Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc huy động vốn và sử dụng vốn đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh còn có nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng. Với tính cấp thiết này, mong rằng một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh mà em đã trình bày sẽ góp một phần nhỏ nào đó vào hoạt động tín dụng của Ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung.
88 trang |
Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tín dụng, bỏ qua việc phán xét năng lực tài chính tổng thể của doanh nghiệp. Trong nhiều trường hợp, tại thời điểm tưởng như khoản tín dụng được hoàn trả thì biến cố xuất hiện - doanh nghiệp đầu tư lỗ, tài sản Nợ tài chính gia tăng…, kết quả là phương án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp vay vốn có hiệu quả cao nhưng khoản tín dụng không thu hồi được do dòng tiền bị cuốn trôi vào các ngõ ngách khác.
Để góp phần vào việc giải quyết những bất cập trong việc đánh giá khách hàng và lựa chọn khách hàng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội nói riêng và của Ngân hàng Thương mại nói chung, tôi xin được đề xuất một số ý kiến trong lĩnh vực đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn..
Năng lực tài chính của doanh nghiệp vay vốn phải được phân tích và đánh giá toàn diện, gắn với đời sống của doanh nghiệp. Để thực hiện được, yêu cầu đạt ra của Ngân hàng là:
Phân tích các chỉ số tài chính của doanh nghiệp vay vốn trong trạng thái động
Có nhiều chỉ số có thể được sử dụng để tìm hiểu khả năng tài chính của doanh nghiệp, trong đó một số chỉ số được dùng thường xuyên và chấp nhận rộng rãi giữa Ngân hàng và các doanh nghiệp có quan hệ tín dụng.
Khi phân tích chỉ số tài chính, Ngân hàng không thể giải thích hay phản ứng qua một chỉ số riêng lẻ, hiện tại. Vì các chỉ số tài chính có được luôn chỉ là sự đại diện cho doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định, mang hoặc không mang bản chất vốn có của doanh nghiệp. Tính đúng đắn và hiệu quả phân tích yêu cầu nhà phân tích phải:
+ Kết hợp các chỉ số
+ Phân tích xu hướng
+ So sánh chúng trên cùng nền tảng
+ Và kết hợp với diễn biến đang xảy ra tại doanh nghiệp
Các chỉ số tài chính thông dụng và ý nghĩa của chúng
Chỉ số
Công thức
ý nghĩa
Hiệu suất sử dụng vốn
(lợi nhuận trước chi phí tài chính và lãi) / (tổng tài sản-Nợ hiện tại)
Hiệu quả KD của doanh nghiệp có thể thu hút đối tác và tài chính
Lợi nhuận gộp
Lợi nhuận trước chi phí tài chính và thuế / Doanh thu
Khả năng hoàn thiện về sản xuất, lưu thông và đào tạo nguồn vốn bằng tiền
Lợi nhuận ròng
Lợi nhuận sau chi phí tài chính và thuế / Doanh thu
Năng lực sáng tạo lợi nhuận để cạnh tranh và phát triển
Độ bao phủ chi phí lãi
Lợi nhuận trước chi phí tài chính và thuế / Chi phí tài chính
Khả năng trả lãi, cán cân vốn trong quan hệ với lợi nhuận
Thanh khoản lưu động
Tài sản có lưu động / Nợ ngắn hạn
Tiềm năng thanh toán so với nghĩa vụ chi trả nợ ngắn hạn
Khả năng thanh toán nhanh
(Tài sản có lưu động-Tồn kho) / (Nợ ngắn hạn)
Khả năng thanh toán nhanh các khoản nợ ngắn hạn
Kỳ hạn bán chịu
(Các khoản phải thu x số ngày trong kỳ) / (Doanh số bán chịu)
Quy mô và thời hạn cung cấp tín dụng thương mại
Kỳ hạn mua chịu
(Các khoản phải trả nhà cung cấp x số ngày) / (Doanh số bán chịu)
Quy mô và thời hạn thanh toán các khoản nợ thương mại
Thời hạn quay vòng hàng tồn kho
(Tồn kho x số ngày trong kỳ) / (Giá vốn hàng hoá)
Hiệu suất sử dụng và bảo tồn hàng tồn kho(Tốc độ luân chuyển vốn)
Vòng quay tài sản
Doanh thu / Vốn sử dụng
Hiệu suất sử dụng đồng vốn kinh doanh
Vòng quay tài sản cố định
Doanh thu /Tài sản cố định
Hiệu quả sử dụng tài sản cố định
Đòn cân nợ
Nợ / Vốn tự có
Mức độ phụ thuộc của doanh nghiệp đối với các chủ nợ
( Theo tạp chí khoa học đào tạo Ngân hàng – số 1/2001)
Mỗi loại ngành, doanh nghiệp đều có những đặc thù, được phản ánh qua các chỉ số Trung bình ngành ở các thời kỳ phát triển khác nhau, là những thông tin mà Ngân hàng cần cập nhật, làm cơ sở cho việc so sánh.
Sự đột biến của các chỉ số (tăng hay giảm) so với mức bình thường hay thời kỳ trước cần được tìm hiểu nguyên nhân để nhìn nhận đúng. Ví dụ, lãi ròng của doanh nghiệp bất chợt giảm thấp hoặc âm do doanh nghiệp đã giải thể một bộ phận, hoặc là hậu quả của cơn lũ đi qua mà không xuất phát từ tiềm năng của doanh nghiệp, thì tại những thời điểm như vậy mặc dù doanh nghiệp không có khả năng thanh toán nhưng ý chí hồi phục và sự màu mỡ của đất đai sau lũ đang hứa hẹn bội thu ở phía trước. Hoặc ngược lại, ở thời điểm hiện tại nếu doanh nghiệp có doanh thu tăng vọt so với vốn sử dụng, chứng tỏ hiệu suất sử dụng vốn cao và doanh nghiệp đang làm ăn có lãi, nhưng điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang được cảnh báo một nguy cơ “Kinh doanh vượt mức” và tình trạng căng thẳng về thanh khoản đang ở phía trước, do doanh nghiệp không đủ vốn đầu tư phát triển, đã phụ thuộc quá nhiều về bên ngoài. Điều này có thể thấy rõ tại công ty đầu tư xây dựng công trình, trong quá trình hoạt động số tài sản Nợ tài chính đã vượt quá mức cho phép dẫn tới Công ty không đủ khả năng thanh toán cho các khoản nợ đến hạn.
2.2. Kết hợp các chỉ số tài chính với phân tích lưu chuyển tiền tệ
Có nhiều doanh nghiệp kinh doanh có lãi, nhưng không có khả năng thanh toán, do vốn bị chiếm dụng, vốn bị mắc kẹt trong các khoản đầu tư mạo hiểm, hoặc do gánh nặng của các loại “chi phí giao dịch”…Do đó, phân tích các chỉ số tài chính mới chỉ gián tiếp làm sáng tỏ chất lượng các loại tài sản, khả năng sinh lời, thanh toán của doanh nghiệp, mà chưa nói trực tiếp được là doanh nghiệp sẽ được một số tiền là bao nhiêu, từ đâu để bù đắp chi phí và thanh toán nợ từ bên ngoài. Phân tích lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp sẽ cung cấp thông tin về các khoản thu, chi bằng tiền mặt của doanh nghiệp, giúp Ngân hàng thấy được dòng tiền vào, ra ở đâu, bao nhiêu? Để có thể biết được nhu cầu vay vốn cũng như khả năng thanh toán của doanh nghiệp đối với Ngân hàng. Để thấy rõ hơn ta hãy phân tích ví dụ sau:
Bảng tóm tắt lưu chuyển tiền tệ của doanh nghiệp :
Lưu chuyển tiền tệ
I
II
III
Tiền thu bán hàng
Chi phí sản xuất bằng tiền
Tiền thu được từ kinh doanh thương mại
Chi phí hoạt động bằng tiền
Lưu chuyển tiền tệ sau chi phí hoạt động
Trả thuế
Lưu chuyển tiền tệ sau thuế
Chi phí tài chính bằng tiền
Lưu chuyển tiền tệ sau chi phí tài chính
Trả nợ vay dài hạn
Lưu chuyển tiền tệ sau khi trả nợ
Đầu tư vào nhà máy và các khoản đầu tư khác
Thăng dư vốn / Nhu cầu vốn
1080
(560)
520
(226)
294
(45)
249
(30)
219
(15)
204
(55)
149
2040
(1700)
340
(520)
(180)
(54)
(234)
(36)
(270)
(26)
(296)
(24)
(320)
1360
(1500)
(140)
(272)
(412)
(30)
(442)
(35)
(792)
(18)
(800)
(40)
(840)
- Trường hợp I: Doanh nghiệp tạo ra đủ tiền để bù đắp mọi chi
phí tài chính, trả nợ, đầu tư. Nếu duy trì được doanh nghiệp không có nhu cầu vay Ngân hàng.
