là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Sở Công Nghiệp Hải Phòng có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp. Ngay từ khi hình thành và phát triển hiệu quả trong công tác xuất nhập khẩu đã quyết định đến sự sống còn của Công Ty Dệt Hải Phòng. Chính vì lẽ đó mà nâng cao hiệu quả trong công tác xuất nhập khẩu chính là nâng cao sự lớn mạnh của Công Ty Dệt Hải Phòng trong thời gian tới.
98 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1335 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i về chất lượng khăn tay không quá cao, kênh phân phối sản phẩm vào thị trường này gồm hai kênh chính. Thứ nhất là bán theo các hiệp định trả nợ hàng hoá được ký kết thông qua hiệp định ký kết giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ các nước bạn, sau đó hạn ngạch được phân bổ cho từng doanh nghiệp cho nên số lượng sản phẩm xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào việc đàm phán trả nợ giữa nước ta và bạn. Thứ hai là bán theo hình thức liên kết với các lưu học sinh Việt Nam ở nước ngoài, hình thức này đơn giản cả về điều kiện cơ sở giao hàng cũng như điều kiện về thanh toán, song bán theo hình thức này số lượng hàng hoá bán được rất nhỏ.
Tuy nhiên gần đây ngành Dệt may Việt Nam nói chung cũng như công ty Dệt Hải Phòng nói riêng bị thu hẹp thị trường ở các nước này mà nguyên nhân chủ yếu do:
+ Các hiệp định trả nợ giữa nước ta với các nước trên được trả chủ yếu bằng các sản phẩm nông thuỷ sản, nên tỷ trọng ngành công nghiệp rất thấp.
+ Do không có chính sách bán hàng hợp lý (như chỉ chủ yếu bán hàng thông qua uỷ thác, bán hàng thông qua các lưu sinh viên Việt Nam tại thị trường nước ngoài), khôngchậm cải tiến mẫu mã mặt hàng... nên bị các sản phẩm cùng loại của Trung Quốc cạnh tranh đã chiếm mất thị trường, d. Do đó số lượng sản phẩm xuất khẩu vào các thị trường này của các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và củatrong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng nói riêng bị thu hẹp.
+ Do cơ chế cũng như phương thức thanh toán còn phức tạp như phải thanh toán thông qua các cơ quan uỷ thác, thông qua gián tiếp qua các sinh viên từ nước ngoài chuyểền về... Cho nên nó đã gây trở ngại cho việc giao nhận hàng hoá và thanh toán tiền hàng.
- Kim ngạch xuất khẩu của công ty vào các thị trường này như sau:
+ Năm 1994 : 100.000 rúp
+ Năm 1995 : 150.000 rúp
+ Năm 1996 : 250.000 rúp
+ Từ năm 1997 đến nay: kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này không còn nữa do sự xụp đổ của hệ thống Xã hội Chủ nghĩa ở các nước trong khu vực trả nợ của Chính Phủ Việt Nam không sử dụng hàng công nghiệp nữa mà chuyển sang trả nợ bằng hàng nông lâm thuỷ sản này.
* Thị trường Nhật Bản.
Thị trường Nhật Bản là một thị trường nằm trong khu vực Châu á, và là một thị trường không hạn ngạch rất lớn với khoảng 124 triệu dân. Tổng GDP năm 1994 là 4.600 Tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người gần 40 nghìn USD là nước duy nhất trên thế giới không nợ nước ngoài và cũng là một trong ba thị trường lớn nhất hiện nay trên thế giới và là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Trong khi đó chính phủ Nhật Bản lại không chú trọng vào việc sản xuất mặt hàng này mà chủ yếu chú trọng vào những mặt hàng chứa hàm lượng công nghệ cao. Do đó việc nhập khẩu vào thị trường này là rất lớn. Với hàng hoá nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng thì thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu rất lớn và tiềm năng. Từ năm 1995 đến nay thị trường Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của Công Ty Dệt Hải Phòng và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này thường xuyên chiếm trên 70% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty qua các năm mà hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty sang thị trường này là hình thức xuất khẩu trực tiếp. Cụ thể được thể hiện trong bảng V (bảng cơ cấu thị trường xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng) cho thấy năm 1997 tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm 76,5% tổng mức hàng xuất khẩu của công ty. Năm 1998 chiếm 73,4% giảm 3,1% so với năm 1997, nhưng về số tuyệt đối thì lại tăng 144,8 triệu đồng. Năm 1999 tổng kim ngạch của công ty đã tăng trở lại là 78% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, với số tuyệt đối là 13.250,1 triệu đồng tăng 35,4% so với năm 1998.
Hiện nay, Nhật Bản đã chuyển sang nhập khẩu từ các nước đang phát triển thay vì phải nhập từ các nước phát triển ngày trước. Theo báo cáo tổng kết của Tổng công ty Dệt May Việt Nam (VinaTex) thì riêng sản phẩm khăn tay của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đã chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này của toàn ngành. Những khó khăn khi tham gia thâm nhập thị trường này là sự đòi hỏi cao về mặt chất lượng mà nhiều công ty Việt Nam hiện nay không đáp ứng được và nó cũng là khó khăn của Công Ty Dệt Hải Phòng về mặt chất lượng trong thời gian qua.
Tóm lại, thị trường Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng của công ty và trong thời gian tới công ty cần có biện pháp đáp ứng tốt hơn và đầy đủ hơn yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng để duy trì và phát triển thị trường đầy tiềm năng này. Bởi Theo như nhận xét của vị trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thì hiện nay số lượng sản phẩm xuất sang các thị trường đặc biệt là thị trường Nhật Bản như vậy là chưa đáp ứng được nhu cầu của họ về mặt số lượng, mặc dù công ty luôn trong tình trạng sản xuất ba ca.
*Đặc điểm thị trường các nước EU.
Đây là thị trường rất khó tính, hàng dệt may của các doanh nghiệp Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường này đòi hỏi hàng hoá phải có chất lượng cao, đa dạng về mẫu mã. Ngoài ra, số lượng hàng dệt may muốn vào thị trường này phải được sự quản lý giám sát của ủy ban kiêểm tra hàng nhập khẩu của EU thông qua các mức hạn ngạch mà thị trường này cấp cho. Nếu như hàng hoá xuất sang thị trường này vượt mức hạn ngạch được cấp thì số hàng hoáđó sẽ bị lưu vào trong kho chờ mức hạn ngạch năm sau. Tuy nhiên bù lại hàng bán vào các nước này giá thường cao, phương thức thanh toán thuận tiện. Thực tế qua nhiều năm cho thấy các doanh nghiệp chiếm lĩnh và phát triển ổn định ở thị trường này đều là các doanh nghiệp có công nghệ tiên tiến, sản xuất sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã luôn thay đổi phù hợp với thị hiếu người tiêu dùng. Kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này của Công Ty Dệt Hải Phòng qua các năm rất khiêm tốn chỉ chiếm xấp xỉ 7 - 8% năm những năm gần đây cụ thể được thể hiện trên bảng V là 7,1% năm 1997, 7,8% năm 1998 và 7,7% năm 1999 trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty. Tại sao lại có tình trạng trên trong khi thị trường EU là thị trường rộng lớn và tiềm năng như vậy.? Bởi sản phẩm của Công ty chưa đáp ứng được đòi hỏi về chất lượng mà thị trường này đặt ra cùng với đó là công tác Maketing của công ty khi xâm nhập thị trường còn kém, chưa phù hợp. Mà một lý do lớn tạo nên kim ngạch của công ty thấp kém như vậy trên thị trường này là do số lượng thành phẩm của công ty chưa đủ đáp ứng cho yêu cầu của thị trường Nhật Bản. Cho nên sản phẩm sản xuất ra, công ty chủ yếu đáp ứng nhu cầu của thị trường này mànên chưa có nhu cầu mở rộng thị trường.
