi ích của mình, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi cả một mối quan hệ lâu dài, mất nhiều thời gian và công sức mới gây dựng được. Tuy nhiên cũng cần phải đánh giá tương lai triển vọng của các khách hàng, bạn hàng cũ từ đó tập trung moi mối quan hệ nào tốt hơn để đem lại hiệu quả hơn trong hợp tác kinh doanh cả về hiện tại và lâu dài. Việc xác định bạn hàng, khách hàng quen, có uy tín là công việc khó khăn và chỉ có thời gian, thực tế làm ăn với nhau mới chứng minh được. Trong sự đa dạng phát triển của kinh doanh không cho phép hoạt động kinh doanh chỉ hạn hẹp trong một số chủ thể nhất dịnh, Do sự cạnh tranh, cùng với sự mất đi một số bạn hàng, khách hàng nhất định, việc tìm và quan hệ với bạn hàng, khách hàng mới là điều tất yếu không thể thiếu. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu, người bạn hàng là người nước ngoài, trong cơ chế “mua dễ bán khó” này thì tìm người bạn hàng là không khó nhưng việc nắm bắt, tìm hiểu người bán là rất khó do ở quốc gia khác nhau, cách xa nhau, đồng thời nhiều khi là các doanh nghiệp mới thành lập hoặc không có tên tuổi trên thị trường thế giới. Mặt khác, người mua hàng là doanh nghiệp trong nước có thể tìm hiểu được kỹ càng nhưng tìm được một doanh nghiệp là người mua thì rất khó. Khi tìm đến một bạn hàng, khách hàng mới, cán bộ kinh doanh ít nhất phải nắm được một cách đầy đủ chính xác các vấn đề sau: Loại hình kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp thành lập lâu chưa, ai là người chịu trách nhiệm trong quan hệ kinh doanh? Uy tín và tín nhiệm của họ. Thực trạng kinh doanh của họ hiện nay (về vốn, cơ sở vật chất các chi nhánh, đại diện...) Họ đã làm ăn với Công ty lần nào chưa? Mức độ liên doanh liên kết trong thu mua khai thác để có các mặt hàng đó. Tiêu chuẩn hoá quốc tế với một số mặt hàng quan trọng để đảm bảo khai thác thu mua hàng đạt chất lượng cao, phù hợp với thị trường quốc tế và Công ty có phương hướng tổ chức xuất khẩu trong thời gian tới. Công ty phải xây dựng giá mua hợp lý, tìm biện pháp giảm bớt những chi phí ngoài giá bán của người cung cấp như chi phí của người thu mua, vận chuyển xếp dỡ, hoa hồng, bao bì, đóng gói, hao hụt... 4. Phải chặt chẽ hơn trong việc xác định điều khoản của hợp đồng: - Căn cứ pháp lý của hợp đồng phải dựa trên pháp luật của Việt nam. - Các điều khoản về tên hàng, quy cách, phẩm chất, bao bì..., cần phải ghi rõ ràng, cặn kẽ tránh tình trạng bị hiểu sai. - Về phương thức giao hàng phải nêu rõ có sự chứng kiến của các bên, đảm bảo sự khách quan cho tổn thất (nếu có) - Nên chọn tổ chức trọng tài Việt nam sẽ có lợi hơn, ít tổn phí hơn (nếu có tranh chấp). - Trong việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu cần lưu ý các điểm sau: + Cần chuẩn bị tốt hơn phân tích kết quả thu được của phương án giao dịch, xem xét các hình thức thuê tàu, cước phí vận chuyển, thời gian giao nhận hàng, khả năng thanh toán của bạn hàng. Tính toán một số chỉ tiêu hiệu quả (tỷ suất lợi nhuận, thời gian thu hồi vốn, tỷ suất ngoại tệ). Cần dự đoán trước nhu cầu thị trường và xác định chính xác thời điểm ký kết hợp đồng có lợi nhất. Chẳng hạn khi mặt bằng giá quốc tế lên cao tranh thủ ký kết hợp đồng xuất khẩu và ngược lại. Nhiều hợp đồng lúc ký kết có thể có lãi nhưng lúc thực hiện do tỷ giá ngoại tệ giảm đột ngột có thể không có lãi hoặc lỗ vì vậy thời điểm kinh doanh là rất quan trọng. + Nhu cầu thị trường diễn ra rất phức tạp, dễ mất bạn hàng khi có đối thủ khác chen chân nên