Công ty đã liên doanh liên kết với một số cơ sở sản xuất cung cấp nguồn đầu vào cho hàng nông sản xuất khẩu của công ty, như Công ty xuất nhập khẩu Nghệ An, Xí nghiệp dầu xuất khẩu Vinh, Công ty nông sản xuất khẩu Đắc Lắc Mặt khác, công ty đã thiết lập được một mạng lưới chân hàng, đại lý thu mua hàng rộng khắp cả nước. Nhờ đó hoạt động kinh doanh diễn ra thuận lợi hơn, nguồn hàng xuất khẩu ổn định nên các đơn hàng đã đáp ứng khá tốt những yêu cầu của khách hàng. Chất lượng hàng nông sản của công ty cũng ngày một tăng và được ưa chuộng trên thế giới như hạt tiêu, cao su Những biện pháp trên giúp công ty ổn định và chủ động nguồn đầu vào cho mặt hàng nông sản xuất khẩu.
e) Có sự chủ động hơn về vốn:
Do định hướng kinh doanh linh hoạt và hợp lý, nên ba năm qua tổng vốn kinh doanh của công ty không ngừng tăng mạnh, chỉ tính riêng nguồn tự có trong vốn lưu động năm 2002 đã tăng 27% so năm 2001 và chiếm 97% tổng vốn lưu động. Nhờ đó công ty chủ động hơn trong việc hoạch định chiến lược để thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa.
127 trang |
Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1239 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu tại công ty xuất nhập khẩu Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh doanh trong thị trường nội địa cũng như thị trường nước ngoài đều chưa chú trọng đến việc đăng ký nhãn mác hàng hoá của doanh nghiệp mình với Bộ thương mại nên nhiều tình trạng các công ty nước ngoài ăn cắp bản quyền nhãn hiệu của doanh nghiệp Việt Nam (như Tổng công ty dầu khí Việt Nam Petrolimex dị một công ty nước ngoài sử dụng nhãn hiệu chữ P để kinh doanh xuất khẩu dầu khí, gây mất uy tín của công ty trên thị trường thế giới và mất cơ hội kinh doanh; hay việc tranh chấp nhãn hiệu Catfish cho cá da trơn Việt Nam…). Ngoài ra còn những vấn đề khác mà Việt Nam phải đối mặt như một số nước kiện Chính Phủ đã trợ giá hàng xuất khẩu cho các doanh nghiệp Việt Nam gây ra tình trạng bán phá giá như hiện nay một số doanh nghiệp Việt Nam đã bị Mỹ kiện đã bán phá giá cá tra cá ba sa, bật lửa Việt Nam bán phá giá tại thị trường EU vói mức giá thấp hơn giá thị trường rất nhiều... Những vấn đề đó đều đang gây nhiều bức xúc cho cả Chính Phủ cũng như các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu của Việt Nam.
III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản tại công ty Intimex:
1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp:
1.1/ Giải pháp đối với sản phẩm:
a) Hoàn thiện công tác tạo nguồn hàng:
Hiện nay bên cạnh phương pháp tạo nguồn hàng truyền thống đó là thu gom hàng nông sản xuất khẩu từ bất kỳ nơi nào có hàng mà công ty đang cần, kể cả mối cũ và nguồn cung mới – khiến hàng xuất khẩu không có sự đồng nhất về chất lượng và rất bị động trong cung ứng hàng, công ty đã thực hiện liên doanh liên kết với một số công ty cung cấp nguồn đầu, mỗi loại trong bốn mặt hàng chủ yếu của công ty (cà phê, cao su, hạt tiêu, lạc nhân) liên kết với 1 hoặc 2 công ty cung ứng. Tuy nhiên hoạt động thu mua vẫn còn nhiều bất cập, chẳng hạn lượng hàng thiếu công ty vẫn phải thu mua từ địa phương rồi đem về phân loại và đóng gói, công ty vẫn chưa có những kế hoạch thu mua cụ thể cho từng loại hàng hoá. Vì vậy tuỳ theo đặc điểm kinh doanh của công ty, tình hình thị trường và yêu cầu của khách hàng công ty có thể sử dụng kết hợp các hình thức tạo nguồn sau:
- Công ty tự mình thực hiện mọi việc từ thu gom hàng hoá ở các hộ sản xuất nhỏ lẻ, các đơn vị sản xuất đến phân loại, đóng gói, vận chuyển hàng hoá về kho bảo quản. Phương thức này đảm bảo cho công ty có thể thu mua được hàng hoá có chất lượng và số lượng phù hợp với các điều kiện của hợp đồng ngoại, đồng thời mua được lô hàng với giá gốc nên chi phí thấp. Tuy nhiên nếu công ty thực hiện đa dạng hoá mặt hàng hoặc có quá nhiều mặt hàng kinh doanh thì việc đào tạo cán bộ chuyên thực hiện việc kiểm tra một mặt hàng cụ thể là không khả thi vì chi phí đào tạo sẽ rất lớn và làm cho bộ máy tổ chức cồng kềnh một cách không cần thiết. Vì vậy công ty nên lựa chọn những mặt hàng chủ lực đem lại hiệu quả kinh doanh cao để tiến hành thu gom theo hình thức này sẽ đỡ tốn kém chi phí. Chẳng hạn, ở công ty Intimex bốn mặt hàng chính là cà phê, cao su, hạt tiêu, lạc nhân, thì mỗi mặt hàng sẽ có một cán bộ có đầy đủ kién thức, hiểu biết tường tận mặt hàng đó phụ trách khâu kiểm tra, phân loại hàng hoá để đảm bảo chất lượng hàng hoá theo đúng yêu cầu. Còn đối với những mặt hàng khác công ty có thể sử dụng một trong những cách dưới đây.
- Thu gom hàng hoá từ các đầu mối trung gian: Các đầu mối trung gian này sẽ thực hiện việc thu gom trực tiếp từ nơi sản xuất rồi phân loại và đem bán cho những công ty thực hiện nghiệp vụ xuất khẩu. Điểm thuận lợi của phương thức này là công ty không cần phải đi thu gom từ nhiều nguồn, cán bộ thu mua chỉ cần có sự hiểu biết cơ bản về mặt hàng đó do hàng hoá đã được đầu mối này phân loại. Khi có hợp đồng công ty có thể huy động hàng một cách nhanh chóng. Tuy nhiên với phương thức này công ty phải chịu một mức chi phí cao hơn do phải chia sẻ lợi nhuận với các đầu mối trung gian, nguồn hàng thu mua lại không có sự ổn định lâu dài do chỉ khi có hợp đồng công ty mới đi tìm nguồn hàng. Vì vậy công ty nên áp dụng với những mặt hàng có khối lượng xuất khẩu nhỏ lẻ (như ngô, chuối, bồ kết…) hoặc những mặt hàng mới tham gia vào xuất khẩu hoặc trong trường hợp thiếu hàng để xuất khẩu vì những đơn vị trung gian này thường có sự dự trữ hàng hoá rất lớn.
- Phương thức thứ ba là công ty thực hiện liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất chế biến. Việc liên doanh liên kết với các cơ sở sẽ đảm bảo cho hàng hoá xuất khẩu cả về khối lượng và chất lượng, bao bì, mẫu mã lẫn giá cả và thời gian thanh toán. Công ty có thể tận dụng được vốn của đơn vị liên doanh thông qua hình thức trả chậm, xin ứng trước hàng. Tuy nhiên hình thức này gắn kết lợi ích của các bên với nhau nên ngoài việc chia sẻ rủi ro với nhau công ty còn phải chia sẻ cả lợi nhuận với các đơn vị liên doanh. Phương thức này công ty nên áp dụng với các sản phẩm chính, chủ lực hay những sản phẩm cần được chế biến, và công ty nên liên doanh với các cơ sở, xí nghiệp sản xuất chế biến, bởi lẽ, hầu như các đơn vị thu gom hàng chỉ làm theo mùa vụ, theo đợt và rất hay thay đổi mặt hàng thu mua, còn đối với hộ gia đình thì lượng hàng là không nhiều, cũng không thể liên doanh được. Với các cơ sở chế biến thì khác, họ sẽ chịu trách nhiệm thu gom hàng hoá về chế biến hoặc sản xuất theo yêu cầu của công ty.