* Thị trường Mỹ.
Hiện nay với thị trường này sản phẩm của công ty chưa có chỗ đứng. Trong khi đó Mỹ là một thị trường tiêu thụ rộng lớn vào loại nhất thế giới, nên việc có một sản phẩm tốt, với giá cạnh tranh muốn bán vào thị trường này chưa hẳn là điều dễ dàng vì đây là một thị trường khổng lồ có nhiều đối thủ cạnh tranh cũng đang cố gắng thâm nhập và bán sản phẩm của họ. Cho nên sản phẩm của công ty chỉ có thể thâm nhập vào thị trường này chỉ khi mà sản phẩm của cơ sở Dệt kim ra đời mà thôi. Bên cạnh đó thị trường này lại là thị trường đòi hỏi rất cao về mặt chất lượng. Đối với sản phẩm dệt thì đây là một thị trường rộng lớn đầy hứa hẹn bởi nó là một thị trường tiêu thụ sản phẩm dệt may rất lớn mà ngành này không đáp ứng đủ nhu cầu. Thị trường này lại được chia ra làm hai loại: một loại cao cấp là loại hàng hoá thị trường này nhập về để tiêu dùng nội địa và một loại cấp thấp là loại hàng hoá họ nhập về nhằm mục đích là tái xuất chứ không phải để tiêu dùng. Hàng hoá vào thị trường này có một số thuận lợi là chịu thuế suất rất thấp nhưng đó là dành cho các nước đã ký kết hiệp định thương mại với Mỹ hoặc là thành viên của WTO. Còn một số nước trong đó có Việt Nam vẫn phải chịu mức thuế cao.Trong tương lai không xa, khi chính phủ Việt Nam đàm phán thành công với phía Mỹ thì khi đó hiệp định thương mại Việt - Mỹ sẽ được thành lập và hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ được hưởng quy chế “Tối Huệ Quốc” và như vậy thuế suất sẽ chỉ bằng hàng hoá của các nước khác, đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các doanh nghiệp sản xuất hàng Dệt may nói riêng đủ sức cạnh tranh với hàng hoá của các nước khác. Như vậy hiện nay khi chúng ta đang trong thời gian đàm phán với phía Mỹ thì các doanh nghiệp trong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng phải chuẩn bị cho mình những kế hoạch như nghiên cứu thị trường, sử dụng những biện pháp tiếp thị, tìm hiểu hệ thống pháp luật, tập quán tiêu dùng... của thị trường để nhanh chóng xâm nhập thị trường này khi điều kiện cho phép.
* Thị trường Nhật Bản.
Thị trường Nhật Bản là một thị trường nằm trong khu vực Châu á, và là một thị trường không hạn ngạch rất lớn với khoảng 124 triệu dân. Tổng GDP năm 1994 là 4.600 Tỷ USD. Thu nhập bình quân đầu người gần 40 nghìn USD là nước duy nhất trên thế giới không nợ nước ngoài và cũng là một trong ba thị trường lớn nhất hiện nay trên thế giới và là thị trường tiêu thụ hàng dệt may lớn thứ hai trên thế giới chỉ sau Mỹ. Trong khi đó chính phủ Nhật Bản lại không chú trọng vào việc sản xuất mặt hàng này mà chủ yếu chú trọng vào những mặt hàng chứa hàm lượng công nghệ cao. Do đó việc nhập khẩu vào thị trường này là rất lớn. Với hàng hoá nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng thì thị trường Nhật Bản là một thị trường nhập khẩu rất lớn và tiềm năng. Từ năm 1995 đến nay thị trường Nhật Bản là thị trường xuất khẩu hàng hoá chủ yếu của Công Ty Dệt Hải Phòng và kim ngạch xuất khẩu vào thị trường này thường xuyên chiếm đến xấp xỉ 78% tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty qua các năm mà hình thức xuất khẩu chủ yếu của công ty sang thị trường này là hình thức xuất khẩu trực tiếp. Cụ thể được thể hiện trong bảng V (bảng cơ cấu thị trường xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng) cho thấy năm 1997 tỷ trọng xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản chiếm 76,5% tổng mức hàng xuất khẩu của công ty. Năm 1998 chiếm 73,4% giảm 3,1% so với năm 1997, nhưng về số tuyệt đối thì lại tăng 144,8 triệu đồng. Năm 1999 tổng kim ngạch của công ty đã tăng chở lại là 78% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, với số tuyệt đối là 13.250,1 triệu đồng tăng 35,4% so với năm 1998.
Hiện nay, Nhật Bản đã chuyển sang nhập khẩu từ các nước đang phát triển thay vì phải nhập từ các nước phát triển ngày trước. Theo báo cáo tổng kết của Tổng công ty Dệt May Việt Nam (VinaTex) thì riêng sản phẩm khăn tay của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này đã chiếm hơn 60% kim ngạch xuất khẩu sản phẩm này của toàn ngành. Những khó khăn khi tham gia thâm nhập thị trường này là sự đòi hỏi cao về mặt chất lượng mà nhiều công ty Việt Nam hiện nay không đáp ứng được và nó cũng là khó khăn của Công Ty Dệt Hải Phòng về mặt chất lượng trong thời gian qua.
Tóm lại, thị trường Nhật Bản là một thị trường đầy tiềm năng của công ty và trong thời gian tới công ty cần có biện pháp đáp ứng tốt hơn và đầy đủ hơn cả yêu cầu về số lượng cũng như chất lượng để duy trì và phát triển thị trường đầy tiềm năng này.
24.23./ Nội dung thực hiện hợp đồng xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng.
Quá trình thực hiện một hợp đồng xuất khẩu nói chung của các doanh nghiệp nó gồm 10 công việc sau:
đồ II: quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu
Mua bảo hiểm cho hàng hoá
Kiểm tra hàng xuất khẩu
Làm thủ tục hải quan
Giao hàng nên tàu
Làm thủ tục thanh toán
Giải quyết tranh chấp nếu có
Đôn đốc và kiểm tra L/C
Xin giấy phép XK
Chuẩn bị hàng XK
Uỷ thác thuê tàu
Sở dĩ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu phải thực hiện nhiện vụ làm thủ tục thanh toán là bởi vì công ty không có phòng thanh toán quốc tế. Trên đây về lý thuyết thì đó là những bước chính trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Nhưng thực tế tại Công Ty Dệt Hải Phòng, một số bước có thể bỏ qua bởi vì nó đã được tiến hành ngay khi ký kết hợp đồng giữa công ty và bên đối tác Nhật Bản (Hiện nay thị trường này là nơi nhập khẩu chính của công ty còn một số thị trường nhập khẩu khác không đề cập ở đây). Như trong bước một thì việc đôn đốc nhà nhập khẩu mở L/C và kiểm tra L/C đó là không cần thiết bởi vì bên đối tác luôn mở một tài khoản tại Ngân Hhàng Đầu tTư PPhát triển Hải Phòng cho công ty là người hưởng lợi, và khi tiến hành giao hàng song công ty đem thu nộp bộ hồ sơ, chứng từ cho Ngân hHàng, và Ngân hHàng có trách nhiệm kiểm tra so sánh nó với hợp đồng cũng như với L/C vvà chuyển bộ hồ sơ chứng từ đó cho phía đối tác nếu được đối tác chấp nhận thanh toán thì sau 10 ngày là công ty có thể nhận được tiền hàng.
Bước hai là bước xin giấy phép xuất khẩu hàng hoá: Thì công ty cũng không cần tiến hành bởi công ty là doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp cho nên giấy phép xuất khẩu đã được thành phố cấp từ trước.
