Quyết toán là công cụ quan trọng trong chi tiêu ngân sách Nhà nước, được thực hiện qua việc theo dõi, kiểm tra hệ thống sổ sách chi tiêu và phương thức hạch toán kế toán của đơn vị. Vì vậy, quyết toán là trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong lĩnh vực tài chính Nhà nước nhằm đánh giá chính xác việc thực hiện dự toán và hiệu quả sử dụng kinh phí, tìm hiểu những thành tựu và những bất cập trong thực hiện dự toán từ đó rút ra bài học kinh nghiẹem cho những năm sau.
Cũng như lập dự toán, thực hiện dự toán, quyết toán ngân sách cũng đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng, đặc biệt là kho Bạc Nhà nước. Các báo cáo quyết toán phải gửi cho cơ quan kiểm toán để kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những trường hợp sử dụng không đúng mục đích, đối tượng chi. Sau khi phân bố, kho Bạc Nhà nước phải sự quyết toán, nếu dư vốn phải chuyên trả ngân sách cấp trên theo chế độ kế toán.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lí chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thủ đô Hà Nội đến năm 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ên. Năm 1998 quỹ BHXH là 24.304 triệu đồng, đến năm 1999 là 26.496 triệu đồng và năm 2000 là 31.256 triệu đồng, mức độ liên tục tăng của quỹ này đảm bảo sức khoẻ cho cán bộ giáo viên được chăm sóc chu đáo hơn khi ốm đau.
Đặc biệt trong số đó, vấn đề Y tế-vệ sinh được thành phố trú trọng quan tâm, đời sống của cán bộ giáo viên không chỉ được quan tâm về điều kiện vật chất mà cả về điều kiện tinh thần và chăm sóc sức khoẻ. Y tế-vệ sinh trong hai năm 1999 và 2000 liên tiếp vượt mức kế hoạch,( năm 1999 vượt 1,73%, năm 2000 vượt 7,58%), tương ứng với số tiền 529 triệu đồng, (năm 1999 kế hoạch 520 triệu đồng), năm 2000 là 1.167 triệu đồng ( kế hoạch 1.085 triệu). Điều đó chứng tỏ sức khoẻ của cán bộ giáo viên ngành giáo dục được chăm sóc chu đáo hơn và quan tâm hơn.
Không chỉ kinh phí cho con người gia tăng mà chi cho giảng dạy trong ba năm cũng liên tiếp tăng lên.
2.1.2. Chi cho giảng dạy và học tập.
Thực hiện chủ trương học đi đôi với hành, tăng cường dạy nghề, ngoại ngữ, tin học cho giáo dục phổ thông tạo điều kiện giúp đỡ các em tiếp cận những tiến bộ của khoa học công nghệ mới thành phố đã không ngừng đầu tư mua sắm tư liệu, đồ dùng học tập … phục vụ giảng dạy và học tập thông qua khoản chi về giảng dạy và học tập.
Cũng như chi cho con người, ngân sách thành phố đầu tư cho giảng dạy-học tập trong hoạt động giáo dục thủ đô cũng tăng lên liên tục: năm 1998 chi cho giảng dạy từ ngân sách thành phố là 32.167 triệu đồng, năm 1999 là 35.037 triệu đồng ( tăng 2.870 triệu đồng), và năm 2000 con số đó đã tăng lên 38.594 triệu đồng ( tăng 3.287 triệu đồng tương đương 9,3% so với năm 1999).
Chi giảng dạy bao gồm hai khoản chi: Chi nghiệp vụ chuyên môn và chi học bổng. Sự tăng lên trong chi giảng dạy được chia đều cho cả hai hoạt động này, nghiêp vụ chuyên môn được đầu tư thêm chứng tỏ ngành giáo dục thủ đô quan tâm nhiều đến chất lượng giáo dục, năng cao kiến thức và kĩ năng sư phạm của người thầy giúp bài giảng được phong phú, hiệu quả và đạt chất lượng cao. Năm 1998 chi nghiệp vụ chuyên môn 25.115 triệu đồng, năm 1999 là 27.731 triệu đồng và năm 2000 là 30.416 triệu đồng…
- Khuyến khích tinh thần học tập của học sinh, sinh viên và tinh thần thi đua, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, ngành giáo dục Hà Nội tăng cường chi cho học bổng của học sinh nhằm tạo động lực và tinh thần vươn lên trong học tập của học sinh mọi cấp, giúp đỡ một phần về điều kiện vật chất nhằm đảm bảo điều kiện học tập đầy đủ cho học sinh đồng thời cổ vũ tinh thần thi đua của các em. Liên tiếp trong ba năm học các khoản chi cho học bổng của học sinh từ ngân sách thành phố được tăng lên: Năm 1998 chi cho học bổng của học sinh từ ngân sách thành phố là 7.052 triệu đồng. Năm 1999 là 7.576 triệu đồng và năm 2000 là 8.178 triệu đồng. (Tăng năm 1999 so với năm 1998 là 524 triệu và năm 2000 tăng 602 triệu so với năm 1999).
Nói tóm lại, trong ba năm qua thành phố đã tạo mọi điều kiện về giảng dạy cho thầy trò thủ đô, bằng việc gia tăng các khoản chi về giảng dạy và luôn cố gắng hoàn thành kế hoạch đề ra trong lĩnh vực này ( Trong ba năm đều hoàn thành trên 95% kế hoạch đặt ra).
2.1.3. Chi cho quản lí hành chính.
Có thể nói rằng, đây là khoản chi không mang tính chất quyết định trực tiếp đến hiệu quả sử dụng và đầu tư cho lĩnh vực giảng dạy, song nó lại quyết định gián tiếp rất lớn đến tâm lí giáo viên từ đó chi phối chất lượng bài giảng. Công tác chi quản lí hành chính bao gồm ba khoản mục: Chi công tác phí, Chi công vụ phí và Chi hội nghị phí.
Qua bảng cơ cấu chi cho quản lí hành chính ta thấy qua ba năm 1998- 1999 và 2000 mức độ chi cho quản lí hành chính từ NSNN cho SN giáo dục thủ đô cũng tăng liên tục tăng lên: Năm 1998 mức chi quản lí hành chính ngành giáo dục là 25.021 triệu đồng, năm 1999 là 27.255triệu ( tăng 2.234 triệu (tức 9,83%) so với năm 1998 và năm 2000 là 29.861 triệu tăng 2.606 triệu (tức 9,56%) so với năm 1999, điều đó chứng tỏ công tác quản lí hành chính trong ngành giáo dục thủ đô được Đảng uỷ, Chính quyền thành phố hết sức quan tâm.
- Như trên đã nói, khoản chi quản lí hành chính bao gồm ba mục chi: Chi công tác phí, công vụ phí và hội nghị phí. Nếu như năm 1998 chi hội nghị phí là 6.021triệu đồng, đến năm 1999 mục chi này là 6.029 triệu ( giảm 23 triệu ), thì năm 2000 mức chi này lại là 6.071 triệu (tăng 42 triệu so với năm 1999. Nói chung xu hướng trong việc chi cho hội nghị phí này có xu hướng giảm dần trong tổng chi cho quản lí hành chính tại các đơn vị hành chính sự nghiệp nhà nước nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng ( năm 1998 chi cho hội nghị phí chiếm tỉ trọng 24,19 % trong khoản chi quản lí hành chính, điều này chứng tỏ xu hướng giảm chi cho công tác này là xu hướng tiến tới của Đảng bộ ngành giáo dục thủ đô trong thời gian tới.
- Một điều đáng mừng là trong công tác quản lí hành chính thì công tác phí và công vụ phí tăng lên nhiều hơn so với hội nghị phí giảm bớt lãng phí cho chi tiêu trong bộ máy nhà nước là điều đáng mừng, tiết kiệm bồi dưỡng cán bộ giáo viên đi công tác bằng việc cấp kinh phí đã khuyến khích anh chị em gần và sát với thực tiễn hơn: Mức chi công tác phí và công vụ phí chi trong quản lí hành chính ngành giáo dục năm 1998 là 15.755 triệu đồng và 5.214 triệu đồng, sang năm 2000 mức chi này tăng lên 17.645 và 6.145 triệu đồng.
