Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào

Nghiên cứu thị trường là xem xét khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường. Nghiên cứu thị trường được thực hiện theo hai bước: Nghiên cứu khái quát và nghiên cứu chi tiết . Nghiên cứu khái quát của thị trường là cung cấp những thông tin về quy mô, cơ cấu, sự vận động của thị trường, các nhân tố ảnh hưởng đến thị trường như môi trường cạnh tranh, môi trương chính trị pháp luật, khoa học công nghệ, môi trường văn hoá xã hội, môi trường địa lý sinh thái. Nghiên cứu chi tiết của thị trường cho biết tập quán mua hàng của thị trường, những thói quen và những ảnh hưởng đến những hành vi mua hàng của người tiêu dùng.

doc73 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1232 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
công nghiệp, công tác thăm dò và khai thác khoáng sản, sản xuất và phân phối hàng tiêu dùng, kinh doanh du lịch và dịch vụ. - Mặc dù kim ngạch hai chiều giữa Việt Nam và Lào năm 2006 mới chỉ đạt 260 triệu USD trong đó Việt Nam xuất siêu. Năm tới, với việc triển khai xây dựng nhanh các nhà máy thủy điện lớn như Sêcaman 3 (vốn đầu tư 273 triệu USD và nhiều dự án lớn khác, khối lượng vật tư hàng hoá giao lưu hai chiều được dự đoán sẽ tăng lên mạnh. Việc tăng cường đầu tư vào Lào được xem là yếu tố quyết định đến tăng cường thương mại. Mục tiêu phấn đấu trong năm tới tại Lào từ 500 triệu USD lên 1 tỷ USD và đạt kim ngạch 1 tỷ USD vào năm 2010 và 2 tỷ USD vào năm 2015. Một số kiến nghị để thúc đẩy và tăng cường hiệu quả hoạt động đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam vào Lào: Nhà nước Việt Nam cần có sự hỗ trợ nhiều mặt bao gồm: Nghiên cứu và ban hành chính sách đối với Lào, nghiên cứu và ban hành thông tư liên tịch hướng dẫn riêng áp dụng cụ thể cho địa bàn Lào, nghiên cứu cụ thể hoạt động tại Lào, tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam được tiếp xúc và đối thoại định kỳ hàng năm với chính phủ Lào. Ngoài ra cần tăng cường hợp tác kinh tế giữa các tỉnh, thành phố kết nghĩa, các tỉnh có chung biên giới, khu công nghiệp, các hoạt động xúc tiến đầu tư và thương mại, triển khai mạnh cuộc vận động thành lập hiệp hội doanh nghiệp Việt Nam tại Lào, thông tin quản lý và thông tin thị trường cho các doanh nghiệp. 4- Khả năng cạnh tranh hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Lào: Hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam được đánh giá có lợi thế so sánh cao với các nước khác nhờ các yếu tố sau: - Nguồn lao động dồi dào và giá nhân công rẻ: Tính đến năm 2007 dân số Việt Nam khoang 84 triệu người trong đó khoảng 1 nửa trong độ tuổi lao động. Người lao động Việt Nam có truyền thống cần cù khéo léo, ham học hỏi, tiếp thu nhanh các kỹ thuật và công nghệ mới. Mức lương hiện nay khá thấp so với các nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực. Tiền công trung bình cho 1 công nhân Việt Nam là 0,3USD/giờ còn ở Indonexia 0,45USD/giờ, Thái Lan 0,95USD/giờ. Lao động dồi dào và tiền lương thấp là lợi thế cơ bản của Việt Nam. Trong giai đoạn này để tiếp nhận sự di chuyển của các ngành nghề từ các nước phát triển và các nước đang phát triển, thu hút vốn đầu tư cho sự phát triển của các ngành nghề sản xuất hàng hoá, tuy nhiên cần phải nghĩ rằng lợi thế về giá nhân công rẻ không phải là yếu tố ổn định trong cạnh tranh. Khi