Đề tài Một số biện pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty may Thăng Long

Một doanh nghiệp nến áp dụng tổng hợp các hình thức bán buôn, bán lẻ, bán tại kho tất nhiên sẽ tiêu thụ được nhiều hàng hoá hơn những doanh nghiệp chỉ áp dụng đơn thuân một hình thức bán hàng. Doanh nghiệp cũng cần phải tổ chức mạng lưới cửa hàng và các đại lý phân phối sản phẩm tiếp cận người mua. Trong công tác tổ chức bán hàng, doanh nghiệp luôn luôn phải tôn trọng khách hàng, coi “khách hàng là thượng đế” và luôn “làm vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”, có như vậy thì hoạt động tiêu thụ sản phẩm hàng hoá mới đạt hiệu quả cao.

doc43 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1171 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở công ty may Thăng Long, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
quả cao. Đánh giá chung về tình hình tiêu thụ , số lượng, chất lượng, mặt hàng. DN có thể sử dụng các kết quả kỳ trước hoặc các chỉ tiêu kế hoạch để so sánh và qua đó thấy được mức độ hoàn thành. Hiệu quả hoạt động tiêu thụ sản phẩm thể hiện thông qua các chỉ tiêu phản ánh tình hình tiêu thụ sản phẩm của DN , đó là lượng sản phẩm được đo bằng chỉ tiêu hiện vật và chỉ tiêu giá trị. * Thước đo bằng hiện vật : Sản lượng sản phẩm tiêu thụ Sản lượng sản phẩm tồn kho đầu kỳ Sản lượng sản phẩm sản xuất trong kỳ Sản lượng sản phẩm tồn kho cuối kỳ Doanh thu tiêu thụ hàng hoá Khối lượng hàng hoá tiêu thụ Giá bán đơn vị hàng hoá Tỷ lệ hoàn thành kế hoạch tiêu thụ (số lượng) Khối lượng sản phẩm tiêu thụ thực tế Khối lượng sản phẩm tiêu thụ kế hoạch * Thước đo bằng giá trị + Các phương thức thanh toán Trao đổi, mua bán hàng hoá trong nền kinh tế hiện đại gắn liền với sự đa dạng của các phương thức thanh toán như: bằng tiền mặt, séc, bằng chuyển khoản, mở L/C thanh toán qua ngân hàng, hàng đổi hàng, thanh toán ngay, thanh toán chậm, bán theo phương thức trả góp Khi phải quyết định mua hàng của các doanh nghiệp có cùng một loại sản phẩm với chất lượng giá bán như nhau. Khách hàng sẽ tìm đến doanh nghiệp đưa ra được phương thức thanh toán thuận lợi và phù hợp với điều kiện của khách hàng. Như vậy, phương thức thanh toán đa dạng và linh hoạt cũng là một phương thức cạnh tranh tốt trên thương trường. d. Hoạt động quảng cáo giới thiệu sản phẩm Quảng cáo là phương tiện để truyền tin định trước về sản phẩm tới thị trường và người tiêu dùng. Mục đích của quảng cáo là để giới thiệu và thu hút sự chú ý của người tiêu dùng trong thị trường đã định, thuyết phục họ về lợi ích, sự hấp dẫn và những lợi ích của sản phẩm. Hiệu quả của một chiến dịch quảng cáo để thay đổi, củng cố thái độ và lòng tin của người tiêu dùng về sản phẩm làm tăng lòng ham muốn của họ. Có nhiều phương tiện quảng cáo phổ biến như: báo chí, các phương tiện thông tin đại chúng, pano, áp phích, tờ rơi hoặc thông qua hội nghị khách hàng để giới thiệu sản phẩm. Trên đây là các nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và doanh thu tiêu thụ của doanh nghiệp. Ngoài ra, đường lối chính sách, phương thức phát triển kinh tế, các công cụ điều tiết vĩ mô của Nhà nước, sự phát triển của cơ sở hạ tầng như: hệ thống đường giao thông,lưới điện, các dịch vụ bưu chính viễn thông cũng đều ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp thị trường, khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp. Có sự tác động của nhiều nhân tố như vậy, việc tính toán mức độ ảnh hưởng của từng nhân tố và tìm ra cách giải quyết tối ưu là nhiệm vụ mang tính chất sống còn của doanh nghiệp. Chính vì vậy việc dựa vào các giải pháp về tài chính để hạn chế những tiêu cực và dần loại bỏ nó là một đòi hỏi cần thiết. III. Một số giải pháp tài chính để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm hàng hoá của doanh nghiệp Giá cả của sản phẩm hàng hoá Trong cơ chế thị trường, giá cả của hàng hoá, dịch vụ là kết quả của một quá trình cạnh tranh, dung hoà về lợi ích giữa người bán và người mua. Chính vì vậy chính sách định giá của nhà kinh doanh phải rất linh hoạt và nhạy bén. Khi một hàng hoá mới được tung ra thị trường, thu hút sự chú ý của người tiêu dùng là lúc doanh nghiệp định giá bán cao để nâng cao doanh thu. Lúc này giá có cao một chút cũng không cản trở người tiêu dùng đến với sản phẩm của doanh nghiệp. Nhưng khi sản phẩm đã bước vào giai đoạn bão hoà thì doanh nghiệp lại hạ thấp giá bán để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, nhanh chóng thu hồi vốn. Nhiều khi vì những nguyên nhân nào đó mà nhu cầu về sản phẩm, hàng hoá tăng cao hoặc giảm mạnh thì doanh nghiệp cũng cần phải điều tiết giá cả để bảo đảm doanh thu và tiêu thụ sản phẩm theo định mức. Trong công tác tiêu thụ sản phẩm, việc giảm giá được các doanh nghiệp đặc biệt chú trọng. Một số phương thức giảm giá thường được áp dụng là: Giảm giá theo khối lượng sản phẩm: Khách hàng mua sản phẩm với khối lượng lớn sẽ được doanh nghiệp giảm giá theo một mức nhất định. Mức giảm giá cũng có thể được chia thành nhiều cấp bập khác nhau. Khách hàng mua sản phẩm với số lượng lớn sẽ được hưởng mức giảm giá cao, mua sản phẩm với số lượng ít hơn sẽ được hưởng mức giảm giá thấp hơn Giảm giá theo kỳ ngắn hạn: Theo phương thức này, trong một khoản thời gian ngắn mọi khách hàng mua it hay nhiều đều được giảm giá( mức giảm giá có thể đồng đều trên đơn vị sản phẩm hoặc kết hợp với phân bậc theo số lượng sản phẩm). Hết thời hạn, giá cả lại trở lại bình thường. Các doanh nghiệp đưa ra những lý do hết sức khôn khéo như: “Giảm giá nhân dịp năm mới” và nhân những ngày lễ lớn trong năm. Ngoài ra một số doanh nghiệp còn áp dụng hình thức giảm giá cho một số đối tượng khách hàng như: Học sinh, sinh viên, thương binh, gia đình liệt sĩ, gia đình chính sách Như vậy có thể nói rằng, giá cả là một công cụ sắc bén trong nền kinh tế thị trường và đặc biệt mang lại hiệu quả cao trong việc tiêu thụ sản phẩm ở những thị trường mà mức độ tiêu dùng và khả năng thanh toán còn thấp như ở nước ta. Chiết khấu bán hàng Chiết khấu bán hàng là hình thức doanh nghiệp khấu trừ cho khách hàng một số tiền tương ứng với tỷ lệ phần trăm số tiền tình trên giá trị số hàng hoá khách hàng mua của doanh nghiệp. Có hai loại triết khấu: Chiết khấu thanh toán: là số tiền người bán giảm trừ cho khách hàng đã thanh toàn tiền hàng trước thời hạn quy định nhằm khuyến khích việc thanh toán nhanh, tiền bán hàng không bị chiếm dụng, vón kinh doanh được quay vòng vốn. Chiết khấu bán hàng: Tính theo số lượng hàng hoá