chớp lấy thời cơ kinh doanh khi có điều kiện. + Các điều khoản hợp đồng phải quy định ngắn gọn rõ ràng dễ hiểu, không nên có những điều khoản mập mờ có thể hiểu theo nhiều cách. Đây chính là một kẽ hở mà bạn hàng có thể lợi dụng có khi gây thiệt hại lớn cho chúng ta. + Khi thực hiện hợp đồng xuất khẩu: khâu chuẩn bị hàng hoá cần được thực hiện đầy đủ và nhanh chóng hơn. Thông báo chính xác ngày giao hàng ra cảng, ngày tàu nhận hàng .... Trên đường đi có thể đi thẳng hoặc chuyển tải cần nắm vững quy luật vận động của thị trường để chọn thời gian và phương thức giao hàng cho phù hợp. - Hiện nay, tình hình kinh doanh của đơn vị chịu sự chi phối của một số văn bản: + Danh mục hàng cấm xuất khẩu, cấm nhập khẩu theo quyết định số 238/TM - XNK ngày 4/4/1994 của Bộ Thương Mại về “ cơ chế quản lý kinh doanh hàng hoá XNK”. + Quyết định của Chính phủ 752/TTg và các văn bản pháp quy quy định chính sách mặt hàng và cơ chế điều hanh xuất nhập khẩu năm 1995. + Sửa đổi một số điều luật thuế xuất nhập khẩu của Bộ Thương Mại năm 1996. 5. Sử dụng chi phí kinh doanh có hiệu quả Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải được tính toán xác định trong từng thời kỳ nhất định. Trên thực tế chi phí sản xuất kinh doanh được tính theo từng tháng, quý, năm. Trong điều kiện sản xuất hàng hoá, chi phí sản xuất kinh doanh phải được tính bằng tiền. Trong sản xuất kinh doanh, chi phí là một mặt, thể hiện sự hao phí hay chi ra. Để đánh giá chất lượng kinh doanh của doanh nghiệp, chi phí chi ra phải được xem xét trong mối quan hệ chặt chẽ với mặt thứ hai cũng là mặt cơ bản của quá trình sản xuất kinh doanh- đó là kết quả kinh doanh thu được. Có rất nhiều cách phân loại chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhưng thông thường ở các doanh nghiệp thường chia chi phí làm 2 loại: chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp. Trong đó chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp thuộc chi phí gián tiếp. Để xác định giá thành sản phẩm, chi phí đóng vai trò rất quan trọng. Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm là biện pháp chủ yếu để tăng lợi nhuận doanh nghiệp, là cơ sở nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc hạ giá thành sản phẩm dựa trên cơ sở giảm chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Đối với các doanh nghiệp công nghiệp, việc phấn đấu hạ giá thành dựa trên việc giảm chi phí trực tiếp và chi phí gián tiếp, còn đối với doanh nghiệp thương mại, việc phấn đấu hạ giá bán sản phẩm ngoài việc giảm giá mua sản phẩm hàng hóa còn phụ thuộc vào việc phấn đấu giảm chi phí gián tiếp như chi phí vận chuyển, kho tàng bến bãi... Để giảm được các khoản không cần thiết trong chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp, tạo được hiệu quả trong việc tiết kiệm chi phí, tăng khả năng kinh doanh của doanh nghiệp, doanh nghiệp cần: - Giảm chi phí hàng tồn kho: Nếu như hàng tồn kho nhiều thì Công ty không đáp ứng đủ việc bảo quản số hàng này, vì vậy việc thuê kho để lưu trữ số hàng tồn kho đã làm chi phí tăng thêm rất nhiều. Để giảm chi phí hàng tồn kho, Công ty nên đặt hàng và mua hàng theo đơn đặt hàng trước, nhằm tránh được việc hàng thừa hàng thiếu, đáp ứng không chính xác nhu cầu của khách hàng. - Tăng năng suất lao động: Tăng năng suất lao động hay giảm lượng lao động dư thừa trong Công ty hiện nay không chỉ là vấn đề đối với riêng Công ty mà còn là mối quan tâm của các doanh nghiệp nhà nước và là chủ trương của Đảng, của Nhà nước. 6. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh Đối với các doanh nghiệp thương mại có đặc điểm vốn cố định chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng vốn kinh doanh, trong đó vốn lưu động quyết định đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. Vì vậy, các doanh nghiệp cố gắng duy trì một tỷ lệ thấp nhất vốn cố định của Công ty bằng việc hạn chế việc mua sắm các tài sản cố định không cần thiết. Đối với vốn lưu động cần phải đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn bằng việc đẩy nhanh tiêu thụ hàng hoá khi nhập khẩu về cũng như cần thiết ký kết hợp đồng tiêu thụ (trong nước hay xuất khẩu ) hoặc dự kiến tiêu thụ trước khi hàng hoá được nhập về để tránh hàng hóa bị ứ đọng. Đồng thời cần phải cân đối giữa khả năng tiêu thụ và hàng nhập để giảm tối thiểu hàng tồn kho và có biện pháp thích hợp đối với hàng tồn kho. Về việc sử dụng vốn vay, các doanh nghiệp kinh doanh thương mại có nhu cầu về vốn không ổn định trong năm, có tháng nhu cầu vốn cao, có tháng nhu cầu vốn thấp vì nó phụ thuộc vào nhu cầu hàng hoá xuất nhập khẩu trong từng thời kỳ. Do đó doanh nghiệp cần thiết phải lập kế hoạch dự kiến nhu cầu vốn trong từng thời kỳ để có kế hoạch vay vốn và xác định kỳ hạn đối với từng loại vốn vay. Theo đánh giá của Công ty thì vốn kinh doanh hiện có còn quá thấp so với nhu cầu vốn cần thiết cho kinh doanh. Để giải quyết tình trạng thiếu vốn, Công ty thường huy động chủ yếu từ việc thanh toán hàng trả chậm khách hàng nước ngoài. Vốn là yêu cầu cần thiết đối với bất cứ doanh nghiệp kinh doanh nào, đối với Công ty SONA cũng không loại trừ điều đó. Việc kinh doanh trong tình trạng thiếu vốn đã làm giảm đáng kể tính hiệu quả trong hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty. Vì vậy, mục tiêu của Công ty đề ra là tìm mọi biện pháp tăng vốn kinh doanh. Để tăng vốn kinh doanh của Công ty trong những năm tới tập trung chủ yếu vào các biện pháp sau: - Giảm lượng hàng hoá tồn kho: Làm giảm lượng hàng hoá phải lưu kho, giảm chi phí vận chuyển và các khoản chi phí khác có liên quan. Điều này có ảnh hưởng tích cực đến việc sử dụng vốn của Công ty, tăng khả năng sử dụng vốn của Công ty, hạn chế lượng vốn tồn đọng quá lớn trong việc xử lý hàng tồn kho. - Tăng do thanh toán hàng trả chậm khách hàng nước ngoài, tuy nhiên đây chỉ là biện pháp tình thế không tạo hiệu quả lâu dài do phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan. Trước hết là sự phụ thuộc vào sự lên xuống của tỷ giá hối đoái; thứ nữa là sự phụ thuộc vào khách hàng, vốn của doanh nghiệp không điều chỉnh được theo ý muốn của doanh nghiệp. Vì vậy đây không phải là biện pháp tốt cho việc huy động vốn của doanh nghiệp. - Vốn tín dụng: hình thức này đảm bảo cho Công ty lượng vốn cần thiết vào những lúc Công ty cần. Tuy nhiên, việc vay vốn của ngân hàng, của các tổ chức cá nhân trong và ngoài nước sẽ làm giảm lợi nhuận của Công ty do Công ty phải chịu một khoản chi trả cho lãi vay. Hơn nữa, việc vay vốn của Ngân hàng gặp rất nhiều rắc rối trong quá trình làm thủ tục vay như việc đòi hỏi thế chấp bằng tài sản, bằng quyền sử dụng đất của Công ty...