Bước thứ ba là thuê phương tiện vận chuyển và bước thứ tư là mua bảo hiểm cho hàng hoá: Thì theo kế hoạch giao hàng là 10 ngày một chuyến công ty vận chuyển hàng bằng Congtener ra cảng Hải Phòng giao cho Cảng vụ, và từ đó giao cho Tàu Chợ chuyên chở sang cảng của phía Nhật Bản chỉ định, và công ty làm một phiếu báo bắt đầu chuyên chở báo cho công ty Bảo Hiểm và được họ cấp cho một giấy chứng nhận bảo hiểm. Còn các bước sau công ty phải tiến hành bình thường theo luật định.
Như vậy, trong quá trình thực hiện hợp đồng công ty Dệt Hải Phòng gặp rất nhiều thuận lợi nhất là trong quá trình thanh toán, cũng như giao hàng bởi công ty gặp được một khách hàng tiêu thụ lớn như Nhật Bản cho nên việc thanh toán được hoàn tất chỉ sau 10 ngày sau khi giao nộp bộ hồ sơ chúng thực hàng đã giao. Nhưng bên cạnh đó thì khó khăn của công ty là không có phòng thanh toán quốc tế cho nên phòng Kinh doanh xuất nhập khẩu phải đảm nhận hết do đó nhiều khi gặp phải tình trạng chậm trong vấn đề chuẩn bị hồ sơ giao hàng, dẫn đến nhiều khi chậm thanh toán do trực tiếp phía công ty tạo ra.g.
42.3./ Mặt hàng xuất khẩu
Với địa vị là một doanh nghiệp được phép xuất nhập khẩu trực tiếp thì việc tìm hiểu, nghiên cứu nhu cầu về sản phẩm của thị trường đối với một doanh nghiệp như Công Ty Dệt Hải Phòng là một việc làm hết sức quan trọng nó quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Vì vậy trong kế hoạch phát triển của mình công ty đã chủ động đề ra những chương trình hoạt động và chủ động thích nghi với những điều kiện thị trường thường xuyên thay đổi. Để làm được điều này, công ty thường xuyên làm tốt công tác Marketing nhằm đa dạng hoá sản phẩm và lựa chọn sản phẩm thích hợp xuất khẩu nhằm mang lại lợi nhuận cao nhất. Bởi công ty luôn xác định công tác Marketing là một trong những công tác quan trọng nhất giúp cho doanh nghiệp có được lợi thế trong cạnh tranh, là công cụ tốt nhất giúp cho công ty phục vụ những nhu cầu đa dạng của thị trường một cách có hiệu quả. Cũng nhờ công tác này mà công ty nhanh chóng nhận biết được sự thay đổi của thị trường, từ đó có những biện pháp thích nghi tốt hơn, nhằm mang lại hiệu quả hơn.
Trong những năm đầu, khi mới thành lập công ty chủ yếu sản xuất mặt hàng khăn tắm cỡ 50 x 100 và 70 x 140 chủ yếu xuất khẩu sang các nước XHCN cũ mà chủ yếu là Liên Xô để thực hiện hiệp định ký kết giữa chính phủ Việt Nam và các nước bạn. Như vậy trong thời gian này công ty làm theo pháp lệnh không cần tìm hiểu, nghiên cứu thị trường. Nhưng kể từ khi hệ thống XHCN sụp đổ, thì thị trường này đi vào bế tắc, sản phẩm của công ty không xuất được sang nữa.Từ những năm 1994 đến nay do làm tốt công tác thị trường và đáp ứng tốt nhu cầu về sản phẩm, công ty đã lựa chọn và sản xuất những sản phẩm khăn ăn cỡ 28 x 28, 29 x 31, các loại khăn tắm cỡ 50 x 100, 70 x 140 để xuất khẩu sang thị trường Hungari và thị trường Tiệp khắc... Số lượng sản phẩm xuất khẩu sang những thị trường này không lớn lắm, nhưng nó là điều kiện để công ty xâm nhập vào các thị trường khác như thị trường Nhật Bản. Kể từ năm 1995 đến nay công ty chủ yếu xuất khẩu sang thị trường Nhật Bbản với các loại sản phẩm chủ yếu là khăn ăn với công nghệ tẩy sau các loại, kích cỡ 80 - 1, 100 - 1, 120 - 1... có chất lượng cao mẫu mã đẹp, đáp ứng tốt yêu cầu về độ mịn, độ dày và sự mềm mại. hàng năm số lượng sản phẩm xuất sang thị trường này đạt trên chục tỷ đồng.
Theo như nhận xét của vị trưởng phòng kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty thì hiện nay số lượng sản phẩm xuất sang các thị trường đặc biệt là thị trường Nhật Bản như vậy là chưa đáp ứng được nhu cầu của họ về mặt số lượng, mặc dù công ty luôn trong tình trạng sản xuất ba ca. Chính vì vậy Uỷ Ban Nhân Dân thành phố Hải Phòng cùng tập thể cán bộ công ty quyết định thành lập cơ sở hai II để chuẩnyển bị cho mở rộng sang thị trường mới là thị trường Mỹ và EU một phần đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng Nhật Bản. Cùng với việc ngày càng mở rộng sản xuất và xuất khẩu thì thị trường Nhật Bản hiện nay là nơi tiêu thụ chính sản phẩm của công ty và cũng là nơi đóng góp chủ yếu vào doanh thu hàng năm của công ty.
24.43 Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu của công ty dệt Hải Phòng trong thời gian qua.
Sau một thời gian nghiên cứu và tìm hiểu về công tác sản xuất và xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng cho ta thấy được một số những mặt làm được cũng như những mặt còn tồn tại cần phải tìm nguyên nhân và giải pháp như sau::
Thứ nhất: Ta đề cập đến những mặt làm tốt của công ty trong thời gian qua. Sau khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, Công Ty Dệt Hải Phòng không còn được nhà nước bao tiêu sản phẩm nữa mà phải chuyển sang hạch toán kinh doanh lấy thu bù chi để tồn tại và phát triển. Đứng trước sự chuyển biến này công ty vấp phải rất nhiều khó khăn do không tìm được thị trường tiêu thụ sản phẩm, máy móc thiết bị cũng như dây chuyền công nghệ của công ty đã lạc hậu, sản phẩm sản xuất ra không đáp ứng được nhu cầu của thị trường, tưởng rằng công ty khó vượt qua và phải đi đến phá sản như nhiều công ty khác. Nhưng cùng với sự cố gắng của cán bộ công nhân viên trong công ty, cũng như sự mạnh dạn đầu tư đúng hướng, công ty đã thay thế những máy móc thiết bị lạc hậu thành những máy móc thiết bị mới hoàn chỉnh và đồng bộ hơn. Do đó từ những năm 1996 sản phẩm của công ty đã có sự đột biến lớn về chất lượng cũng như mẫu mã đủ sức cạnh tranh trên thị trường, tạo cho công ty có được thị phần trên cả thị trường trong nước và nước ngoài, giúp cho doanh thu cũng như doanh thu trong hoạt động xuất khẩu của công ty không ngừng tăng lên, đồng lưưong của cán bộ công nhân viên không ngừng tăng lên trong những năm vừa qua mà thực tế đã cho ta thấy thông qua bảng tổng kết doanh thu ở trên.
Ngoài ra một mặt nữa chúng ta cũng phải thừa nhận là trong thời gian hình thành và phát triển, công ty đã thành công trong việc trẻ hoá đội ngũ cán bộ điều hành công ty, đào tạo được những cán bộ lành nghề. Tuy còn thiếu nhưng đã giúp ích rất lớn cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của công ty và công ty cũng thường xuyên có kế hoạch cũng như tạo điều kiện cho cán bộ công nhân viên có cơ hội để đào tạo lại cũng như tự đào tạo lại để phù hợp với những công việc mới. .