- Cách thứ tư, đó là công ty nên tự thành lập các cơ sở sản xuất của chính mình. Cũng như đơn vị khác công ty xuất nhập khẩu Intimex vẫn chỉ mới nâng cao sản lượng xuất khẩu nông sản thô, hàm lượng tinh chế của sản phẩm còn thấp, chất lượng hàng hóa chưa có sức cạnh tranh với hàng hóa nông sản của nơi khác. Vì vậy, là một công ty có vốn lớn, hoạt động xuất khẩu nông sản là thường xuyên và là mũi nhọn nên công ty nên lập ra một đơn vị sản xuất và ưu tiên cho phát triển công nghệ chế biến tập trung vào công đoạn tinh chế để nâng cao chất lượng và năng lực cạnh tranh của hàng nông sản xuất khẩu. Việc tự sản xuất hàng xuất khẩu sẽ giúp công ty thu được nhiều lợi nhuận hơn là mua lại hoặc liên doanh liên kết do phải chia sẻ bớt lợi nhuận, đồng thời công ty có thể tham gia gia công chế biến hàng nông sản theo đúng như mong muốn của bên nước ngoài. Ngoài ra công ty cũng có thể chế biến thuê cho các đơn vị khác khi họ gặp khó khăn về khối lượng, thời gian, trình độ công nghệ hoặc khi nhà máy quá rảnh rỗi, thừa công suất do ít đơn hàng. Công ty cũng nên kết hợp cả tự sản xuất và liên doanh liên kết để thu mua hàng xuất khẩu khi công ty chưa sản xuất được hoặc khi công ty gặp khó khăn do hợp đồng quá gấp thời gian, khối lượng quá lớn hoặc công nghệ chế biến của công ty chưa đạt yêu cầu chất lượng mặt hàng hoặc mặt hàng nào đó công ty không thể sản xuất được. Để thực hiện tốt phương thức này công ty có thể xin thêm vốn hoặc sự hỗ trợ của Nhà nước để đầu tư vào công nghệ chế biến nhỏ, sơ chế, bảo quản nông sản gắn với vùng nguyên liệu nhằm làm giảm chi phí vận chuyển, sử dụng tốt hơn công suất máy, duy trì và nâng cao chất lượng nông sản, đồng thời kết hợp giữa sơ chế, bảo quản sản phẩm ở hộ gia đình với tinh chế trong các cơ sở ở đô thị, khu công nghiệp nhằm giữ được chất lượng hàng nông sản, sử dụng triệt để phụ phế phẩm tại các hộ gia đình, giảm cước phí vận chuyển và sp tinh chế gắn với thị trường tiêu thụ. Các công đoạn sơ chế và chế biến tiêu dùng tại chỗ có thể sử dụng công nghệ truyền thống của các cơ sở sản xuất nhỏ. Còn tại cơ sở sản xuất của công ty, công nghệ phải được cải tiến và tập trung vào những công nghệ tinh chế hiện đại có sức cạnh tranh lớn, nâng cao hiệu quả của công đoạn sơ chế và bảo quản.
b) Duy trì các mặt hàng thế mạnh của công ty và tiếp tục thâm nhập vào các lĩnh vực mới, ngành hàng mới.
Xuất phát từ tính ưu việt của mặt hàng xuất khẩu, hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của công ty vẫn phải duy trì những mặt hàng thế mạnh của mình đó là các mặt hàng nông sản như cà phê, cao su, hạt tiêu. Đây là những mặt hàng đang có nhu cầu xuất khẩu rất lớn, hơn nữa lại có nhiều thuận lợi. Về phía Nhà nước, có nhiều chính sách ưu tiên cho lĩnh vực này như: quỹ hỗ trợ xuất khẩu hàng nông sản, ưu đãi tín dụng trả chậm cho các doanh nghiệp thu mua tạm trữ hàng nông sản chờ xuất khẩu, ưu đãi về thuế, bãi bỏ hạn ngạch xuất khẩu. Về phía công ty, với tiềm lực và lợi thế như hiện nay, công ty có thể thực hiện tốt hoạt động thúc đẩy xuất khẩu, hơn nữa công ty có thể kết hợp giữa hợp đồng trả nợ và đổi hàng với hoạt động xuất khẩu hàng nông sản, từ đó tháo gỡ những khó khăn về hiệu quả vì thường xuất khẩu nông sản cho hiệu quả kinh tế không cao. Mặt khác việc gắn xuất khẩu nông sản với các hợp đồng trả nợ, đổi hàng sẽ tạo kết quả ban đầu tốt giúp các phòng ban, đơn vị làm quen với mặt hàng và mở rộng thị trường dần dần đứng vững ngay cả khi đòn bẩy trả nợ không còn. Thông qua biện pháp đó hoạt động xuất khẩu nông sản sẽ được đẩy mạnh và đem lại hiệu quả cao.
Ngoài các mặt hàng chủ yếu trên, công ty cũng cần tìm kiếm thị trường ổn định, nâng cao kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông sản có kim ngạch xuất thấp như điều quế, chuối…nhằm hợp lý hoá và đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu, nâng cao doanh số bán. Đồng thời công ty cũng nên thử thâm nhập vào lĩnh vực xuất khẩu mặt hàng rau quả sạch hoặc rau quả chế biến vì kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này của nước ta còn khiêm tốn trong khi thị trường giàu tiềm năng như EU, Mỹ, Nhật Bản... lại đang có nhu cầu lớn như mặt hàng này.
c) Tổ chức tốt khâu dự trữ bảo quản:
Dự trữ và bảo quản hàng hoá có ảnh hưởng quan trọng đến chất lượng hàng xuất khẩu. Trước khi xuất khẩu, hàng hoá phải được đưa đến kho lưu giữ của công ty để chuẩn bị xuất đi. Đến đây trách nhiệm của cơ sở sản xuất hay của đầu mối trung gian đã kết thúc, công việc còn lại là do công ty chịu trách nhiệm. Nếu tại đây hàng hoá bị hư hỏng, thiếu hụt…công ty sẽ phải chịu trách nhiệm toàn bộ rủi ro khi hợp đồng không thực hiện được hoặc thực hiện không đúng yêu cầu của phía khách hàng hoặc giao hàng không đúng thời gian. Điều này tác động rất xấu tới hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của công ty cũng như hiệu quả kinh doanh của công ty. Vì vậy, một trong những biện pháp để nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu là củng cố và hoàn thiện khâu dự trữ, bảo quản hàng hóa. Hiện nay, hệ thống kho hàng của công ty tương đối nhiều, dung lượng lớn. Tuy nhiên có một số mặt hàng đã bị xuống cấp, mái nhà dột, nền kho bị ướt. Những điều kiện như vậy không đảm bảo an toàn cho hàng hóa trong kho, vì vậy công ty cần tổ chức tu sửa lại hệ thống kho tàng nhằm bảo quản tốt hơn, bảo quản chất lượng hàng hóa. Hơn nữa, do đặc tính của hàng nông sản là theo vụ mùa, nếu công ty muốn có hàng để xuất khẩu trong cả năm thì rõ ràng khâu dự trữ tốt vì vậy nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu cho công ty cũng đồng nghĩa với việc tổ chức thực hiện có hiệu quả việc dự trữ hàng hóa xuất khẩu, tránh tình trạng “thừa vẫn thừa, thiếu vẫn thiếu”. Do đó, công ty phải xây dựng được một kế hoạch dự trữ thường xuyên, dự trữ mùa vụ cụ thể trong từng giai đoạn nhất định căn cứ vào lượng hàng xuất khẩu và xu hướng, khả năng xuất khẩu của giai đoạn tiếp theo. Việc lập kế hoạch dự trữ các mặt hàng cụ thể công ty phải phân cấp cho các phòng, các cơ sở sản xuất, các cửa hàng chuyên doanh đảm trách.