đã đặt ra nhiều vấn đề Công ty cần phải giải quyết. - Cổ phần hoá công ty: hình thức cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đang là một chủ trương của Đảng và Nhà nước. Hình thức này đang thể hiện tính ưu việt của nó trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước, tạo sự phát triển, sự hội nhập với xu thế phát triển chung của nền kinh tế thế giới. Qua đánh giá thực tiễn mấy năm vừa qua, việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước đã tạo hiệu quả kinh doanh vượt bậc của các doanh nghiệp này, làm tăng vốn của các doanh nghiệp cổ phần hoá lên 2,3 thậm chí 5 lần. Với việc cổ phần hoá công ty, Công ty sẽ tạo điều kiện tăng vốn kinh doanh, tranh thủ được sự ủng hộ của Nhà nước. Việc cổ phần hoá cũng đảm bảo lợi thế trong sử dụng và huy động vốn của Công ty, đảm bảo vốn lúc cần, tránh được tình trạng phải trả chi phí lãi vay quá lớn. * Kết quả có thể đạt được - Tăng nguồn vốn cho kinh doanh mà không chịu quá nhiều sự ảnh hưởng của điều kiện khách quan. - Nắm bắt được cơ hội kinh doanh, nhận được những hợp đồng lớn mà trước kia do thiếu vốn Công ty không đáp ứng được. - Tăng hiệu quả kinh doanh, tạo thêm nhiều lợi nhuận do thu hút đựơc những hợp đồng lớn, giảm chi phí lãi vay. - Quá trình cổ phần hóa ( nếu công ty thực hiện biện pháp này) Công ty bán các cổ phiếu cho các đối tượng như cán bộ công nhân viên của công ty... Với hình thức chuyển hoá quyền sở hữu này sẽ nâng cao vai trò làm chủ của người lao động trong Công ty, kích thích họ nâng cao trách nhiệm và năng suất lao động, tạo động lực trong kinh doanh, góp phần tăng hiệu quả kinh doanh của Công ty. III. Một số kiến nghị đối với nhà nước về những vấn đề liên quan đến quản lý vĩ mô Để làm tốt việc kinh doanh xuất nhập khẩu, ngoài nỗ lực của Công ty, kiến nghị Nhà nước cần phải có cơ chế và một số biện pháp thích hợp. Sự phát triển bền vững nền kinh tế chúng ta phụ thuộc phần lớn vào chính sách thương mại của Nhà nước. Chính sách thương mại phải có tác dụng gắn nền kinh tế nước ta với nền kinh tế khu vực và thế giơí. 1. Chính sách thuế XNK Hiện nay, thuế là nguồn thu chủ yếu của Ngân sách Nhà nước và là biện pháp chính để bảo hộ sản xuất nội điạ. Chính sách thuế cần phải nhất quán đối với mọi cơ sở sản xuất kinh doanh không có những ưu tiên riêng biệt tạo nên sự cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường. Nhà nước cần giảm thuế doanh thu chứ không nên tăng thuế xuất nhập khẩu để người tiêu dùng có thể mua được hàng hoá với giá thấp hơn. Nhà nước cần hỗ trợ giảm hoặc miễn thuế đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực như nông lâm thuỷ sản là mặt hàng truyền thống của đất nước và giảm bớt thuế nhập khẩu để tránh tình trạng buôn lậu. Hệ thống các chính sách thuế cần phải được kiện toàn để chống thất thu và lạm thu do việc hàng hoá bị đánh thuế nhiều lần. Đối với thuế giá trị gia tăng, nhà nước phải bảo đảm thời gian hoàn vốn VTA theo đúng thời hạn quy định để các doanh nghiệp có thể quay vòng vốn nhanh, kịp thời có vốn kinh doanh các mặt hàng khác và không phải trả lãi suất vay vốn Ngân hàng cao. Đối với các doanh nghiệp gian lận trong việc nộp thuế VAT nhà nước phải có biện pháp nghiêm ngặt như: quy định tiền nộp phạt, xử phạt hành chính... để khỏi ảnh hưởng đến các doanh nghiệp làm ăn chân thật khác. Ngược lại những doanh nghiệp nộp thuế đầy đủ và đúng thời hạn quy định, nếu thời gian hoàn vốn VAT của nhà nước chậm thì Nhà nước phải có biện pháp như đền bù thì các doanh nghiệp mới có tiền để trả lãi suất vay vốn cho Ngân hàng, đồng thời nếu áp dụng các biện pháp này mới kích hoạt được các doanh nghiệp nộp thuế VAT đủ và đúng thời gian quy định của nhà nước. 2. Về chính sách hạn ngạch xuất nhập khẩu: Xuất nhập khẩu là hoạt động kinh doanh chịu sự quản lý của Nhà nước, vì vậy để kinh doanh có hiệu quả, Nhà