Phần trên cũng cho ta thấy nhờ có được hàng hoá có chất lượng cao và tổ chức tốt công tác tiêu thụ mà cụ thể là công tác Marketing quốc tế mà thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty không ngừng được mở rộng. Từ việc được nhà nước bao tiêu sản phẩm mà công ty có được thị trường các nước Đông Âu XHCN cho đến khi không còn thị trường nào do không được nhà nước bảo trợ về tiêu thụ sản phẩm. Nhờ làm tốt công tác Marketing mà thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty được mở rộng sang thị trường Mỹ, thị trường EU, mà đặc biệt là thị trường Nhật Bản...
Trên đây là một số những mặt làm tốt của Công Ty Dệt Hải Phòng trong thời gian qua, nhưng bên cạnh đó thì những mặt còn tồn tại vẫn là những trở ngại mà yêu cầu trong thời gian tới công ty phải cố gắng khắc phục và vượt qua.
Thứ hai: Những mặt còn hạn chế trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng. Năm 199535 tuy công ty (tại cơ sở 151B Niệm Nghĩa) tiến hành đầu tư thay thế nhiều máy móc thiết bị nhưng những dây chuyền công nghệ này không phải là loại tiên tiến nhất mà phần lớn là do Trung Quốc và Liên Xô (cũ ) sản xuất, cho nên đến nay rất nhiều máy móc bị lạc hậu như 90 máy Dệt ATM của Liên Xô, các loại máy mắc, máy Đảo se..của Trung Quốc. Hiện nay, công ty có một số thiết bị được sản xuất năm 1968 nên trong quá trình sản xuất phát sinh rất nhiều nhược điểm cho sản phẩm, thiết bị thường xuyên bị hư hỏng dẫn đến năng suất lao động trong công ty bị giảm, nhiều vật tư bị hao phí, tỷ lệ phế phẩm cao thường chiếm đến gần 5%, cho nên giá thành sản phẩm xuất khẩu bị đẩy lên cao, chi phí kiển tra sản phẩm cũng như chi phí sửa chữa lại sản phẩm phát sinh làm cho công ty trong một số trường hợp bị mất uy tín với khách hàng như trường hợp khách hàng nhập khẩu phía Nhật Bản năm 1999 khiếu lại với công ty một lô hàng có quá nhiều sản phẩm không đủ tiêu chuẩn, buộc công ty phải giảm giá và mất nhiều chi phí cho việc thương lượng họ mới chịu chấp nhận lô hàng đó. Bên cạnh sự lạc hậu về máy móc thiết bị thì hiện tại công ty còn thiếu nhiều loại máy móc khác như máy dệt Jắcka... cho nên trong một số trường hợp có những mặt hàng khách hàng yêu cầu mà công ty không thể đáp ứng được. Một khó khăn nữa được coi là khó khăn chung cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay cũng như Công Ty Dệt Hải Phòng là tình trạng thiếu cán bộ làm công tác kỹ thuật và cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu lành nghề, có kinh nghiệm.
Thêm vào đó là tình trạng khó khăn trong công tác chiếm lĩnh thị trường. Tuy thời gian qua nhờ đẩy mạnh công tác này mà công ty có cơ hội tìm kiến được thị trường xuất khẩu hiện nay. Nhưng như ta thấy qua phân tích ở trên thì thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty chủ yếu là thị trường Nhật Bản mà mặt hàng chủ yếu là khăn ăn các loại. Các thị trường khác tuy công ty có sản phẩm xuất khẩu sang như thị trường Mỹ, thị trường EU đầy tiềm năng thì công ty chỉ xuất khẩu sang một lượng rất ít như thị trường EU chỉ chiếm khoảng 8% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của công ty, còn thị trường Mỹ vẫn là tiềm năng. Vậy nguyên nhân này do đâu? do công tác tiếp thị làm kém hay sản phẩm của công ty không đủ khả năng về chất lượng, mẫu mã không đa dạng hay không đủ số lượng để thâm nhập vào thị trường mới? Theo đánh giá của cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu thì hiện tại số lượng sản phẩm mà cơ sở dệt may sản xuất ra mặc dù đã làm suốt ngày đêm ( 3 ca ) nhưng vẫn không đủ đáp ứng nhu cầu của khách hàng, cộng vào đó là công ty chưa có chiến lược xuất khẩu thích hợp với từng đoạn thị trường cho nên việc thâm nhập các thị trường tiềm năng như đề cập trên cần phải hoàn thiện thêm và chờ đến khi cơ sở dệt kim đi vào hoạt động thì sản phẩm của nó mới đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của các thị trường trên.
chương III:
một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng
I./ Giải pháp từ tầm vi mô - cấp doanh nghiệp.
1./ thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
C
ùng với sự đi lên của đời sống kinh tế xã hội thì yêu cầu về chất lượng sản phẩm ngày càng nâng cao, nhất là đối với những nước phát triển. Họ không những chỉ đòi hỏi một sản phẩm có chất lượng cao mà sản phẩm đó phải có mẫu mã đẹp phù hợp với thị hiếu người tiên dùng. Ngoài ra, yêu cầu của người tiêu dùng còn là sự hợp lý về giá cả, phương thức phục vụ... Chính vì thế trong thời gian tới Công Ty Dệt Hải Phòng phải có biện pháp nhằm nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm, cải tiến mẫu mã sản phẩm cũng như đa dạng hoá sản phẩm để đáp ứng nhu cầu mọi mặt của người tiêu dùng, và cạnh tranh có hiệu quả trên thị trường. Bởi hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển nhanh thì chu kỳ sống của sản phẩm bị rút gắn, sản phẩm cũng nhanh chóng trở nên lỗi thời cho nên việc thay đổi sản phẩm là một việc cần thiết luôn luôn cần phải chú ý để sản phẩm của công ty luôn có sức mạnh trên thị trường. Mà hiện nay tại Công Ty Dệt Hải Phòng (cơ sở I-bên dệt vải ) máy móc thiết bị đã lạc hậu, sản phẩm bị nhiều lỗi kỹ khuật và tỷ lệ phế phẩm cao cho nên công nghệ này không còn đủ khả năng đáp ứng nhu cầu về chất lượng của người tiêu dùng. Chính vì thế nên đôi khi vẫn bị khiếu nại về chất lượng sản phẩm. Do đó để đáp ứng về yêu cầu sản phẩm xuất khẩu trong thời gian tới công ty cần đầu tư thay đổi dây chuyền công nghệ, tích cực đầu tư cho đào tạo và đào tạo cán bộ kỹ thuật cũng như cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu để từ đó công ty có thể sản xuất ra những sản phẩm có giá thành hạ, mẫu mã đẹp...Trong khi đó nâng cao chất lượng sản phẩm thì cũng đồng nghĩa với việc tăng khối lượng sản phẩm, như vậy sẽ đáp ứng được đòi hỏi về mặt số lượng của khách hàng Nhật Bản cũng như những thị trường khác trong thời gian tới. Còn về cơ sở II ( Bên dệt kim ) thì như trên đã cho ta biết, công nghệ cũng như máy móc thiết bị chủ yếu là của các nước Nhật, Đức, Đài Loan... chúng là những thiết bị hiện đại cho nên trong thời gian tới khi đi vào sản xuất, công ty cần phải có kế hoạch đăng ký xin gia nhập tổ chức Tiêu Chuẩn quốc tế mà trực tiếp là ISO 9002 có như vậy sản phẩm của công ty mới đủ khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng về vấn đề chất lượng và tạo điều kiện thuận lợi để vượt qua hàng rào bảo vệ về chất lượng của các nước nhập khẩu khó tính.