bán ra, khách hàng mua đạt đến mức độ nào đó sẽ được hưởng chiết khấu theo tỷ lệ số lượng hàng hoá bán ra. Hoa hồng các đại lý, cửa hàng ký gửi Để mở rộng thị trường tiêu thụ, việc mở rộng hàng loạt các đại lý là hết sức cần thiết, bên cạnh đó doanh nghiệp cần phải có những chính sách nhằm khuyến khích các đại lý hoạt động có hiệu quả hơn. Doanh nghiệp trích theo một tỷ lệ phần trăm (%) trên doanh thu bán hàng của đại lý để trả công cho đại lý. Số tiền này được gọi là tiền hoa hồng cho các đại lý. Vậy muốn các đại lý tiêu thụ được nhiều sản phẩm thì doanh nghiệp phải đưa ra tỷ lệ phần trăm hoa hồng linh hoạt và thoả đáng. 4. Cước phí vận chuyển Để tạo thuận lợi cho khách hàng nhất là những khách hàng ở xa, phần lớn các doanh nghiệp đều đảm nhận phần vận chuyển hàng hoá cho khách hàng. Việc vận chuyển hàng hoá không phải là công cụ tài chính khi khách hàng trả đầy đủ tiền cước phí vận chuyển nhưng khi giảm giá cước phí vận chuyển hoặc vận chuyển miễn phí thì số tiền cước phí đó lại trở thành một công cụ tài chính phục vụ cho công tác tiêu thụ hàng hoá của doanh nghiệp. 5. Quà tặng kèm theo Trong công tác tiêu thụ hàng hoá, nếu chỉ đáp ứng nhu cầu của khách hàng thì chưa đủ, để khuyến khích khách hàng lựa chọn hàng hoá và làm cho khách hàng thấy được những lợi ích khi chọn mua sản phẩm của mình thì ngoài quảng cáo giới thiệu sản phẩm, doanh nghiệp còn phải tạo ra sự quan tâm của mình đến khách hàng bằng cách tặng quà cho khách hàng khi mua hàng đạt đến một số lượng, giá trị nhất định hoặc tặng qua cho khách hàng trong những ngày lễ tết trong năm. Đẩy mạnh tiêu thụ hàng hoá sẽ khiến cho tình hình tài chính doanh nghiệp được ổn định và lớn mạnh, ngược lại phát huy vai trò của tài chính sẽ thúc đẩy mở rộng không ngừng việc tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Cũng giống như tất cả các doanh nghiệp Nhà nước khi chuyển sang cơ chế thị trường, bên cạnh những thành tích đã đạt được trong những năm đổi mới, Công ty may Thăng Long còn gặp rất nhiều hạn chế, vướng mắc trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Để đi sâu vào tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến sự thành công cũng như những hạn chế, vướng mắc trong việc tổ chức tiêu thụ sản phẩm của Công ty, ta sẽ tiến hành phân tích, đánh giá ở chương sau. CHƯƠNG II TÌNH HÌNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM VÀ CÁC BIỆN PHÁP ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM CỦA CÔNG TY MAY THĂNG LONG. I. Giới thiệu khái quát chung về công ty 1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty may Thăng Long Tên gọi : Công ty May Thăng Long Tên giao dịch quốc tế : Thang Long Gament Company Tên viết tắt : Thaloga Trụ sở chính : 250 – Minh Khai – Hai Bà Trưng – Hà Nội Fax : 844 – 8623374 Điện thoại : (048)623372 – 623053 E-mail : Thaloga@fpt.vn Công ty may Thăng Long là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Tổng công ty Dệt may Việt Nam, được thành lập ngày 08/05/1958. Công ty ra đời trong bối cảnh miền Bắc được hoàn toàn giải phóng, bước vào thời kỳ khôi phục và cải tạo nền kinh tế. Cuối năm 1958 hàng may mặc của Việt Nam do công ty may Thăng Long lần đầu tiên có mặt trên thị trường Liên Xô, đã dần dần chiếm lĩnh và thu hút được người tiêu dùng ở Matxcơva. Sản phẩm chủ yếu lúc bấy giờ là: Chermi, Pigama, áo Măng tô nam và nữ. Đến ngày 15/12/1958 công ty đã hoàn thành xuất sắc kế hoạch đầu tiên của mình với tổng sản lượng là : 391.129 sản phẩm so với chỉ tiêu kế hoạch đạt 112,8% , giá trị tổng sản lượng tăng 840.822 đồng. Những năm hoạt động theo cơ chế quản lý kế hoạch hoá tập chung, Công ty vẫn luôn đạt được thành tích xuất sắc, tỷ lệ thực hiện kế hoạch năm thấp nhất là 100,36% và năm cao nhất là 109,12%. Công ty đã được nhận nhiều Huân chương Lao động do Nhà nước trao tặng. Năm 1990, đất nước bước vào thời kỳ đổi mới, các doanh nghiệp thực hiện quản lý theo cơ chế thị trường, tiến hành mạnh mẽ công cuộc đổi mới, lúc này một thị trường lớn của công ty là Đông Đức bị tan rã. Trước những vấn đề khó khăn đó, Ban lãnh đạo Công ty đã có những quyết định đúng đắn để vượt qua những khó khăn thử thách. Công ty đã quyết định đầu tư, trang bị thêm máy móc thiết bị, sắp xếp lại sản xuất, cải tiến bộ máy quản lý phù hợp với yêu cầu mới. Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh tiếp thị, tìm kiếm thêm thị trường mới, tập trung vào các thị trường như Tây Âu, Nhật Bản và chú ý hơn nữa đến các thị trường may nội đia. Kết quả đạt được năm 1991, Công ty đã được Nhà nước cấp giấy phép xuất khẩu trực tiếp. Công ty đã được Chủ tịch nước tặng thưởng Huân chương Chiến công hạng ba năm 1996, Huân chương Độc lập hạng ba năm 1997 và năm 1998. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh Trải qua 45 năm trưởng thành và phát triển, Công ty may Thăng Long từng bước vươn lên và trở thành một trong những doanh nghiệp đứng đầu ngành dệt may Việt Nam. Với nhiệm vụ vừa nghiên cứu, vừa thiết kế mẫu, vừa tiến hành sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, Công ty đã đáp ứng được nhu cầu trong và ngoài nước, mang lại cho Ngân sách Nhà nước một lượng ngoại tệ lớn. Hiện nay công ty đang sản xuất và kinh doanh các mặt hàng chủ yếu sau Quần áo bò Quần, áo sơ mi nam, nữ, comple Áo Jackét các loại Áo khoác các loại Quần áo thể thao và quần áo dệt kim - Bộ đồng phục người lớn và trẻ em Công ty chuyên sản xuất các mặt hàng may mặc có chất lượng cao theo đơn đặt hàng của khách hàng trong và ngoài nước, sản xuất các sản phẩm nhựa và kinh doanh kho ngoại quan phục vụ ngành Dệt may Việt Nam. Công ty có hệ thống quản lý chất lượng đạt tiêu chuẩn ISO 9002. Trong những năm vùa qua, sản phẩm của công ty luôn được khách hàng ưa thích và bình chọn là hàng Việt Nam chất lượng cao. Những thành tích đáng kể được thể hiện qua các chỉ tiêu tổng quát sau: Chỉ tiêu Đơn vị tính Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1. Tổng doanh thu Triệu đồng 65.045 86.168 104.822,66 2. Kim ngạch xuất khẩu Triệu USD 27 29.7 30 3. Giá trị tổng sản lượng Triệu đồng 69.702 76.570 82.675 4. Tổng lợi nhuận trước thuế Triệu đồng 1.408 1.527 1.605,36 5. Nộp ngâp sách Triệu đồng 2.473 2.874 3.369 6. Vốn cố định Triệu đồng 12.393 12.393 12.393 Trong đó vốn ngân sách Nhà Nước cấp 8.000 8.000 8.000 7. Vốn lưu động Triệu đồng 3.922 4.422 4.972 Trong đó vốn ngân sách 3.680 4.180 4.744 8. Lực lượng lao động Người 1.930 2.003 2.300 9. Thu nhập bình quân(người/đồng) Đồng/người/1 tháng 735.000 855.00 1.018.000 