2.1.4. Chi cho mua sắm và sửa chữa
Bảng16: Cơ cấu chi cho mua sắm và sửa chữa từ ngân sách Nhà nước qua 3 năm (1998 - 1999 - 2000)
Mức chi cho mua sắm, sửa chữa cũng tăng lên qua các năm (năm 1998 mức chi cho mua sắm và sửa chữa ngành giáo dục là 35.119 triệu dồng , năm 1999 là 38.389 triệu đồng và năm 2000 đã tăng lên 42.197 triệu đồng . Đầu tư trang thiết bị dạy và học nhằm tăng phúc lợi bình quân trên đầu học sih và giáo viên đó là mong muốn của các cấp chính quyền thành phố tạo mọi điều kiện cho dạy và học. Qua ba năm 1998 - 1999 và 2000, mức chi cho mua sắm nhiều hơn so với sửa chữa (năm 1998 chi cho mua sắm là 20.975 triệu đồng và mức chi sửa chữa là 14.144 triệu đồng; năm 1999 chi mua sắm 22.928 triệu đồng và chi sửa chữa là: 15.461 triệu; năm 2000 chi mua sắm là 22.036 triệu và chi cho sửa chữa :16.101 triệu đồng). Điều này khẳng định mức độ đầu tư tài sản mới là hoàn toàn phù hợp với điều kiện thực tế đã được chính quyền thành phố quan tâm, đồng thời sửa chữa khối lượng tài sản cũ nhằm tiết kiệm và tận dụng giá trị sử dụng của số tài sản này tránh lãng phí, thực hiện tinh thần tiết kiệm mà Đảng và Chính phủ kêu gọi.
Không ngừng đầu tư cho giáo dục từ ngân sách thành phố thể hiện sự đồng tâm, đồng lòng của cán bộ thành phố và nhân dân đối với sự nghiệp trồng người. Đầu tư song phải phù hợp với tình hình ngân sách thành phố nhằm đạt hiệu quả cao nhất của một đồng vốn đầu tư đó là điều mà chính quyền thành phố quan tâm. Trong xu thế quốc tế hoá, Hà nội nói riêng và cả nước nói chung còn nhiều khó khăn trước xu thế hội nhập chúng ta quan tâm đến giáo dục tức là chúng ta “đầu tư cho tương lai”, song đầu tư bằng cách nào, tiến hành ra làm sao? Điều đó thể hiện qua việc quản lý các nguồn vốn đầu tư từ phía Nhà nước và nhân dân. Để làm rõ thêm điều đó, chúng ta xem xét tình hình sử dụng các nguồn vốn khác đầu tư cho giáo dục thủ đô.
2.2. Tình hình sử dụng kinh phí khác cho ngành giáo dục thủ đô ba năm qua
2.2.1. Theo quyết định số 3342/QĐ - UB ngày 18/08/1998 của UBND thành phố về việc sử dụng nguồn học phí tại các cơ sở giáo dục công lập và cơ quan quản lý giáo dục theo tỷ lệ phân chia quy định.
- Tăng cường cơ sở vật chất phục vụ giáo dục và học tập: 35% trên tổng nguồn thu học phí đối với các cơ sở toàn thành phố. Đối với các cơ sở huyện sóc sơn 20%, gồm:
+ Hỗ trợ mua sắm trang thiết bị phục vụ cho công tac giảng dạy và học tập
+ Hỗ trợ cho công tác mua sách và xây dựng thư viện trường.
+ Hỗ trợ cho việc sửa chữa, nâng cấp trường lớp.
- Bổ xung kinh phí cho các sự nghiệp hoạt động giáo dục. Đối với cơ sở giáo dục phổ thông toàn thành phố 20% trên tổng nguồn thu học phí. Đối với các cơ sở giáo dục phổ thông tại huyện Sóc Sơn 35% gồm:
+ Kinh phí hỗ trợ tổ chức thi tốt nghiệp
+ Hỗ trợ các hoạt động chuyên môn
+ Chi trả công tác bảo vệ
- Hỗ trợ lực lượng trực tiếp giảng dạy và phục vụ. Đối với cơ sở giáo dục phổ thông toàn thành phố 25% trên tổng nguồn học phí. Đối với huyện Sóc Sơn 35% gồm:
+ Khen thưởng giáo viên, học sinh có thành tích suất sắc trong giảng dạy, học tập 3% (huyện Sóc Sơn 5%)
+ Hỗ trợ nâng cao chất lượng chuyên môn giáo viên 5% (huyện Sóc Sơn 10%)
+ Chi bồi dưỡng cán bộ làm công tác thu chi và quản lý học phí trong trường học (ban giám hiệu, kế toán, thủ quỹ và người trực tiếp thu...) 6%.
+ Mua sổ sách, biên lai, chứng từ phục vụ công tác thu chi và quản lý học phí... 6%
- Hỗ trợ công tác quản lý trực tiếp và điều tiết chung thuộc ngành giáo dục:
+ Các cơ sở chủ quản được giữ lại 10%, các phòng giáo dục được giữ lại 15%
+ 10% đối với các cơ sở chủ quản và 5% còn lại đối với phòng giáo dục nộp về sở giáo dục - đào tạo để điều hành hỗ trợ.
Song trong vấn đề thu chi và quản lý học phí trên địa bàn thành phố còn nhiều bất cập. Sự thiếu đồng bộ giữa các trường thu nhiều, thu ít hoặc vẫn xảy ra sự thất thu học phí ở các trường ngoại thành. Việc sử dụng quỹ học phí cũng cìn tuỳ tiện, có trường đã cắt giảm khoản chi bổ xung cho các hoạt động sự nghiệp giáo dục để trợ cấp cho cán bộ giáo viên, ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy và học tập.
2.2.2. Về khoản thu đóng góp xây dựng trường
Về vấn đề này có thể nói còn quá nhiều bất cập giữa các trường. Phỉ nói rằng khoản thu này ở các trường chủ yếu do nhân dân đóng góp, không theo định mức cụ thể. Vì vậy các trường tuỳ ý thu với mức học phí đặt ra, thậm chí quá cao gây khó khăn cho học sinh theo học, có trường hợp học sinh phải bỏ học vì không có tiền đóng góp. Vì vậy, việc hạch toán không rõ ràng và sử dụng sai mục đích chưa kiểm soát được.
Trên đây là tình hình thu và sử dụng kinh phí của ngân sách thành phố cho sự nghiệp giáo dục. Những năm qua ngân sách đã không ngừng tăng chi cho giáo dục song việc sử dụng còn quá tuỳ tiện và chưa đúng mục đích chi, quản lý tài chính chưa đạt yêu cầu nên hiệu quả sử dụng các nguồn này còn thấp, tốc độ phát triển của ngành còn thấp chưa tương xứng với quy mô đầu tư cho ngành. Vì vậy cần tăng cường quản lý chi ngân sách thành phố cho sự nghiệp giáo dục.
2.3. Tăng cường quản lí chi các nguồn vốn từ NSNN cho giáo dục Hà Nội là một đòi hỏi cấp bách.
Thực trạng hoạt động giáo dục phổ thông trên địa bàn thành phố Hà Nội thời gian qua phần nào đã phản ánh được chất lượng dạy và học tập của thầy, trò thủ đô Hà nội. Tỉ trọng học sinh có trình độ văn hoá ở mức ở mức trung bình vẫn chiếm tỉ trọng cao ở cả ba cấp học ( cấp tiểu học: 34,8%; Trung học cơ sở 37,2% và Phổ thông trung học 51,7%). Không chỉ có vậy học sinh yếu vẫn tồn tại ngay trên địa bàn thủ đô Hà nội: Năm học 1999-2000 cấp tiểu học là 2,2%, Trung học cơ sở 5,3% và Trung học phổ thông 7,1%). Chất lượng các kì thi chưa phản ánh được và phù hợp với quy mô đầu tư cho giáo dục khi xem xét vơí cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội của các tỉnh khác ( Năm học 1999-2000 chất lượng các kì thi của học sinh thủ đô: Tiểu học 99.4% ( đứng đầu trong cả nước), Trung học cơ sở 98,7% ( sau hải phòng: 99%) và Phổ thông trung học là 95% ( Sau Hà tây 98,5%). Tất cả những điềunày chứng tỏ rằng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cho giáo dục Hà Nội chưa đáp ứng được quy mô và tầm cỡ là thủ đô của cả nước ... Thiết nghĩ công tác quản lí tài chính trong ngành giáo dục cần có biện phấp điều chỉnh thích hợp trong thời gian tới. Đối diện với thực tế đó Sở Giáo dục và Đào tạo Hà nội cho rằng hiệu quả sử dụng vốn chưa cao là do:
* Bộ máy kế toán tài chính trong ngành giáo dục.