2./ hạ giá thành sản phẩm.
Để có một sản phẩm có sức mạnh trên thị trường, thì sản phẩm không những chỉ có chất lượng tốt mẫu mã đẹp, đáp ứng thị hiếu người tiêu dùng mà sản phẩm đó phải có một giá thành hợp lý. Chính vì thế trong thời gian tới công ty cần có biện pháp nhằm giảm giá thành sản phẩm đến mức có thể. Sau đây là một số biện pháp nhằm giảm giá thành sản phẩm:
2.1./ Khai thác tốt nguồn nguyên liệu đầu vào.
Khác với những ngành khác, đối với ngành dệt may để hình thành nên giá thành sản phẩm thì giá cả nguyên vật liệu chiếm đến 90%. Chính vì thế trong thời gian tới yêu cầu đặt ra cho Công Ty Dệt Hải Phòng là phải khai thác tốt nguồn nguyên liệu đầu vào để giảm giá thành sản phẩm đầu ra. Hiện nay nguồn nguyên liệu của công ty chủ yếu do hai nguồn cung cấp: đó là nguồn nhập trực tiếp từ các doanh nghiệp trong nước và nguồn nhập khẩu từ các nước ngoài. Nguồn từ các doanh nghiệp trong nước được cung cấp bởi các công ty như nhà máy sợi Nha Trang, Huế, công ty dệt Nam Định, công ty dệt Hà Nội... Còn nguồn nhập khẩu là từ các nước như Trung Quốc, Hồng koông, ấn Độ... Hai nguồn này giá cả tương đối ổn định và nói chung thì ngang bằng nhau nhưng cũng có khi do tác động của tỷ giá hối đoái mà có sự chênh lệch. Do đó công ty cần xác định nguồn nhập chính và có giá thấp nhất để giảm giá cả đầu vào từ đó giảm thành sản phẩm đầu ra.
2.2./ Giảm chi phí sản xuất, và chi phí lưu thông.
Chi phí sản xuất và chi phí lưu thông là hai khoản mục quyết định đến tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất hình thành nên giá thành sản phẩm còn chi phí lưu thông quyết định đến lãi suất của doanh nghiệp. Chi phí lưu thông bao gồm cả hai loại chi phí là chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Chính vì thế để giảm giá thành sản phẩm cũng như nâng cao hiệu quả công tác tiêu thụ sản phẩm mà đó chính là công tác xuất khẩu. Công ty cần có biện pháp như tiết kiệm chi phí sản xuất, giảm thiểu chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp trong đó có chi phí trung gian.
2.3./ Giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu.
Trong mọi doanh nghiệp sản xuất mức tiêu hao vật tư luôn luôn là nội dung quan trọng của công tác quản lý, một định mức đúng sẽ là căn cứ cấp phát hợp lý, là cơ sở hạch toán giá thành sản phẩm được chính xác.Có hai phương pháp để giảm định mức tiêu hao vật tư:
+ Giảm định mức tiêu hao nguyên vật liệu cụ thể cho từng sản phẩm, phương pháp này trong quá trình thực hiện nên áp dụng bằng cách tiết kiệm tránh lãng phí vật tư. Chẳng hạn khi hồ một chục sợi mới hiện nay công ty phải mất 10 sợi đầu bị loại bỏ trong khi đó mỗi trục sợi bao gồm khoảng vài trục chục nghìn sợi thì như vậy mức hao tốn là bao nhiêu? Do đó, để tránh hiện trạng này công ty phải bố trí các cặp hồ được liên tục thì như vậy sẽ tránh sự tổn thất trên, hoặc khi nên máy dệt một loại sản phẩm mới (Thay sản phẩm này bằng một sản phẩm khác) thông thường bị mất đi 3 Kg sợi đầu mành ( sợi không ra sản phẩm). Như vậy sẽ mất đi rất nhiều nguyên vật liệu nếu tính ra giá trị thì công ty bị tổn thất 3Kg x 40.000 = 120.000 Đ cho một đầu máy và nếu như thay đổi cho cả cơ sở I bao gồm 90 máy dệt thì thử hỏi nó là bao nhiêu? Do đó công ty cần phải khắc phục bằng cách bố trí các máy dệt một cách hợp lý, mỗi máy nên dệt một loại sản phẩm ổn định, không nên thay đổi nhiều.
+ Giảm tỷ lệ phế phẩm:
Giảm tỷ lệ phế phẩm cũng là biện pháp giảm hao phí nguyên vật liệu. Để làm tốt công tác này đòi hỏi công ty phải có một đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề sử dụng thành thạo máy móc thiết bị, cũng như thường xuyên có kế hoạch bảo dưỡng, sửa chữa định kỳ và sửa chữa thường xuyên. Có như vậy, công ty mới có thể sử dụng hết công suất thiết bị và phát hiện nhanh những lỗi kỹ thuật, sửa chữa ngay thì sẽ giảm tỷ lệ phế phẩm xuống mức định mức trong tỷ lệ cho phép.
+ Tăng năng suất lao động.
Ngoài việc thường xuyên có kế hoạch nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc thiết bị thì công ty cũng phải chú ý đến năng suất lao động của công nhân, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng lao động. Có như vậy thì giá thành sản phẩm mới có thể hạ được xuống mức có thể. Để nâng cao năng suất lao động thì một việc cần thiết phải làm đó là thường xuyên có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại cán bộ công nhân viên., Thường xuyên tổ chức cho công nhân thi nâng cao bậc thợ, như vậy họ sẽ có trách nhiệm hơn trong công việc.
3./ Tăng vòng quay của vốn.
Vốn sản xuất trong một doanh nghiệp bao gồm hai loại là vốn cố định và vốn lưu động, t. Tỷ trọng của hai loại vốn này tuỳ thuộc vào độ dài của chu kỳ sản xuất, trình độ trang thiết bị... Nhiệm vụ của công ty là làm sao xác định một cơ cấu vốn hợp lý, sử dụng vốn một cách chặt chẽ, tiết kiệm đúng mục đích sẽ làm tăng vòng quay của vốn, giảm được các khoản phải trả tiền lãi do vốn vay. Muốn vậy trong thời gian tới công ty cần thực hiện tốt nhữngcông việc chủ yếu sau:
+ Chấp hành nghiêm chỉnh kỷ luật tài chính của nhà nước trong việc bảo toàn và phát triển vốn.
+ Có những biện pháp dự trữ vật tư nguyên vật liệu đầu vào sao cho vừa đủ để sản xuất được diễn ra thường xuyên và lên tục. Tránh tình trạng ứ đọng vật tư trong kho gây nên việc vốn không lưu thông kịp thời.
+ Hạn chế tối đa các khoản nợ đọng của khách hàng, có những biện pháp để có thể mua nguyên vật liệu đầu vào cũng như mua bán thành phẩm theo phương thức trả tiền sau.
+ Tăng năng suất lao động, sử dụng tối đa công suất máy móc thiết bị, tổ chức hợp lý hoá sản xuất, có như vậy sẽ giúp cho công ty rút gắn chu kỳ sản xuất, như vậy sẽ tăng tốc độ sử dụng vốn.
+ ở khâu tiêu thụ: Công ty cần tăng cường tiêu thụ sản phẩm bằng việc mở rộng thị trường, đề ra chính sách tiêu thụ một cách hợp lý với từng đoạn thị trường để tránh việc ứu đọng sản phẩm trong kho.