Hàng năm, Công ty sản xuất khoảng 6 triệu sản phẩm, trong đó xuất khẩu chiếm hơn 80%, sản phẩm hiện có mặt ở hơn 40 quốc gia trên thế giới và được chấp nhận ở cả những thị trường khó tính như : Nhật, Mỹ, Pháp, Hàn Quốc, Hông Kông, Hà Lan Trong đó một số thị trường đã trở thành khách hàng truyền thống của Công ty. Điều đó đã khẳng định được tên tuổi, uy tín và vị trí của Công ty trên thị trường. Bộ máy tổ chức quản lý của Công ty may Thăng Long Để hoàn thành nhiệm vụ trên, Công ty tổ chức quản lý theo cơ cấu kết hợp trưc tuyến – chức năng đảm bảo gọn nhẹ, hiệu quả và phù hợp với đặc điểm tổ chức sản xuất. Giám đốc Các phó giám đốc Phòng kế hoạch Phòng KCS Phòng kỹ thuật Phòng thị trường Phòng kho Phòng kế toán TTTMGTSP Các XN thành viên Văn phòng Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy quản lý tại công ty may Thăng Long - Giám đốc : là người đứng đầu bộ máy công ty, thay mặt công ty chịu trách nhiệm trước pháp luật Nhà nước và toàn bộ hoạt động trong Công ty. - Các phó giám đốc : là người giúp việc cho tổng giám đốc và chịu trách nhiệm trước Giám đốc về các quyết định có liên quan đến lĩnh vực được phân công. - Văn phòng tổng hợp: tham mưu cho tổng giám đốc về mặt tổ chức, tuyển dụng, bố trí lao động, đào tạo cán bộ công nhân viên, thục hiện công tác tiền lương, BHXH, BHYT. - Phòng kỹ thuật – thị trường: tham mưu cho giám đốc, vụ khảo sát nghiên cứu thị trường, thiết kế, tạo mẫu sẩn phẩm. - Phòng kế hoạch sản xuất: tham mưu cho giám đốc nắm vững các yếu tố vật tư, năng lực thiết bị, lập kế hoạch sản xuất kịp thời. - Phòng kế toàn – tài vụ: Có nhiệm vụ chuẩn bị và quản lý nguồn tài chính phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của Công ty. Phòng này có nhiệm vụ phân tích tổng hợp đánh giá kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, về tài sản của Công ty trong từng thời kỳ, từng năm và thực hiện chế độ kế toán hiện hành của Nhà nước. - Phòng KCS: Có nhiệm vụ xây dựng các phương án quản lý, nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm chi phí trong sản xuất, kiểm tra và đánh giá chất lượng sản phẩm trước khi nhập kho cũng như khi giao cho khách hành. - Phòng kho: Có nhiệm vụ quản lý cấp phát nguyên vật liệu cho quá trình sản xuất và thành phẩm nhập kho. - Cửa hàng dịch vụ: Làm công tác dịch vụ, phục vụ cho đới sống công nhân trong xí nghiệp. - Trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm: Các mặt hàng sản xuất của Công ty được trưng bày, vừa để giới thiệu, vừa để bán và cũng là nơi tiếp nhận ý kiến của người tiêu dùng. 4. Đặc điểm, hình thức tổ chức công tác kế toán Với đặc diểm tổ chức sản xuất và kinh doanh của công ty, công tác hạch toán kế toán giữ vai trò quan trọng, thực hiện đầy đủ chức năng kế toán của mình, phản ánh quá trình hình thành và vận động của tài sản. Kế toán tại công ty đã thực hiện đầy đủ các giai đoạn của quá trình hạch toán từ khâu lập chứng từ đến lập hệ thống báo các kế toán. Công ty sử dụng chương trình phần mềm kế toán để trợ giúp công tác kế toán thường ngày. Các chứng từ phát sinh được thực hiện theo hai phương pháp là ghi sổ và nhập vào máy. Xuất phát từ đặc điểm tổ chức kinh doanh,yêu cầu quản lý và trình độ, bộ máy kế toán của công ty may Thăng Long được tổ chức theo hình thức kế toán tập trung. Theo hình thức này, phòng kế toán của công ty ở các xí nghiệp thành viên, các bộ phận trực thuộc không tổ chức bộ máy kế toán riêng mà chỉ bố chí các nhân viên hạch toán làm nhiệm vụ hướng dẫn kiểm tra công tác hạch toán ban đầu, thu thập chứng từ và ghi chép hạch toán giản đơn để chuyển về phòng kế toán tập chung. Sơ đồ 2: Sơ đồ bộ máy kế toán Kế toán trưởng Kế toán tổng hợp Kế toán tiền mặt Kế toán công nợ Kế toán tiêu thụ Kế toán tiền lương Kế toán TSCD Kế toán vật tư Nhân viên thống kê tại xí nghiệp Thủ quỹ - Kế toán trưởng: là người chịu trách nhiệm chung toàn bộ công tác kế toán của công ty, theo dõi quản lý và tổ chức điều hành công tác kế toán. - Kế toán tổng hợp: là người giúp việc chính cho kế toán trưởng, tập hợp số liệu để ghi vào các sổ tổng hợp sau đó lập các báo cáo tài chính. - Kế toán vật tư: theo dõi chi tiết và tổng hợp tình hình nhập, xuất tồn kho từng loại vật tư bao gồm: vật liệu chính, vật liệu phụ, công cụ lao động nhỏ ra hàng ngày. - Kế toán TSCĐ: theo dõi tình hình trích, tăng, giảm khấu hao TSCĐ theo dõi các nguồn vốn và các quỹ của công ty. - Kế toán tiêu thụ: theo dõi tình hình nhập, xuất tồn kho thành phẩm, hạch toán doanh thu. - Kế toán công nợ: theo dõi tình hình thanh toán công nợ với khách hàng, với nhà cung cấp và các ngân hàng mà Công ty có giao dịch. - Kế toán tiền mặt: có nhiệm vụ lập các phiếu thu, phiếu chi trên cơ sở mở sổ theo dõi các khoản thu bằng tiền mặt phát sinh hàng ngày tại Công ty. - Nhân viên thống kê tại các xí nghiệp: có nhiệm vụ hướng dẫn, kiểm tra công tác hạch toán ban đầu, thu thập chứng từ và ghi chép hạch toán giản đơn để chuyển về phòng kế toán tập trung. - Thủ quỹ công ty: Có nhiệm vụ giữ tiền mặt của công ty, căn cứ vào phiếu thu phiếu chi, kèm theo chứng từ gốc hợp lý, hợp lệ để nhập hoặc xuất quỹ. Cuối ngày thủ quỹ tiến hành đối chiếu với sổ quỹ của kế toán tiền mặt và chuyển toàn bộ chứng từ thu chi sang kế toán tiền mặt và lập báo cáo quỹ. II.Tình hình hoạt động kinh doanh của công ty may Thăng Long 1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty trong 3 năm 2000 -2001 và 2002 Bảng 1: Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Đơn vị tính: Triệu đồng TT Chỉ tiêu Hoạt động SX & KD 2002/2001 2003/2002 2001 2002 2003 Số tiền % Số tiền % 1 Tổng doanh thu 65.045 86.168 104.822 21.123 32,47 18.654 21,65 Trong đó doanh thu xuất khẩu 54.401 72.516 81.014 18.115 33,30 8.498 11,27 2 Doanh thu thuần 63.872 85.593 102.649 21.721 34,01 17.056 19,93 3 Giá vốn bán hàng 49.816 69.702 83.435 19.886 39,92 13.733 19,70 4 Lãi gộp 14.056 15.981 19.214 1.835 13,05 3.323 20,91 5 Chi phí bán hàng 5.280 6.075 5.710 795 15,06 365 6,01 6 Chi phí QLDN 7.600 8.629 11.929 1.029 13,54 3.300 38,24 7 Lãi thuần HĐKD 1.176 1.187 1.575 11 0,94 389 32,08 8 Tổng LN trước thuế 1.210 1.508 1.605 298 24,63 97 6,43 9 Thuế TNDN 387 482 514 95 24,63 31 6,43 10 LN sau thuế 823 1.026 1.091 203 24,63 66 6,43 11 Thu nhập BQ/người/tháng 0,735 0,855 1.018.000 Qua số liệu trên ta thấy Công ty đang hoạt động ngày một hiệu quả, thể hiện trước hết ở doanh thu và kim ngạch xuất khẩu luôn luôn tăng với tốc độ cao, đặc biệt là doanh thu hàng xuất khẩu. Tốc độ tăng doanh thu trung bình mỗi năm là 27%. Cụ thể, năm 2002 là 86.168 triệu tăng 32,47% (+21.123 triệu) so với năm 2001 trong đó doanh thu xuất khẩu tăng 33,30%. Tuy nhiên trong năm 2003 tình hình cạnh tranh ngày càng cao trong thị trường nội địa cũng như trên thị trường thế giới, nên tốc độ tăng tổng doanh thu có giảm đôi chút, năm 2003 tăng 21,65% (+18.654 triệu) so với năm 2002, nhưng tốc độ tăng doanh thu hàng xuất khẩu lại bị sụt giảm mạnh chỉ tăng 11,72% (+8.498 triệu) so với năm 2002. Xét trên bình diện chung của cả ngành thì đây là một kết quả khả quan thể hiện mức tăng trưởng cao của doanh nghiêp. Do đạt được mức tăng tổng doanh thu cao vào năm 2002 nên đã làm cho tổng lợi nhuận cũng tăng tương ứng với mức tăng 24,63% (+298 triệu) so với năm 2001, nhưng khi qua năm 2003 mức tăng tổng lợi nhuận trước thuế đã giảm khá mạnh do phải cạnh tranh, bắt buộc Công ty phải nâng cao chất lượng, giảm giá hàng bán nên chỉ tăng 6,43% (+98 triệu) so với năm 2002. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu thuần năm 2001 là 1,29% hay nói cách khác là cứ 100 đồng doanh thu thì tạo ra 1,29 đồng lợi nhuận sau thuế, năm 2002 là 1,2% còn năm 2003 đã xuống tới mức 1,06% tức là 100 đồng doanh thu chỉ còn tạo ra được 1,06 đồng lợi nhuận sau thuế. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm 2003 đã sụt giảm so với năm trước, nguyên nhân chủ yếu là do doanh thu xuất khẩu giảm mạnh. Mức sụt giảm này cho thấy hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty ở thị trường ngoài nước đang gặp nhiều khó khăn do cạnh tranh quyết liệt bắt buộc công ty phải giảm giá bán để duy trì thị trường, dẫn đến giá vốn bán hàng chiếm tỷ trọng cao trong doanh thu thuần, tỷ trọng bình quân giá vốn bán hàng trong doanh thu thuần là trên 80% và luôn tăng nhanh hơn mức tăng của doanh thu thuần. Đây là nguyên nhân trực tiếp dấn đến lợi nhuận sau thuế giảm mạnh, mức tăng lợi nhuận sau thuế năm 2002 đạt 24,63% thì tới năm 2003 đã giảm tới mức rất thấp là 6,43% dẫn tới tỷ suất lợi nhuận doanh thu giảm dần. Chi phi bán hàng có giảm đôi chút còn chi phi quản lý có tăng về số tuyệt đối nhưng lại giảm về mặt tỷ trọng so với doanh thu thuần, năm 2001 là 11,89%, năm 2003 là 11,62% đây là một dấu hiệu cho thấy Công ty đã sử dụng tổ chức bộ máy quản lý và lao động gián tiếp một cách có hiệu quả. Là một doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu là chính, cho nên nguyên vật liệu chủ yếu phải mua từ nước ngoài, vì vậy Công ty bị phụ thuộc thị trường nguyên vật liệu nước ngoài. Công ty phải có các biện pháp quản lý hàng tồn kho, có kế hoạch dự trữ nguyên vật liệu và giảm tối đa chi phí. Bảng 2: Chỉ số hàng tồn kho Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 Số tiền % Số tiền % Số tiền % 1. NVL tồn kho 5.923 38,17 4.206 23,52 4.670 24,14 2. Công cụ dụng cụ 859 5,53 283 1,58 0 0,00 3. CP XSKD dở dang 349 2,24 1.912 10,69 8.667 4,48 4. Thành phẩm tồn kho 6.851 43,91 10.072 56,32 11.544 59,68 5. Hàng tồn kho 1.572 10,13 1.412 7,89 610 3,16 6. Hàng gửi bán 0 0,00 0 0,00 1.650 8,53 7. Vòng quay HTK 1,21 vòng 1,9 vòng 4,82 vòng 8. Kỳ luân chuyển HTK 297 ngày 189 ngày 75 ngày Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy nguyên vật liệu và thành phẩm tồn kho chiếm một tỷ trong khá lớn trong tài sản tồn kho của Công ty: Nguyên vật liệu dự trữ có xu hướng giảm dần, năm 2001 là 38,17%, năm 2002 còn 23,52% và năm 2003 là 24,14% trong khi doanh thu hàng năm vẫn tăng như Bảng 1 đã trình bày, chứng tỏ quy mô sản xuất được mở rộng trong khi do nguyên vật liệu dự trữ đã có sự chấn chỉnh, đảm bảo dự trữ hợp lý. Sản phẩm may mặc mang tính thời vụ và hơn nữa luôn được thay đổi mẫu mã, màu sắc vì thế những sản phẩm tồn kho của mùa kinh doanh trước thường được coi là lỗi mốt nên tiêu thụ chậm. Số liệu ở bảng 2 cho ta thấy Công ty đã có những biện pháp giảm sản phẩm tồn kho có hiệu quả, năm 2001 tỷ trọng lượng sản phẩm tồn kho chiếm 10,13% thì tới năm 2003 chỉ còn 3,16%. Có một nét mới trong công tác tiêu thụ sản phẩm trong năm 2003 đó là đã có một bộ phận hàng gửi bán. Biện pháp này vừa giúp Công ty giảm lượng hàng tồn kho vừa có thể mở rộng mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Mở rộng thị trường trong nước là một chiến lược phân phối hợp lý trong điều kiện hiện nay bởi lẽ mức sống của người dân đã được cải thiện rất nhiều và họ là những khách hàng tiềm năng có khả năng tiêu thụ các mặt hàng trung và cao cấp của công ty. Để phát triển thị trường này, ngay từ năm 2002 Công ty đã chú trọng đến việc mở rộng hệ thống mạng lưới đại lý, khai trương trung tâm thương mại và giới thiệu sản phẩm. Nhờ những cố gắng đó, vòng quay hàng tồn kho đã tăng gấp 1,57 lần so với năm 2001 đạt 1,9 vòng, giảm kỳ luân chuyển hàng tồn kho xuống còn 189 ngày, năm 2003 vòng quay hàng tồn kho tăng 2,53 lần so với năm 2002 đạt 4,82 vòng, kỳ luân chuyển hàng tồn kho giảm còn 75 ngày giúp cho việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động của Công ty. 2. Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, vấn đề về nguồn vốn vẫn luôn là một vấn đề hết sức khó khăn. Vì vậy, chúng ta cần phân tích cơ cấu nguồn vốn để đánh giá khả năng về mặt tài chính của công ty cũng như mức độ tự chủ chủ động trong kinh doanh. Bảng 3 cho ta thấy nguồn vốn chủ sở hữu tăng 1,99% (+350,38 triệu) nhưng về tỷ trọng tổng số nguồn vốn lại giảm xuống từ 26,49% năm 2002 xuống còn 24,02% vào năm 2003 Bảng 3: Cơ cấu nguồn vốn kinh doanh Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 2003/2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % A. Nợ phải trả 1. Nợ ngắn hạn 2. Nợ dài hạn 3. Nợ khác 48.950,11 73,51 56.909,3 75,98 +7.959,19 16,26 35.590,03 53,44 42.623,56 56,9 +7.033,53 19,76 13.360,08 20,06 14.285,74 19,08 +925,66 6,93 - - - - - - B. Nguồn vốn chủ sở hữu 1. Nguồn vốn quỹ 2. Nguồn kinh phí 17.642,98 26,49 17.993,36 24,02 +350,38 1,99 17.642,98 26,49 17.993,36 24,02 350,38 1,99 - - - - - - Tổng nguồn vốn 66.593,09 100,00 74.902,66 100,00 +8.308,57 12,48 (Nguồn: Bảng CĐKT năm 2002 và 2003, Cty may Thăng Long) Trong khi đó nợ phải trả năm 2003 tăng 16,26% (+7.959,19 triệu) so với năm 2002. Mà nợ phải trả của Công ty chiếm tỷ trọng rất cao trong tổng nguồn vốn. Điều này cho thấy để hỗ trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh Công ty phải thường xuyên huy động nguồn lực từ bên ngoài mà chủ yếu là nợ ngắn hạn. Sở dĩ hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty phụ thuộc bởi nguồn vốn vay ngắn hạn vì hiện nay