Như chúng ta đã biết: Hệ thống tổ chức bộ máy tài chính kế toán của ngành giáo dục thành phố gồm: Phòng tài vụ của Sở Giáo dục và Đào tạo và Phòng Giáo dục ở tất cả các Quận, Huyện. Cùng với sự đi lên của ngành giáo dục với khối lượng kinh phí ngày càng lớn và nguồn kinh phí ngày càng đa dạng, bộ máy kế toán ngành giáo dục Hà nội cũng được hoàn thiện đáp ứng việc thực hiện nhiệm vụ quản lí tài chính và hạch toán Thu- Chi của từng cấp. Tuy nhiên trước tình hình và nhiệm vụ đổi mới bộ máy kế toán tài chính nói chung, kế toán trong ngành giáo dục Hà Nội nói riêng còn có một số hạn chế, cụ thể:
- Nghiệp vụ kế toán tài chính chưa chuyên sâu, chưa đồng đều, chưa đủ sức đảm nhiệm nhiệm vụ quản lí nguồn tài chính từ ngân sách nhà nước ngày càng lớn và các nguồn kinh phí khác ngày càng đa dạng.
- Việc xây dựng dự toán và lập quyết toán quý, năm còn thiếu căn cứ, thậm chí không đúng theo kiểu mẫu, chưa theo tiến độ thời gian quy định từ khâu lập dự toán đến khâu quyết toán kinh phí, sổ sách ghi chép chưa rõ ràng dẫn đến sai sót trong công tác ghi sổ kế toán nhất là đối với cán bộ tài chính ở các phòng giáo dục, đơn vị thụ hưởng ngân sách.
- Cán bộ chuyên môn chưa được đào tạo chuyên ngành Kế hoạch và Tài chính còn thiếu nên khi lập dự toán, quyết toán kinh phí, kiểm tra việc sử dụng tại các sở còn nhiều hạn chế.
* Về cơ chế quản lí cấp phát.
Cơ chế quản lí ngân sách theo ngành chưa hoàn thiện, việc cấp phát và quyết toán ngân sách đối với các đơn vị trước đây thuộc Quận, Huyện quản lí thành phố uỷ quyền cấp phát ngân sách và tổng hợp quyết toán cho phòng tài chính Quận, Huyện làm chức năng giám đốc của tài chính trong việc kiểm tra, xem xét và theo dõi dẫn đến thiếu dân chủ hoá. Việc lập dự toán theo mục lục ngân sách chưa cụ thể, rõ ràng gây khó khăn cho việc cấp phát tại các đơn vị cơ sở, nhiều khi xảy ra tình trạng phát sinh kinh phí làm cho việc cấp phát khó khăn: Mục thừa, mục thiếu.... Không chỉ vậy, tình trạng" Rớt" kinh phí "dọc đường" vẫn còn xảy ra phổ biến tại nhiều cơ sở, kinh phí cho các đơn vị dự toán cấp dưới bị cắt xén, tuỳ tiện và không đúng kế hoạch.
* Về quy trình cấp phát.
Việc thực hiện dự toán theo quy trình 2 xuống 3 lên phần nào đã đáp ứng được tính dân chủ và sát thực hơn so với khâu lập dự toán năm của các cơ sở, song một thực trạng mà không chỉ giáo dục Hà nội mắc phải đó là sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, các cấp còn bộc lộ một số nhược điểm:
- Dự toán đầu tư cho phát triển giáo dục tách rời với kế hoạch phát triển kinh tế xã hội và kế hoạch tài chính. Trong điều kiện ngân sách còn han hẹp việc lập dự toán mới chỉ chú ý đến Chi Thường Xuyên chưa có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan tài chính - giáo dục- thống kê với Sở Kế hoạch- Đầu tư trong việc xác định căn cứ lập dự toán.
- Dự toán ngân sách cho giáo dục chưa thống nhất từ trên xuống.
- Dự toán chi ngân sách cho giáo dục chưa khai thác triệt để nguồn vốn ngoài ngân sách .
- Định mức chi hành chính sự nghiệp được Bộ Tài chính hướng dẫn và điều chỉnh chưa sát với thực tế của thành phố gây khó khăn cho việc lập và điều hành ngân sách cho giáo dục.
* Hơn thế nữa là do đây là mô hình quản lí mới ( Mới áp dụng từ năm 1997 đến nay) nên việc nắm bắt và cập nhật phương pháp còn nhiều hạn chế, thực thi chính sách còn nhiều khó khăn và chịu sự phản đối của các ban ngành.
Không chỉ có nguồn vốn ngân sách cần được quan tâm tăng cường quản lí mà các nguồn vốn khác cũng cần có biện pháp hiệu chỉnh. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay đang trên đà phát triển và với vị trí là thủ đô của cả nước với tốc độ phát triển kinh tế luôn đi đầu trong cả nước trong mọi lĩnh vực, sự đóng góp của các tổ chức tài chính, các công ty ngày càng lớn cho ngành giáo dục... Khối lượng nguồn vốn từ các nguồn này ngày càng tăng vì vậy công tác quản lí các nguồn này cần có biện pháp phù hợp.
Chính vì những tồn tại cố hữu trên của ngành Giáo dục thủ đô mà chúng ta cần thiết phải tăng cường quản lí các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục thủ đô nói chung và nguồn vốn từ NSNN nói riêng trong thời gian tới nhằm nâng cao hiêu quả của vốn đầu tư.
Phần thứ ba
*****
Một số biện pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục của thành phố Hà Nội trong thời gian tới (Đến năm 2005).
***
I. Phương hướng phát triển giáo dục ở thủ đô Hà Nội trong thời gian tới.
Sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng là của toàn dân, các cấp đảng và chính quyền, các ngành. Xã hội hoá việc học, duy trì và phát huy tự học trong nhân dân cán bộ và đảng viên là việc tất yếu mà Đảng và nhân dân nhất thiết phải làm. Song, sự nghiệp giáo dục chỉ có thể đạt được những thành tựu cao khi Nhà nước tập chung các nguồn lực, nhân dân đồng tình ủng hộ đóng góp và sự tham gia của các tổ chức xã hội, sự hợp tác và liên kết quốc tế có hiệu quả. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, cán cân thanh toán, cán cân thương mại còn nhiều những sự mất cân đối vì vậy, đầu tư cho sự nghiệp giáo dục cả nước nói chung và thành phố Hà Nội nói riêng cũng còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được sự tăng nhanh của sự nghiệp giáo dục. Nói chung trong năm 2000 vừa qua là năm đầu tiên thành uỷ cùng Sở giáo dục Hà Nội tiến hành công tác xã hội hoá giáo dục và bước đầu đạt được thành tựu đáng khích lệ, đa dạng hoá các loại hình trường lớp, các hình thức giáo dục đáp ứng như cầu học tập trong nhân dân.
Trên tinh thần thực hiện nghiêm túc luật giáo dục, cùng kế hoạch phát triển giáo dục trong thời gian tới, quán triệt các tinh thần của nghị quyết trung ương về giáo dục đào tạo, Sở giáo dục - đào tạo Hà Nội đã xây dựng nên phương hướng cụ thể phát triển sự nghiệp giáo dục thủ đô đến năm 2005.
1. Tiếp tục quán triệt nghị quyết Trung ương II Đại hội Đảng khoá VIII trong nhận thức và hành động. Tham mưu cho thành phố xây dựng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo thủ đô trong thời gian tới, xây dựng các đề án cụ thể để thực hiện Nghị quyết Trung ương II theo sự phân công của thành phố, tăng cường hiệu lực công tác quản lý nhằm thiết lập một kỷ cương trong ngành tránh lãng phí nguồn lực, trước mắt thực hiện một số vấn đề sau:
- Tăng cường quản lý các loại hình trường ngoài công lập.
- Đẩy mạnh công tác thanh tra giáo dục, phát huy vai trò thanh tra giáo dục trong công tác chuyên môn nghiệp vụ quản lý.
- Phối hợp với các ban ngành nhất là công an quán triệt và đẩy mạnh ngăn ngừa những tệ nạn xã hội trong trường học.