- Trường hợp II: Tiền thu được từ kinh doanh thương mại không đủ bù đắp chi phí hoạt động, chi phí tài chính và các khoản nợ dài hạn. Doanh nghiệp bằng mọi cách phải tìm được nguồn tài trợ để duy trì hoạt động.
Trường hợp III: Tiền thu được từ bán hàng không đủ bù đắp chi phí sản xuất bằng tiền. Doanh nghiệp thiếu tiền trầm trọng, nhưng khó để có thể cầu cứu nguồn tài trợ bên ngoài.
Kết hợp phân tích năng lực tài chính định lượng với phân tích rủi ro kinh doanh
Là việc xác định các nhân tố thuộc về điều kiện và môi trường kinh doanh ở hiện tại hoặc tương lai, có thể gây tác động đến kết quả kinh doanh của Doanh nghiệp vay vốn, vì vậy liên đới đến khả năng thực hiện các cam kết trả nợ của khách hàng đối với ngân hàng. Ngân hàng cần phân biệt khách hàng vay vốn theo loại hình kinh doanh khác nhau, nắm vững các đặc điểm ngành hoạt động và diễn biến của nó, so sánh với Doanh nghiệp cùng ngành, để định rõ những rủi ro có thể ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp vay vốn. Cách phân định sau có thể giúp ta tham khảo:
Báo cáo phân định rủi ro kinh doanh
Đặc điểm kinh doanh
Rủi ro chấp nhận
(0-10%)
Rủi ro cảnh báo
(>10-40%)
Rủi ro nguy hiểm
(>40-80%)
Quy mô
-Tài sản, thị phần, lợi nhuận
-Sức mạnh tài chính
-Độ trưởng thành
Lớn nhất
Mạnh
Vững chắc
Trung bình
Khá
Chững lại
Nhỏ nhất
Yếu
Quá non yếu
Sản phẩm/Dịch vụ
-Nhu cầu thị trường
-Tính đa dạng SF, DV
-Sản phẩm thay thế
Thường xuyên
Phong phú
Không có
Thay đổi
Một số hoặc vài thứ
Có sp thay thế ở mức tương đối
Không thiết yếi
Một thứ duy nhất
Có rất nhiều sản phẩm thay thế
Nguồn cung cấp n.liệu
-Mức độ phụ thuộc
-Giá cả
Có nhiều nhà cung cấp
Phù hợp, ổn định
Có vài nhà cung cấp
Dao đông ít
Chỉ có 1,2 nhà cung cấp
Thay đổi bất thường
Thị trường tiêu thụ
-Mức độ kiểm soát thị trường
-Sự cạnh tranh
-Chiều sâu thị trường
Trong tầm kiểm soát
Độc quyền Hoàn hảo
Trong nước+Q.tế
Kiểm soát được nhưng không dễ
Độc quyền nhóm
Có giới hạn
Không kiểm soát được
Có nhiều nhà cạnh tranh
Bó hẹp
Chuyên môn kỹ thuật
-Mức độ phát triển công nghệ
-Kỹ năng lao động
Có khả năng ứng dụng công nghệ mới
Yêu cầu kỹ năng lao đông thấp
Không cần ứng dụng công nghệ mới
Kỹ năng trung bình, đào tạo có mức độ
Không thể ứng dụng công nghệ mới
Yêu cầu kỹ năng lao đông cao
Quản lý
-Kinh nghiệm
-Chiều sâu
-Chuyên môn
Nhiều năm
Tất cả mọi l.vực
Sâu rộng
Một số năm
Có giới hạn
Khá
Mới hoặc ít năm
Phạm vi hẹp
Trái nghề
2.4. Xác định tín hiệu và đề nghị phê chuẩn
Trên cơ sở phân tích các chỉ số tài chính ở mục 2.1, kết hợp dòng ngân lưu và rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp, cán bộ tín dụng sẽ đưa ra quyết định đánh giá tín dụng về khả năng tài chính của doanh nghiệp, ở hiện tại cũng như trong tương lai có liên quan, đến các cam kết trả nợ Ngân hàng và kiến nghị phê chuẩn theo phương pháp phân loại, lựa chọn các điểm mạnh, xem xét điểm trung bình và loại trừ điểm yếu kém. Để đánh giá thích đáng khả năng tài chính doanh nghiệp vay vốn phải có sự hợp tác đắc lực giữa Doanh nghiệp và Ngân hàng.
Để đảm bảo tính chính xác của sự “phán xét”, từng con số và thông tin về Doanh nghiệp phải được Ngân hàng lựa chọn và cân nhắc một cách thận trọng, không phụ thuộc vào khách hàng, nhưng cũng không thể bịa đặt hay phỏng theo dư luận.
- Vì vậy, Ngân hàng cần tạo cơ chế làm việc “bán thường trực”, bằng việc ký kết các văn bản pháp lý giữa Ngân hàng và Doanh nghiệp để cán bộ tín dụng có những quyền hạn nhất định trong việc xâm nhập vào đời sống khách hàng vay vốn, trực tiếp tìm hiểu, nắm bắt thông tin và chủ động thiết lập báo cáo thường xuyên hoặc định kỳ.
- Để đảm bảo chất lượng của việc đánh giá khả năng tài chính Doanh nghiệp, cán bộ tín dụng cần được đào tạo toàn diện, đặc biệt phải có sự am hiểu lý thuyết và kinh nghiệp trong phân tích tài chính ngành nghề mà doanh nghiệp đang hoạt động, và được giao khoán phụ trách một lượng doanh nghiệp vừa đủ, tuỳ vào năng lực, sở trường mỗi người.
- Ngược lại, Doanh nghiệp cần nắm bắt kịp thời chính sách tiền tệ tín dụng, chia sẻ với Ngân hàng về động cơ mục tiêu và nguyên tắc hoạt động.
Việc coi trọng và nâng cao chất lượng trong đánh giá năng lực tài chính của doanh nghiệp từ Ngân hàng không những giúp tiết kiệm được nhiều chi phí sử dụng vốn, tạo được sự cạnh tranh lành mạnh giữa các Doanh nghiệp, mà còn là thước đo về sự bền vững của mối quan hệ Ngân hàng và Doanh nghiệp.
Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh và bảo hiểm tín dụng
Cần nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng bằng hình thức thế chấp, cầm cố.
Đối với việc nhận tài sản thế chấp, cầm cố; điều quan trọng là phải xem xét tính pháp lý của hồ sơ thế chấp, cầm cố tài sản để đảm bảo cho việc chuyển nhượng tài sản khi bán đấu giá, tránh hiện tượng lừa đảo bằng giấy chứng nhận sở hữu giả. Bên cạnh đó cần quan tâm tới việc định giá chính xác tài sản, đặc biệt đối với tài sản là nhà đất, dây chuyền máy móc, thiết bị nhập ngoại đã qua sử dụng. Nếu tài sản thế chấp, cầm cố là ngoại tệ cần quan tâm tới các yếu tố ảnh hưởng trong tương lai như tỷ giá, lạm phát… Nhất là những khoản cho vay lớn và dài hạn.