nhu cầu vốn của Công ty ngày càng tăng trong khi nguồn vốn ngân sách Nhà Nước cấp còn quá eo hẹp, vốn tự bổ sung quá ít, ngoài ra việc huy động vốn từ công nhân viên còn hạn chế. Do đó Công ty chỉ có thể huy động vốn từ vay ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian mà các nguồn này thường là nguồn vốn ngắn hạn. Mặc khác, do phần lớn nguyên vật liệu của Công ty phần lớn đều được nhập từ nước ngoài, Công ty phải mở L/C để nhập nguyên vật liệu nên tỷ lệ vay ngắn hạn ngân hàng cao là điều không tránh khỏi. 3. Chi phí bán hàng – chi phí quản lý doanh nghiệp Như ta đã biết, để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh thì đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra những chi phí nhất định. Đây là một trong những nhân tố có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận. Vì vậy, phấn đấu hạn thấp chi phí hoạt động kinh doanh luôn là phương hướng cơ bản, lâu dài nhằm tăng lợi nhuận và tạo được lợi thế cho doanh nghiệp trong cạnh tranh. Để làm được điều này Công ty cần áp dụng rất nhiều biện pháp như quản lý chặt chẽ trong suốt quá trình mua bán hàng hoá, sử dụng hợp lý tiền vốn, sức lao động, máy móc, thiết bị tuy nhiên vẫn phải đảm bảo chất lượng hàng hoá. Bảng 4: Tình hình chi phí bán hàng, chi phí QLDN Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 2002/2001 2003/2002 Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Số tiền % Doanh thu thuần 63.872 100 85.593 100 102.649 100 21.721 34,01 17.056 19,93 Giá vốn bán hàng 49.816 77,99 69.702 81,43 83.435 81,28 19.886 39,92 13.733 19,70 Chi phí bán hàng 5.280 8,27 6.075 7,09 5.710 5,56 795 15,06 365 6,01 Chi phí QLDN 7.600 11,90 8.629 10,08 11.929 11,62 1.029 13,54 3.300 38,24 Lợi nhuận từ hoạt động SXKD 1.176 1,84 1.187 1,39 1.575 1,53 11 0,94 389 32,08 Qua bảng số liệu 4 ta thấy: Chi phí bán hàng năm 2002 là 6.075 triệu tăng 13,06% (+ 795 triệu) so với năm 2001, đến năm 2003 chi phí bán hàng là 5.712 triệu, giảm 6,01% (-365 triệu) so với năm 2002. Điều này cũng dễ hiểu bởi vì năm 2001 là năm Công ty bắt đầu mởi rộng các đại lý tiêu thụ sản phẩm nên việc tăng chi phí bán hàng là không thể tránh khỏi. Sang năm 2003, Công ty đã ổn định được hệ thống các đại lý bán hàng và các đại lý cũng đã đi vào hoạt động do đó chi phí bán hàng đã giảm 6,01% so với năm 2002. Chi phí quản lý doanh nghiệp năm 2002 là 8.629 triệu, tăng 13,54% (+1.029 triệu) so với năm 2001 và đến năm 2003 là 11.929 triệu, tăng 38,24% (+3.300 triệu) so với năm 2002. Chi phí quản lý tăng cao trong hai năm 2002 và 2003 là vì trong những năm gần đay Công ty đã mở rộng hệ thống các xí nghiệp sản xuất tại khu Láng – Hoà Lạc và tại tỉnh Hà Nam, nhưng việc chi phí quản lý doanh nghiệp tăng cao cũng là một điều đáng lo ngại mà Công ty cần phải có giải pháp giảm chi phí quản lý doanh nghiệp. 4. Công tác tổ chức bán hàng của công ty: Để thích ứng và đứng vững trong cơ chế thị trường, sản xuất và tiêu thụ sản phẩm phải đi liền với nhau, không thể chỉ chú trọng sản xuất mà xem nhẹ vấn đề tiêu tụ sản phẩm. Hơn nữa, để tiêu thụ sản phẩn trên thị trường thì Công ty phải bán sản phẩm mà thị trường cần chứ không phải bán sản phẩm mà Công ty có khả năng sản xuất. Chính vì vậy trong công tác tổ chức bán hàng của mình, Công ty đã có những nỗ lực, cố gắng trong việc tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm cũng như việc thu hút khách hàng đến với sản phẩm của mình. Để tiêu thụ sản phẩm của mình trên thị trường trong và ngoài nước, Công ty luôn sẵn sàng ký hợp đồng, nhận đơn đặt hàng của mọi khách hàng với số lượng không hạn chế. Tuy vậy, muốn có được hợp đồng, đơn đặt hàng từ phía khách hàng, nhiệm vụ đầu tiên của Công ty là giao cho phòng kỹ thuật nghiên cứu, thiết kế sản phẩm. Để thoả mãn nhu cầu của khách hàng về sản phẩm như: Kiểu dáng, màu sắc, chủng loại, chất lượng... khi đã đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, khách hàng chấp nhận ký kết hợp đồng, ấn định ngày giao hàng và phương thức thanh toán tiền hàng. Bên cạnh đó, Công ty còn chủ động mở các đại lý, của hàng giới thiệu sản phẩm. Các địa lý này vừa là nơi phân phối hàng của Công ty đồng thời cũng là nơi thu nhận những thông tin của khách hàng trong việc đánh giá sản phẩm, để từ đó Công ty có những cải tiến sản phẩm của mình nhằm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Đúng như câu cửa miệng người ta hay nói trong thời buổi kinh tế thi trường “Khách hàng là thượng đế ”, phương thức bán hàng của Công ty đã bắt đầu thích ứng với cơ chế thị trường: - Khách hàng đến mua hàng của Công ty, Công ty đã đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm , số lượng sản phẩm, thời hạn giao sản phẩm cũng nhu phương thức thanh toán. - Công ty nhận trách nhiệm về mình những vấn đề phát sinh trong quá trình thực hiện hợp đồng giao hàng cho khách hàng, miễn là những phát sinh đó ảnh hưởng không lớn tới hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. - Việc mở hàng chục đại lý tiêu thụ sản phẩm của Công ty trong cả nước tuy rằng hơi muộn song đó cũng là bước ban đầu cho việc bán sản phẩm của Công ty trong phạm vi cả nước. Song bên cạnh đó, các phương thức bán hàng của Công ty vẫn còn những nhựơc điểm nhất định: - Công ty vẫn chưa thực sự năng động trong việc tìm kiếm khách hàng của mình. Hầu hết khách hàng là những bạn hàng quen lâu năm của Công ty, bên cạnh đó cũng có một số khách hàng tự tìm đến với sản phẩm của Công ty thông qua các nguồn tin trên thị trường. Do đó nên lượng khách hàng của Công ty chưa nhiều lắm, chủ yếu là những khách hàng cũ của Công ty, còn việc Công ty chủ động đi tìm kiếm khách hàng là rất ít. - Trong điều kiện như hiện nay, các Công ty muốn bán được nhiều sản phẩm hàng hoá của mình thì phải vận dụng tổng hợp các hình thức bán buôn bán lẻ ... Trong khi đó Công ty may Thăng Long mới chỉ áp dụng việc bán hàng theo khối lượng lớn theo đơn đặt hàng hoặc phân phối sản phẩm của mình thông qua mạng lưới đại lý. Còn việc thiết lập hệ thống các cửa hàng bán lẻ phục vụ cho mọi đối tượng của người tiêu dùng còn rất ít. III. Một số chính sách tài chính mà Công ty may Thăng Long đã thục hiện trong thời gian qua 1. Chính sách về giá cả Để đáp ứng nhu cầu ngày càng phong phú và đa dạng của thị trường, Công ty đã từng bước nâng cao chất lượng, kiểu dáng và mẫu mã các loại sản phẩm. Đồng thời, Công ty cũng đặc biệt quan tâm tới giá cả của mỗi sản phẩm bán ra, bởi vì giá cả là một trong các chính sách đặc biệt quan trong đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mỗi một doanh nghiệp, nó là một trong những vấn đề không thể thiếu trong chiến lược tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp, việc tính toán giá bán cho mỗi sản phẩm làm sao phải bù đắp được mọi chi phí cho sản phẩm đó và có lãi nhưng vẫn đảm bảo được quyền lợi cho khách hàng. Giá thành sản xuất của toàn bộ sản phẩm Giá thành sản xuất chung Chi phí bán hàng Chi phí QLDN Tại Công ty giá bán ra của sản phẩm được tính theo công thức: 2. Chính sách về chiết khấu và cước phí vận chuyển Một điều quan trọng trong việc đưa ra chính sách về giá cả là việc tuỳ vào phương thức thanh toán khác nhau, Công ty sẽ đưa ra các tỷ lệ chiết khấu và cước phí vận tải khác nhau: - Với phương thức thanh toán trả tiền ngay: Công ty sẽ giao hàng tận nơi cho các khách hàng ở trong địa bàn thành phố, nếu khách hàng ở các tỉnh xa thì Công ty sẽ hỗ trợ 30% chi phí vận chuyển. Chiết khấu hàng bán được tính là 2% trên giá thành của mỗi đơn vị sản phẩm, chiết khấu thanh toán là 1,5% tính trên toàn bộ trị giá lô hàng - Với phương thức trả chậm: Công ty sẽ giao hàng tận nơi cho các khách hàng ở trong địa bàn thành phố, nếu khách hàng ở các tỉnh xa thì Công ty sẽ hỗ trợ 30% chi phí vận chuyển. Khách hàng sẽ phải thế chấp trước một khoản tiền (bằng 2/3 giá trị lô hàng đầu tiên khi bắt đầu thực hiện hợp đồng) trước khi lấy hàng. Khi đã có khoản thế chấp này, khách hàng sẽ được áp dụng phương thức thanh toán gối đầu, tức là chỉ phải trả tiền đợt hàng trước khi mua đợt hàng sau. Khách hàng sau khi thanh toán tiền mới được hưởng chiết khấu. Chiết khấu hàng bán được tính là 1,2% trên giá thành của mỗi đơn vị sản phẩm, chiết khấu thanh toán là 0,5% tính trên toàn bộ trị giá lô hàng.Nếu khách hàng thanh toán sau 3 tháng, khách hàng không những không được hưởng chiết khấu mà còn phải chịu lãi suất theo lãi suất vay vốn của ngân hàng trên số tiền chậm thanh toán quá hạn đó. 3. Tổ chức công tác thanh toán linh hoạt Khách hàng chủ yếu tiêu thụ sản phẩm của công ty là khách hàng nước ngoài. Nên việc thanh toán tiền hàng của khách hàng cho công ty gặp không ít khó khăn. Vì vậy để tạo thuận lợi cho việc thanh toán tiền hàng của khách hàng Công ty đã vận dụng nhiều hình thức thanh toán khác nhau: thanh toán bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản, mở L/C, hàng đổi hàngĐể tạo điều kiện có đủ thời gian huy động tiền để trả tiền hàng cho Công ty, Công ty còn áp dụng các hình thức trả chậm cho khách hàng. Nếu khách hàng không đủ khả năng thanh toàn ngay toàn bộ số tiền hàng, Công ty chấp nhận cho khách hàng trả chậm trong vòng từ 1 đến 3 tháng. Song cũng tuỳ từng đối tượng khách hàng cụ thể mà thời gian trả chậm khác nhau và số tiền trả chậm tối đa cũng khác nhau. Theo quy định của Công ty, thời gian trả chậm tối đa không quá 3 tháng và số tiền trả chậm không vượt quá 1/4 tổng số tiền hàng. Mọi số nợ quá hạn đều phải chịu lãi suất theo lãi suất vốn vay của ngân hàng. Những quy định trên đây đã tạo điều kiện thanh toán thuận lợi cho khách hàng đến mua hàng, thắt chặt và củng cố thêm mối quan hệ giữa khách hàng với Công ty. Đồng thời, đảm bảo cho tài sản và tiền vốn của Công ty có một mức độ an toàn nhất định. 4.Phương thức phân phối sản phẩm Trong thời gian tới Công ty đang tìm cách hạ giá thành sản phẩm , có các chính sách trợ giá, ưu đãi đặc biệt với các đại lý, những khách hàng mua với số lượng lớn nhằm kích thích tiêu thụ, tăng thị phần và khả năng cạnh tranh của công ty. Các sản phẩm của Công ty may Thăng Long chủ yếu được phân phối qua trung gian là các đại lý, các thương nhân và các tiểu thương. Nhờ vào uy tín đã được tích luỹ trong suốt hơn 40 năm hình thành và phát triển, đến nay sản phẩm của Công ty đã có chỗ đứng vững chắc trong lòng khách hàng, Công ty đã có mạng lưới các đại lý tiêu thụ sản phẩm trên toàn quốc và trên một số thị trường quốc tế. Sản phẩm Công ty may Thăng Long đang phải cạnh tranh với rất nhiều sản phẩm của các công ty khác tại thị trường trong nước như: may 10, may 20, may Đức Giang, may Việt Tiến, may Hà Nội và một số sản phẩm ngoại nhập. Đối với thị trường ngoài nước, sản phẩm của công ty chưa thật sự vững mạnh, điều đó đã dẫn đến xuất khẩu sản phẩm không ổn định. Để đứng vững tại thị trường trong và ngoài nước Công ty cần phải có những biên pháp cải tiến về sản phẩm, chất lượng sản phẩm, giá thành sản phẩm, tìm kiếm thêm các thị trường tiềm năng và các biện pháp hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm. Kênh phân phối sản phẩm của công ty được thể hiện qua mô hình sau: Sơ đồ 3: Sơ đồ kênh phân phối sản phẩm Nhà sản xuất Đại lý Thương nhân (bán buôn) Xuất khẩu Tiểu thương (bán lẻ) Người tiêu dùng Đây là mô hình kênh phân phối gọn nhẹ, phù hợp với công ty. Nhưng hiện nay số lượng các đại lý nhất là các đại lý cỡ lớn còn chưa nhiều, chưa có nhiều các trung tâm thời trang và giới thiệu sản phẩm nên việc tiêu thụ sản phẩm còn chưa đem lại hiệu quả cao. Do đó trong thời gian tới công ty cần có các giải pháp về tổ chức, quả lý và mở rộng mạng lưới phân phối hiệu quả hơn để nâng cao khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm. 5. Chính sách tổng hợp về thị trường Quảng cáo, khuyến mại, giới thiệu sản phẩm, sẽ làm cho sản phẩm hàng hoá tiêu thụ được nhiều hơn và nhanh hơn. Song quảng cáo phải đảm bảo yêu cầu về số lượng chất lượng thông tin cao, đồng bộ và đa dạng nhưng phải phù hợp với chi phí dành cho quảng cáo. Công ty nên sử dụng các phương tiện thông tin đại chúng như : truyền hình, báo chí, để quảng cáo cho sản phẩm của mình. Thông qua các phương tiện này các thông tin về sản phẩm của Công ty mới đến được với khách hàng và người tiêu dùng một cách sinh động nhất. Ngoài các biện pháp nêu trên, Công ty còn có các chính sách xúc tiền bán hàng thông qua các chương trình triển lãm, hội chợ, hội chợ hàng tiêu dùng, hội chợi hàng Việt Nam chất lượng cao, thông qua đó công ty cũng thực hiện các hoạt động chào hàng, giới thiệu sản phẩm và quảng bá sản phảm đến với người tiêu dùng, đồng thời tiếp thu ý kiền phản hồi từ phía người tiêu dùng về chất lượng và mẫu mã kiểu dáng sản phẩm. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH NHẰM NÂNG CAO KHẢ NĂNG CẠNH TRANH VÀ ĐẨY MẠNH TIÊU THỤ SẢN PHẨM TẠI CÔNG TY MAY THĂNG LONG I. Phương hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới Trong những năm qua Công ty may Thăng Long đã đạt được những kết quả rất đáng phấn khởi. Doanh thu và lợi nhuận của Công ty luôn tăng, đời sống của cán bộ công nhân viên ngày càng được cải thiện. Tuy nhiên, không dừng lại ở đó, Công ty may Thăng Long vẫn không ngừng vươn lên phát huy nội lực và tận dụng tiềm năng để đẩy mạnh sản xuất xuất khẩu góp phần trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Cụ thể trong những năm tới Công ty đề ra phương hướng tăng trưởng hàng năm khoảng từ 18% đến 20%. Ngoài ra Công ty còn tìm những biện pháp tổ chức sản xuất quản lý, khai thác nhiều đơn đặt hàng trực tiếp để luôn nâng cao được tỷ lệ lợi nhuận đầu tư cho phát triển doanh nghiệp tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho cho cán bộ công nhân viên tăng đống góp vào cho ngân sách Nhà nước và tăng thu nhập bình quân hàng năm. Trên cơ sở những thành quả đã đạt được trong những năm qua, Công ty đã xây dựng kế hoạch dự kiến năm 2003 với tổng doanh thu là 130 tỷ đồng, trong đó doanh thu xuất khẩu là 98,135 triệu đồng, kim ngạch xuất khẩu là 37 triệu USĐ với lợi nhuận là 1,9 tỷ đồng và thu nhập bình quân là 1,2 triệu/người/tháng. Đồng thời Công ty còn dự kiến đầu tư thêm 8 tỷ đồng để mua sắm máy móc thiết bị nhằm nâng cao năng suất và chất lưọng sản phẩm. Trong những năm tới, Công ty sẽ tiếp tục nghiên cứu và tìm phương án phát triển mở rộng thị trường của Công ty tới các thị trường có cức tiêu thụ lớn như Anh, Thuỵ Điển, Mỹ, Canada,... Bên cạnh đó Công ty còn chú trọng đến các thị trường Châu á như Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc... đây vốn là những khách hàng có bề dày chuyền thống trong quan hệ làm ăn với Công ty. Công ty may Thăng Long sẽ tiếp tục tìm kiếm bạn hàng ở các nước phát triển, ký kết hợp đồng trực tiếp với khách hàng để thu được lợi nhuận cao hơn. Từng bước đẩy mạnh kinh doanh theo phương thức mua đứt bán đoạn để tăng doanh thu và lợi nhuận. Theo phương thức này, Công ty chủ động được trong sản xuất kinh doanh và lợi nhuận thu về lớn hơn rất nhiều so với hoạt động gia công. Vì thế phương thức mua bán trực tiếp được coi là mục tiêu chiến lược của Công ty trong thời gian tới. Thêm vào đó, Công ty sẽ tích cực hơn trong việc tìm kiếm nguồn cung cấp nguyên vật liệu phù hợp, đặc biệt là tăng cường sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước để hạ thấp giá thành sản phẩm. Trên cơ sở đó, Công ty đẩy mạnh việc hợp tác, liên kết với các Công ty như: Công ty dệt 19/5, công ty Dệt vải công nghiệp, công ty nhuộm Hà Đông... nhằm khai thác thị trường nguyên liệu nội địa ngày càng hiệu quả. II. Một số kiến nghị về những biên pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty may Thăng Long 1. Hoàn thiện chính sách về giá cả Phấn đấu hạ thấp giá bán sản phẩm bằng cách tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Để tiết kiệm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, Công ty may Thăng Long có thể áp dụng một số biện pháp sau: - Hạ thấp chi phí nguyên vật liệu bằng cách lựa chọn được nguồn vật tối ưu trong nước nhằm thay thế nguyên vật liệu nhập ngoại. - Tổ chức quản lý, phân công lao động khoa học hợp lý, sử dụng có hiệu quả chi phí tiền lương, tiền thưởng trong sản xuất kinh doanh. - Hạ thấp chi phí quản lý doanh nghiệp một cách phù hợp và khoa học 2. Nâng cao chất lượng sản phẩm Là một Công ty sản xuất sản phẩm chủ yếu là phục vụ cho xuất khẩu vì vậy Công ty phải luôn chú trọng nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến mẫu mã sản phẩm. Muốn đứng vững trên thị trường có sức cạnh tranh gay gắt như hiện nay, điều đầu tiên đối với mỗi doanh nghiệp cần phải chú ý đó là chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm luôn luôn là thứ vũ khí cạnh tranh sắc bén, có hiệu quả và lâu bền nhất. Do đó việc nâng cao chất lượng sản phẩm và cải tiến, đổi mới mẫu mã là điều không thể thiếu được trong thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Để thực hiện được điều này, Công ty có thể áp dụng một số biện pháp sau đây: - Phải thường xuyên bảo dưỡng, trang bị thêm các máy móc thiết bị chuyên dụng cần thiết. - Đảm bảo sử dụng các loại vật tư đúng chất lượng quy định, đúng định mức kinh tế – kỹ thuật. Nâng cao chât lượng nguyên vật liệu đầu vào. - Nâng cao trình độ năng lực, trình độ tay nghề của công nhân sản xuât. Chú trọng nhiều hơn nữa vào công tác quản lý chất lượng của mình. - Thiết kế và cho ra đời nhiều mẫu mã sản phẩm mới. 3. Hoàn thiện công tác tổ chức bán hàng Trong điều kiện kinh tế thị trường như hiện nay, kinh mà khách hàng được tôn vinh là “ thượng đế ” thì bất cứ một doanh nghiệp nào muốn tồn tại và phát triển được thì phải chủ động tìm đến với khách hàng, không thể duy trì phương pháp bán hàng thụ động, ngồi chờ khách hàng đến mua sản phẩm. Đối với công tác tổ chức bán hàng của Công ty, theo em Công ty có thể hoàn thiện hơn nữa công tác tổ chức bán hàng của mình theo những khía cạnh sau: - Thiết lập các cửa hàng bán lẻ và mở rộng hơn nữa hệ thống các đại lý phân phối : Hiện nay thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty chủ yếu là thị trường nước ngoài, do đó việc mở rộng các đại lý phân phối ở thị trường nước ngoài là rất khó khăn. Song về chiến lược lâu dài, Công ty cần phải hướng tới việc mở rộng mạng lưới phân phối sản phẩm ra thị trường nước ngoài. Bên cạnh đó, Công ty cũng cần chú ý nhiều hơn nữa đến thị trường trong nước, mở rộng mạng lưới đại lý trên toàn quốc bởi vì thị trường trong nước là rất lớn mà lâu nay Công ty vẫn chưa thực sự coi trọng. - Bổ xung thêm một số điều khoản trong hợp đồng tiêu thụ sản phẩm như: sản phẩm hàng hoá ra khỏi Công ty thì thuộc trách nhiệm bên nào, ai chịu trách nhiệm về mất mát trên đường vận chuyển, các hình thức thanh toán, thời hạn thanh toán, và các điều kiện đảm bảo tiền hàng sẽ được thanh toán đúng hạn đúng hợp đồng,... - Năng động trong công tác bán hàng và giao dịch bán hàng 4. Tăng cường các biện pháp kinh tế tài chính có tính chất đòn bẩy thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm - Giảm giá cho khách hàng mua sản phẩm với số lượng lớn: Công ty có thể quy định về lượng sản phẩm mua đến những khối lượng nhất định thì sẽ được giảm một tỷ lệ giá tương ứng hoặc Công ty có thể giảm giá nhân các ngày lễ, tết trong năm. - Cần điều chỉnh tỷ lệ chiết khấu thanh toàn hợp lý hơn. Bởi vì, theo em thì để có thể đặt ra tỷ lệ chiết khấu thanh toán hợp lý thì phải đặt nó trong sự liên hệ với lãi suất vay vốn ngân hàng. Vì vậy việc cho khách hàng hưởng tỷ lệ chiết khấu lớn hơn lãi suất vay vốn kinh doanh của ngân hàng để có thể thu tiền hàng ngay để đưa vào tái sản xuất vẫn