4./ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất sẽ tạo cơ sở khoa học cho sự định hướng và quy hoạch phát triển sản xuất nâng cao năng suất lao động.Việc ứng dụng này có thể tác động tốt tới quá trình tái sản xuất, mở rộng theo chiều sâu, công việc này đòi hỏi phải đầu tư đúng hướng mới đạt hiệu quả cao. Qua phân tích nguồn vốn và vốn của công ty cho thấy phần lớn vốn kinh doanh của công ty được hình thành từ các nguồn vốn vay dài hạn và ngắn hạn. Vì vậy việc đầu tư máy móc thiết bị, áp dụng khoa học kỹ thuật phải sao cho với số vốn phù hợp nhưng phải chọn lựa được những dây chuyền công nghệ tiên tiến. Chính vì lẽ đó ngay khi đầu tư mua sắn thiết bị công ty phải chọn mua thiết bị máy chính ( máy cái ) tiên tiến còn các thiết bị phụ ( Máy phụ trợ) thì chỉ cần mua lại phù hợp không cần phải tiên tiến như những máy cái. Tuy như vậy thiết bị sẽ không được đồng bộ nhưng vẫn đản bảo là một dây chuyền tiên tiến nhưng lại tiết kiệm được vốn đầu tư.
5./ đào tạo mới và đào tạo lại cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu.
Như ta đã biết thì trình độ cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của công tác này. Trong khi đó thì lực lượng làm công tác xuất nhập khẩu của Công Ty Dệt Hải Phòng hiện nay còn rất thiếu và còn nhiều sơ suất trong nghiệp vụ cũng như trong giao tiếp bằng ngoại ngữ. Chính vì thế cho nên trong thời gian tới công ty cần có kế hoạch đào tạo mới và đào tạo lại cũng như trẻ hoá đội ngũ làm công tác này hoặc công ty có thể tạo điều kiện cho lực lượng cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu tự trang bị kiến thức cho mình bằng cách tạo cho họ điều kiện về thời gian, vật chất, hoặc có những phần thưởng cho những ai thường xuyên tự học hỏi như tăng lương, nâng bậc... Có như vậy thì trong thời gian tới khả năng tác nghiệp của cán bộ trong công ty sẽ dần dần nâng nên.
6./ đẩy mạnh công tác nghiên cứu thị trường nhằm tìm kiến đối tác mới.
Hiện nay, khi chỉ có sản phẩm của cơ sở dệt may thì coi như thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty là thích hợp, nhưng khi cơ sở dệt kim đi vào sản xuất thì sản phẩm của nó với thiết bị hiện đại cho nên số lượng sản phẩm của nó là rất lớn. Chính vì thế ngay từ bây giờ công ty phải tiến hành nghiên cứu tìm hiểu thị trường, như cử cán bộ làm công tác tiếp thị sang những thị trường nước ngoài trọng điểm mà công ty muốn xâm nhập nghiên cứu tìm hiểu về tập quán tiêu dùng, điều kiện nhập khẩu của của nước sở tại như điều kiện thuế quan, phi thuế quan.... như thị trường Mỹ khi ta chưa ký kết hiệp định thương mại với họ thì có thể sử dụng phương pháp này, còn đối với thị trường EU, thị trường Nhật Bản, và những thị trường mà công ty đang định thâam nhập và mở rộng thì công ty phải có biện pháp nâng cao thị phần của mình như tổ chức các cửa hàng giới thiệu sản phẩm tham gia các hội chợ triển lãm ngay trên thị trường của họ, cũng như các hội chtrợ triển lãm chuyên ngành và đa ngành ở trong nước. Ngoài ra công ty còn có thể xuất khẩu thông qua uỷ thác để sản phẩm công ty thâm nhập vào thị trường nước ngoài trước và có uy tín trên thị trường đó, sau đó công ty mới có kế hoạch thâm nhập trực tiếp.
II./ giải pháp từ tầm vĩ mô - phía nhà nước và thành phố.
1./ khắc phục tình trạng kiểm soát thông tin của ngành dệt.
Ngành Dệt-May hiện nay, là ngành đứng thứ hai trong kim nghạch xuất khẩu của Việt Nam trong những năm gần đây ( đặc biệt từ năm 1998 đến nay kim ngạch của ngành này đã vượt lên đứng thứ hai trong 3 ngành đạt mức kim nghạch xuất khẩu trên 1 tỷ USD ),. nNhưng các doanh nghiệp ( cả doanh nghiệp trung ương cũng như doanh nghiệp địa phương ) không ngừng thắc mắc và kiến nghị về tình trạng thiếu thông tin về nhiều mặt như việc thiếu thông tin về nguồn nguyên liệu đầu vào, thị trường tiêu thụ sản phẩm làm đã cho nhiều doanh nghiệp nằm trong tình trạng xuất khẩu thụ động không làm chủ được hoạt động của mình. Trong khi đó thì một số lượng lớn những tài liệu quý liên quan trong trọng ngành nằm tản mát ở nhiều nơi như thông tin về khoa học công nghệ, về tổ chức quản lý chuyên ngành...Thêm vào đó thì một số thông tin hiện còn đang trong dạng tiềm năng chưa được khai thác. Chính vì lẽ đó mà trong nhiều trường hợp người muốn sử dụng thì không có, muốn tìm kiếm cũng không biết đâu mà tìm. Do đó trong thời gian tới để thuận tiện cho các doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may nói chung và Công Ty Dệt Hải Phòng nói riêng thì từ phía nhà nước cũng như về phía thành phố phải có kế hoạch tập hợp những thông tin liên quan thành một kho chuyên ngành dưới dạng các thư viện giúp cho các doanh nghiệp nhanh chóng tìm hiểu khi cần đến. Bên cạnh đó cũng cần thường xuyên có những cuộc họp, các cuộc hội thảo báo cáo chuyên ngành... để từ đó tạo cho các doanh nghiệp tiếp thu được những thông tin cần thiết cũng như có điều kiện trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp với nhau.
2./ Tạo lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu trong toàn ngành.
Tổng công ty Dệt Việt Nam nên hướng các doanh nghiệp trong nước xác định tổ chức cơ cấu sản phẩm hợp lý để xâm nhập thị trường nước ngoài, tránh tình trạng xâm nhập thị trường nước ngoài bằng mọi cách dẫn đến sản phẩm của nhiều doanh nghiệp trong nước cạnh tranh nhau trên cùng một thị trường nước ngoài. Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường Tổng công ty cần tổ chức lại bộ máy quản lý để giảm thiểu chi phí trung gian cho các doanh nghiệp trong nước tham gia xuất khẩu, thêm vào đó là việc cung cấp thông tin đầy đủ và chính xác cho các doanh nghiệp để họ có kế hoạch cạnh tranh với những mặt hàng cùng loại của các nước khác trên trường quốc tế. Ngoài việc hướng mạnh ra thị trường nước ngoài bằng những sản phẩm có chất lượng cao, giá trị kinh tế lớn thì Tổng công ty cũng phải hướng dẫn các doanh nghiệp chú trọng đến thị trường trong nước, vì thị trường nội địa hiện nay với dân số gần 80 triệu người thì quả thực không thể bỏ ngỏ để tham gia vào thị trường nước ngoài bằng mọi giá.
Tóm lại, Tổng công ty phải là người hướng dẫn các doanh nghiệp trong nước để công tác xuất khẩu hàng dệt may thực sự là một lợi thế lớn của Việt Nam trong thời gian tới.
3./ nhà nước cần tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu.