Một thực tế là các tài sản thế chấp, cầm cố rất phong phú và đa dạng, cán bộ tín dụng Ngân hàng không thể hiểu rõ nguồn gốc, đặc điểm , những yếu tố tác động cũng như giá trị của chúng. Ví dụ: Để thực hiện một món vay thế chấp bởi nhà đất đòi hỏi cán bộ tín dụng không chỉ có những hiểu biết cơ bản về nhà đất như Luật đất đai, biểu tính giá nhà đất của chính quyền thành phố mà còn phải hiểu rõ về giá cả thực, những biến động của nó trên thị trường, các quy định pháp lý về quyền sở hữu, chuyển nhượng, xây dựng, cải tạo nhà, kết cấu, kiểu dáng và độ kiên cố của ngôi nhà. Một cán bộ tín dụng dù tài giỏi tới đâu cũng không thể hiểu biết hết được tất cả các lĩnh vực kinh doanh trong nền kinh tế. Bởi vậy, để có thể định giá chính xác giá trị tài sản thế chấp, cầm cố để vừa đảm bảo an toàn vốn vay cho Ngân hàng vừa không gây khó khăn cho người vay, cán bộ Ngân hàng nên đưa ra những chỉ tiêu nhất định để định giá. Với tài sản thế chấp là nhà đất thì cần những chỉ tiêu chính như vị trí ngôi nhà, tình trạng hiện tại, sự biến động giá trên thị trường…. Với những tài sản thế chấp, cầm cố bằng máy móc thì Ngân hàng nên cùng người vay thuê người giám định, như vậy vừa khách quan lại vừa đảm bảo được tính chính xác.
Một điều kiện không thể thiếu đối với tài sản thế chấp, cầm cố là khả năng phát mại. Tài sản thế chấp không chỉ là những tài sản có giá trị, được Nhà nước cho phép mà đó còn là những tài sản có khả năng bán được trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Do đó, khi nhận tài sản thế chấp cán bộ tín dụng không nên nhận những tài sản quá lớn hoặc những công trình đang xây dựng dở dang, khi phát mại rất khó tìm được người mua mà nếu có thì cũng không thể bù đắp đủ khoản cho vay. Hiện nay tình hình biến động của bất động sản vô cùng phức tạp, sau một thời gian “sốt đất” giá thị trường đã tăng lên gấp ba, gấp bốn lần. Điều này đã đẩy giá trị ảo của bất động sản lên cao, nếu như cán bộ tín dụng không tỉnh táo trong cho vay thế chấp bằng bất động sản thì rủi ro lớn hoàn toàn có thể xảy ra. Ngân hàng cũng cần kiểm tra kỹ giấy tờ chứng nhận quyền sở hữu, không ít trường hợp một tài sản đem thế chấp vay vốn ở nhiều Ngân hàng. Cụ thể tại Công ty đầu tư xây dựng công trình, vốn tự có của công ty chỉ khoảng 6 tỷ nhưng công ty đã tiến hành vay vốn tại nhiều ngân hàng, số vốn vay vượt quá mức cho phép dẫn tới công ty không có khả năng hoàn trả vốn vay khi đến hạn.
Ngoài ra Ngân hàng nên có quan hệ tốt với địa phương, tránh những vướng mắc trong quá trình xử lý tài sản thế chấp như sự không thống nhất giữa Ngân hàng và địa phương, giữa Ngân hàng với Hội đồng định giá, hoặc có khi là sự cản trở của các thành viên khác trong gia đình người vay trong việc phát mại tài sản. Bởi vậy, Ngân hàng nên yêu cầu tất cả các thành viên ký vào đơn xin vay vốn.
Trên thực tế tài sản thế chấp chủ yếu tại Ngân hàng Thương mại Quân đội chủ yếu là máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất với giá trị lớn; với tài sản thế chấp loại này Ngân hàng nên nhờ cơ quan chuyên môn kiểm định tình trạng kỹ thuật của tài sản thế chấp. Để tránh những hao mòn vô hình , nhất là trong thời đại khoa học kỹ thuật phát triển như vũ bão hiện nay ngân hàng chỉ nên nhận thế chấp cho các khoản vay ngắn hạn và chỉ nhận những tài sản thế chấp có chất lượng cao, được thị trường chấp nhận. Cán bộ tín dụng cần thường xuyên kiểm tra, theo dõi tình hình sử dụng tài sản thế chấp.
Đối với tài sản tài sản, thiết bị của nhà máy thường không có đăng ký quyền sở hữu thì các bên có thể thoả thuận để cho bên vay giữ loại tài sản này. Bởi vì, nếu các máy móc này phải giao cho Ngân hàng giữ thì doanh nghiệp không thể tiếp tục hoạt động được. Hơn nữa, Ngân hàng cũng không thể có địa điểm rộng để cất giữ và bảo quản các máy móc này. Nếu giao cho bên thứ ba giữ thì sẽ phải trả phí bảo quản và làm tăng lãi suất cho vay. Có thể nói quy định quá chặt chẽ này đã làm mất hiệu quả của biện pháp cầm cố. Ngân hàng nên nghiên cứu xem xét để cho phép bên cầm cố giữ tài sản, nhưng phải cam kết bảo quản không được bán tài sản cầm cố và Ngân hàng có quyền kiểm tra việc thực hiện cam kết này của doanh nghiệp. Tuy nhiên việc này khá nhiều rủi ro và không nên áp dụng rộng rãi. Hiện nay đã có quy định cho phép khách hàng vay giữ và sử dụng tài sản cầm cố trong trường hợp tài sản có đăng ký quyền sở hữu, nhưng tổ chức tín dụng phải giữ bản chính giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản đồng thời có quyền yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin về thực trạng tài sản cầm cố. Ngân hàng nên nghiên cứu để áp dụng quy định này cho phù hợp với tình hình cụ thể của mình, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng vay vốn tại Ngân hàng.
Ngân hàng nên tăng cường thực hiện cho vay chiết khấu, cầm cố chứng từ có giá như trái phiếu, kỳ phiếu, sổ tiết kiệm do các Ngân hàng quốc doanh phát hành.
Bảo lãnh
Bảo lãnh có nhiều ưu điểm hơn so với cầm cố và thế chấp. Khi cầm cố hay thế chấp thì luôn luôn phải xác định xem là những tài sản nào phải cầm cố, thế chấp và giá trị của những tài sản này là bao nhiêu. Việc định giá đòi hỏi phải xác định những giấy tờ để chứng minh tài sản thuộc sở hữu của bên cầm cố và thế chấp. Hơn nữa việc tổ chức bán tài sản thường tốn kém và mất nhiều thời gian, mà giá trị tài sản đã cầm cố, thế chấp có thể giảm đi, hoặc mất mát trong thời hạn cầm cố, thế chấp. Do vậy, trong suốt thời hạn cầm cố và thế chấp, phía Ngân hàng lại phải thường xuyên tiến hành kiểm tra tình trạng những tài sản này. Trong khi đó, bên bảo lãnh cam kết dùng tất cả tài sản của mình để thực hiện nghĩa vụ trả nợ thì Ngân hàng sẽ không phải quá quan tâm đến việc kiểm tra tình trạng của từng tài sản cụ thể và sẽ tránh được những nhược điểm của cầm cố và thế chấp. Tuy nhiên, Ngân hàng cũng có thể gặp rủi ro mất vốn nếu bên bảo lãnh mất khả năng thanh toán, bị tuyên bố phá sản và do vậy không thể thực hiện các nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng bảo lãnh.
Chính vì rủi ro này mà Ngân hàng luôn luôn phải tìm hiểu kỹ về bên bảo lãnh và chỉ chấp thuận sự bảo lãnh của các công ty lớn và có uy tín hoặc yêu cầu bên bảo lãnh phải dùng tài sản để cầm cố, thế chấp. Ngân hàng phải chú ý đến khả năng thực hiện nghĩa vụ thay cho bên đi vay. Khả năng thực hiện việc trả nợ vay không chỉ phụ thuộc vào việc bên bảo lãnh có đủ tài sản mà quan trọng hơn là bên bảo lãnh có những nguồn thu nhập ổn định để bảo đảm có tiền thanh toán theo đúng lịch biểu của hợp đồng vay vốn. Ví dụ một hợp đồng vay vốn có thời hạn 5 năm và yêu cầu bên vay phải thanh toán lãi và gốc theo từng giai đoạn 6 tháng. Nếu vì một lý do nào đó mà sau 6 tháng bên vay không thanh toán được, thì bên bảo lãnh sẽ phải đứng ra thanh toán khoản tiền phát sinh trong 6 tháng đó, chứ không phải toàn bộ số tiền gốc và lãi của khoản vay trong 5 năm. Trong 6 tháng tiếp theo, có thể bên vay lại có khả năng tiếp tục thực hiện được các nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng vay. Do vậy, bên bảo lãnh sẽ không phải bán các máy móc thiết bị của mình để thực hiện nghĩa vụ của mình trong 6 tháng đó. Như vậy, Ngân hàng cần xem xét khả năng thực hiện nghĩa vụ của bên bảo lãnh nhằm tạo thuận lợi cho cả Ngân hàng, người vay lẫn người bảo lãnh.