1.2/ Các giải pháp đối với thị trường
a) Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu:
Đối với công ty Intimex hiện nay mặc dù cơ chế khoán đã được thực hiện tới các phòng kinh doanh, các đơn vị trực thuộc, song công tác nghiên cứu thị trường cần có những cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ Marketing, có kinh nghiệm trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Nhiệm vụ này hiện nay được giao cho phòng kinh tế tổng hợp nhằm tạo ra một đầu mối thống nhất trong giao dịch đối ngoại tuy nhiên vẫn còn những hạn chế nhất định. Việc nghiên cứu thị trường mới chỉ dừng lại ở hoạt động tìm kiếm thông tin một cách gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các nguồn cung từ các tổ chức kinh tế quốc tế mà chưa có sự tiếp xúc trực tiếp với thị trường để tìm hiểu nhu cầu, thị hiếu của người dân, cách thức bán hàng hoặc thiết lập các kênh phân phối sản phẩm, chiến lược quảng cáo tiếp thị nào thì phù hợp, hoạt động của các đối thủ cạnh tranh…Vì vậy công ty cần phải cử các cán bộ đi khảo sát thực tế tại các thị trường công ty dự định thâm nhập, sử dụng kết hợp các biện pháp nghiên cứu thị trường để nắm bắt được nhu cầu đặc điểm của từng thị trường một cách cụ thể và chính xác như: quan sát, phát phiếu điều tra, khảo sát trực tiếp giá cả và dung lượng cung cầu tại những điểm bán hàng trung tâm để từ đó phân ra thị trường thích hợp cho từng mặt hàng. Đây là công đoạn quan trọng vì nó quyết định tới những kế hoạch kinh doanh trong tương lai của công ty. Phân đoạn và lựa chọn đúng thị trường, mặt hàng sẽ giúp công ty nâng cao được kim ngạch xuất khẩu tạo được thế vững chắc trên thị trường quốc tế.
Bên cạnh đó cán bộ khảo sát cũng phải nghiên cứu phân tích đối tượng cạnh tranh một cách rõ ràng đồng thời chia khách hàng thành những nhóm khác nhau để phân tích một cách có hệ thống sự biến đổi yêu cầu thị hiếu của khách hàng thói quen của từng nhóm khách hàng. Khi đã có mối quan hệ làm ăn với những thị trường đó công ty nên lập thêm chi nhánh bán hàng tại những thị trường có nhu cầu tiêu thụ lớn thông qua văn phòng đại diện mà công ty đã mở tại đó giúp công ty vừa thu thập thông tin kịp thời, vừa thông qua đó để quảng cáo sản phẩm của mình với thị trường thế giới.
Ngoài ra khi nghiên cứu thị trường, xác định mặt hàng, công ty phải chú ý đến diễn biến của tỷ giá hối đoái tại các thị trường đó trong những thời điểm nhất định để quyết định xem nên hoặc không nên xuất khẩu mặt hàng nào. Đồng thời phải kiểm soát kỹ lưỡng giá cả các mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty trên thị trường thế giới – là những mức giá được niêm yết tại những thị trường chứng khoán lớn như Tokyo, London, Paris - để nắm chắc diễn biến giá cả thị trường thế giới, nắm được xu hướng vận động của giá cả cũng như việc tiếp cận với các mức giá khác nhau. Kết hợp giữa giá cả quốc tế với tỷ giá hối đoái sẽ giúp công ty tính toán chính xác thời điểm xuất khẩu, mặt hàng xuất khẩu, đồng tiền thanh toán, đem lại lợi nhuận tối đa cho công ty.
b) Thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với các thị trường nhập khẩu và khai phá thị trường mới.
Trong những năm qua việc thiết lập các mối quan hệ với các thị trường nhập khẩu của công ty vẫn còn là một vấn đề cần phải được điều chỉnh và hoàn thiện tiếp. Do vậy công ty cần phải có những biện pháp tích cực để duy trì và mở rộng thị trường hơn nữa. Chẳng hạn:
Để tránh tình trạng làm mất đi các mối quan hệ làm ăn bên cạnh việc tích cực giữ vững và nâng cao chất lượng hàng hoá xuất khẩu, một mặt công ty vẫn phải giữ khách hàng với những đơn hàng kể cả có giá trị nhỏ, một mặt có những ưu đãi hợp lý cho khách hàng như thực hiện khuyến mại cho khách hàng, giảm giá hàng bán, chiết khấu về số lượng và giá trị cho những đơn hàng lớn hoặc những bạn hàng lâu năm.
Bên cạnh đó công ty phải tiến hành thâm nhập thị trường mới có thể thông qua các đơn hàng của Nhà nước giao như công ty đã làm với các hợp đồng xuất khẩu trả nợ cho Iraq, hợp đồng đổi hàng với Lào năm 1999-2000, hợp đồng xuất khẩu trả nợ lô hàng thuỷ sản cho Nga năm 2001-2002 vừa qua. Thông qua những hợp đồng xuất khẩu này công ty sẽ trực tiếp tiếp cận thị trường đó, tạo điều kiện duy trì mở rộng buôn bán các mặt hàng khác ngoài những mặt hàng đã thực hiện. Đặc biệt như thị trường Iraq, so với các công ty khác, công ty Intimex đã có lợi thế khi Liên Hợp Quốc đã thông qua bản dự thảo của Mỹ-Anh về bãi bỏ cấm vận cho Iraq đồng thời thị trường này sau chiến tranh sẽ có nhu cầu rất lớn về hàng nông sản.
1.3/ Các giải pháp về điều hành tổ chức và quản lý của công ty
a) Mở lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên môn:
Công việc phục vụ cho hoạt động xuất khẩu là rất nhiều lại đòi hỏi được giải quyết một cách thỏa đáng, nhanh chóng, chính xác. Vì vậy việc đào tạo chuyên sâu cho mỗi bộ phận đảm nhiệm một chức năng là rất cần thiết nó giúp cho các cán bộ nâng cao kỹ năng phân tích, phán đoán, xử lý thông tin và đưa ra những giải pháp thích hợp nhằm ứng phó với những biến động của thị trường.
Tuy nhiên công ty Intimex do có nhiều bộ phận đảm nhiệm cùng lúc nhiều chức năng mà mỗi bộ phận lại có số lượng người tương đối nhiều, nên việc đào tạo thêm kiến thức vẫn phần nào bị hạn chế. Cũng chính vì các bộ phận xử lý các công việc thường tập trung vào một phòng với nhau nên việc đào tạo chuyên sâu về kiến thức riêng biệt cho mỗi bộ phận không thể đầy đủ được. Do đó công ty cần phải cử cán bộ đi học các lớp ngắn hạn về kỹ thuật nghiệp vụ xuất nhập khẩu, các lớp đào tạo về nghiên cứu thị trường, nghiên cứu mặt hàng cũng như thường xuyên có những cuộc trao đổi, hội thảo với các chuyên gia trong nước cũng như quốc tế để tiếp thu những kinh nghiệm trong các lĩnh vực còn yếu kém.