nước cần có những chính sách phân bổ hợp lý hạn ngạch xuất nhập khẩu. Hiện nay việc dành hạn ngạch xuất khẩu đã phân bổ cho các đơn vị sản xuất thông qua các Bộ, ngành gây ra không ít phiền hà cho cơ sở, không phù hợp với cơ chế thị trường. Nhà nước cần hoàn thiện phương thức phân bổ hạn ngạch theo nguyên tắc “Một cửa” chỉ phân bổ cho các đơn vị đã có quyền xuất nhập khẩu trực tiếp theo nhóm hàng để có hiệu quả kinh tế cao hơn đóng góp nhiều hơn cho Nhà nước. 3. Về chính sách quản lý ngoại tệ: Cần có sự quản lý ngoại tệ của Nhà nước để đảm bảo có được đầu vào bằng nhập khẩu (gồm: nguyên liệu, bán thành phẩm, các thiết bị và phụ tùng mà trong nước chưa sản xuất được và các đầu ra bắng xuất khẩu để thu ngoại tệ. Mặc dù có sự thiếu ngoại tệ ở các doanh nghiệp nhưng có khá nhiều tình trạng lưu thông nội bộ cũng như việc tích trữ ngoại tệ ở quy mô khá lớn. Do đó, Nhà nước cần có biện pháp giải quyết hậu quả tiêu cực của những sự trao đổi ít nhiều tuỳ tiện như thế. Việc quản lý hợp lý ngoại tệ được coi là vấn đề chủ yếu cho thời kỳ kế hoạch 5 năm tới. Nhà nước cần phải chuyển sự ưu tiên phân bổ vốn ngoại tệ cho các dự án lớn tốn khá nhiều ngoại tệ và thời gian xây dựng cơ bản lâu, song việc cổ vũ khuyến khích các mối liên kết trong nội bộ các ngành công nghiệp và cải tiến hoạt động của doanh nghiệp theo các tiêu chuẩn kinh tế. Chính sách về tỷ giá hối đoái của Nhà nước có quan hệ trực tiếp đến việc tăng hay giảm xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp. Tỷ giá hối đoái cho ta biết giá một đơn vị tiền tệ của một nước ngoài tính bằng tiền nước ta. Khi một công ty có hoạt động xuất nhập khẩu thì tất yếu sẽ có lúc công ty đó tiến hành bán hoặc mua ngoại tệ. Song nếu bán ngoại tệ cho Ngân hàng ngoại thương thì công ty đó sẽ bị thấp hơn giá thị trường khoảng 10%, hoặc nếu mua ngoại tệ của Ngân hàng cao hơn giá thị trường. Do đó, các đơn vị nhiều khi xử lý bằng cách bán ngoại tệ cho các đơn vị kinh tế khác có nhu cầu ngoại tệ theo giá thị trường, hoặc tìm các mặt hàng xuất nhập khẩu khác có chênh lệch giá cao để nhập. Để khắc phục tình trạng trên, Nhà nước cấn có một sự quản lý ngoại tệ phù hợp với một tỷ giá ngoại hối tương đương sát với giá thị trường. Khoảng chênh lệch giữa giá mua vào và giá bán ra phải là tối thiểu, chỉ gồm lệ phí dịch vụ Ngân hàng. Đồng thời, Nhà nước cần giành một số ngoại tệ cho Ngân hàng ngoại thương vay để làm vốn kinh doanh ngoại tệ và điều tiết tỷ giá cho thị trường ổn định không đột biến. Trong khi chưa có biện pháp khống chế giá thị trường tương ứng với tỷ giá kinh doanh của Ngân hàng thì chấp nhận mua theo tỷ giá thị trường để đảm bảo cho các đơn vị xuất khẩu không bị thiệt (vì toàn bộ giá mua hàng xuất khẩu và giá bán hàng nhập khẩu đều theo tỷ giá thị trường). Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tài chính, Bộ Thương mại và du lịch cần quản lý bằng cách buộc các đơn vị phải thanh toán qua Ngân hàng, tiến tới xoá bỏ tình trạng các đơn vị giữ ngoại tê, tự do mua bán cho nhau. Hiện nay, Nhà nước đã có nhiều chính sách tích cực về tỷ giá hối đoái như công bố các tỷ giá trên các phương diện thông tin đại chúng hỗ trợ cho các Ngân hàng kinh doanh ngoại tệ và giữ cho tỷ giá hối đoái của một số ngoại tệ mạnh như USD,... ổn định trên thị trường nội địa. Hiện tại, chính sách của tỷ giá hối đoái là tạo điều kiện cho xuất khẩu. Mặt khác, Nhà nước đang có kế hoạch sẽ xây dựng thị trượng hối đoái hợp pháp trong tương lai để chống lại tình trạng