Hiện nay nhà nước Việt Nam đang trong quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật nên trong quá trình phát triển kinh tế nói chung và phát triển công tác xuất khẩu nói riêng còn nhiều bất cập bởi sự chồng chéo giữa các loại văn bản hướng dẫn thực hiện luật và các văn bản dưới luật với nguồn luật chính, đã tạo ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu, nhất là trong vấn đề thủ tục hành chính. Tuy là nhà nước đã ban hành chế độ “Một cửa, Một khoá” nhưng vẫn quá khó khăn, thủ tục quá rườm rà. Bởi còn nhiều văn bản dưới luật chồng chéo, cán bộ làm công tác quản lý xuất nhập khẩu còn tư tưởng làm ăn quan liêu gây cản trở cho hoạt động xuất khẩu của nhiều doanh nghiệp, ví dụ như việc tạo khó khăn của Hải Quan và thuế vụ...Chính vì lẽ đó, để tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp có sản phẩm xuất khẩu thì yêu cầu nhà nước phải có biện pháp hoàn thiện hệ thống luật cũng như tiến hành thành lập những đội chuyên kiểm tra thường xuyên chính những người làm công tác quản lý xuất nhập khẩu, có như vậy mới giúp cho các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu nói chung và Công Ty Dệt Hải Phòng nói riêng an tâm trong việc sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của mình.
Thêm vào đó thì hiện nay, chế độ ưu đãi của nhà nước chỉ dành cho các doanh nghiệp sản xuất hàng để xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp, còn vô số các doanh nghiệp cung cấp nguồn nguyên vật liệu đầu vào hoặc cung cấp bán thành phẩm cho các doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp xuất khẩu thì không được hưởng những yêu đãi này.Vì thế trong thời gian tới nhà nước cũng cần xem xét chính sách của mình nhằm có sự ưu đãi cho họ để giảm giá thành nguồn nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu.
Ngoài ra hiện nay, như ta đã biết tại Việt Nam việc cung cấp hạn ngạch xuất nhập khẩu vẫn thông qua cơ chế “xin cho”, chính vì thế cho nên rất nhiều doanh nghiệp không có chức năng xuất nhập khẩu vẫn có hạn ngạch xuất nhập khẩu và sau đó họ bán lại để ăn chênh lệch. Do đó trong thời gian tới Nhà nước nên áp dụng chính sách đấu thầu hạn ngạch để một phần nào giảm bớt những tiêu cực và như vậy những doanh nghiệp nào thực sự muốn xuất nhập khẩu và có chức năng thì có được hạn ngạch, như vậy sẽ giảm chi phí cho các doanh nghiệp. Nếu hiện nay nhà nước chưa kịp hoặc chưa có điều kiện để tiến hành đấu thầu thì các cơ quan chủ quản mà trực tiếp là Bộ Thương Mại phải lựa chọn các doanh nghiệp để phân bổ hạn ngạch cho hợp lý, tránh tiêu cực.
4./ nhà nước cần tạo cho các doanh nghiệp những ưu đãi về vốn, tín dụng.
Các doanh nghiệp hiện nay kể cả doanh nghiệp trực thuộc Trung Ương hay địa phương đều vấp phải tình trạng khó khăn trong vấn đề vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh. Trong khi đó thì tại các ngân hàng lại trong tình trạng ứ đọng vốn không có người vay. Tại sao lại có nghịch lý này? Bởi để được vay vốn ngân hàng, Các doanh nghiệp phải chịu rất nhiều những đòi hỏi như phải có tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn phải qua nhiều cửa, rất rườm rà, mất thời gian cho nên tuy là thiếu vốn nhưng các doanh nghiệp khó có thể tiếp cận với nguồn vốn ”nhàn rỗi” của ngân hàng. Chính vì thế trong thời gian tới nhà nước cần tạo cho các doanh nghiệp có điều kiện tốt để tiếp cận với những nguồn vốn có lãi suất thấp, thủ tục giản đơn, dành cho các doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu những khoản ưu đãi hợp lý để họ đầu tư mở rộng sản xuất từ đó sẽ tăng được lượng hàng xuất khẩu như các chính sách về giảm thuế, những chính sách tạo nguồn vốn như đã kể trên....
Tóm lại: Hiện tại, cũng như tương lai đối với các doanh nghiệp trong nước trong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng, Nhà nước phải đóng một vai trò tích cực hơn nữa trong việc phối hợp với các doanh nghiệp giải quyết những khó khăn ở tầm vĩ mô. Qua đó tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận thị trường, giới thiệu hàng hoá của mình với khách hàng nước ngoài và cạnh tranh có hiệu quả với các hàng hoá cùng loại của các nước khác trên thị trường đó.
Đứng trên góc độ vĩ mô nhà nước cũng cần cùng với các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm thông qua việc tham gia vào các quan hệ song phương hoặc đa phương trong khu vực và trên thế giới, tham gia ký kết những hiệp định thương mại đa chiều, nhằm mở rộng thêm quan hệ hữu nghị với nhiều hơn nữa các nước trên thế giới, từ đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong nước mở rộng thị trường của mình. Công việc trước mắt mà nhà nước cần làm là đàm phán với phía Mỹ để ký kết được Hiệp Định Thương Mại Việt -Mỹ, để hàng hoá của Việt Nam vào thị trường rộng lớn đầy tiềm năng này được hưởng quy chế “Tối Huệ Quốc” của Mỹ thì sẽ được hưởng mức thuế ưu đãi hơn. Còn công việc lâu dài là phải phấn đấu trở thành thành viên chính thức của Tổ Chức Thương mại Thế Giới ( WTO ). Có như vậy mới tạo ra cho các doanh nghiệp trong nước những thị trường ổn định, và định hướng đúng đắn cho các nhà sản xuất kinh doanh.
Riêng đối với những doanh nghiệp sản xuất hàng dệt may trong đó có Công Ty Dệt Hải Phòng, thì hiện nay trên thị trường thế giới nhất là thị trường các nước phát triển là những thị trường tiêu thụ rất lớn hàng loại này, như sản phẩm của Công Ty Dệt Hải Phòng là một ví dụ: Mặt hàng khăn mặt và khăn ăn chất lượng cao rất được các thị trường này ưu chuộng bởi tiêu dùng trong nước họ cao nhưng sản xuất thì chủ yếu dựa vào xuất khẩu. Chính vì thế nhà nước cần có biện pháp tốt trong việc cung cấp thông tin có chất lượng cao và chính xác nhằm giúp cho các doanh nghiệp dệt may chiếm lĩnh thị trường tốt hơn. Ngoài ra nhà nước cũng cần tổ chức những Hội Chợ quốc tế đa ngành tham gia và Hội Chợ quốc tế chuyên ngành hàng dệt may để tạo điều kiện cho khách hàng nước ngoài tìm hiểu và ký kết hợp đồng với các doanh nghiệp trong nước.
Trên đây là một số giải pháp cả ở tầm vĩ mô và vi mô nhằm nâng cao hiệu quả công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng trong thời gian tới.
Phần Ba phần kết luận
L
à một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Sở Công Nghiệp Hải Phòng có chức năng xuất nhập khẩu trực tiếp. Ngay từ khi hình thành và phát triển hiệu quả trong công tác xuất nhập khẩu đã quyết định đến sự sống còn của Công Ty Dệt Hải Phòng. Chính vì lẽ đó mà nâng cao hiệu quả trong công tác xuất nhập khẩu chính là nâng cao sự lớn mạnh của Công Ty Dệt Hải Phòng trong thời gian tới.