Thực hiện bảo hiểm tín dụng
Có ba hình thức để bảo hiểm tín dụng như sau:
- Thứ nhất: Khách hàng vay vốn tín dụng tham gia mua bảo hiểm cho ngành nghề mà họ kinh doanh vì vậy những khoản tín dụng trong trường hợp này coi như cũng được bảo hiểm một cách gián tiếp. Phương pháp này không làm phát sinh thêm thao tác nghiệp vụ cho Ngân hàng. Để sử dụng tốt hình thức này thì ngân hàng cần có chính sách ưu tiên cho vay về khối lượng và lãi suất đối với các doanh nghiệp cá nhân mua bảo hiểm.
- Thứ hai: Sử dụng biện pháp bảo lưu có nghĩa là Ngân hàng tự bảo hiểm cho chính mình bằng cách lập các quỹ dự phòng để bù đắp những thiệt hại khi gặp rủi ro tín dụng, từ đó hạn chế những hậu quả xấu có thể xảy ra mà vẫn bảo đảm được tình hình tài chính của Ngân hàng. Rủi ro luôn song hành với hoạt động kinh doanh nhưng đối với mỗi thành phần kinh tế thì hệ số rủi ro tín dụng có khác nhau. Việc quy định tỷ trọng rủi ro cụ thể cho từng loại tín dụng có hiệu quả hơn. Phần sử dụng vốn của Ngân hàng luôn chứa đựng rủi ro, Ngân hàng phải lấy vốn tự có để bù đắp song vốn tự có của Ngân hàng chỉ chiếm một phần nhỏ trong tổng số nguồn vốn hoạt động của Ngân hàng. Như vậy hình thành quỹ dự trữ đặc biệt bù đắp rủi ro tín dụng là hợp lý và cần thiết.
Hằng năm Ngân hàng cần phải trích 10% lợi nhuận trong mọi hoạt động kinh doanh của mình để lập quỹ dự trữ đặc biệt bù đắp rủi ro. Quỹ này được thành lập cho đến khi bằng 100% vốn điều lệ của Ngân hàng. Quỹ dự trữ đặc biệt này sẽ giúp Ngân hàng khắc phục được những khoản tổn thất tín dụng do tình trạng nợ khoanh, nợ tồn đọng lâu dài… để đảm bảo an toàn cho hoạt động của Ngân hàng.
- Thứ ba: Ngân hàng trực tiếp mua bảo hiểm của các tổ chức bảo hiểm chuyên nghiệp. Như thế Ngân hàng sẽ tránh được những tổn thất khi rủi ro xảy ra đối với những khoản vốn đầu tư.
Xử lý món vay có vấn đề
Trong xử lý các khoản cho vay có vấn đề, có hai sự lựa chọn tổng quát: khai thác hoặc thanh lý. Khai thác là một quá trình làm việc với người vay cho đến khi khoản cho vay được trả một phần hay toàn bộ và không dựa vào các công cụ pháp lý để ép buộc. Thanh lý là ép người vay tuân theo các điều khoản của hợp đồng cho vay, áp dụng và thực hiện tất cả biện pháp để đạt mục tiêu.
Món vay có vấn đề được hiểu là món vay đã quá hạn hoặc món vay tuy chưa đến hạn nhưng khách hàng có nguy cơ không trả được nợ Ngân hàng do mất khả năng thanh toán, do thua lỗ hoặc doanh nghiệp có biểu hiện vi phạm pháp luật như lừa đảo, trốn thuế, sản xuất kinh doanh trái với ngành nghề đăng ký… Xử lý món vay có vấn đề là áp dụng các biện pháp khác nhau để thu hồi nợ. Theo kinh nghiệm của các nhà Ngân hàng thì giải pháp khai thác là khôn ngoan hơn. Bởi vì, sự tồn tại và phát triển của khách hàng quyết định sự tồn tại và phát triển của Ngân hàng. Chính các giải pháp mềm dẻo, linh hoạt này đã cứu không ít khách hàng từ chỗ sắp “khuynh gia bại sản” đến chỗ “gượng” lại được, tiếp tục tồn tại, phát triển và ngày càng gắn bó với Ngân hàng. Các giải pháp khai thác bao gồm:
Thương lượng gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, giãn nợ.
Một khi khách hàng đã gặp phải khó khăn trong việc trả nợ gốc thì phần lãi càng khó có khả năng thanh toán cho Ngân hàng. Vì vậy chế tài chuyển nợ quá hạn với lãi suất cao càng gây khó khăn thêm cho khách hàng. Trong trường hợp này, Ngân hàng phải tiến hành điều tra, xác minh xem nguyên nhân: thua lỗ do giá cả thị trường biến động mạnh ngoài dự kiến; sản lượng và doanh thu đạt thấp; thiên tai, dịch bệnh.. hoặc do Ngân hàng định kỳ hạn nợ không đúng chu kỳ kinh doanh, cho vay ngắn hạn các đối tượng trung dài hạn, thì món vay cần phải được xem xét cho gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn và giãn nợ. Vấn đề là thời gian gia hạn nợ là bao lâu? Một số trường hợp khách hàng không thể khôi phục khả năng trả nợ trong thời gian ngắn (trong vòng một năm chẳng hạn) mà cần phải có thời gian dài hơn có khi phải đến 2 hoặc 3 năm. Thế nhưng quyền cho gia hạn nợ của Ngân hàng Thương mại bị hạn chế bởi quyết định 324/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước, cụ thể: thời gian gia hạn tối đa là 12 tháng đối với khoản vay ngắn hạn và tối đa một nửa thời hạn cho vay đối với khoản vay trung, dài hạn. Thiết nghĩ, nếu trong thời gian gia hạn nợ mà khách hàng đã cố gắng trả được một phần vốn (gốc và lãi) và có nguyện vọng được kéo dài thêm thời hạn, thì Ngân hàng có thể tiếp tục xem xét cho gia hạn nợ.
Tiếp thêm vốn giúp khách hàng.
Trong những giai đoạn khó khăn, một số khách hàng không những không trả được nợ đáo hạn, xin gia hạn nợ mà còn có nhu cầu vay thêm vốn để giải quyết khó khăn tạm thời như: sản phẩm chưa tiêu thụ được nhưng vẫn phải tiếp tục mua vật tư, trả lương công nhân để duy trì hoạt động bình thường; khắc phục sự cố kỹ thuật; củng cố mạng lưới tiêu thụ; doanh nghiệp, cá nhân gặp rủi ro bất khả kháng mất vốn không đủ khả năng khôi phục sản xuất nếu không có sự tài trợ từ bên ngoài… Trong những trường hợp như vậy, thường Ngân hàng không dám tiếp tục tài trợ thêm mà sẽ đình chỉ quan hệ tín dụng, xúc tiến việc thanh lý tài sản để thu nợ càng sớm càng tốt. Sự yếu kém về khả năng phân tích, nhận định tình hình khiến cho Ngân hàng đi đến giải pháp thanh lý làm cho một số doanh nghiệp chưa đến nỗi “chết” sẽ đến chỗ “chết” thật. Vì vậy, cần phải cân nhắc thận trọng để nếu cần sẵn sàng tiếp thêm “sinh khí” giúp khách hàng của mình phục hồi.