trình độ khoa học kỹ thuật phát triển thì lợi thế về lao động sẽ không còn sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nữa. - Vị trí địa lý và điều kiện giao thương hàng hoá. Việt Nam nằm trong khu vực đông nam á, khu vực những năm đầu của thập kỷ 90 có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất thế giới, với mức tăng trưởng kinh tế bình quân 6 – 8% năm, trong những năm qua và cũng là khu vực có đông dân số nhất thế giới. Vị trí của Việt Nam rất thuận lợi cho việc phát triển giao lưu hàng hải quốc tế với các khu vực trên thế giới, với bờ biển dài có nhiều cảng nước sâu và khí hậu tốt cũng như có điều kiện phát triển đường bộ và đường sắt theo dự án xây dựng đường sắt xuyên Âu - á Theo dự án ADB. Khả năng về nguyên liệu Việt Nam có nhiều vùng có khí hậu thổ nhưởng phù hợp cho việc phát triển cây lương thực, cây nguyên liệu. Bờ biển dài nguồn lợi hải sản dồi dào, phong phú. Tài nguyên thiên nhiên chưa được khai thác. - Các chính sách hỗ trợ của Chính phủ: Chính phủ tạo mọi điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá. Phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam có quy mô vừa và nhỏ, có khả năng thích nghi linh hoạt, dễ dàng đổi mới trang thiết bị, công nghệ theo biến động của thị trường. Bên cạnh đó hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn kém cạnh tranh hơn nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. - Về giá cả hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam: Giá cả thường cao hơn so với giá sản phẩm cùng loại của các nước trong khu vực khoảng 10 – 15%. Đặc biệt so với hàng Trung Quốc giá của ta thường cao hơn khoảng 20%. Một mặt do từ nguyên phụ liệu, công nghệ thiết bị đều phải nhập khẩu, một mặt do Việt Nam nhận làm gia công cho nước ngoài. - Về tổ chức sản xuất và xuất khẩu: Do doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, chưa có kinh nghiệm trong tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh, tổ chức hệ thống tiêu thụ sản phẩm, súc tiến xuất khẩu, hiệp hội ngành nghề chưa có hiệu quả cao, năng xuất lao động thấp, hệ thống tổ chức sản xuất chưa hợp lý, nhiều công đoạn thừa dẫn đến năng xuất lao động chưa cao. Số nhân công có tay nghề cao, có khả năng thực hiện nhiều công đoạn, nhiều sản phẩm chưa nhiều, làm hạn chế khả năng nhanh chóng chuyển đổi sản phẩm theo yêu cầu của người đặt hàng và thị trường. Việc quản lý lao động chưa thực hiện chặt chẽ, ý thức về tuân thủ thời gian lao động, về tiết kiệm chi phí của nhân công nhiều nơi còn thấp. - Về môi trường kinh doanh: Theo đánh giá của các nhà đầu tư nước ngoài Việt Nam kém hấp dẫn hơn nhiều nước trong khu vực do các thủ tục quản lý hành chính trong đầu tư nứơc ngoài, cơ sở hạ tầng của Việt Nam kém cạnh tranh hơn về nhiều phương diện: Các dịch vụ tài chính, ngân hàng, điều kiện giao thông vận tải, kho hàng bến bãi vừa thiếu, vừa yếu kém chi phí điện nước còn cao Chương III Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá Việt Nam sang thị trường Lào I- Định hướng và dự báo phát triển thương mại Việt Nam- Lào trong thời gian tới 1. Định hướng phát triển thương mại Việt Nam – Lào trong giai đoạn 2001 – 2010 Chiến lược phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001- 2010 đặt ra mục tiêu trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm tăng 7,2%) giá trị sản lượng tăng 4% / năm, đến năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng 16 á 17% GDP, tỷ trọng công nghiệp 40 á 41% GDP. Những nhiệm vụ và phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của nước ta đã được khẳng định trong văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX tíêp tục khẳng định "Củng cố vị trí ở các thị trường quen thuộc, khôi phục quan hệ với thị trường truyền thống, tìm kiếm thị trường và bạn hàng mới, giảm sự tập trung quá mức vào một thị trường. Tạo một số thị trường và bạn hàng lâu dài về những mặt hàng xuất khẩu, nhập khẩu chủ yếu, giảm xuất, nhập khẩu qua con đường trung gian. Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôi nhịp độ tăng trưởng GDP, tức là 14,4% / năm trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch từ 6 á 7 tỷ USD vào năm 2010, lương thực bình quân từ 4 á 5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch 3 tỷ USD sản phẩm công nghiệp chiếm 70 á 80% tổng kim ngạch xuất khẩu (các chỉ tiêu này sẽ còn được điều chỉnh). Xuất khẩu Xuất khẩu hàng hoá: Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001- 2010 là 15%/năm trong đó giai đoạn 2006- 2010 tăng 14%. Giá trị tăng từ 28,4 tỷ USD năm 2005 lên 54,6 tỷ USD năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000. Xuất khẩu dịch vụ tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001- 2010 là 15% / năm giá trị tăng từ khoảng 4 tỷ USD năm 2005 lên 8,1 tỷ USD vào năm 2010 tức là gấp 4 lần so với năm 2000. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2001 lên 63,7 tỷ USD vào năm 2010 tăng lên 4 lần. Nhập khẩu : Do Việt Nam còn đang trong quá trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá, trình độ phát triển kinh tế còn thấp nên chưa thể xoá bỏ ngay được tình trạng nhập siêu. Tuy nhiên, cần phải tiết kiệm ngoại tệ trong nhập khẩu, chỉ nhập các máy móc cần thiết, kìm chế nhập siêu. Dự kiến nhập khẩu như sau : Nhâp khẩu hàng hoá: Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001- 2010 là 14% / năm, trong đó giai đoạn 2006- 2010 là 13% / năm, giá trị kim ngạch nhập khẩu tăng từ khảng 14,5 tỷ USD năm 2001 lên 53,7 tỷ USD năm 2010. Nhập khẩu dịch vụ: Tốc độ tăng trưởng bình quân thời kỳ 2001- 2010 là 11% / năm, giá trị tăng khoảng 2,02 tỷ USD năm 2005 lên 3,4 tỷ USD năm 2010. Tổng kim ngạch nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ 15,7 tỷ USD năm 2001 lên 57,14 tỷ USD năm 2010. Như vậy trong 5 năm đầu 2001- 2005 nhập siêu về hàng hoá giảm dần, 5 năm tiếp theo 2006- 2010 nhập siêu tiếp tục giảm. Đến năm 2008 thì cân bằng xuất nhập khẩu hàng hoá, phấn đấu xuất siêu khoảng 1 tỷ USD vào năm 2010. 2. Định hướng phát triển kinh tế thương mại của Lào giai đoạn 2001- 2010 Từ năm 2006 nhân dân Lào tập trung thực hiện các nhiệm vụ mục tiêu của kế hoạch 5 năm lần thứ sáu (2006- 2010) trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội 10 năm (2001- 2010) được quyết định tại Đại hội Đảng Nhân dân Cách mạng Lào lần thứ 12 “Đẩy mạnh nhịp độ tăng trưởng kinh tế và cải thiện đời sống nhân dân, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng xây dựng nền kinh tế thị trường dựa trên tiềm năng phong phú của đất nước, kết hợp với hội nhập quốc tế. Đẩy mạnh xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa Dưới đây là một vài mục tiêu kinh tế- xã hội đến năm 2010: Tăng trưởng nền kinh tế hàng năm từ 7,5% á 8% , GDP