Để thực hiện tốt việc đào tạo chuyên sâu, hằng năm công ty phải trích một phần từ lợi nhuận để lập quỹ đào tạo. Quỹ đó có thể dùng để làm chi phí cho nhân viên đi học ở nước ngoài để nâng cao trình độ, hoặc thuê các chuyên gia trong nước hay nước ngoài để giảng dạy hoặc truyền đạt những phương thức kinh doanh mới nhất của thế giới, cách thức thu thập xử lý thông tin hiện đại và kinh nghiệm trong làm ăn với các đối tác nước ngoài. Công ty có thể sử dụng chế độ bồi dưỡng để khuyến khích cán bộ theo học như: vẫn trả lương cho nhân viên đang học, có tiền bồi dưỡng học tập, đảm bảo vẫn có việc cho những nhân viên khi đi học ở nước ngoài về…
b) Thành lập riêng một phòng độc lập đảm nhiệm chức năng nghiên cứu mặt hàng.
Tại Công ty Intimex bộ phận chuyên đảm nhận chức năng nghiên cứu mặt hàng nằm trực thuộc tại phòng kinh tế tổng hợp. Phòng kinh tế tổng hợp do phải chịu trách nhiệm về rất nhiều công việc cho nên các cán bộ nằm dưới quyền giám sát của phòng này, trong đó có bộ phận nghiên cứu mặt hàng thường không được giám sát chặt chẽ nên đã để mất rất nhiều cơ hội kinh doanh, làm ăn. Bởi thế công ty nên thành lập riêng một bộ phận độc lập chỉ chuyên trách đảm nhiệm các chức năng nghiên cứu mặt hàng. Có như vậy việc nghiên cứu mới đi sâu.
Khác với việc đi tìm các đầu mối tiêu thụ hay thâm nhập vào các thị trường mới, nghiên cứu mặt hàng ở đây là việc tìm ra các sản phẩm mới có sức tiêu thụ và cạnh tranh mạnh trên thị trường. Chẳng hạn như cà phê, nghiên cứu mặt hàng cà phê giúp doanh nghiệp tìm ra những loại cà phê được thế giới ưa chuộng, nên chế biến cà phê ở dạng nào thì thu hút được khách hàng: dạng hạt, bột, hay chế biến thành sản phẩm cà phê tan, cà phê sữa, cà phê không đường hay có đường…Mỗi một mặt hàng chủ lực của công ty nên được nghiên cứu để tìm ra những chủng loại mới, có chất lượng, mẫu mã và hình thức mới đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của khách hàng. Công việc này không hề đơn giản vì để mở rộng thị trường kinh doanh của mình công ty phải có một đội ngũ nghiên cứu lớn về khối lượng hàng nông sản đang và sẽ được tiêu thụ – là những người am hiểu kỹ năng về mặt hàng đó, về xu hướng biến động của mặt hàng đó trên thị trường thế giới.
Phòng nghiên cứu mặt hàng có nhiệm vụ gần giống như một phòng nghiên cứu khoa học vì vậy để thực hiện tốt công tác này, công ty phải tuyển chọn những cán bộ có kinh nghiệm do tính chất công việc đòi hỏi nhiều suy nghĩ, có ảnh hưởng trực tiếp tới quyết định và hiệu quả kinh doanh của toàn công ty.
1.4/ Đa dạng hoá hình thức xuất khẩu:
Công ty Intimex mới chỉ sử dụng chủ yếu hai hình thức xuất khẩu trực tiếp và xuất khẩu gián tiếp do đó hạn chế các cơ hội kinh doanh và thu hẹp các mối quan hệ của công ty. Vì vậy công ty nên sử dụng thêm một số phương thức kinh doanh dưới đây như :
ở phương thức gửi bán (hay còn gọi là phương thức đại lý, ký gửi), công ty có thể xuất hàng giao cho bên nhận đại lý ký gửi để bán. Bên đại lý sẽ được hưởng thù lao đại lý dưới hình thức hoa hồng hoặc chênh lệch giá. Với hình thức này, việc xuất hàng nông sản sẽ thu được kết quả khả quan hơn, vì thực chất khi làm phương thức này bên nhận hàng ký gửi hàng tìm đủ mọi cách để giao hàng tới tay người tiêu dùng. Ngược lại, công ty phải bỏ ra một khoản lợi nhuận để trả cho bên được gửi bán, nhưng bù lại hình thức này lại thu về lợi nhuận rất cao vì công việc được làm một cách dứt điểm.
Còn ở phương thức thương mại điện tử thì hiện nay các công ty nước ngoài đang chuyển mạnh sang hoạt động thương mại quốc tế theo phương thức thương mại điện tử (thương mại không có giấy tờ). Đây là một hình thức rất mới mẻ đối với công ty từ trước đến nay, công ty chỉ sử dụng thuần túy theo phương thức truyền thống (thương mại có giấy tờ). Sử dụng phương thức thương mại điện tử có một điều thuận lợi là các nước nhập khẩu sẽ cập nhật được chính xác thông tin và mặt hàng cần bán vì cách làm việc này nhanh, thu được nhiều hiệu quả cao. Đặc biệt đối với nhóm hàng nông sản của công ty, nếu sử dụng phương thức này thì đây là một điều thuận lợi, vì hàng hóa nông sản đều là những thứ hàng cần phải được bảo quản ở nơi khô ráo, thoáng mát nên việc xuất khẩu càng nhanh, càng khẩn trương càng tốt.
Còn đối với hình thức hàng đổi hàng thì công ty cũng đã cho sử dụng phương thức này nhưng công ty cần phải lựa chọn từng mặt hàng xuất khẩu cho từng thị trường. Đối với riêng mặt hàng nông sản thì công ty vẫn chưa sử dụng nhiều đến hình thức này. Chỉ có một số ít hàng nông sản được dùng phương thức này, nhưng số lượng hàng được xuất đó không đem lại hiệu quả cao. Bởi vậy, công ty cần chú trọng hơn nữa hình thức này cho một số mặt hàng nông sản chủ yếu như: gạo, lạc nhân, chuối. Vì thực tế các khu vực như: Trung Cận Đông, Nam á, châu Phi và Mỹ La -Tinh đang rất cần tới hoạt động hàng đổi hàng, mà đặc biệt là hàng hóa nông sản.
1.5/ Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại:
Tiếp tục mở thêm nhiều văn phòng đại diện ở nước ngoài, nếu có thể công ty nên mở những văn phòng đại diện ở tất cả các thị trường mà công ty có quan hệ để nhằm tìm kiếm thêm khách hàng đối tác làm ăn đồng thời tăng cường các hoạt động quảng cáo khuyếch trương và tuyên truyền về công ty với bạn hàng.
Cố gắng tìm kiếm và đặt quan hệ làm ăn với các nhà phân phối có uy tín lớn để tận dụng uy tín của họ nhằm nâng cao uy tín hàng nông sản của công ty, đồng thời qua kênh phân phối của họ mà hàng của công ty sẽ được nhiều nước, nhiều bạn hàng khác biết đến. Muốn vậy công ty phải luôn giữ chữ tín với họ, luôn đảm bảo nguồn hàng đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của họ đặt ra và giao hàng đúng hẹn.
Với những sản phẩm tinh chế do công ty sản xuất, phải tiến hành đăng ký bản quyền nhãn hiệu hàng hóa tránh tình trạng bị ăn cắp bản quyền, nhãn hiệu như: Cà phê Trung Nguyên, Tổng Công ty Dầu khí Việt Nam (Petrolimex) do không đăng ký nhãn hiệu. Đồng thời có những chính sách giá cả hợp lý tránh tình trạng bị quy kết là bán phá giá.
Tranh thủ triệt để những cơ hội tiếp xúc, thu thập thông tin thị trường từ các tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài đến thăm và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện lịch trình cắt giảm thuế và chuẩn bị gia nhập WTO nên sẽ có rất nhiều các phái đoàn thương mại đến thăm và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam. Vì vậy, công ty nên tích cực hơn nữa trong việc tham gia hội chợ triển lãm quốc tế tổ chức tại Việt Nam cũng như nước ngoài để qua đó giới thiệu sản phẩm và tên tuổi của công ty cho các bạn hàng được rõ hơn.