Đảo nợ
Mặc dù biện pháp này đã được Ngân hàng Thương mại thực hiện từ lâu nhưng vẫn chưa có văn bản pháp quy chính thức nào quy định và điều chỉnh hành vi đảo nợ. Đa số khách hàng của Ngân hàng đều có nhu cầu vay vốn thường xuyên, liên tục để sản xuất kinh doanh. Nhiều khách hàng sau khi mua hàng và tiêu thụ, song chưa đến hạn trả nợ lại tiếp tục dự trữ hàng hoá, khi khoản vay đáo hạn không có tiền trả nợ liền đi vay “nóng” để trả nợ. Sau đó lập tức xin vay lại ngay trong ngày cũng số tiền ấy. Xét thấy việc này chỉ làm tăng thêm khối lượng công việc cho công tác kho quỹ nên Ngân hàng có thể cho phép khách hàng đảo nợ bằng nghiệp vụ “giả thu, giả chi”.
Hiện nay nợ quá hạn ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội còn khá lớn. Vì vậy Ngân hàng nên áp dụng các biện pháp khai thác nhằm thu hồi đủ nợ và tạo điều kiện cho khách hàng khôi phục. Đây là biện pháp mang tính chiến lược lâu dài.
Các biện pháp mang tính thương lượng trên đây chỉ áp dụng đối với những doanh nghiệp có thiện chí trả nợ và có thể phục hồi. Nếu Ngân hàng thấy rõ là việc tổ chức khai thác không hiệu quả, thì Ngân hàng phải áp dụng các biện pháp để thanh lý tài sản khách hàng nhằm thu hồi khoản nợ. Trước hết Ngân hàng nên cố gắng thuyết phục doanh nghiệp tự nguyện bán tài sản thế chấp của mình. Việc doanh nghiệp tự nguyện bán các tài sản thường được giá cao hơn là bị buộc phải phát mại và khi đó doanh nghiệp cũng đỡ bị mất uy tín của mình trên thương trường và ngân hàng cũng tránh được các chi phí và các thủ tục pháp lý gắn liền với việc sở hữu và phát mại tài sản thế chấp, Trong số các giải pháp thu nợ thì việc doanh nghiệp bán tài sản một cách tự nguyện là có lợi nhất đối với cả Ngân hàng lẫn bên vay nợ.
Trường hợp khách hàng không có ý hợp tác với Ngân hàng, Ngân hàng có thể thu nợ bằng cách bán tài sản thế chấp, cầm cố. Việc phát mại tài sản thế chấp thường phải chấp nhận giá thấp hơn giá thị trường, thời gian phát mại dài, qua nhiều khâu và chi phí phát mại không nhỏ. Bởi vậy, nếu việc phát mại quá khó khăn, để tránh ứ đọng vốn, Ngân hàng nên thực hiện một số biện pháp sau:
Dùng tài sản đó để cho thuê và trực tiếp đứng ra thu tiền.
Dùng tài sản đó làm vốn góp liên doanh.
Liên hệ với các Ngân hàng khác thành lập một công ty thuê mua.
Nếu địa điểm giao dịch của tài sản là nhà ở thuận lợi, Ngân hàng có thể thu hồi và dùng nó làm địa điểm giao dịch, mở thêm đại lý.
Nếu không thuận lợi, nhưng diện tích rộng ngân hàng có thể xây dựng kho chứa hàng để tạo điều kiện mở rộng hoạt động kinh doanh cầm đồ, cho vay cầm cố.
Thời gian qua công tác thu hồi nợ ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội chưa được thực hiện tốt, nên số nợ quá hạn thu được còn thấp. Thời gian tới, Ngân hàng cần quan tâm hơn nữa tới công tác này. Bên cạnh đó, Ngân hàng phải có biện pháp thẩm định và giám sát món vay chặt chẽ hơn, đồng thời sớm phát hiện các khoản cho vay có vấn đề để có hướng giải quyết phù hợp.
Mở rộng cạnh tranh
Mở rộng quan hệ tín dụng nhằm phân tán rủi ro
Hiện nay, phạm vi hoạt động tín dụng của Ngân hàng còn hẹp, phần lớn là các doanh nghiệp Nhà nước và tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp xây dựng. Vốn cho vay lớn nhưng chưa năng động, Ngân hàng cần phải mở rộng quan hệ tín dụng với tất cả các thành phần kinh tế, đặc biệt là kinh tế ngoài quốc doanh. Theo số liệu cho thấy năm 2000 cho vay quốc doanh đạt 92% và cho vay ngoài quốc doanh đạt 8%; năm 2001, con số này tương ứng là 73% và 27%. Như vậy, Ngân hàng cần phải gia tăng tỷ lệ cho vay kinh tế ngoài quốc doanh. Bởi vì, trong tương lai thành phần kinh tế ngoài quốc doanh có nhiều hứa hẹn khả quan.
Biện pháp phân tán rủi ro là tránh tập trung vốn quá lớn vào một lĩnh vực đầu tư, vào một mặt hàng không có sức mạnh cạnh tranh… để đến khi doanh nghiệp không có khả năng trả nợ thì Ngân hàng sẽ không chịu ảnh hưởng lớn. Vì thế, Ngân hàng phải phân tán rủi ro bằng cách cho vay vào nhiều đối tượng, nhiều khách hàng khác nhau với nhiều lĩnh vực khác nhau.
Đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng
Đây là biện pháp nhằm phân tán rủi ro đã được các Ngân hàng trên thế giới áp dụng một cách có hiệu quả. Các Ngân hàng Thương mại ở Việt nam có đến 90% tài sản nợ là đầu tư trực tiếp nên khả năng rủi ro rất cao. Vì thế, muốn hạn chế được rủi ro tín dụng thì việc đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng rất cần được cọi trọng. Có đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ thì Ngân hàng mới có thêm lợi nhuận mà các dịch vụ đem lại. Năm 2001, tổng nguồn thu từ các hoạt động dịch vụ chiếm 9% so với tổng doanh thu ( năm 2000 tỷ lệ này là 4%). Mặc dù kết quả còn kiêm tốn nhưng đã cho thấy tầm quan trọng của việc mở rộng các loại hình dịch vụ Ngân hàng.
Muốn đạt được mục đích đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, Ngân hàng phải tăng cường trang bị các thiết bị hiện đại như: máy vi tính, máy Fax, cũng như cơ sở vật chất, thiết bị kho tàng. Đồng thời phải đào tạo, nâng cao trình độ ngoại ngữ, vi tính, thu thập thông tin thị thường… cho cán bộ Ngân hàng.
Ngân hàng nên thiết lập mối quan hệ với các trung tâm môi giới, tư vấn pháp luật để triển khai thực hiện các nhiệm vụ tư vấn, môi giới đầu tư, bảo quản, cất giữ tài sản quý hiếm, cho thuê két, tín dụng thuê mua, liên doanh liên kết... Chuẩn bị những điều kiện cần thiết để tham gia vào thị trường vốn, thị trường chứng khoán.
Ngân hàng phải từng bước chuyển dịch cơ cấu đầu tư vốn từ bán lẻ sang bán buôn, mở rộng và phát triển các dịch vụ đã có như thanh toán Quốc tế, bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, thanh toán L/C… Khi hình thành và phát triển các loại hình dịch vụ mới, Ngân hàng không những thích nghi với nhu cầu của quá trình tái sản xuất mà bằng con đường đa dạng hoá việc cung ứng tín dụng sẽ thu hút được nhiều khách hàng, qua đó tăng thêm thu nhập cho mình và có một nguồn nhất định để bù đắp những rủi ro tín dụng mà Ngân hàng gặp phải. Tuy nhiên, muốn đa dạng hoá dịch vụ Ngân hàng đòi hỏi Ngân hàng phải có một khoản chi phí lớn về tiền của vì nó phụ thuộc vào quá trình Hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng cả về máy móc thiết bị lẫn trình độ tinh thông nghiệp vụ mới của các cán bộ Ngân hàng.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng
Trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng, khách hàng vừa là người cung cấp nguồn vốn cho hoạt động tín dụng, đồng thời cũng là người sử dụng nguồn vốn này, nên khách có ý nghĩa rất quan trọng. Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách giúp Ngân hàng có điều kiện nắm vững các thông tin có liên quan tới khách hàng, các Ngân hàng sẽ có đối sách thích hợp để có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh.