2. Xây dựng mạng lưới trường học khang trang và nghiêm túc là đối với các trường thuộc ngoại thành, hoàn thành và giám sát chặt chẽ công việc khảo sát, điều tra thực trạng cơ sở vật chất mặt bằng của nhà trường, từ đó làm cơ sở cho việc đầu tư. Xây dựng và phát triển trường đạt tiêu chuẩn, chất lượng cao.
3. Đẩy mạnh công tác đào tạo và bồi dưỡng giáo viên, xây dựng qui hoạch cán bộ quản lý nhằm đồng bộ đội ngũ giáo viên, đẩy mạnh công tác chuẩn hoá và đào tạo tiêu chuẩn cho một bộ phận giáo viên và cán bộ quản lý, khắc phục tình trạng thiếu giáo viên ở một số quận, huyện, tinh giảm biên chế đối với những giáo viên thiếu năng lực không đủ sức, đủ tài.
4. Tiếp tục chấn chỉnh công tác quản lý, tăng cường công tác tổ chức và thực hiện chính sách chế độ đãi ngộ đối với giáo viên.
- Về tổ chức bộ máy: Đề nghị thành phố sửa đổi một số điểm trong phân cấp quản lý.
- Về xây dựng đội ngũ giáo viên: Tiếp tục bổ xung giáo viên cho một số trường thiếu, cùng với việc tăng cường cán bộ quản lý trong các phòng giáo dục quận - huyện.
- Về chế độ đãi ngộ: Đề nghị với thành phố trong việc quan tâm đến đời sống cán bộ - giáo viên ở ngoại thành và những giáo viên có hoàn cảnh khó khăn, quan tâm hơn nữa tới giáo viên mầm non ngoại thành và giáo viên dạy trẻ khuyết tật.
5. Đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học trong cán bộ giáo viên và cả học sinh giỏi, phổ biến và áp dụng các tiến bộ khoa học công nghệ vào giảng dạy để nâng cao chất lượng, đồng thời tạo cơ sở cho sự phát triển công nghệ thông tin trong ngành.
6. Tiếp tục thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục, thực hiện tốt ngày "Toàn dân đưa trẻ đến trường" đẩy mạnh công tác phổ cập giáo dục tiểu học (Tiến tới phổ cập phổ thông cơ sở), xoá mù chữ. Xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, huy động nguồn lực cho giáo dục và thực hiện công bằng xã hội. Nâng cao chất lượng của hội đồng giáo dục các cấp, chuẩn bị tốt cho đại hội giáo dục toàn thành phố và lập hội đồng giáo dục thành phố khi có chỉ thị của Chính phủ và hướng dẫn của Bộ Giáo dục và đào tạo.
7. Tăng cường công tác chính trị tư tưởng trong giáo viên học sinh, xây dựng các cơ sở Đảng trong nhà trường, đẩy mạnh công tác phát triển Đảng trong trường học, chú trọng công tác giáo dục tư tưởng, giáo dục truyền thống, đạo lý nhân văn trong học sinh. Vận động tinh thần "Trật tự - kỷ cương - tình thương - trách nhiệm" trong toàn thể giáo viên và học sinh.
8. Đẩy mạnh phong trào thi đua dạy - học trong toàn ngành, đồng thời kết hợp với các tỉnh, thành phố khác trong quan hệ hợp tác phát triển ngành giáo dục trong và ngoài nước. Xứng đáng là ngành giáo dục lá cờ đầu trong cả nước.
II. Một số giải pháp nhằm tăng cường quản lý chi ngân sách nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
1. Một số giải pháp huy động nguồn vốn cho giáo dục Hà Nội.
Thực hiện chủ trương xã hội hoá giáo dục là Nhà nước nhằm tiết kiệm các khoản chi từ ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục, huy động sự đóng góp tối đa của các tầng lớp nhân dân và tổ chức xã hội trong việc phát triển giáo dục của cả nước. Vì vậy có hai nguồn cơ bản đáp ứng yêu cầu cho giáo dục thủ đô.
1.1. Kinh phí từ ngân sách thành phố.
Hàng năm, kinh phí từ ngân sách thành phố luôn đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển của giáo dục thủ đô (chiếm tỉ trọng lớn tổng kinh phí cho giáo dục >80%). Giáo dục thực hiện trách nhiệm mà thành uỷ, UBND thàhh phố giao nhằm phục vụ những lợi ích lâu dài, cơ bản của thành phố, từ đó thúc đẩy sự đóng góp trong nhân dân. Trong những năm qua, ngân sách thành phố đầu tư cho sự nghiệp giáo dục không ngừng tăng lên và còn tiếp tục tăng trong giai đoạn tới đây. Thành phố phấn đấu chi cho giáo dục trong thời gian tới chiếm 15-19%trong tổng chi của thành phố, thiết nghĩ đây là vấn đề hết sức cần thiết để đáp ứng nhu cầu phát triển nhanh với chất lượng cao của giáo dục thủ đô.
Là thủ đô của cả nước do đó mà dân di cư từ các tỉnh, thành phố khác dến tương đối lớn, nhưng hầu hết không có hộ khẩu chính thức song con em họ vẫn có nhu cầu đến trường vì vậy số học sinh thực tế cao hơn mức dự kiến hàng năm. Vấn đề này gây khó khăn trong việc cấp kinh phí mà chúng ta vẫn thường làm, vì vậy nên cấp phát kinh phí theo đầu học sinh.
+ Nếu cấp phát theo đầu học sinh thì nó có ưu điểm là: Đảm bảo đủ chi ngân sách cho các trường, các vùng, cả thầy và trò, là căn cứ để lập kế hoạch ngân sách , cấp phát, theo dõi và quyết toán. Song nó cũng có nhược điểm: Những vùng giáo dục chậm phát triển (các quận, huyện ngoại thành) lẽ ra cần nhiều kinh phí để đầu tư cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng thì lại được ít kinh phí và giáo dục bị thụt lùi. Để khắc phục điều này chúng ta phải xác định một hệ số cho việc cấp phát giữa các vùng, các trường, tránh tình trạng đầu tư không đồng đều... Hơn thế nữa, việc xác định hệ số lại có thể là cơ sở để tham ô - tham nhũng lợi dụng...
Song nhìn chung chúng ta nên cấp phát kinh phí theo định mức tính trên đầu học sinh và hiệu quả của nó đã được các nước phát triển trên thế giới chứng minh và áp dụng, cấp phát theo đầu học sinh đảm bảo nhu cầu tối thiểu cho mỗi học sinh trong việc học tập.
1.2. Các nguồn khác.
Trong năm qua, tỉ trọng của các nguồn vốn khác trong tổng vốn đầu tư cho giáo dục đã có những cải tiến, tăng lên về số tuyệt đối, song trong giai đoạn hiện nay chúng ta nhất thiết phải huy động tối đa sự đóng góp của các nguồn vốn này. Để làm được điều đó chúng ta phải có những giải pháp đồng bộ, đúng đắn. Cụ thể:
- Đa dạng hoá các nguồn vốn đầu tư cho giáo dục bằng cách đa dạng hoá các loại hình giáo dục, thực hiện phương châm Nhà nước và nhân dân cùng làm.
- Huy động các nguồn đóng góp từ nhân dân bằng cách nâng mức thu học phí đồng thời qui định mức thu riêng cho từng vùng, thực hện việc cấp phát qua kho bạc Nhà nước. Phổ biến mức đóng góp cụ thể đối với cha mẹ học sinh, tăng cường giáo dục trong nhân dân bảo vệ của công, đồng thời có chính sách ưu đãi đối với học sinh gặp khó khăn.
- Thành lập quĩ hỗ trợ phát triển giáo dục từ các nguồn thuộc mọi thành phần kinh tế.
- Tài trợ của các tổ chức, cá nhân và tổ chức quốc tế.
- Các khoản đóng góp tự nguyện
- Tạo điều kiện cho các tổ chức quốc tế, các nước hợp tác để xây dựng nền giáo dục thành phố vững mạnh. Tranh thủ viện trợ của các tổ chức nước ngoài để tăng chi cho giáo dục.
- Xây dựng cơ cấu tài chính trong toàn ngành (Tỉ trọng của các nguồn vốn) để làm mức phấn đấu thực hiện trong toàn ngành.
2. Một số giải pháp về quản lý và sử dụng có hiệu quả các khoản chi từ ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục thủ đô thời gian tới.