năm 2010 bằng 1,95 lần đến 2 lần năm 2000, GDP bình quân đầu người đạt gần 830 USD cơ cấu kinh tế thay đổi, năm 2010 khu vực II- công nghiệp, xây dựng chiếm 36,4% GDP. Khu vực III- dịch vụ: 27,6% GDP Tổng kim ngạch xuất khẩu trong năm đạt 3,48 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm 18,1%, nhập khẩu 4,5 tỷ USD, tăng bình quân hàng năm 8,8%. Chỉ số giá tiêu dùng khoảng 6 á 6,5%. Giảm tốc độ tăng dân số xuống còn 1,91%, giảm tỷ lệ trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng xuống còn dưới 30%, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 15%. Trong thời gian gần đây tình hình phát triển kinh tế- xã hội Lào đã từng bước phát triển đạt được kết quả đáng kể. Năm 2006 sự phát triển kinh tế- xã hội Lào đạt được những mục tiêu sau: Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) tăng 7,8% so với năm 2005 là 7,5%. Thu nhập đầu người năm 2006 là 546 USD tăng so với năm 2005 là 445 USD Cơ cấu kinh tế đã có những thay đổi đáng kể. Năm 1990 khu vực I chiếm 60,7% GDP khu vực II là 14,4% đến năm 2005 khu vực I chỉ còn 45,4% ; khu vực II đã tăng lên 28,2%. Xuất khẩu tăng từ khoảng 50 triệu USD (1985) lên 330 triệu USD (2000) và 874,2 triệu USD (2006) Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) từ 1 triệu USD (1985) lên 556 triệu USD (2000) và 641 triệu USD (2004) Vốn ODA trong 5 năm (2001- 2005) đạt tới 945 triệu USD. 3. Dự báo chiến lược phát triển xuất nhập khẩu đến 2010 Khu vực Châu á- Thái Bình Dương Khu vực này được coi là thị trường trọng điểm, và thị trường trọng điểm tại khu vực này là các nước ASEAN và Lào là một trong 10 nước ASEAN. Khu vực Châu Âu. Tại khu vực Tây Âu trọng tâm sẽ là các nước Anh, Pháp, Đức, kim ngạch xuất khẩu sang EU tăng nhanh. Để phát triển xuất khẩu hơn nữa phải đáp ứng đòi hỏi cao về chất lượng và những luật lệ phức tạp của EU. Khu vực Bắc Mỹ: Trọng tâm là thị trường Hoa Kỳ, đây là nước nhập khẩu đứng hàng đầu thế giới với nhu cầu rất đa dạng, nắm những đỉnh cao về khoa học công nghệ và công nghệ nguồn. Tỷ trọng các thị trường xuất khẩu: Đơn vị tính: % Thị trường Tỷ trọng 2000 Tỷ trọng 2010 Châu á 57 á 60 45 á 50 Nhật Bản 15 á 16 17 á 18 ASEAN 23 á 25 15 á 16 Trung Quốc 16 á 18 14 á 16 Châu Âu 26 á 27 27 á 30 EU 21 á 23 25 á 27 SNG và Đông Âu 1,5 á 2 3 á 5 Bắc Mỹ (Mỹ) 5 á 6 15 á 20 úc và Newzeland 3 á 5 5 á 7 Các khu vực khác 2 2 á 3 II- Một số giải pháp thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào Tất cả những giải pháp được đề cập ở đây phần lớn nhằm mục đích thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam- Lào trong giai đoạn 2007- 2010 trong những giai đoạn tiếp theo. Khi điều kiện khách quan và chủ quan có thay đổi, những giải pháp này cần được thay thế, sửa đổi, bổ sung nhằm đạt được sự hợp lý và hiệu quả cần thiết. 1. Nhóm các giải pháp vĩ mô Nâng cao vai trò của cơ quan quản lý Trong chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Đảng ta nhấn mạnh “Chúng ta phải chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế đối ngoại hướng mạnh về xuất khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những mặt hàng trong nước xuất khẩu có hiệu quả, tranh thủ vốn, công nghệ và thị trường quốc tế để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Rõ ràng ở đây chính phủ Việt Nam đã chủ trương kết hợp cả 2 chiến lược: Hướng về xuất khẩu và thay thế nhập