buôn bán ngoại tệ ở thị trường ngầm gây thất thu cho Nhà nước. 4. Về quản lý Hải quan Về hệ thống quản lý xuất nhập khẩu, hải quan còn rườm rà, có nhiều bất cập, đội ngũ cán bộ làm việc quan liêu, làm ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, Nhà nước cần giám sát chặt chẽ công tác hải quan để giảm tối thiểu những việc làm sai trái của cán bộ hải quan. Trong trường hợp có bất đồng quan điểm giữa hải quan và doanh nghiệp, Nhà nước cần phải quy định thời hạn tối đa cho việc giải quyết các tranh chấp để giảm tối đa các chi phí không cần thiết cho các doanh nghiệp. Nếu cơ quan hải quan làm việc không đúng, gây thiệt hại cho các doanh nghiệp thì yêu cầu cơ quan hải quan phải có trách nhiệm bồi thường. Như vậy cơ chế quản lý nhà nước hoàn thiện sẽ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao được hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của mình. kết luận Quốc gia cũng như cá nhân không thể sống một cách riêng rẽ mà có được đầy đủ mọi thứ hàng hoá. Kinh doanh xuất nhập khẩu có ý nghĩa sống còn bởi vì nó mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước. Thực hiện XNK trong những năm qua của Việt Nam đã làm cho kim ngạch XNK tăng lên không ngừng, khai thác được lợi thế của đất nước về tài nguyên thiên nhiên và lao động rẻ mạt; giải quyết công ăn việc làm cho người lao động tăng thu nhập cải thiện đời sống cho nhân dân góp phần ổn định xã hội. Đồng thời có nhập khẩu máy móc thiết bị công nghệ hiện đại, vật tư để ngày càng không ngừng tăng thêm mặt hàng xuất khẩu trong danh mục, tăng tỷ trọng các mặt hàng có giá trị xuất khẩu cao trong tổng kim ngạch XK, đặc biệt là các mặt hàng chủ lực, nhanh mạnh vào chế biến sản xuất tinh và sâu mở ra các mặt hàng xuất khẩu mới, tận dụng một cách tối đa công nghệ hiện đại của nước ngoài đã nâng cao chất lượng hàng hoá đã làm tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới như gạo, dệt may thuỷ sản,... và đang từng bước xâm nhập vào những thị trường khó tính, xuất khẩu trực tiếp. Và cuối cùng là làm tăng thêm nguồn ngoại tệ để phục vụ cho nhập khẩu. Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu là yêu cầu cấp thiết đối với mọi doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu trong cơ chế thị trường. Với đề tài " Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA)" em muốn đóng góp ý kiến của riêng mình về vấn đề bức xúc đó. Mặc dù các giải pháp đưa ra còn rất chung chung, do một phần còn nhiều hạn chế về kiến thức lý luận và hiểu biết thực tế cũng như còn thiếu rất nhiều thông tin về thị trường, giá cả và sản xuất các loại hàng hoá. Song những giải pháp này muốn đưa ra một số ý tưởng cơ bản để nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA). Tóm lại thực hiện được đầy đủ các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam là một trong các nhân tố quan trọng góp phần vào việc thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, đưa đất nước sớm ra khỏi cuộc khủng hoảng và tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới. tài liệu tham khảo 1. Lý luận và thực tiễn thương mại quốc tế - Trung tâm kinh tế Châu á Thái Bình Dương, NXB Thống kê 1996 2. Tìm hiểu những quy định về hoạt động xuất nhập khẩu - NXB Thống kê 1997 3. Kinh tế đối ngoại Việt Nam- nội dung- giải pháp- hiệu quả : Vũ Phạm Quyết Thắng - NXB Thống kê 1996 4. Thời báo kinh tế - năm 2001 5. Báo kinh tế phát triển - năm 2000,2001 6. Quyết định số 254/1998/QĐ - TTg về điều hành xuất nhập khẩu hàng hóa năm 2001 7. Đề án kiện toàn và phát triển Công ty cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA) 8. Báo cáo tổng kết về tình hình hoạt động kinh doanh của cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA) 9. Nghị quyết Đại hội Đảng VIII- Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia 1998 10. Con số và sự kiện - năm 2001 11. Nghiên cứu kinh tế - số 7,9 năm 2000; số 2 năm 2001. 