Coi đầu tư cho giáo dục là đầu tư phát triển, Đảng và Nhà nước đã sớm coi giáo dục là quốc sách hàng đầu của dân tộc. Trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn, đầu tư từ ngân sách cho giáo dục còn thiếu thốn, thiết nghĩ đạt hiệu quả cao trong khả năng của mình chúng ta nhất thiết phải có biện pháp sử dụng hợp lý các nguồn vốn này.
Qua nghiên cứu tình hình ngành giáo dục Hà Nội và thực trạng quản lý ngân sách giáo dục, tôi xin đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục trên địa bàn thành phố thời gian tới.
2.1. Hoàn thiện cơ chế quản lý cấp phát vốn ngân sách cho sự nghiệp giáo dục.
Trong phần này, tôi xin đề cập đến việc phân cấp ngân sách Nhà nước. Từ trước đến nay, việc phân cấp ngân sách giáo dục đã thay đổi qua những phương thức, mục đích của việc thay đổi này là lựa chọn các phương thức thích hợp để vừa giám sát chặt chẽ, vừa phân phối hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao nguồn ngân sách giáo dục.
Bên cạnh những điểm đạt được của mô hình quản lý ngân sách giáo dục hiện nay nó cũng còn có những nhược điểm riêng làm ảnh hưởng xấu đến hiệu quả của vốn đầu tư cho giáo dục thủ đô. Qua nghiên cứu mô hình quản lý ngân sách giáo dục từ năm 1997 đến nay tôi mạnh dạn đưa ra mô hình quản lý trong thời gian tới cho sự nghiệp giáo dục thủ đô.
Sơ đồ quản lý ngân sách thành phố Hà Nội cho sự nghiệp giáo dục
Sở tài chính vật giá
Sở giáo dục và đào tạo
- PTTH
Trường - đặc biệt
- Trọng điểm
Trường chuyên nghiệp thuộc Sở - ngành
Phòng giáo dục
Khối THCS
Khối tiểu học
Khối mầm non
Như vậy, toàn bộ ngân sách đầu tư cho giáo dục được tập chung ở cấp thành phố. Sở giáo dục và đào tạo là đơn vị dự toán cấp I trực tiếp giao dịch với sở Tài chính - vật giá. Các trường chuyên nghiệp thuộc các ngành, các trường PTTH, trường đặc biệt, trường trọng điểm, các phòng giáo dục là đơn vị dự toán cấp II trực thuộc sở giáo dục - đào tạo. Các trường tiểu học cơ sở, khối mầm non quốc lập trực thuộc phòng giáo dục là đơn vị dự toán cấp III.
Sở Tài chính - Vật giá cấp kinh phí cho Sở Giáo dục - Đào tạo để Sở Giáo dục - Đào tạo cấp phát cho các trường chuyên nghiệp - Trường PTTH, Trường trọng điểm và Trường đặc biệt.
Sở Tài chính - Vật giá cấp kinh phí cho Sở Giáo dục - Đào tạo để Sở Giáo dục - Đào tạo cấp phát kinh phí cho các phòng giáo dục để chi cho các nhu cầu của hoạt động giáo dục thuộc phòng giáo dục quản lý trên địa bàn quận- huyện.
- Phòng giáo dục Quận, Huyện có trách nhiệm phối hợp với phòng tài chính để kiểm tra - giám sát các đơn vị dự toán cấp III thuộc quận, huyện quản lý trong việc sử dụng kinh phí được cấp.
- Cần thực hiện cơ chế phối hợp với cơ quan tài chính cấp huyện để giúp phòng giáo dục và các trường trong quản lý , sử dụng kinh phí trong và ngoài ngân sách được hợp lý và hiệu quả cao nhất. Tiếp tục khai thác ngân sách địa phương để đầu tư sự nghiệp giáo dục của mình.
- Sở Tài chính - vật giá quản lý tất cả các nguồn đầu tư cho sự nghiệp giáo dục thành phố một cách thống nhất và hiệu quả cao.
- Sở giáo dục và đào tạo phối hợp với Sở Tài chính - vật giá để kiểm tra - giám sát tất cả các đơn vị của ngành trên toàn thành phố về việc sử dụng kinh phí cho sự nghiệp giáo dục và thực hiện các chế độ quản lý tài chính Nhà nước.
- Về cơ chế cấp phát, cần khắc phục kịp thời sự chậm chễ về thời gian, đồng thời thúc đẩy nhanh chóng các nhu cầu chi của đơn vị giáo dục trong đó cớ sự phối hợp chặt chẽ vơí kho bạc Nhà nước thành phố.
Với cơ chế quản lý, cấp phát này, nó sẽ giúp cho Sở Giáo dục - Đào tạo nắm bắt được toàn bộ các hoạt động giáo dục và đội ngũ giáo viên trên toàn thành phố do đó thuận tiện cho việc lập dự toán và điều hành ngân sách. Hơn thế nữa, nó cũng giúp chấm dứt tình trạng thiếu nợ, quá lương của giáo viên, các chính sách, chế độ Nhà nước với giáo viên được thực hiện. Giúp cho giáo viên yên tâm, phấn khởi, gắn bó với nhà trường. Mặt khác sở giáo dục và đào tạo quản lý và điều hành ngân sách nên đáp ứng kinh phí cho các hoạt động của ngành theo tiến độ của năm học, hiệu quả các hoạt động nghiệp vụ được nâng cao.
2.2. Tăng cường hiệu quả quản lý, sử dụng chi ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục phải được thực hiện đồng bộ ở tất cả các khâu:
Quản lý ngân sách Nhà nước được thực hiện qua các khâu: Lập dự toán ngân sách, cấp phát, quyết toán ngân sách đến kiểm tra giám đốc chi tiêu phải được thực hiện trần tự theo đúng qui định tài chính hiện hành.
+ Đối với khâu lập dự toán:
Đây là khâu ban đầu, nó định hướng và xuyên suốt qui trình cấp phát, thực hiện qui trình quản lý ngân sách theo luật. Căn cứ lập dự toán phải dựa trên nhiệm vụ chính trị được giao, các cơ chế, chính sách của Nhà nước trong từng giai đoạn cụ thể để tính ra dự toán cần thiết cho ngành trong năm hoạt động mà cụ thể là trên cơ sở định hướng phát triển giáo dục của thành phố, coi định hướng phát triển là "sợi chỉ đỏ" xuyên suốt quá trình xây dựng dự toán, làm cơ sở cho việc quản lý, điều hành ngân sách giáo dục, đầu tư có trọng tâm, hiệu quả đó là yêu cầu đặt ra. Dự toán được lập phải đảm bảo tính khách quan, trung thực, tính đủ và đúng trong năm ngân sách.
Trong dự toán phải tính toán đầy đủ các khoản thu - chi trong từng đơn vị để từ đó lập dự toán ngân sách đáp ứng nhu cầu chi tiêu theo một tỉ lệ nhất định. Phần còn lại các đơn vị phải khai thác từ nguồn thu khác (học phí, thu xây dựng, đóng góp của các tổ chức - cá nhân...) nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu của đơn vị mình. Cần đưa nguồn ngoài ngân sách vào kế hoạch đầu tư cho giáo dục.
Dự toán phải được lập trên những căn cứ chính xác và chi tiết cho các đơn vị thụ hưởng ngân sách theo mục lục ngân sách Nhà nước, có sự kết hợp chặt chẽ giữa các cơ quan, các tổ chức chính quyền. Đây thực sự là bước chuyển biến mới trong công tác lập dự toán nói chung va ngân sách giáo dục nói riêng phải trải qua nhiều năm mới đạt được kết quả tốt.
Việc lập ngân sách giáo dục của thành phố phải gắn liền với kế hoạch phát triển sự nghiệp giáo dục của thành phố, trên cơ sở các căn cứ cụ thể và các văn bản pháp qui hướng dẫn lập dự toán của trung ương và thành phoó, dự toán được lập phải phù hợp với định mức chi, khoa học và có tính thuyết phục cao.
Định mức chi là căn cứ để lập dự toán, phân phối và quản lý ngân sách . định mức có chính xác thì việc quản lý và phân phối mới sát thực. Trong chi phải đảm bảo tính công khai trong các khoản chi thường xuyên và chi đầu tư. Dựa rên tính chất các khoản chi bao gồm chi thường xuyên và không thường xuyên, xin đưa ra một phương án lập định mức chi ngân sách như sau: định mức được phân thành tương ứng với tính đặc thù của từng khoản chi: Phần cố định và phần dao động.