khẩu. Thực tế nền kinh tế Việt Nam trong những năm qua đã khẳng định vai trò chủ đạo, tiên phong và tầm quan trọng cuả chiến lược hướng ngoại. Chính phủ tăng cường đưa ra các biện pháp kích cầu mạnh mẽ như hỗ trợ doanh nghiệp xuấtkhẩu, ngoài các giải pháp như tăng vốn đầu tư ưu đãi, giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng thương mại quốc doanh, thì chính phủ thực hiện cơ chế khuyến khích sử dụng nguyên liệu trong nước để sản xuất hàng xuất khẩu, nhập khẩu mặt hàng mới chính phủ cần áp dụng VAT bằng 0. Chính phủ cần hỗ trợ từ nguồn ngân sách, vốn ODA đối với các dự án quy hoạch phát triển vùng nguyên liệu, quy hoạch các cụm công nghiệp, xây dựng các trung tâm thương mại sát đường biên, nâng cấp cơ sở hạ tầng, đào tạo và nghiên cứu các viện, trường. Việt Nam và Lào tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ngành thương mại giữa hai nước tăng nhanh kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá, khuyến khích trao đổi hàng hoá phục vụ dân cư khu vực biên giới. Bộ công thương Việt Nam nhanh chóng ban hành chính sách và các mặt hàng cụ thể miễn giảm thuế xuất nhập khẩu qua cửa khẩu và đường biên giới phù hợp với chính sách Chính phủ hai nước đã thống nhất đề án kiểm tra hàng hoá một lần tại cửa khẩu. Hiện nay đang thực hiện giai đoạn một và tích cực chuẩn bị để chuyển sang giai đoạn hai và ba. Tại cửa khẩu Lao Bảo Quảng Trị- Đen Sa Vẳn (Sa Va na khết) Về các biện pháp phi thuế quan: Việc quy định các mặt hàng cấm nhập khẩu cần cân nhắc cẩn thận, tránh gây ra các tác động tiêu cực như buôn lậu, trốn thuế. Việc tài trợ xuất khẩu cần xác định rõ mục đích, phương pháp và cơ chế bảo đảm, tránh tình trạng các doanh nghiệp ỷ lại, trì trệ và không cố gắng cải thiện tình hình, vươn ra thị trường thế giới. Xét về chuẩn mực quốc tế, Biện pháp phi thuế quan nhằm boả hộ sản xuất trong nước không được WTO chấp thuận. Vì vậy chúng ta cần xem xét để có thể bãi bỏ các biện pháp này và tiến hành thuế hoá các biện pháp phi thuế quan phù hợp với WTO. Về thể chế thương mại: Cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách quy định về quản lý thương mại, chủ động phê chuẩn các công ước quốc tế. Bên cạnh đó cần tăng cường hiệu lực thực hiện các quy định pháp luật về thương mại, bảo đảm thực hiện nghiêm minh, hạn chế mức cao nhất những vi phạm pháp luật thương mại. 2. Nhóm các giải pháp vi mô Hoàn thiện công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu Thị trường là vấn đề trọng yếu của nền kinh tế thị trường đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu thị trường đóng vai trò quyết định cho sự phát triển và tồn tại của doanh nghiệp. Nghiên cứu kỹ thị trường xuất khẩu là điều kiện đầu tiên đối với một doanh nghiệp muốn đưa sản phẩm của mình ra thị trường và mở rộng thị trường hiện tại. Mục đích của nghiên cứu thị trường nhằm đạt được bức tranh khái quát chính xác về thị trường cần phải nghiên cứu để xác định chính xác những nhu cầu trước khi đầu tư cho những công đoạn tiếp theo, nhằm tránh những rủi ro dẫn đến giảm sút doanh thu và mất uy tín doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tự tiến hành nghiên cứu thị trường, ngoài ra có thể sử dụng các nhà cố vấn, chuyên môn, để tiến hành nghiên cứu rộng độc lập và kỹ lưỡng. Ngày nay, thông tin đã trở thành một nguồn lực bên cạnh các nguồn lực khác, chúng ta muốn hiểu