2. Một số kiến nghị đối với Nhà nước:
2.1/ Một số giải pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân:
Sản xuất chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô, cơ cấu, chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy để nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất nông sản thì bên cạnh việc tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, Việt Nam cần phải đầu tư mạnh cho phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Các biện pháp tién hành bao gồm:
a) Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân:
Đây là việc làm hết sức cần thiết vì để mở rộng được diện tích gieo trồng, thay đổi cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học quản lý vào sản xuất..., đòi hỏi cần có những chi phí không phải là nhỏ mà nhiều khi người nông dân không tự trang trải nổi. Thời gian qua, các chương trình trợ giúp cho người nông dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn rất hạn chế. Nguyên nhân của sự hạn chế này là do việc cho người nông dân vay vốn với lãi xuất ưu đãi diễn ra dàn trải thiếu tập trung. Điều đó dẫn tới một số hộ nông dân chỉ có thể vay một vài trăm nghìn đồng, không đủ cho đầu tư sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn và chấp nhận vay với lãi suất tín dụng thông thường thì lại gặp khó khăn vấn đề về tài sản thế chấp. Trong khi ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. Vì vậy Nhà nước nên cải cách cơ chế theo hướng đơn giản hơn nữa các thủ tục vay vốn, thực hiện việc đưa vốn cho vay trực tiếp đến từng cơ sở, từng hộ nông dân kèm theo đó Nhà nước nên cử các đoàn cán bộ kỹ thuật về địa phương để tư vấn cho người dân cách thức sử dụng vốn có hiệu quả, những giống cây có năng suất cao, chất lượng tốt…
b) Đầu tư chi phí cho nghiên cứu cải tạo giống cây trồng nhằm nâng cao chất lượng hàng nông sản.
Hiện nay, nhiều nông dân Việt Nam vẫn chưa có sự hiểu biết đầy đủ có kiến thức về nông nghiệp, về thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Do đó làm nảy sinh một số vấn đề, đó là người sản xuất chạy theo những giống cây trồng có năng suất cao mà không chú ý đến chất lượng nông sản. Trong đó sản xuất lúa gạo, tỷ lệ diện tích lúa đặc sản như: Tám thơm, nàng hương, nếp hoa vàng ngày càng thấp. Còn cà phê thì diện tích cà phê Robusta là chủ yếu. Điều này đã ảnh hưởng đến chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam, làm cho giá cả luôn ở mức thấp hơn so với giá cả trung bình của thế giới. Trong xu hướng chung của xuất nhập khẩu hàng nông sản hiện nay đang chuyển từ cạnh tranh giá cả sang cạnh tranh bằng chất lượng hàng hóa thì đây là một bất lợi đối với Việt Nam. Để hạn chế những bất lợi này Nhà nước phải trích từ ngân sách của mình để thành lập quỹ phục vụ cho hoạt động nghiên cứu tạo ra giống cây trồng mới để vừa đảm bảo năng suất cao, chất lượng lại ổn định đồng thời phổ biến kiến thức về cây trồng cho người nông dân, về sâu bệnh, về cách sử dụng thuốc trừ sâu, phân bón, các điều kiện canh tác... giúp nông dân ổn định sản xuất tạo ra nguồn hàng chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu sản xuất.
c) Tạo vùng nguyên liệu tập trung:
Nhà nước nên có những quy hoạch cụ thể để tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung có chất lượng cao có cơ sở hạ tầng đủ điều kiện phục vụ cho việc sản xuất ra các sản phẩm có năng suất chất lượng cao. Với một nguồn lực hạn chế như Việt Nam hiện nay thì đây là một biện pháp hữu hiệu.
d) Khuyến khích nước ngoài đầu tư kinh doanh vào lĩnh vực sản xuất và chế biến nông sản.
ở Việt Nam trong thời gian qua hàng nông sản chủ yếu xuất khẩu dưới dạng thô nên mặc dù kim ngạch xuất khẩu có tăng nhưng giá trị thu về lại không lớn do đó ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu mặt hàng này. Vì vậy yêu cầu cấp thiết đó là phải tăng hàm lượng tinh của mặt hàng nông sản lên hơn nữa bằng thu hút đầu tư nước ngoài vào phát triển ngành hàng này, nhằm áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật tiên tiến để nâng cao giá trị hàng nông sản tạo ra loại sản phẩm nông sản có hàm lượng công nghiệp cao, bao bì mẫu mã đẹp. Thúc đẩy mạnh hoạt động này sẽ đem đến cho Việt Nam nhiều lợi ích mà trước hết phải kể đến vốn và công nghệ thích hợp, giúp Việt Nam giải quyết các vấn đề khó khăn về giống cây trồng, chất lượng cao, kỹ thuật thâm canh, bí quyết trong vấn đề chế biến sản phẩm, xâm nhập vào thị trường mới.
Nhà nước có thể sử dụng các biên pháp thu hút vốn đầu tư như: cải tạo cơ sở hạ tầng để thuận lợi trong việc vận chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ (là các doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu); có những ưu đãi cho các công ty, tổ chức kinh tế đầu tư vào lĩnh vực này như giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, cho phép chuyển vốn về nước…; cải thiện cơ chế quản lý và đơn giản hoá các thủ tục liên quan. Mặt khác, Nhà nước cũng cần phải chú ý nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám định nhằm khắc phục tình trạng liên doanh thì thua lỗ nhưng bên nước ngoài vẫn có lãi trong việc tính độ giá góp vốn liên doanh, biến Việt Nam thành bãi rác công nghiệp do nhập khẩu các thiết bị máy móc quá cũ kỹ lạc hậu.
e) Nâng cao hiệu quả hoạt động của các quỹ bình ổn giá đối với các mặt hàng nông sản.
Việc lập quỹ bình ổn giá để hạn chế rủi ro cho người sản xuất là thực sự cần thiết. ở Việt Nam các quỹ này cũng đã được thành lập và đi vào hoạt động song hiệu quả còn rất thấp. Các quỹ này còn chưa đủ mạnh để có thể trợ giá cho người sản xuất khi giá nông sản bị giảm sút. Vì thế người ta chỉ thấy được hoạt động của các quỹ này khi giá cả nông sản lên cao, khi giá thấp người sản xuất cần thì không thấy quỹ này hoạt động. Điều này gây mất lòng tin ở người sản xuất, làm cho họ không dám đầu tư mạnh và sản xuất chế biến kinh doanh... Để nâng cao hiệu quả của quỹ bình ổn giá cả thì phải tăng nguồn thu quỹ, cải tiến cơ chế hoạt động nhằm tăng cường sức mạnh cho quỹ này, giúp chúng đủ sức can thiệp vào thị trường khi cần thiết.
2.2/ Trợ giúp công ty xuất khẩu nông sản:
a) Tạo điều kiện về vốn cho các công ty xuất khẩu nông sản:
Nông sản là mặt hàng mà việc sản xuất thu mua mang tính thời vụ đậm nét với chu kỳ sản xuất tương đối dài, trong khi đó hoạt động xuất khẩu lại diễn ra suốt năm và được đánh giá cao ở các kỳ giáp vụ. Vì vậy đòi hỏi công ty phải có lượng vốn đủ lớn, đủ sức thu mua trong vụ thu hoạch và có thể dự trữ xuất khẩu cho cả năm.