có lợi hơn là đợi khách hàng trả toàn bộ số tiền hàng. 5. Tổ chức tốt công tác điêu tra nghiên cứu thị trường Việc nghiên cứu thị trường có rất nhiều phương pháp thực hiện nhưng chủ chốt vẫn bao gồm những cách sau: - Tổ chức các buổi hội nghị khách hàng để từ đó có thể thu nhận thông tin phản ánh của người tiêu dùng về khả năng tiêu thụ sản phẩm ở từng khu vực. - Xem xét, chú trọng đặc biệt đến các khu vực được xem là trọng điểm, có khả năng sử dụng sản phẩm của công ty, có thể tiêu thụ lâu dài. - Tìm hiểu, thu thập thông tin về các doanh nghiệp được coi là đối thủ cạnh tranh. Khi tiến hành công tác nghiên cứu thị trường, theo ý kiến của em, cần phải thực hiện các bước sau: + Bước 1: Vạch ra phương án có tính khả thi về một thị trường mới. + Bước 2: Thu thạp thông tin một cách chính xác về thị trường muốn tìm hiểu (khả năng tiêu thụ, phương thức hoạt động, địa điểm thuẩn lợi) + Bước 3: Sau khi thu thập dầy đủ các thông tin về thị trường mới, cần phân tích và chọn lọc những thông tin có giá chị và được xem là quan trọng. + Bước 4: Đánh giá, lựa chọn những thông tin thu thập được và kết hợp với các thông tin tối ưu nhất, dựa vào đó đưa ra các chiến lược về thị trường đó, lựa chọn giải pháp tối ưu nhât. 6. Xây dựng chiến lược quảng cáo tổng hợp, nhiều hình thức và hiệu quả Quảng cáo, giới thiệu sản phẩm sẽ làm cho người tiêu dùng hiểu biết nhiều hơn về sản phẩm hàng hoá của Công ty, qua đó việc tiêu thụ sản phẩm sẽ đem lại hiệu quả cao hơn. Song quảng cáo phải đảm bảo yêu cầu về số lượng, chất lượng thông tin cao, phù hợp với văn hoá, luật pháp của từng vùng thị trường. Trong thời gian qua, công tác quảng cáo cũng như chi phí dành cho quảng cáo, giới thiệu sản phẩm chưa được Công ty quan tâm một cách thoả đáng. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần phải lựa chọn các hình thức quảng cáo, các chi phí dành cho quảng cáo thích hợp với đặc điếm sản phẩm của Công ty. Việc lựa chọn phương tiện quảng cáo, Công ty nên chọn: các phương tiện truyền hình, báo chí để quảng cáo cho sản phẩm của mình. Bởi vì, thông qua các phương tiện này các thông tin về sản phẩm của Công ty mới đến được với khách hàng và người tiêu dùng một cách sinh động nhất. Ngoài ra, Công ty còn có thể kết hợp sử dụng các phương tiện quảng cáo ít tốn kém hơn như Pano, áp phích trên các phương tiện giao thông, các nơi công cộng. Trên đây là một số ý kiến đóng góp của em nhằm góp phần đẩy mạnh công tác tiêu thụ sản phẩm của Công ty may Thăng Long. Trước khi khép lại cuốn luận văn này em xin có đôi lời kết luận. KẾT LUẬN Tiêu thụ sản phẩm và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm luôn luôn là vần đề quan tâm của bất kỳ doanh nghiệp nào tồn tại trong điều kiện kinh tế thị trường có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Song tuỳ theo đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp mà các biện pháp được vận dụng để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm có sự khác nhau. Là một sinh viên khoa Quản lý doanh nghiệp, trong thời gian thực tập tại Công ty may Thăng Long, em đã tìm hiểu tình hình chung về sản xuất kinh doanh và đi sâu vào tìm hiểu phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Kết hợp giữa tình hình thực tế và kiến thức đã được trang bị ở trường, em đã mạnh dạn đề xuất một số ý kiến về các biên pháp chủ yếu để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ sản phẩm ở Công ty may Thăng Long. Mặc dù đã hết sức cố gắng trong việc trình bày và phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Song do trình độ và tầm hiểu biết có hạn nên những nội dung mà em trình bày trong cuồn luận văn này không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do đó, em rất mong được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo, của các cô chú cán bộ Công ty may Thăng Long. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn thầy giáo hướng dẫn đã chỉ bảo tận tình, cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn cũng như trong toàn trường đã trang bị cho em những kiến thức khoa học quý báu. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 10 năm 2005 MỤC LỤC Lời nói đầu 1 Chương I: Tiêu thụ sản phẩm và vai trò của tài chính doanh nghiệp trong việc đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm 2 I. Vai trò của tài chính doanh nghiệp 2 II. Tiêu thụ sản phẩm và doanh thu tiêu thụ sản phẩm ở doanh nghiệp 3 1. Khái niệm tiêu thụ sản phẩm 3 2. Doanh thu tiêu thu sản phẩm 3 3. Mối quan hệ giữa tiêu thụ sản phẩm với tình hình tài chính của DN 6 4. Những nhân tố ảnh hưởng tới tiêu thụ sản phẩm 9 III. Một số giải pháp tài chính để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm của DN 13 1. Giá cả của sản phẩm hàng hoá 13 2. Chiết khấu bán hàng 14 3. Hoa hồng các đại lý 14 4. Cước phí vận chuyển 14 5. Quà tặng kèm theo 15 Chương II: Tình hình tiêu thụ sản phẩm và các biện pháp đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty may Thăng Long 16 I. Giới thiệu khái quát chung về Công ty 16 1. Quá trình hình thành và phát triển 16 2. Nhiệm vụ sản xuất kinh doanh 17 3. Bộ máy tổ chức quản lý 18 4. Đặc điểm, hình thức tổ chức công tác kế toán 20 II. Tình hình hoạt động kinh doanh của Công ty may Thăng Long 22 1. Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm 2001- 2002-2003 22 2. Cơ cấu vốn kinh doanh 25 3. Chi phí bán hàng – chi phí quản lý 26 4. Công tác tổ chức bán hàng 27 III. Một số chính sách tài chính mà Công ty may Thăng Long đã thực hiện trong thời gian qua 29 1. Chính sách về giá cả 29 2. Chính sách về chiết khấu và cước phí vận chuyển 29 3. Tổ chức công tác thanh toán linh hoạt 30 4. Phương thức phân phối sản phẩm 31 5. Chính sách tổng hợp về thị trường 32 Chương III: Một số giải pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm tại Công ty may Thăng Long 33 I. Phương hướng phát triển của Công ty trong thời gian tới 33 II. Một số kiến nghị về những biên pháp tài chính nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm ở Công ty may Thăng Long 34 1. Hoàn thiện chính sách về giá 34 2. Nâng cao chất lượng sản phẩm 34 3. Hoàn thiện công tác tổ chức bán hàng 35 4. Tăng cường các biện pháp kinh tế tài chính có tính chất đòn bẩy thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm 36 5. Tổ chức tốt công tác điêu tra nghiên cứu thị trường 36 6. Xây dựng chiến lược quảng cáo tổng hợp, nhiều hình thức và hiệu quả Kết luận 37 38

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3709.doc
Tài liệu liên quan