* Phần cố định: Tương ứng với các khoản chi thường xuyê (lương, phụ cấp, Bảo hiểm xã hội - quản lý hành chính, giảng dạy học tập...). Nguồn đảm bảo cho phần này được tính từ qui định của Nhà nước và bộ giáo dục đào tạo đã thống nhất : nghìn đồng/ học sinh/năm.
* Phần dao động, tương ứng với các khoảng không thường xuyên (hỗ trợ mua sắm trang thiết bị, bổ xung giảng dạy học tập, sửa chữa, tu bổ thường xuyên, hỗ trợ giáo viên, hỗ trợ chi khác). Nguồn đảm bảo lấy từ ngân sách thành phố, học phí và một số nguồn khác (tài trợ - đóng góp), khi tính phần dao động này, chúng ta lấy định mức chi của phần cố định nhân với hệ số phù hợp đối với các loại trường lớp khác nhau - thì hệ số của họ khác nhau). Đơn vị tính: nghìn đồng/học sinh/năm.
Và định mức chi ngân sách sẽ là tổng hợp hai phần (phần dao động và phần cố định), theo cách tỉnh này thì mọi yếu tố liên quan đều được xem xét toàn diện, phù hợp với tình hình hiện tại và quyền hạn của các cấp ngân sách. Điều đó sẽ khuyến khích tăng đầu tư cho giáo dục bằng việc huy động các nguồn lực của thành phố, tránh tình trạng khi lập dự toán "tính chi cao để cấp trên cắt giảm là vừa".
- Đối với khâu thực hiện dự toán ngân sách.
Phải nói rằng, chi cho giáo dục từ ngân sách Nhà nước là hết sức cần thiết, chi đúng, chi đủ và kịp thời đó là những gì mà chúng ta quan tâm. Từ năm 1997, việc thực hiện phương án chi qua Kho Bạc Nhà nước phần nào đã phát huy hiệu quả song cũng còn tồn tại một số vướng mắc. Vì vậy theo tôi, Sở tài chính - vật giá Hà Nội có thể xem xét hình thức cấp phát trên để đưa vào thực tế áp dụng, có sự giám sát của các cơ quan chức năng.
- Đối với khâu quyết toán ngân sách.
Quyết toán là công cụ quan trọng trong chi tiêu ngân sách Nhà nước, được thực hiện qua việc theo dõi, kiểm tra hệ thống sổ sách chi tiêu và phương thức hạch toán kế toán của đơn vị. Vì vậy, quyết toán là trách nhiệm của các cơ quan có liên quan trong lĩnh vực tài chính Nhà nước nhằm đánh giá chính xác việc thực hiện dự toán và hiệu quả sử dụng kinh phí, tìm hiểu những thành tựu và những bất cập trong thực hiện dự toán từ đó rút ra bài học kinh nghiẹem cho những năm sau.
Cũng như lập dự toán, thực hiện dự toán, quyết toán ngân sách cũng đòi hỏi sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan chức năng, đặc biệt là kho Bạc Nhà nước. Các báo cáo quyết toán phải gửi cho cơ quan kiểm toán để kiểm tra tình hình sử dụng kinh phí và có biện pháp xử lý kịp thời đối với những trường hợp sử dụng không đúng mục đích, đối tượng chi. Sau khi phân bố, kho Bạc Nhà nước phải sự quyết toán, nếu dư vốn phải chuyên trả ngân sách cấp trên theo chế độ kế toán.
2.3. Tổ chức bộ máy quản lý ngân sách giáo dục toàn thành phố.
Hàng mẫu, ngân sách thành phố chi hàng trăm tỷ đồng cho sự nghiệp giáo dục để đầu tư và cung cấp cho sự hoạt động của lĩnh vực này, cung cấp những khoản phúc lợi xã hội cho nhân dân mà phúc lợi giáo dục là vô cùng cần thiết. Cụ thể, năm 1997, ngân sách thành phố chi 270,557 tỷ đồng cho sự nghiệp giáo dục, chiếm 77,89% trong tổng chi giáo dục - đào tạo và 12,35% trong tổng chi của thành phố. Sang năm 1999 số chi cho giáo dục là 295,746 tỷ động 9tăng 25,189 tỷ tức 9,31% so với năm 1998)... Đến năm 2000 con số này đã tăng lên 324,345 tỷ đồng 9tăng 28,599 tỷ đồng so với 1999). Điều này chứng tỏ sự quan tâm của thành phố đối với sự nghiệp giáo dục thủ đô không ngừng tăng lên, thể hiện qua việc tăng chi liên tục trong nhiều năm cho giáo dục thủ đô. Vì vậy để đạt hiệu quả cao nhất đối với các phần vốn ngân sách này, chúng ta phải có một bộ máy quản lý ngân sách Nhà nước hoàn chỉnh và làm việc hiệu quả, đặc biệt trong thời kỳ đổi mới và hội nhập hiện nay. Chúng ta thành lập bộ máy quản lý tài chính theo hệ thống ngành giáo dục, mà trước mắt là bộ máy tài chính trong Sở giáo dục và đào tạo.
Sở giáo dục và đào tạo biên chế 5 - 7 người đối với phòng kế hoạch tài vụ và chịu trách nhiệm quản lý ngân sách giáo dục toàn thành phố, với cơ cấu sắp xếp:
+ Trưởng phòng phụ trách công tác kế hoạch tài chính kiêm kế toán trưởng.
+ Phó phòng phụ trách công tác cấp phát, kế toán và theo dõi tổng hợp.
+ Một người làm công tác cấp phát kinh phí, quyết toán và tổng hợp với kho Bạc.
+ Một người chuyên quản các trường trực thuộc Sở giáo dục và đào tạo.
+ Một người chuyên quản các phòng giáo dục quận, huyện.
- Các trường trực thuộc Sở giáo dục và đào tạo phải thực hiện quyết toán với Sở ban hành.
- ở các phòng giáo dục có bộ phận tài vụ chịu trách nhiệm chi tiêu cho cán bộ quản lý ở phòng và chi cho các trường tiểu học, trung học cơ sở, mầm non quốc lập.
Nhằm thực hiện nghiêm túc luật ngân sách nhà nước và thực hiện có hiệu quả các khoản chi, Sở giáo dục đào tạo phải điều tra phân loại trình độ đội ngũ cán bộ nhân viên tài chính kế toán từ cấp thành phố đến quận - huyện, tránh tình trạng cán bộ không có chuyên môn tài chính lại làm nhiệm vụ tài chính trong ngành.
Sơ đồ bộ máy quản lý ngân sách giáo dục Hà Nội.
Phó giám đốc Sở giáo dục và đào tạo phụ trách tài vụ
Phòng kế hoạch
tài vụ
Phòng tài vụ các trường thuộc sở-ngàng
Bộ phận kế toán
phòng giáo dục
Phòng tài vụ
thuộc sở GD-ĐT
2.4. Bố trí hợp lý cơ cấu chi tiêu và sử dụng có hiệu quả các nguồn kinh phí đầu tư cho giáo dục.
Thực hiện của công tác này là đưa vốn tới đối tượng chi, thực hiện mục đích đầu tư. Vì vậy việc tạo lập một cơ cấu sử dụng vốn hợp lý có ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của vốn đầu tư.
Qua bảng cơ cấu chi trong ngành giáo dục từ ngân sách thành phố (Bảng 11) ta thấy trong vài năm qua chi từ ngân sách cho giáo dục đã đáp ứng phần nào nhu cầu chi tiêu nhưng chưa hợp lý. Chi cho con người chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu chi thường xuyên nhưng hiệu quả chưa cao, chúng ta cần sắp xếp lại đội ngũ giáo viên trong ngành giáo dục, tránh tình trạng thừa biên chế gây lãng phí vốn ngân sách. Chi cho giảng dạy còn quá thấp: Năm 1998 là 11,98% trong tổng chi cho giáo dục, năm 1999 là 11,94% và năm 2000 là 11,89%, vì vậy nó ảnh hưởng lớn đến chất lượng giáo dục, chất lượng công tác giảng dạy và học tập giảm sút. Gắn với mục tiêu phát triển giáo dục, nâng cao chất lượng quy mô nên nhu cầu của khoản chi này rất lớn, chúng ta cần nâng tỷ trọng của nhóm chi này lên 15% trong tổng số chi thường xuyên.