Song bên cạnh đó, tuy các ngân hàng còn diễn ra tình trạng ứ đọng vốn nhưng công ty xuất nhập khẩu nói chung khó đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe về tài sản thế chấp, thủ tục vay vốn... nên rất khó tiếp cận được với nguồn vốn này. Thời gian tới Nhà nước cần phải đưa ra những biện pháp để khuyến khích ngân hàng cho các công ty vay vốn thu mua nông sản. Nhà nước nên bỏ qua quy định hạn chế mức tín dụng đối với ngân hàng thương mại nhằm khuyến khích xuất khẩu.
b) Nhà nước cần lập quỹ bình ổn giá cả để trợ giúp công ty:
Trong trường hợp giá nông sản trên thị trường có xu hướng thấp hay giá thu mua nông sản trong nước tăng gây thua lỗ cho các cơ sở chế biến kinh doanh nông sản xuất khẩu thì Nhà nước nên xem xét bằng quỹ bình ổn giá để giảm đi một phần lãi suất tín dụng. Về phía ngân hàng, Nhà nước cũng cần xem xét lại các quỹ về tài sản thế chấp để nó giữ đúng vai trò là điều kiện đảm bảo an toàn vốn cho vay chứ không phải là căn cứ giữa ngân hàng và Công ty.
c) Cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản:
Nhà nước phải đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trên lĩnh vực này. Có thể nói thị trường nông sản thế giới là thị trường biến động khá phức tạp nhưng ở Việt Nam thông tin này còn thiếu và chậm, độ chính xác chưa cao. Cho nên thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan nên đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường thế giới, xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước để tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò tìm kiếm thị trường.
d) Lập quỹ bảo hiểm cho hoạt động xuất khẩu nông sản:
Để chiếm lĩnh thị trường nước ngoài, nhiều công ty đã thực hiện hình thức bán chịu cho khách hàng hoặc cho khách hàng được thanh toán chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hoá và giữ được khách hàng, song công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Đồng thời thị trường nông sản thế giới thường xuyên biến động, giá cả thất thường và đặc tính hàng nông sản là dễ bị hao hụt, hư hỏng. Do vậy Nhà nước cần lập nên một quỹ bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hoá của mình và giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro.
2.3/ Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hơn, thông thoáng hơn, phù hợp với cơ chế thị trường.
Những quy định về xuất nhập khẩu và các hàng rào thương mại là một trong những yếu tố ảnh hưởng lớn đến kết quả hoạt động xuất nhập khẩu nông sản nói riêng và xuất nhập khẩu hàng hóa dịch vụ nói chung. ở nước ta hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu phải được đổi mới và hoàn thiện. Cụ thể là:
a) Hệ thống các văn bản pháp lý, quy định phải đảm bảo được tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty liên doanh xuất nhập khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược” khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đó nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích xuất khẩu trực tiếp và khuyến khích đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới nhìn đến các công ty sản xuất trực tiếp hàng xuất khẩu và kinh doanh xuất nhập khẩu. Trong thực tế còn vô số các doanh nghiệp vừa và nhỏ làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào hoặc bán thành phẩm không được hưởng các ưu đãi. Vì thế Nhà nước cần xem xét và có chính sách khuyến khích đối với các doanh nghiệp này.
b) Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu:
Trên thực tế công tác quản lý xuất khẩu của Nhà nước còn một số mặt bất cập với diễn biến của hoạt động xuất khẩu nhiều khi còn không ít thiếu sót và nhược điểm cần khắc phục và giải quyết. Về lâu dài các quy định về xuất nhập khẩu hiện hành phải được bổ sung và sửa đổi tạo điều kiện cho hoạt động xuất nhập khẩu phát triển thuận lợi. Hiện nay ở Việt Nam thủ tục xuất khẩu vẫn còn rườm rà và gây phức tạp lãng phí thời gian, công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu trong vấn đề thủ tục xuất khẩu. Các cơ quan quản lý xuất nhập khẩu nhiều khi còn tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Đối với các mặt hàng có hạn ngạch, Nhà nước nên áp dụng đấu thầu để tránh hiện tượng tiêu cực, đem lại sự công bằng cho các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Trước mắt khi chưa đưa được hình thức này vào áp dụng, cơ quan quản lý Nhà nước mà trực tiếp là Bộ thương mại phải lựa chọn ra các công ty đáng tin cậy để giao hạn ngạch. Các công ty phải có đủ điều kiện về vốn, mạng lưới thu mua, kho tàng để mua hết hàng hóa đặc biệt là nông sản cho người sản xuất. Mặt khác Bộ thương mại cũng cần phải giám sát chặt chẽ phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp nhằm tránh tính trạng tranh dành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây thiệt hại cho những công ty cũng như vốn Nhà nước.
c) Lập chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho người xuất khẩu
Đây là chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác tùy theo từng thời kỳ, một tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. Hiện nay tỷ giá giữa VNĐ với USD vẫn còn cao, Nhà nước cần điều chỉnh lại và giữ ở mức ổn định để đảm bảo cho hoạt động xuất nhập khẩu được diễn ra đều đặn.
d) Tăng cường tham gia các tổ chức quốc tế, ký kết các hiệp định thương mại đa phương và song phương, thiết lập quan hệ kinh tế với những nước trước đây chưa từng có quan hệ làm ăn, từ đó giúp các công ty dễ dàng thâm nhập vào thị trường các nước, mở rộng thị trường tăng cường xuất khẩu, do hàng hóa của công ty nhận được sự ưu đãi về thuế, hạn ngạch.
Kết luận chương III
Trong quá tình hoạt động, để tạo được hiệu quả kinh doanh, các công ty phải đưa ra được các mục tiêu biện pháp để hạn chế những điểm yếu của mình trên thị trường cũng như để tăng cường hơn nữa những ưu điểm, những thành tựu đã đạt được.
Đối với công ty Intimex cũng vậy, trong ba năm qua hoạt động kinh doanh của công ty đã thu được nhiều kết quả khả quan song vẫn có những tồn tại cần khắc phục. Vì vậy việc đưa ra các chiến lược phát triển cũng như những biện pháp khắc phục hay hạn chế những mặt còn tồn tại của công ty là một vấn đề hết sức quan trọng đối với công ty. Chương III chủ yếu nói về phương hướng hoạt động của công ty trong thời gian tới và đưa ra những biện pháp nhằm khắc phục phần nào những mặt còn yếu của công ty.
Đối với công ty, có những biện pháp như: biện pháp cho sản phẩm của công ty, các giải pháp đối với thị trường, các giải pháp về điều hành-tổ chức-quản lý công ty, giải pháp cho hình thức xuất khẩu, giải pháp về trao đổi thông tin, chiến lược tiếp thị hàng xuất khẩu, đẩy mạnh công tác xúc tiến thương mại.
Ngoài những giải pháp trên, chương này còn đưa ra một số kiến nghị với Nhà nước để giúp cho hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của công ty có hiệu quả, các kiến nghị đó là: Nhà nước nên có số biện pháp để hỗ trợ sản xuất cho nông dân và đẩy mạnh hoạt động chế biến hàng nông sản, trợ giúp các công ty trong hoạt động xuất khẩu nông sản, hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu theo hướng đơn giản hơn, thông thoáng hơn phù hợp với cơ chế thị trường.
Những biện pháp và kiến nghị nêu ra nhằm giúp công ty phần nào khắc phục được tồn tại cũng như thuận lợi hơn trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản.
Kết luận
Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân, thông qua xuất khẩu các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, đáp ứng nhu cầu nâng cao trình độ phát triển kinh tế – xã hội, hội nhập với nền kinh tế thế giới. Với tầm quan trọng như vậy, ở nước ta xuất khẩu được đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế đất nước vì vậy việc thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá không chỉ là một vấn đề cấp bách trước mắt mà phải được thực hiện như một chiến lược lâu dài.