Thiết lập mối quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng sẽ giúp Ngân hàng:
- Đánh giá đúng chất lượng khách hàng, tiết kiệm được chi phí thẩm định và kiểm tra giám sát. Thông qua việc quan hệ tín dụng một cách thường xuyên, Ngân hàng có thể nắm bắt được những thông tin về hoạt động kinh doanh của khách hàng. Căn cứ vào số dư trên tài khoản của họ, Ngân hàng sẽ biết được khả năng tiềm tàng và chu kỳ sử dụng vốn, tiền mặt cũng như quan hệ khách hàng với các khách hàng khác trong việc mua nguyên liệu tiêu thụ sản phẩm…
Đây là cách tốt nhất để thu thập các thông tin về khách hàng và là cơ sở để Ngân hàng tiết kiệm được chi phí cho việc thẩm định, sàng lọc thông tin, tránh được rủi ro về đạo đức, kế hoạch hoá được nguồn cũng như các chi phí giám sát khách hàng khi đã có sẵn phương thức giám sát khách hàng.
- Thu hút vốn để củng cố đầu vào mở rộng đầu ra theo đúng yêu cầu của khách hàng. Thông qua mối quan hệ lâu bền với khách hàng, Ngân hàng có thể huy động được một khối lượng nguồn vốn từ tiền gửi của khách hàng. Sự am hiểu của khách hàng sẽ làm cho Ngân hàng hiểu rõ nhu cầu của khách hàng về loại tín dụng, khối lượng tín dụng, giá cả cho vay để có kế hoạch bố trí nguồn vốn kịp thời đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của khách hàng. Do tiết kiệm được chi phí trong thẩm định, kiểm tra giám sát khách hàng nên Ngân hàng sẽ có đủ điều kiện để hạ lãi suất cho vay, điều đó sẽ cuốn hút được khách hàng, làm cho khách hàng gắn bó hơn với Ngân hàng. Mối quan hệ không những ngày càng củng cố đối với khách hàng sẽ càng có cơ hội để nâng cao được chất lượng tín dụng.
- Đề ra chính sách chiến lược, kế hoạch tác nghiệp trong từng thời kỳ và xu hướng phát triển hoạt động Ngân hàng trong tương lai để không ngừng thích nghi với sự biến động của thị trường, tìm kiếm cơ hội không ngừng nâng cao chất lượng tín dụng và hiệu quả kinh doanh của Ngân hàng.
Có điều kiện giảm thiểu rủi ro trong hoạt động tín dụng, nhất là rủi ro về đạo đức để vươn tới sự hoàn thiện về chất lượng tín dụng, nhằm tạo dựng được hình ảnh biểu tượng tốt của Ngân hàng trên thị trường.
Để thiết lập được mối quan hệ tốt lâu bền với khách hàng, Ngân hàng phải có kế hoạch củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động, đề cao uy tín của Ngân hàng trên thị trường, thông qua việc cải thiện và mở rộng thêm nhiều hình thức phục vụ, đổi mới tác phong kinh doanh, thu hút thêm nhiều khách hàng đối với Ngân hàng như những người bạn tin cậy.
II. Những tiền đề để thực hiện các giải pháp nêu trên
Về phía nhà Nước
- Trong tình hình và điều kiện mới của nước ta hiện nay, các chính sách kinh tế cần phải có những chuyển biến sao cho phù hợp với quy luật kinh tế-xã hội và thực tế khách quan . Vì vậy, về cơ chế, chính sách tín dụng đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh cũng như đối với các tổ chức khác, cá nhân cần được nghiên cứu cải tiến cho phù hợp, tạo điều kiện thuận lợi cho bên vay hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả. Những đề xuất cụ thể là:
+ Việc định thời hạn cho vay vốn để bổ sung vốn lưu động thiếu cho doanh nghiệp cần quy định sao cho phù hợp với cả các doanh nghiệp có thời gian luân chuyển vốn của một chu kỳ sản xuất kinh doanh dài hơn 12 tháng.
+ Về điều kiện đảm bảo nợ vay, ngoài hình thức thế chấp, cầm cố, bảo lãnh hiện hành cần có quy chế đảm bảo nợ bằng chính tài sản hình thành có sự tham gia của vốn vay.
+ Về nguồn vốn cho vay của các tổ chức tín dụng: Cần có cơ chế huy động vốn để đầu tư cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn sao cho đảm bảo đáp ứng đúng và phù hợp với từng loại đối tượng của các doanh nghiệp và áp dụng thời hạn cho vay phù hợp với thời gian luân chuyển vốn của đối tượng vay, tránh tình trạng tổ chức tín dụng gò ép doanh nghiệp vay vốn phải trả nợ theo thời hạn mà tổ chức tín dụng áp đặt chủ quan; không căn cứ vào thời gian thu hồi vốn của dự án do tuỳ thuộc vào tính chất nguồn vốn của tổ chức tín dụng.
+ Để nâng cao khả năng an toàn, hiệu quả và chất lượng hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng. Đề nghị cơ quan Nhà nước giao chức năng thẩm định và cấp giấy phép đầu tư cho các dự án. Khi thẩm định dự án cần cân đối nhu cầu thị trường với việc cung cấp sản phẩm khi các dự án đầu tư đi vào hoạt động trên phạm vi tổng thể toàn quốc, để đảm bảo sự cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trong thời gian mà dự án đầu tư đi vào hoạt động. Cơ quan thẩm định dự án đầu tư phải chịu trách nhiệm về tính hiệu quả kinh tế của dự án do cơ quan đó thẩm định và cấp giấy phép đầu tư. Đồng thời các Ngân hàng cũng cần phải nâng cao chất lượng thẩm định các dự án đầu tư để cho vay có hiệu quả, cần đặc biệt chú trọng tham khảo các thông tin do trung tâm thông tin tín dụng (CIC) cung cấp.
+ Về xử lý các khoản nợ rủi ro do nguyên nhân khách quan, cần tránh việc bao cấp cho các tổ chức tín dụng như hiện nay là khonh nợ, xoá nợ, để nâng cao trách nhiệm của các tổ chức tín dụng. Các tổ chức tín dụng được hưởng chế độ thu nhập theo đúng với thành quả và chất lượng kinh doanh của đơn vị mình tuỳ theo kết quả năm tài chính.
- Tăng cường biện pháp quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp, có biện pháp hữu hiệu buộc doanh nghiệp phải chấp hành đúng Pháp lệnh kế toán thống kê và chế độ kiểm toán bắt buộc để đảm bảo thông tin về tình hình sản xuất kinh doanh, tài chính được phản ánh một cách đầy đủ, chính xác, nhằm đảm bảo an toàn vốn vay của ngân hàng.
- Các cấp cần tiến hành và soát lại các doanh nghiệp đã được thành lập để cân đối giữa vốn và ngành nghề kinh doanh, đảm bảo nhiệm vụ kinh doanh phù hợp với thực lực của doanh nghiệp trên các mặt: Vốn, công nghệ lao động, môi trường. Đảm bảo tính đồng bộ từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm, tạo diều kiện cho hoạt động tín dụng đạt hiệu quả cao.
- Đề nghị Chính phủ, các ngành pháp luật và chính quyền địa phương có biện pháp ngăn chặn để xoá bỏ các tổ chức cá nhân kinh doanh tiền tệ, tín dụng trái phép dưới mọi hình thức. Mọi tổ chức và cá nhân chỉ được vay vốn và được huy động vốn từ các tổ chức tín dụng chính thức. Mọi hình thức vay vốn và huy động vốn từ các tổ chức cá nhân không được Nhà nước cấp giấy phép đều vi phạm pháp luật, cần được xử lý nghiêm minh như các hành vi buôn lậu và kinh doanh trái phép.
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt nam
- Môi trường kinh doanh của các Ngân hàng Thương mại đòi hỏi phải có hành lang pháp lý là vấn đề cơ bản. Mặc dù hệ thống luật pháp hiện nay đã được cải thiện đáng kể, được đánh dấu bằng sự ra đời của bộ Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng, tuy nhiên đến nay vẫn còn nhiều vấn đề vướng mắc. Vì vậy, Ngân hàng Nhà nước cần tập trung nỗ lực hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý qui định liên quan đến hoạt động Ngân hàng nói chung, tín dụng ngân hàng nói riêng, bảo đảm công tác quản lý Nhà nước đối với ngành Ngân hàng vừa toàn diện, vừa chặt chẽ trên cơ sở tiến bộ và hiệu quả, nhằm nâng cao chất lượng tín dụng của các Ngân hàng Thương mại.