Tiếp tục cắt giảm các khoản chi về quản lý hành chính tránh lãng phí nguồn lực đối với bộ phận naỳ, giảm bớt phiền hà trong việc quản lý và cấp xét thủ tục vào - ra khỏi ngành. Năm 1998 chi cho quản lý hành chính là 25,021 tỷ đồng chiếm 9,25% tổng chi thường xuyên ngành giáo dục, năm 1999 là 9,21% và năm 2000 là 9,20% tổng chi giáo dục thủ đô. Trong thời gian tới chúng ta cố gắng cắt giảm khoản này xuống dưới 6% tổng chi thường xuyên của ngành giáo dục để nâng cao hiệu quả của vốn đầu tư, tiết kiệm ngân sách, tăng chi cho những vấn đề cần thiết hơn.
Đối với khoản chi về mua sắm sửa chữa thì trong ba năm qua tương đối ổn định, điều này là do cơ sở vật chất trong ngành tương đối đầy đủ và chiếm tỷ trọng tương đối trong đầu tư cho giáo dục hàng năm (năm 1998 là 12,9% so với tổng chi thường xuyên cho giáo dục - Năm 1999 là 12,96% và năm 2000 là 13%), trước một thực trạng là quy mô và các loại hình trường lớp liên tục tăng trong những năm qua và trong những năm tiếp theo, thì nhu cầu đòi hỏi đối với khoản chi này tiếp tục tăng... Mặc dù trong những năm qua, Nhà nước đã rất quan tâm đầu tư cho việc xây dựng cơ sở vật chất cho các trường, lớp song một thực tế đáng buồn là sự xuống cấp nhanh chóng của các tài sản cố định trong ngành giáo dục. Thiết nghĩ chúng ta cần khắc phục điều này bằng cách vận động nhân dân, các ban - ngành ủng hộ giúp đỡ cùng với Nhà nước bảo vệ của công nhằm tăng cường hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
Để tìm hiểu rõ hơn về việc quản lý sử dụng vốn ngân sách Nhà nước trong ngành giáo dục, chúng ta nhất thiết phải xem xét định mức mà Nhà nước lập ra để đầu tư, làm căn cứ cho việc cấp phát và quản lý vốn ngân sách.
3. Xây dựng định mức chi cho giáo dục.
Như trên đã nói, định mức chi là căn cứ để lập kế hoạch phân phối và quản lý ngân sách. Định mức chi có phù hợp thì việc quản lý phân phối mới chính xác và đạt hiệu quả cao, chúng ta không nên xây dựng định mức chi một cách đồng đều hoá, phải xác định chi tiết từng đối tượng chi đối với từng hợp trong từng quận huyện, nơi được phân phối ít.
Định mức chi ngân sách Nhà nước cho giáo dục do Nhà nước ban hành là mức chi cần thiết, tối thiểu cho một đối tượng (đầu học sinh hoặc đầu dân số) nhằm phát triển sự nghiệp giáo dục của Nhà nước.
+ Xác định mức chi cho giáo dục theo đầu học sinh có ưu điểm là đảm bảo cho các địa phương có đủ kinh phí cho cho các trường theo đúng chế độ. Song lại có nhược điểm là không đảm bảo được tính công bằng trong phân phối ngân sách giữa các quận huyện. Đối với các quận, huyện nào giáo dục đã phát triển, số lượng học sinh lớn thì càng có điều kiện đầu tư phát triển. Trái lại, đối với các quận huyện nền giáo dục kém phát triển (đặc biệt các xã ngoại thành, bán sơn địa) thì càng khó có điều kiện nâng cao phúc lợi xã hội và tăng chất lượng giảng dạy. Bởi, đầu tư quá ít không đủ để trang trải các khoản chi tiêu cho giáo dục.
+ Phương pháp xác định định mức chi theo đầu dân số có ưu điểm là đảm bảo tính công bằng trong các quận huyện tạo điều kiện cho các quận huyện mà giáo dục chưa phát triển có điều kiện để phát triển (bởi lẽ các huyện này dân trí thấp, tốc độ tăng dân số bình quân cao vì vậy dân số lớn) vì có vốn đầu tư tương đối dồi dào đáp ứng các nhu cầu chi tiêu trong giáo dục, chi cho con người, quản lý hành chính, chi cho giảng dạy và mua sắm sửa chữa, ngoài ra còn có một phần dôi ra để đầu tư thêm cho giáo dục: cải tạo trường lớp, mua sắm đồ dùng học tập... Tuy niên, phương pháp này lại có nhược điểm là kìm hãm sự phát triển ở các quận huyện có nền giáo dục phát triển khá. Do điều kiện kinh tế khá giả, người dân làm ăn suôn sẻ có điều kiện đầu tư cho con em họ đi học song do dân di cư đến vẫn có nhu cầu học tập mà lại không có hộ khẩu vì vậy không được cấp kinh phí, từ đây làm giảm mức đầu tư bình quân trên đầu một học sinh. Các khoản vốn đầu tư bị "cắt xén" từ khoản này sang khoản khác làm ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy và học tập. Điều này khẳng định, phương pháp xác định định mức chi theo đầu dân số chỉ làm căn cứ để phân bổ ngân sách cho giáo dục chứ không thể làm căn cứ để quản lý được.
Dựa trên định mức chi chuẩn mà Nhà nước ban hành các quận, huyện lấy đó làm căn cứ cấp phát và quản lý (Xem bảng ).
Bảng 10: Định mức chi cho giáo dục trên đầu học sinh cho từng cấp học
Đơn vị: Đồng / học sinh / năm.
Mức chi
Cấp học
Năm 1998
Năm 1999
Năm 2000
(số dự toán)
1. Mẫu giáo
190.000
250.000
340.000
2. Nhà trẻ
530.000
670.000
840.000
Hỗ trợ giáo viên mầm non nông thôn
50.000
90.000
114.000
3. Tiểu học
170.000
230.000
300.000
4. Trung học cơ sở
200.000
270.000
370.000
5. Phổ thông trung học
240.000
320.000
480.000
6. Khuyết tật
- Học sinh mù
1.500.000
2.000.000
2.600.000
- Học sinh câm điếc
950.000
1.400.000
1.900.000
- Học sinh thiểu năng
950.000
1.400.000
1.900.000
7. Trường chuyên
700.000
900.000
1.100.000
8. Xoá mù
30.000
50.000
60.000
9. Trung tâm giáo dục kỹ thuật tin học
50.000
90.000
130.000
10. Trung tâm giáo dục thường xuyên
60.000
100.000
180.000
Nguồn: Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Như vậy, trong những năm qua Nhà nước ta nói chung và Hà Nội nói riêng đã rất quan tâm tới sự nghiệp giáo dục, mức chi bình quân hàng năm cho mõi học sinh liên tục tăng lên và tăng ở mức đáng kể. Nếu lấy số bình quân cho các đối tượng thì năm 1998 mỗi học sinh một năm được Nhà nước cấp 432.308 đồng/sinh/năm. Năm 1999 là 597.692 đồng/học sinh/năm (tăng 105.384 đồng tương đương 38,26%) và năm 2000 mức chi đó đã tăng lên (ước đạt): 793.385 đồng/học sinh/năm. Như vậy, Hà Nội đã rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, sự nghiệp trồng người của đất nước và thực hiện đúng phương châm mà Họi nghị lầ II Ban chấp hành Trung ương khoá VIII đề ra: "Giáo dục là quốc sách hàng đầu".
Qua việc phân tích trên ta thấy, ở cả hai phương pháp trên đều tồn tại những ưu - nhược điểm đan xen lẫn nhau và những đặc tính riêng cuả nó. Theo tôi, để đảm bảo tính hiệu quả cao nhất chúng ta cần tìm ra biện pháp kết hợp hai phương pháp này để định mức chi là chuẩn và từ đó công tác quản lý ngân sách giáo dục là tốt nhất: phương pháp xác định định mức chi theo đầu học sinh có tính đến sự chênh lệch giữa các quận, huyện bằng hệ số phù hợp đối với từng quận, huyện. Theo tôi nghĩ nếu áp dụng phương pháp xác định định mức chi này thì kinh phí cấp phát cho các trường sẽ đủ đảm bảo chi, đúng chế độ và đảm bảo tính công bằng đối với các trường, lớp thuộc các quận, huyện khác nhau.