Trong quá trình thực tập tại Công Ty Dệt Hải Phòng nhờ sự giúp đỡ tận tình của Thạc sĩ Ngô Thị Tuyết Mai, cùng tập thể cán bộ công nhân viên mà đặc biệt là cán bộ phòng kinh doanh xuất nhập khẩu Công Ty Dệt Hải Phòng. Em đã chọn đề tài “Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng”. N nhằm đưa ra một số giải pháp để nâng cao hiệu quả trong công tác xuất nhập khẩu của công ty. Với mục đích đóng góp một phần nhỏ của mình trong trong sự phát triển đi lên Công Ty Dệt Hải Phòng, nNhưng do còn hạn chế về trình độ, kinh nghiệm, cũng như thời gian nghiên cứu cho nên không tránh khỏi nhữnh thiếu sót. Em mong rằng nhận được sự đóng góp để lần viết sau được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình và quý báu của Ttập thể cán bộ công nhân viên Công Ty Dệt Hải Phòng, các Thầy Cô giáo trong khoa Kinh tế và Kinh doanh Quốc tế mà đặc biệt là Thạc sĩ Ngô Thị Tuyết Mai đã giúp đỡ em hoàn thành bản Luận văn tốt nghiệp này. Xin chân thành cảm ơn.
người thực hiện
sv: Nguyễn Anh Dũng
một số từ viết tắt trong bài
AFTA: Asean Free Trade Area ( khu vực thương mại tự do Asean )
ASEAN: Association of The South Esat Asia Nations (Hiệp hội các quốc gia Đông Nam á)
CEPT: Common Effective Prerential Tariff Scheme. (Chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung)
EU: European Union (Liên minh Châu Âu)
WTO: World Trade Oraginization( Tổ chức Thương mại Thế giới )
L/C: Letter Of Credit ( Thư tín dụng )
tài liệu tham khảo
1./ Giáo trình nghiệp vụ ngoại thương - NXB Ngoại thương 1996 - GS. PTS Vũ Hữu Tửu.
2./ Giáo trình kinh doanh Quốc tế - NXB Giáo dục 1997 - Chủ biên PTS Đỗ Đức Bình.
3./ Giáo trình Kinh tế Quốc tế - NXB Giáo dục 1995 - Chủ biên GS.PTS Tô Xuân Dân.
4./ Giáo trình Thanh toán Quốc tế - NXB Ngoại Thương 1996 - GS. Đinh Xuân Trình.
5./ Các báo cáo tình hình sản xuất kinh doanh của Công Ty Dệt Hải Phòng 1997 -1999.
6./ Văn kiện Đại Hội Đảng toàn Quốc lần thứ VIII.
7./ Tạp chí Dệt May số ra thường kỳ.
8./ Thị trường Nhật Bản - NXB Văn hoá Thông tin Hà Nội.
9./ Thời báo Kinh tế Đầu tư.
10./ Báo Kinh tế Việt Nam và Thế giới 1998-1999, 1999-2000.
đại học kinh tế quốc dân
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt nam
khoa kinh tế và kdqt
Độc lập - Tự do – Hạnh phúc
Hà nội, ngày tháng 7 năm 2000
nhận xét luận văn tốt nghiệp
( Của người phản biện)
Họ tên sinh viên thực hiện luận văn: Nguyễn Anh Dũng
Lớp : Kinh tế Quốc tế khoá 38
Tên luận văn: Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại công ty Dệt Hải Phòng
Họ và tên người nhận xét:
Bộ môn, khoa, đơn vị công tác:
Mục lục
Chương I Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu
I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu .
1. Vị trí của hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp.
2. Vai trò của xuất khẩu
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình xuất khẩu
1.Các nhân tố khách quan
2-Các yếu tố chủ quan
III. Nội dung hoạt động xuất khẩu
1./ Tìm hiểu nghiên cứu thị trường .
2- Các hình thức xuất khẩu.
IV./Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu
1./ Chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận.
2./ Chất lượng hàng hoá xuất khẩu.
Chương II Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng
I./Giới thiệu chung về Công Ty Dệt Hải Phòng .
1./ Quá trình hình thành và phát triển Công Ty Dệt Hải Phòng.
2./ Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý hiện tại của Công Ty Dệt Hải Phòng.
II./ Hoạt động xuất khẩu tại công ty dệt Hải Phòng thời gian qua.
1./ Kết quả sản xuất tại Công Ty Dệt Hải Phòng thời gian qua.
2./ Tình hình xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng trong những năm qua.
Chương III Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng
I./ Giải pháp từ tầm vi mô - cấp doanh nghiệp.
1./ Thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm.
2./ Hạ giá thành sản phẩm.
3./ Tăng vòng quay của vốn.
4./ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất.
5./ Đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu.
6./ Đẩy mạnh công tác thị trường nhằm tìm kiến đối tác mới.
II./ Giải pháp từ tầm vĩ mô - phía nhà nước và thành phố.
1./ Khắc phục tình trạng kiểm soát thông tin của ngành dệt.
2./ Tạo lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu trong toàn ngành.
3./ Nhà nước cần tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu. 66
4./ Nhà nước cần tạo cho các doanh nghiệp những ưu đãi về vốn, tín dụng.
Chương I Một số vấn đề lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3
I. Vai trò của hoạt động xuất khẩu . 3
1. Vị trí của hoạt động xuất khẩu trong doanh nghiệp. 3
2. Vai trò của xuất khẩu 4
II. Các nhân tố ảnh hưởng tới quá trình xuất khẩu 5
1.Các nhân tố khách quan 5
2-Các yếu tố chủ quan 9
III. Nội dung hoạt động xuất khẩu 13
1./ Tìm hiểu nghiên cứu thị trường . 13
2- Các hình thức xuất khẩu. 16
IV./Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả hoạt động xuất khẩu 19
1./ Chỉ tiêu về tỉ suất lợi nhuận. 20
2./ Chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. 21
Chương II Thực trạng xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng 24
I./Giới thiệu chung về Công Ty Dệt Hải Phòng . 24
1./ Quá trình hình thành và phát triển Công Ty Dệt Hải Phòng. 25
2./ Chức năng, nhiệm vụ, cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý hiện tại của Công Ty Dệt Hải Phòng. 30
3./ Kết quả sản xuất tại Công Ty Dệt Hải Phòng thời gian qua. 40
4./ Tình hình xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng trong những năm qua. 44
Chương III Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả xuất khẩu tại Công Ty Dệt Hải Phòng 59
I./ Giải pháp từ tầm vi mô - cấp doanh nghiệp. 59
1./ Thay đổi mẫu mã, chất lượng sản phẩm nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm. 59
2./ Hạ giá thành sản phẩm. 60
3./ Tăng vòng quay của vốn. 63
4./ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất. 63
5./ Đào tạo và đào tạo lại cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu. 64
6./ Đẩy mạnh công tác thị trường nhằm tìm kiến đối tác mới. 65
II./ Giải pháp từ tầm vĩ mô - phía nhà nước và thành phố. 65
1./ Khắc phục tình trạng kiểm soát thông tin của ngành dệt. 65
2./ Tạo lợi thế cạnh tranh cho các sản phẩm xuất khẩu trong toàn ngành. 66
3./ Nhà nước cần tạo môi trường, hành lang pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu. 67
4./ Nhà nước cần tạo cho các doanh nghiệp những ưu đãi về vốn, tín dụng. 68
Tổ đóng gói
giám đốc
phó giám đốc
phòng kế hoạch kỹ thuật đầu tư
phòng tổ chức hành chính
phòng kế toán tài vụ
phòng kinh doanh xnk
phân xưởng chuẩn bị
phân xưởng Dệt
phân xưởng May
tổ KCS
tổ cơ điện nồi hơi
tổ ch. bị dệt
tổ hồ tẩy
tổ dệt
I
tổ dệt II
tổ dệt III
tổ cắt cuốn
tổ cắt may
sơ đồ I sơ đồ tổ chức quản lý - sản xuất
Tài liệu tham khảo
.....................................................................................71
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn............................................................72
Nhận xét của giáo viên phản biện..............................................................73
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0042.doc