Đối với mỗi doanh nghiệp tham gia hoạt động xuất khẩu, muốn đạt được kết quả kinh doanh cao, ngoài việc nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động thúc đẩy xuất khẩu, còn phải có những hướng đi đúng đắn và xác định cho mình những hình thức kinh doanh phù hợp để đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu phục vụ những chương trình kinh tế của Đảng và Nhà nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân và đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước.
Qua hơn 20 năm hoạt động Công ty xuất nhập khẩu Intimex đã gặp phải rất nhiều biến động từ việc tách nhập trong nội bộ Công ty, sự thay đổi cơ chế nền kinh tế trong nước cũng như sự bất ổn hay tăng trưởng cao của nền kinh tế thế giới song Công ty vẫn tồn tại, đứng vững và khẳng định mình. Công ty đã không ngừng tự hoàn thiện và thay đổi để phù hợp với bối cảnh kinh tế mới. Cho đến nay Công ty đã rất thành công và luôn đạt được mức chỉ tiêu Bộ thương mại giao cho và đặc biệt đã xuất sắc vượt qua thời điểm khó khăn (năm 2001) vừa qua, khi nền kinh tế thế giới suy thoái, hoạt động thương mại của các nước nói chung và bản thân các công ty hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nói riêng. Tuy nhiên, nếu muốn tham gia vào thị trường khu vực và thế giới, Công ty phải có những đổi mới tích cực hơn để đương đầu với sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt. Nhằm gắn liền với những đòi hỏi và yêu cầu của thực tiễn, qua thời gian thực tập ở Công ty xuất nhập khẩu Intimex, em đã chọn đề tài “ Một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu tại Công ty xuất nhập khẩu Initmex ”, nhằm trên cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp, phân tích thực trạng xuất khẩu nông sản của Công ty, qua đó rút ra được những mặt mạnh cũng như những tồn tại chủ yếu trong lĩnh vực xuất khẩu hàng nông sản và đưa ra một số biện pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nhóm hàng nông sản chủ yếu của Công ty xuất nhập khẩu Initmex.
Tài liệu tham khảo
I. Các loại sách:
1. Giáo trình “ Kinh doanh quốc tế ”, Tập 1: Chủ biên PGS-TS. Nguyễn Thị Hường, NXB Thống kê, 2001.
2. Giáo trình “ Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương ”: Biên soạn PGS. Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo dục, 1998.
3. Sách “ Kinh tế thế giới 2001-2002, đặc điểm và triển vọng ” : Chủ biên TS. Kim Ngọc, NXB Chính trị quốc gia.
4. Sách “ Kỷ yếu xuất khẩu 2001 ” : Thời báo kinh tế Sài Gòn, NXB Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 10/2001.
II. Các loại tạp chí:
1. Tạp chí Thương mại số 37-2002. Bài “Xuất hiện nguy cơ từ việc cà phê tăng giá”.
2. Tạp chí Kinh tế kế hoạch số 6-2002. Bài “ Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu trong mấy tháng đầu năm 2002 ”.
3. Tạp chí Kinh tế kế hoạch
- Số 3-2002. Bài “ Nhiệm vụ và mục tiêu xuất nhập khẩu năm 2002 ”.
- Số 4-2002. Bài “ Tình hình kinh tế – xã hội trong ba tháng đầu năm 2002 ”.
- Số 5-2002. Bài “ Việt Nam trong tiến trình gia nhập tổ thương mại thế giới”.
4. Tạp chí Thương mại:
- Số 37/2002. Bài “ Xuất hiện nguy cơ từ việc cà phê tăng giá ”
- Số 6/2003: Gồm các bài sau:
+ Bài “ Đôi điều bàn về mục tiêu công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước”. Th.s Nguyễn Tiến Trung.
+ Bài “Xúc tiến thương mại với hội nhập quốc tế.”
+ Bài “ Triển vọng kinh tế thế giới năm 2003”. Thanh Lan.
+ Bài “Xuất khẩu cao su 2003, nhiều bất ổn nhưng chắc chắn sáng sủa”.
+ Bài “Xúc tiến thương mại với hội nhập quốc tế”. Trung Trường.
+ Bài “Triển vọng kinh tế thế giới năm 2003”. Thanh Lan.
- Số 1+2/2003:
+ Bài “Thực hiện CEPT – Thời cơ và thách thức”.
+ Bài “Thị trường thế giới – một số mặt hàng đang có nhiều biến động”
III. Các loại báo :
1. Thời báo kinh tế thế giới :
- Số 25, ngày 12/2/ 2003. Bài “ Giá cao su cao nhất 6 năm qua ”. Tác giả Hoài Linh.
- Số 28, ngày 17/2/2003. Bài “ Giá cà phê tăng nhanh ”. Tác giả Hoài Linh.
2. Báo Thương mại :
- Số 225, ngày 18/2/2003. Bài “ Thị trường EU và khả năng xâm nhập của một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam ”.
- Số đặc biệt, năm 2003. Bài “ Xuất khẩu 2003-hướng tới chất lượng tăng trưởng.” Nguyễn Đình.
MụC LụC
Trang
Lời nói đầu
Chương I: Những vấn đề lý luận cơ bản về thúc đẩy xuất khẩu
của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường
I. Xuất khẩu và các hình thức xuất khẩu 1
1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu 1
1.1/ Khái niệm về xuất khẩu: 1
1.2/Đặc điểm của xuất khẩu 1
2. Các hình thức của xuất khẩu 2
II. Nội dung hoạt động xuất khẩu của một doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường 5
1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu 5
2. Lựa chọn mặt hàng xuất khẩu 7
3. Lựa chọn thị trường xuất khẩu 8
4. Lựa chọn bạn hàng 8
5. Lập phương án kinh doanh 9
6. Tạo nguồn hàng xuất khẩu 10
7. Công tác giao dịch đàm phán và ký kết hợp đồng 11
7.1/ Giao dịch đàm phán 11
7.2/ Ký kết hợp đồng 12
8. Tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu 12
9. Giải quyết tranh chấp:(nếu có) 15
III. Thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp 15
1. Khái niệm thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp 15
2. Nội dung của thúc đẩy xuất khẩu 16
3. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu 18
3.1/ Thu thập thông tin, nghiên cứu và dự báo thị trường 18
3.2/ Tiến hành thu mua và tạo nguồn hàng ổn định 19
3.3/ Tăng nguồn vốn phục vụ cho thúc đẩy xuất khẩu 20
3.4/ Thực hiện liên doanh liên kết 21
3.5/ Các hoạt động xúc tiến thương mại 21
3.6/ Biện pháp thúc đẩy xuất khẩu đối với ngành hàng cụ thể 21
3.7/ Vai trò của Nhà nước trong thúc đẩy xuất khẩu 22
4. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu của
doanh nghiệp 23
4.1/ Các chỉ tiêu định tính 23
4.2/ Các chỉ tiêu định lượng 24
5. Kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của
doanh nghiệp và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 25
5.1/ Kinh nghiệm quốc tế về thúc đẩy xuất khẩu 25
5.2/ Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 27
IV. Các nhân tố ảnh hưởng đến thúc đẩy xuất khẩu của doanh nghiệp 28
1. Các nhân tố thuộc về doanh nghiệp 28
1.1/ Khả năng tài chính của bản thân công ty 28
1.2/ Kỹ năng và trình độ của nguồn nhân lực 28
1.3/ Tình hình sản xuất và cung ứng đầu vào của xuất khẩu 29
2. Các nhân tố thuộc môi trường kinh doanh trong và ngoài nước 29
2.1/ Sự biến động của các yếu tố thuộc môi trường kinh tế trong
và ngoài nước 29
2.2/ Các biến động chính trị – xã hội của thị trường trong và ngoài nước 29
2.3/ Hệ thống chính sách, luật pháp của Nhà nước đối với
hoạt động xuất khẩu 30
2.4/ Các xu hướng liên kết kinh tế khu vực và thế giới 30