Tuy nhiên, giáo dục có đạt thành tích cao và sự hậu thuẫn của nhân dân không phải chỉ cần có một số giải pháp hiệu quả mà nó còn cần phải có những điều kiện khác nữa.
III. một số điều kiện cần thiết để đảm bảo thực hiện có hiệu quả các giải pháp trên.
1. Sự quan tâm của Thành uỷ, UBND thành phố, các ngành, các cấp đối với sự nghiệp giáo dục thủ đô.
Sự quan tâm này được thể hiện qua đường lối chiến lược phát triển kinh tế xã hội của thành phố thông qua các chỉ tiêu đầu tư từ ngân sách thành phố cho ngành giáo dục. Sự phát triển đồng bộ từ các xã, phường, thị trấn, sự quan tâm ngày càng sâu sắc đến chất lượng giảng dạy ở các trường, mức độ hiệu quả và thành tích của học sinh trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia và quốc tế.
2. Các chế độ chính sách ưu đãi giáo dục nhất thiết phải được ban hành kịp thời đảm bảo cho sự phát triển của thủ đô.
- Các chính sách ưu đãi đối với giáo viên ngoại thành, giáo viên có hoàn cảnh khó khăn và giáo viên dạy trẻ khuyết tật.
- Khuyến khích học sinh giỏi tham gia vào các trường sư phạm để đào tạo giáo viên.
- Qui định mức chi cho các hoạt động như:
+ Phụ cấp giảng bài của giáo sư, giảng viên giỏi khi tham gia giảng dạy tại trường.
+ Chế độ bồi dưỡng giáo viên dạy học sinh giỏi.
+ Có định mức chi phù hợp.
3. Thanh tra tài chính.
Đây cũng là vấn đề không kém phần quan trọng trong việc giảm sát các khoản chi từ Ngân sách Nhà nước, nhằm mục đích xem xét việc lập dự toán ngân sách chân hành ngân sách, quyết toán ngân sách của cơ quan quản lý tài chính và các cơ quan chính quyền địa phương trên cơ sở thực hiện luật Ngân sách Nhà nước và các qui định về Ngân sách Nhà nước của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chỉ ra những sai phạm, phân tích những nguyên nhân chủ quan, khách quan dẫn đến sai phạm và qui kết trách nhiệm của cá nhân - tập thể đối với từng sai phạm. Từ đó đề xuất những kiến nghị, xử lý đối với từng sai phạm, kiến nghị là giải pháp nhằm đưa công tác quản lý, điều hành ngân sách theo đúng luật ngân sách Nhà nước và các qui định của Bộ tài chính.
Tuy nhiên, trong phạm vi đề tài, tôi chỉ nêu được xem xét số vấn đề về chi Ngân sách Nhà nước trên địa bàn thủ đô những năm qua.
Như ta đã biết, thanh tra Nhà nước được tiến hành đối với tất cả các nội dung chi Ngân sách Nhà nước, như vậy thanh tra các khoản chi Ngân sách Nhà nước hoạt động giáo dục cũng được tiến hành trên tất cả các mặt.
- Thanh tra vốn đầu tư là cơ bản: Thực chất đây là việc đánh giá tình hình quản lý chung vốn đầu tư XDCB của cơ quan, đơn vị trên những mặt: chủ trương đầu tư, hiệu quả dự án lúc phê duyệt, chủ trương đầu tư đến khi thanh tra, việc chấp hành trình tự thủ tục... Công tác thanh tra nguồn vốn này phải được tiến hành đối với cả hai phía đối tác: Các cơ quan tài chính, các đơn vị chủ đầu tư và đơn vị nhận thầu xây lắp.
- Đối với các đơn vị hành chính sự nghiệp: Thực hiện thanh tra trên cả hai cấp: Đơn vị dự toán cấp trên và tại các đơn vị trực tiếp sử dụng kinh phí.
Trong những năm qua, ngành tài chính thủ đô nói chung đã thực hiện tốt công tác thanh tra này. Trực tiếp phát hiện những sai phạm của đơn vị thụ hưởng ngân sách và đưa ra những quyết định xử lý kịp thời đối với những sai phạm đó. Song thiết nghĩ, giữa một xã hội chủ nghĩa công bằng văn minh thì việc sai phạm này vẫn phải xử lý một cách nghiêm túc hơn, triệt để để xảy ra những sai sót trong vấn đề tài chính tại các đơn vị nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn ngân sách nhất là trong giai đoạn đất nước ta rất cần vốn đầu tư để phát triển kinh tế xã hội, Thành uỷ, UBND thành phố cần có những biện pháp quản lý chặt chẽ hơn.
4. Bộ tài chính và Bộ giáo dục phải có hướng dẫn nghiêm túc, khoa học về việc thu - chi, hạch toán các khoản kinh phí ngoài ngân sách.
kết luận
Nhận thức rõ vai trò của sự nghiệp giáo dục đối với sự phát triển kinh tế xã hội, kế hoạch hoá giáo dục là bước khởi đầu và mang tính đi trước so với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội. Mà đầu tư cho giáo dục lại quyết định sự phát triển của ngành mà trong đó nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước là chủ yếu. Với mục đích là tìm ra biện pháp thích hợp nhằm tăng cường quản lí các nguồn kinh phí từ Ngân sách Nhà nước đầu tư cho giáo dục nhằm tăng tính hiệu quả của vốn đầu tư góp phần thực hiện thắng lợi kế hoạch 2001-2005 mà Đảng và Nhà nước đã đặt ra đối với sự nghiệp kinh tế - xã hội nói chung và sự nghiệp giáo dục nói riêng. Trong phạm vi hiểu biết hạn chế của bản thân, chuyên đề tôi nghiên cứu đã đề cập những nội dung và yêu cầu đặt ra:
Về mặt lý luận: Trình bày khái quát các vấn đề về chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục, cơ cấu chi trong ngành giáo dục thủ đô nhằm tăng hiệu quả của nguồn vốn đầu tư cho giáo dục Hà Nội.
Về mặt thực tế: Trên cơ sở khảo sát, tìm hiểu thực trạng về cơ cấu chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục nhằm phát huy tính hiệu quả của mỗi đơn vị vốn đầu tư, tôi đã mạnh dạn đề ra một số biện pháp cơ bản nhằm tăng cường quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục.
Trên đây là toàn bộ nội dung nghiên cứu thuộc phạm vi đề tài tốt nghiệp. Tôi hy vọng rằng kết quả nghiên cứu này sẽ góp phần vào việc đổi mới các phương thức quản lý chi Ngân sách Nhà nước cho sự nghiệp giáo dục thủ đô.
Tuy nhiên, do sự hiểu biết có hạn, thời gian thực tập hạn chế vì vậy chuyên đề này chắc chắn có sự thiếu sót và hạn chế. Rất mong được sự góp ý và chỉ bảo của Thầy, Cô giáo, các bạn để bài viết sau này của tôi được hoàn thiện hơn.
Tài liệu tham khảo
1. Giáo trình: “ Thanh tra tài chính” - TS: Phạm Ngọc ánh.
2. Báo cáo quyết toán Thu- Chi ngân sách thành phố Hà nội năm 1998- 1999- 2000 của Sở Tài chính-Vật giá.
3. Báo cáo quyết toán kinh phí uỷ quyền của Sở Tài chính-Vật giá Hà nội.
4. Báo cáo xây dựng chiến lược tài chính đến năm 2010 của Sở Tài chính-Vật giá Hà nội.
5. Các văn bản hướng dẫn thực hiện Thu-Chi, quản lí học phí và các khoản được thu khác ở các cơ sở giáo dục và đào tạo công lập của thành phố Hà Nội.
6. Luật ngân sách nhà nước.
7. Luật giáo dục.
8. Hồ CHí MINH về vấn đề giáo dục - NXB giáo dục Hà Nội năm 1990.
9. Bài giảng “ Kế hoạch hoá phát triển Kinh - Tế xã hội” - PTS Ngô Thắng Lợi.
10. Niên giám thống kê 2000.
11. Đổi mới Ngân sách nhà nước. GS-TS: Tào Hữu Phùng - PTS: Nguyễn Công Nghiệp.
12. Giáo trình: “Quản lí tài chính nhà nước” - Trường Đại học Tài chính-Kế toán Hà nội năm 1999.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0110.doc