- Đối với cơ chế trích lập dự phòng và xử lý rủi ro trong hoạt động của Ngân hàng Thương mại: ngày 8/2/1999, ngân hàng Nhà nước Việt nam đã ban hành Quyết định số 48/1999/QĐ- NHNN5 về việc ban hành qui định về việc phân loại tài sản Có, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các tổ chức tín dụng. Theo quyết định này thì tổ chức tín dụng chỉ được sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro sau khi đã tận thu mọi khoản phải thu, yêu cầu người bảo lãnh thực hiện nghĩa vụ, phát mại tài sản thế chấp, cầm cố nếu có và các biện pháp khác theo qui định của pháp luật để thu nợ. Nhưng thực tế tồn tại nhiều trường hợp là sau khi tận thu mọi khoản thu, tổ chức tín dụng không thể phát mại tài sản đành phải treo nợ nhiều năm, những khoản nợ này nên được xử lý bằng dự phòng rủi ro để làm trong sạch cân đối tín dụng của ngân hàng trước khi kiểm toán, còn tài sản thế chấp cầm cố sẽ được theo dõi riêng để thanh lý thu hồi khi có điều kiện. Nên chăng Ngân hàng Nhà nước nên nới lỏng qui định về sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro, giúp lành mạnh tình hình tài chính của các ngân hàng.
- Ngân hàng Nhà nước cần rà soát các văn bản chồng chéo, thiếu đồng bộ, không còn phù hợp với thực tế để hệ thống các văn bản của ngành mang tính pháp lý cao chứ không đơn thuần là hướng dẫn nghiệp vụ. Nâng cao hiệu lực thanh tra và quản lý của Ngân hàng Nhà nước trong việc khắc phục những khuyết điểm, xử ký kiên quyết những sai phạm đã được phát hiện và chủ động có giải pháp đồng bộ với các ngành liên quan.
Đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế
- Doanh nghiệp và Ngân hàng có mối quan hệ biện chứng, doanh nghiệp cần Ngân hàng để giải quyết vấn đề thiếu vốn hoặc dư vốn còn Ngân hàng tồn tại được nhờ hoạt động kinh doanh tiền tệ mà chủ yếu là hoạt động cấp tín dụng cho các doanh nghiệp. Thu nhập của các Ngân hàng chủ yếu từ hoạt động tín dụng. Do vậy vấn đề cố gắng hạn chế rủi ro tín dụng không chỉ là nhiệm vụ của các Ngân hàng Thương mại mà nó còn là nhiệm vụ trọng tâm của các doanh nghiệp. Các doanh nghiệp cần có những biện pháp để tự củng cố mình, sản xuất kinh doanh có hiệu quả để trả nợ đủ và đúng hạn cho Ngân hàng. Vấn đề phòng ngừa rủi ro tín dụng có ý nghĩa quyết định cho cả Ngân hàng và doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp cần phải đổi mới cách nghĩ, cách làm; đặc biệt là các doanh nghiệp Nhà nước. Có vay có trả, không nên nghĩ Ngân hàng là cái “mỏ” để cho mình đào bới. Phải xác định rằng khi đã đi vay là phải có trách nhiệm hoàn trả bằng mọi cách, không nên đi vay cho mục đích này lại sử dụng vào những mục đích khác, khi đến hạn trả nợ thì không muốn trả. Đây cũng là hệ quả của nền kinh tế bao cấp để lại.
- Ngoài ra cần phải cải thiện tình hình tài chính; trung thực trong việc lập báo caó kết quả sản xuất kinh doanh, dự án đầu tư khả thi và tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng kiểm tra, khảo sát tình hình sử dụng vốn vay. Các doanh nhiệp cần phải năng động trong việc áp dụng khoa học kỹ thuật hiện đại, đổi mới trang thiết bị, nghiên cứu thị trường đưa ra những sản phẩm có tính cạnh tranh cao. Có như thế thì các doanh nghiệp mới có khả năng trả nợ Ngân hàng cũng như trang trải các phí tổn cho chính mình.
- Các doanh nghiệp muốn đứng vững trong nền kinh tế thị trường phải nâng cao chất lượng quản lý sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động; phải lựa chọn được người lãnh đạo cũng như người cán bộ giỏi, sáng suốt trong công việc, nhạy bén với thị trường, có trình độ chuyên môn cao. Có thể nói năng lực, uy tín của ban lãnh đạo doanh nghiệp là điều kiện tốt để Ngân hàng xem xét các khoản đầu tư của mình.
Kết luận
Trong quá trình phát triển của một đất nước, hệ thống Ngân hàng Thương mại đóng vai trò rất quan trọng. Các Ngân hàng Thương mại góp phần điều hoà lượng tiền trong lưu thông giúp ổn định giá cả, chống lạm phát; cung cấp các dịch vụ thanh toán cho nền kinh tế giúp quá trình sản xuất - trao đổi - tiêu dùng diễn ra trôi chảy hơn. Ngân hàng Thương mại huy động với mọi nguồn vốn trong nền kinh tế để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh , thực hiện việc tái sản xuất mở rộng theo chiều rộng và theo chiều sâu. Thực hiện tốt việc tự do di chuyển vốn từ ngành có tỷ suất lợi nhuận thấp sang ngành có tỷ suất lợi nhuận cao.
Tuy hoạt động tín dụng của Ngân hàng đem lại hiệu quả cao nhưng kèm theo đó là rủi ro tiềm ẩn rất lớn. Một Ngân hàng gặp rủi ro lớn sẽ ảnh hưởng tới toàn bộ hệ thống Ngân hàng. Vì thế rủi ro tín dụng là vấn đề quan tâm hàng đầu không những đối với cán bộ Ngân hàng mà của cả toàn xã hội.
Bên cạnh những chuyển biến tích cực trong quá trình hoạt động, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội đã và đang gặp không ít khó khăn trong việc huy động vốn và sử dụng vốn đạt hiệu quả. Đặc biệt đối với kinh tế ngoài quốc doanh, hoạt động cho vay đối với kinh tế ngoài quốc doanh còn có nhiều hạn chế cả về số lượng lẫn chất lượng. Với tính cấp thiết này, mong rằng một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng đối với kinh tế ngoài quốc doanh mà em đã trình bày sẽ góp một phần nhỏ nào đó vào hoạt động tín dụng của Ngân hàng nói riêng và hoạt động kinh doanh tiền tệ nói chung. Qua đó góp phần củng cố sự phát triển ổn định của hệ thống Ngân hàng, đáp ứng được yêu cầu HĐH-CNH đất nước.
Tuy nhiên trong quá trình nghiên cứu còn nhiều hạn chế nên bài viết này không thể không tránh khỏi những khuyết điểm. Vì vậy em mong muốn được sự góp ý của các thầy cô giáo để có ý nghĩa với thực tiễn hơn.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và giúp đỡ tận tình của thầy ban lãnh đạo và tập thể cán bộ tín dụng của Ngân hàng đã giúp em hoàn thành bài viết này.
Danh mục viết tắt:
TMCP :
Thương mại Cổ phần
CNH-HĐH:
Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá
TSCD :
Tài sản cố định
TSLĐ :
Tài sản lưu động
TNHH :
Trách nhiệm hữu hạn
NN & PTNT :
Nông nghiệp và phát triển nông thôn
SXKD:
Sản xuất kinh doanh
HĐ:
Hoạt động
QL:
Quản lý
Mục lục
Trang
Lời nói đầu Chương I: Ngân hàng thương mại và rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại trong nền kinh tế …………………………………
3
I. Ngân hàng Thương mại và vai trò của nó trong nền kinh tế ……..
3
1. Vài nét về Ngân hàng Thương mại…………………………………..
3
1.1. Nguồn gốc, định nghĩa……………………………………………..
3
1.2. Phân loại Ngân hàng Thương mại………………………………….
4
1.3. Các chức năng cơ bản của Ngân hàng Thương mại………………..
5
1.3.1. Tạo tiền…………………………………………………………...
5
1.3.2. Thanh toán………………………………………………………..
6
1.3.3. Tín dụng………………………………………………………….
7
1.3.4. Cung ứng dịch vụ Ngân hàng…………………………………….
7
1.4. Các nghiệp vụ của Ngân hàng Thương mại………………………...
8
1.4.1. Nghiệp vụ Nợ…………………………………………………….
8
1.4.2. Nghiệp vụ Có……………………………………………………..
9
1.4.3. Nghiệp vụ trung gian……………………………………………..
10
2. Vai trò của Ngân hàng Thương mại Cổ phần………………………...
11
2.1. Thúc đẩy tích tụ và cung cấp vốn cho nền kinh tế…………………
12
2.2. Đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng cho đầu tư phát triển…...