12. Tạp chí ngân hàng năm 2002 13. Thời báo kinh tế từ 1999 - 2002 14. Diễn đàn Doanh nghiệp 1999 - 2002 Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I: Cơ sở Lý luận về kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá trong nền kinh tế thị trường 3 I. Tổng quan về hoạt động XNK 3 1. Tính tất yếu khách quan của TMQT 3 2. Khái niệm và các hình thức xuất nhập khẩu chủ yếu 6 3. Nội dung công tác kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá ở các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. 7 4. Vai trò của xuất nhập khẩu. 12 II. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu 13 A. Các nhân tố thuộc môi trường bên ngoài. 13 1. Nhân tố kinh tế xã hội trong nước 13 2. Nhân tố tài nguyên thiên nhiên và địa lý 17 3. ảnh hưởng của tình hình kinh tế xã hội thế giới 17 B. Nhóm nhân tố thuộc bản thân doanh nghiệp 17 1. Nhân tố bộ máy quản lý 17 2. Nhân tố con người 18 3. Mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp 18 4. Khả năng cơ sở vật chất kỹ thuật của doanh nghiệp 18 III. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất nhập khẩu 19 1. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu qủa sản xuất kinh doanh. 19 2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh XNK 21 Chương II: Phân tích và đánh giá tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu ở Công ty SONA 23 I. Khái quát về Công ty 23 1. Sự hình thành và phát triển 23 2. Chức năng và nhiệm vụ 24 3. Cơ cấu tổ chức bộ máy 26 II. Phân tích thực trạng hoạt động kinh doanh của Công ty SONA 27 1. Đặc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty SONA. 27 2. Phân tích đánh giá các chỉ tiêu hoạt động kinh doanh. 30 3. Đánh giá chung về kết quả hoạt động kinh doanh của Công ty SONA trong những năm qua 34 III. Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá của Công ty SONA 37 1. Tình hình hoạt động XNK hàng hoá 37 2. Các hình thức kinh doanh XNK của Công ty SONA 40 Chương III: Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty Cung ứng nhân lực Quốc tế và Thương mại (SONA) 43 I. Định hướng phát triển về hoạt động kinh doanh của Công ty SONA 43 1. Định hướng phát triển chung của Công ty trong thời gian tới 43 2. Định hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới về hoạt động thương mại 44 II. Các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh XNK hàng hoá của Công ty SONA 46 1. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu và mở rộng thị trường 46 2. Mở rộng mặt hàng kinh doanh 49 3. Củng cố quan hệ với bạn hàng cũ, mở rộng phát triển với các bạn hàng mới 50 4. Phải chặt chẽ hơn trong việc xác định điều khoản của Hợp đồng 51 5. Sử dụng chi phí kinh doanh có hiệu quả. 53 6. Sử dụng có hiệu quả nguồn vốn sản xuất kinh doanh. 54 Một số kiến nghị đối với nhà nước về những vấn đề liên quan đến quản lý vĩ mô 56 Chính sách thuế XNK 56 2. Về chính sách hạn ngạch XNK 57 3. Về chính sách quản lý ngoại tệ 57 4. Về quản lý Hải quan 58 Kết luận 59 Tài liệu tham khảo 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0386.doc
Tài liệu liên quan