V. Sự cần thiết phải thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của
việt nam 31
1. Thúc đẩy xuất khẩu là điều kiện để mở rộng quy mô xuất khẩu,
từng bước tăng trưởng và phát triển 31
2. Toàn cầu hoá và hội nhập đòi hỏi các quốc gia phải tăng cường
xuất khẩu ra thị trường quốc tế 32
3. Việt Nam có nhiều tiềm năng trong sản xuất và XK nông sản 32
4. Nhu cầu về hàng nông sản trên thị trường quốc tế có xu hướng tăng 33
Kết luận chương I 33
Chương II: Thực trạng hoạt động thúc đẩy xuất khẩu
hàng nông sản chủ yếu tại công ty Intimex
I. Tổng quan về công ty Intimex 34
1. Lịch sử hình thành và phát triển của công ty Intimex 34
2.Giới thiệu chung về công ty Intimex 37
3. Chức năng – nhiệm vụ – quyền hạn của công ty Intimex 38
3.1/ Chức năng của công ty Intimex 38
3.2/ Nhiệm vụ của công ty Intimex 38
3.3/ Quyền hạn của công ty Intimex 39
4. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị của công ty Intimex 40
4.1/ Công ty Intimex thực hiện chế độ quản lý theo chế độ một
thủ trưởng trên cơ sở thực hiện quyền làm chủ tập thể của người lao động 40
4.2/ Bộ máy quản lý của công ty Intimex 40
5. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong ba năm gần đây 42
5.1/ Tình hình xuất nhập khẩu của công ty 42
5.2/ Một số chỉ tiêu đánh giá kết quả và hiệu quả kinh doanh của
công ty Intimex 45
II. Các đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của công ty Intimex có ảnh hưởng đến thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá 50
1.Đặc điểm về cơ cấu lao động của công ty Intimex 50
2. Đặc điểm về cơ sở vật chất của công ty Intimex 51
3. Đặc điểm về tài chính của công ty Intimex 52
4. Cơ cấu thị trường của công ty Intimex 54
5. Đặc điểm về mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty 58
III. Thực trạng xuất khẩu nông sản của việt nam và thúc đẩy
xuất khẩu hàng nông sản tại công ty Intimex 58
1. Tình hình xuất khẩu nông sản ở Việt Nam 58
2. Thực trạng xuất khẩu nông sản ở công ty Intimex 60
2.1/ Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu nói chung của công ty 60
2.2/ Cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty qua các năm 62
2.3/ Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản của công ty Intimex những năm qua 67
2.4/ Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu theo hình hình thức xuất khẩu 72
3. Các biện pháp thúc đẩy xuất khẩu các mặt hàng nông sản chủ yếu
mà công ty Intimex đã thực hiện trong những năm gần đây 74
3.1/ Công tác thu thập thông tin và nghiên cứu thị trường 74
3.2/ Công tác tạo nguồn hàng nông sản xuất khẩu của công ty
xuất nhập khẩu Intimex 75
3.3/ Đào tạo và tuyển dụng đội ngũ cán bộ có trình độ nghiệp vụ cao 77
3.4/ Thực hiện các hoạt động xúc tiến thương mại 77
4. Đánh giá hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nông sản của công ty
xuất nhập khẩu Intimex trong thời gian vừa qua 78
4.1/ Những ưu điểm trong hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nông sản
của công ty Intimex 78
4.2/ Những tồn tại trong thúc đẩy xuất khẩu nông sản của công ty 80
4.3/ Nguyên nhân của các tồn tại 83
Kết luận Chương II 87
Chương III: Những giải pháp và kiến nghị nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản tại công ty intimex
I. Định hướng chiến lược cho xuất khẩu hàng nông sản của việt nam và Phương hướng hoạt động của công ty Intimex trong thời gian tới 88
1. Định hướng chiến lược cho xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam 88
2. Phương hướng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của công ty Intimex 90
II. những cơ hội và thách thức trong thúc đẩy xuất khẩu nông sản của Việt Nam nới chung và của công ty Intimex nói riêng 91
1. Thời cơ cho hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nông sản 91
1.1/ Xu hướng phát triển của quốc tế trong những năm tới 91
1.2/ Riêng đối với ngành hàng cụ thể 92
1.3/ Riêng đối với công ty Intimex 94
2. Thách thức đối với hoạt động thúc đẩy xuất khẩu nông sản 95
2.1/ Xu hướng của thế giới 95
2.2/ Riêng đối với Việt Nam 96
III. Một số giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động
xuất khẩu hàng nông sản tại công ty Intimex 98
1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp 98
1.1/ Giải pháp đối với sản phẩm 98
1.2/ Các giải pháp đối với thị trường 102
1.3/ Các giải pháp về điều hành tổ chức và quản lý của công ty 104
1.4/ Đa dạng hoá hình thức xuất khẩu 105
1.5/ Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại 107
2. Một số kiến nghị đối với Nhà nước 107
2.1/ Một số giải pháp hỗ trợ của Nhà nước đối với nông dân 107
2.2/ Trợ giúp công ty xuất khẩu nông sản 110
2.3/ Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất nhập khẩu 111
Kết luận chương III 113
kết luận
tài liệu tham khảo
Danh mục các bảng
STT
Tên bảng
Trang
Bảng 1
Cơ cấu kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty Intimex
43
Bảng 2
Kết quả hoạt động kinh doanh của công ty Intimex
46
Bảng 3
Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh doanh của công ty
47
Bảng 4
Kết qủa hoạt động xuất nhập khẩu của công ty Intimex
48
Bảng 5
Cơ cấu lao động của công ty Intimex
50
Bảng 6
Cơ cấu vốn của công ty Intimex
53
Bảng 7
Cơ cấu vốn cố định và vốn lưu động của công ty Intimex
53
Bảng 8
Cơ cấu khu vực thị trường xuất khẩu của công ty Intimex
54
Bảng 9
Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu theo nước của công ty Intimex
55
Bảng 10
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty Intimex
61
Bảng 11
Kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty Intimex
63
Bảng 12
Cơ cấu thị trường xuất khẩu hàng nông sản chủ yếu của công ty
68
Bảng 13
Cơ cấu hàng nông sản xuất khẩu theo hình thức
73
Bảng 14
Các công ty thực hiện liên doanh liên kết với công ty Intimex
76
Bảng 15
Kế hoạch năm 2003 của công ty Intimex
90
Đảng ủy
Xí nghiệp thương mại dịch vụ lắp ráp xe máy
Xí nghiệp thương mại dịch vụ sản xuất
Xí nghiệp thương mại dịch vụ xuất nhập khẩu
Xưởng sản xuất chế biến sản phẩm xuất khẩu từ gỗ
Chi nhánh Intimex tại TP. Hồ Chí Minh
Trung tâm dịch vụ du lịch khách sạn
Trung tâm thương mại Intimex
Xí nghiệp may ở Văn Điển
Chi nhánh Intimex tại Đà Nẵng
Chi nhánh Intimex tại Đồng Nai
Chi nhánh Intimex tại Hải Phòng
Phòng kinh doanh 10
Phòng kinh doanh 6
Phòng kinh doanh 4
Các đơn vị trực thuộc Công ty
Khối các phòng kinh doanh
Phòng kinh doanh 1
Ban công tác
Ban thu hồi công nợ
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng kế toán tổng
hợp
Phòng kiểm toán nội bộ
Phòng tài chính kế toán
Phòng quản trị
Khối các phòng quản lý
Ban Giám đốc
Phòng kế toán tổng
hợp
Phòng kiểm toán nội bộ
Hình 1: sơ đồ bộ máy quản lý của công ty xuất nhập khẩu intimex
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- A0471.doc