12
2.3. Tổ chức điều hoà lưu thông tiền tệ…………………………………
13
2.4. Thúc đẩy việc hạch toán kinh doanh, nâng cao hiệu quả…………..
14
2.5. Công cụ tài trợ cho các thành phần kinh tế………………………...
14
II. Rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại và cơ chế…………...
16
1. Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng……………………………...
16
1.1. Khái niệm về rủi ro nói chung……………………………………...
16
2. Phân loại rủi ro trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng………...
17
2.1. Rủi ro tín dụng……………………………………………………..
17
2.2. Rủi ro bảo lãnh……………………………………………………..
18
2.3. Rủi ro đầu tư………………………………………………………..
19
3. Rủi ro tín dụng trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng………...
20
3.1. Rủi ro tín dụng, đặc trưng của nó…………………………………..
20
3.2. Các nguyên nhân gây rủi ro tín dụng………………………………
21
3.2.1. Thông tin không cân xứng………………………………………..
21
3.2.2. Môi trường kinh tế………………………………………………..
22
3.2.3. Môi trường pháp lý……………………………………………….
22
3.2.4. Những nguyên nhân bất khả kháng………………………………
23
4. Những hình thức cơ bản để phòng ngừa rủi ro tín dụng……………...
24
4.1. Tính tất yếu khách quan phải có đảm bảo tín dụng………………...
25
4.2. Những hình thức cơ bản phòng ngừa rủi ro tín dụng……………….
25
4.2.1. Tài sản thế chấp…………………………………………………..
25
4.2.2. Cầm cố tài sản……………………………………………………
28
4.2.3. Bảo lãnh…………………………………………………………..
29
4.2.4. Bảo đảm…………………………………………………………..
30
4.3. Cơ chế phòng ngừa rủi ro tín dụng của các Ngân hàng…………….
31
Chương II: Thực trạng rủi ro tín dụng và vấn đề phòng ngừa rủi ro tín dụng đối với Công ty Đầu tư Xây dựng Công trình………….
35
I. Vài nét về tình hình hoạt động tín dụng của Ngân hàng…………..
35
1. Sơ lược về Ngân hàng Thương mại Cổ phần ………………………...
35
1.1. Quá trình hình thành và phát triển………………………………….
35
1.2. Cơ cấu tổ chức của Ngân hàng Thương mại Cổ phần……………...
37
2. Kết quả hoạt động kinh doanh của Ngân hàng Thương mại…………
39
2.1. Khái quát chung hoạt động của Ngân hàng………………………..
39
2.2. Những hoạt động chủ yếu………………………………………….
40
2.2.1. Đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh…………………………
40
2.2.2. Hoạt động tín dụng……………………………………………….
42
2.2.3. Các hoạt động dịch vụ……………………………………………
45
2.3. Thu chi tài chính……………………………………………………
46
2.4. Kết quả kinh doanh………………………………………………...
47
II. Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Thương mại ………………….
48
1. Giới thiệu chung về Công ty Đầu tư Xây dựng………………………
48
2. Tình hình Sản xuất kinh doanh của Công ty…………………………
49
3. Quan hệ tín dụng giữa Ngân hàng Thương mại Cổ phần…………….
52
III. Những ưu điểm và tồn tại trong hoạt động tín dụng……………..
57
1. Ưu điểm……………………………………………………………...
57
2. Tồn tại………………………………………………………………..
57
2.1. Về trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng……………………...
57
2.2. Về xác định kỳ hạn nợ và thời điểm thu nợ………………………...
58
2.3. Về tài sản thế chấp…………………………………………………
58
2.4. Nợ quá hạn và tiến độ xử lý nợ quá hạn……………………………
59
2.5. Về đối tượng khách hàng…………………………………………..
60
3. Nguyên nhân rủi ro tín dụng trong mối quan hệ……………………..
60
3.1. Nguyên nhân từ phía Ngân hàng…………………………………...
60
3.2. Nguyên nhân từ phía Công ty Xây dựng Công trình……………….
61
Chương III: Một số giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội…………………….
62
I. Một số giải pháp cơ bản nhằm hạn chế rủi ro tín dụng……………
62
1. Nâng cao chất lượng cán bộ cuả Ngân hàng………………………...
62
1.1. Năng lực điều hành của ban lãnh đạo Ngân hàng………………….
62
1.2. Đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn……………
62
2. Nâng cao chất lượng thẩm định khác hàng………………………….
66
2.1. Phân tích các chỉ số tài chính của doanh nghiệp…………………...
67
2.2. Kết hợp các chỉ số tài chính với phân tích lưu chuyển……………..
69
2.3. Kết hợp phân tích năng lực tài chính định lượng…………………...
70
2.4. Xác định tín hiệu và đề nghị phê chuẩn……………………………
72
3. Bảo đảm tín dụng bằng tài sản thế chấp, cầm cố…………………….
73
3.1. Cần nâng cao chất lượng bảo đảm tín dụng………………………..
73
3.2. Bảo lãnh…………………………………………………………….
75
3.3. Thực hiện bảo hiểm tín dụng……………………………………….
76
4. Xử lý món vay có vấn đề……………………………………………..
77
5. Mở rộng cạnh tranh…………………………………………………..
80
5.1. Mở rộng quan hệ tín dụng nhằm phân tán rủi ro…………………...
80
5.2. Đa dạng hoá các sản phẩm, dịch vụ tín dụng………………………
80
5.3. Thiết lập quan hệ tốt và lâu bền với khách hàng…………………...
81
II. Những tiền đề để thực hiện các giải pháp nêu trên……………….
83
1. Về phía Nhà nước…………………………………………………….
83
2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt nam……………………………...
84
3. Đối với các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế……………..
85
Kết luận
87
Danh mục tài liệu tham khảo
Tiền tệ, Ngân hàng và Thị trường tài chính - Frederic S.Mishkin – NXB Khoa học – kỹ thuật 1999
Ngân hàng thương mại – Giáo sư Tiến sĩ Lê Văn Tư – NXB Thống kê 2000
Luật Ngân hàng Nhà nước Việt nam
Luật các tổ chức tín dụng
Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29-12-1999 của Chính phủ về bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng
Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12-9-2000 của Chính phủ về tổ chứ và hoạt động của Ngân hàng Thương mại.
Giáo trình nghiệp vụ Ngân hàng – Tín dụng Ngân hàng – Trường đại học Quản lý và Kinh doanh Hà nội - năm 2000
Nghiệp vụ Ngân hàng hiện đại (David Cox) – NXB Chính trị quốc gia 1997
Tạp chí Ngân hàng số 17 năm 1999
Tạp chí Ngân hàng số 12 năm 2000
Tạp chí Ngân hàng số 4 năm 2001
Tạp chí Ngân hàng số 5 năm 2001
Tạp chí Ngân hàng số 11 năm 2001
Tạp chí Khoa học đào tạo Ngân hàng số 1 năm 2001
Tạp chí kinh tế và dự báo số 7 năm 2000
Báo cáo tổng kết năm 20001 của Ngân hàng TMCP Quân đội
Chuyên đề xử lý tài sản thế chấp của tạp chí Ngân hàng tháng 12/1998
Báo cáo tài chính và kết quả hoạt động SXKD Công ty đầu tư xây dựng công trình năm 1998,1999.
Đề tài “ Vai trò tín dụng ngân hàng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong công cuộc đổi mới nền kinh tế Việt nam” - Viện nghiên cứu khoa học ngân hàng - tháng 10 năm 1999.
Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 1-9-1999 của Chính phủ về bảo hiểm tiền gửi.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0205.doc