biết về khách hàng phải thông qua thông tin. Nhu cầu của thông tin ngày càng trở nên cấp bách do thị trường thay đổi về quy mô và phạm vi, sự thay đổi về chất của nhu cầu, sự lựa chọn gay gắt với những hình thức cạnh tranh ngày càng đa dạng vô cùng quan trọng trong nghiên cứu thị trường có nhiều cách mà thông qua đó doanh nghiệp có thể có được những thông tin cần thiết về thị trường. Nguồn ghi chép nội bộ là cơ sở đầu tiên. Trước đây doanh nghiệp có lúc đã bỏ qua nguồn này. Đây là nguồn cung cấp thông tin về thị trường hết sức chính xác, không những vậy chi phí ít, đơn giản. Tuy nhiên nguồn này chưa cho phép doanh nghiệp có một cái nhìn từ các báo cáo và đơn đặt hàng, tình hình tiêu thụ, giá cả, mức dự trữ Nguồn thu nhập thông tin từ sách báo ấn phẩm. Thông qua sách báo chuyên ngành, tạp chí, các báo cáo của chính phủ, của bộ công thương, đặc biệt qua Internet doanh nghiệp có thể cập nhật những thông tin mới nhất hàng ngày. Thông tin qua các hội chợ triển lãm, doanh nghiệp tranh thủ cơ hội tiếp xúc trực tiếp khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Thị trường của doanh nghiệp. Trên cơ sở những thông tin thu thập được, doanh nghiệp tiến hành nghiên cứu, phân tích và có chiến lược kinh doanh nhằm chinh phục cơ hội đó. Đầu tư cho công nghệ, nâng cao chất lượng hàng hoá Tiêu chí phấn đấu của doanh nghiệp là chất lượng, hiệu quả, giá cả có khả năng cạnh tranh và phương thức kinh doanh linh hoạt. Muốn vậy, không có cách nào khác là phải nhanh chóng nâng cấp, trang bị công nghệ mới. Mặc dù thị trường Lào chưa phải là thị trường khó tính như Mỹ và EU, nhưng để cạnh tranh được với các mặt hàng cùng chủng loại của Thái Lan, Trung Quốc thì giải pháp đổi mới công nghệ và quản lý là tất yếu tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Đảm bảo thực hiện đúng, đầy đủ các điều khoản ghi trong hợp đồng - Nâng cao hiệu quả công tác thu mua tạo nguồn xuất khẩu. Các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu phải nhận thức quan trọng của công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu việc tạo ra hàng tốt, chất lượng cao, giá rẻ, điều kiện giao hàng nhanh, đúng và ổn định sẽ cho phép doanh nghiệp thực hiện tốt hợp đồng xuất khẩu đảm bảo uy tín đối với khách hàng. Trong thu mua hàng hoá, lựa chọn nguồn hàng được doanh nghiệp hết sức coi trọng, những yêu cầu về hàng hoá, cách thức mua của Công ty, có được đáp ứng tốt hay không đều phụ thuộc vào quyết định này. Tuỳ theo tình hình thị trường cũng như yêu cầu về hàng hoá của khách hàng mà doanh nghiệp quyết định lựa chọn nguồn hàng nào. Với đặc điểm riêng của hàng hoá xuất khẩu sang Lào các doanh nghiệp cần chú trọng khai thác các nguồn sau: Nguồn hàng thu mua qua đại lý Tiếp tục khai thác nguồn hàng này vì nó có đặc điểm là cơ động, phù hợp với việc thực hiện các hợp đồng nhỏ. Không những thế, nguồn này còn đảm bảo vệ số lượng, thời gian giao hàng, giá tương đối rẻ. Tuy nhiên chất lượng hàng hoá thường không ổn định, mang tính manh mún, nhỏ lẻ. Song nguồn hàng vẫn đóng vai trò quan trọng trong khâu thu mua của doanh nghiệp. Tuy nhiên với tính kinh tế của nguồn hàng này doanh nghiệp có thể mở rộng thêm các đại lý trong các khu vực cung cấp, sản xuất lớn. Kịp thời thu mua khi đến vụ thu hoạch để có khối lượng lớn, giá rẻ. Nguồn hàng của doanh nghiệp, cơ sở sản xuất chế biến Doanh nghiệp nên nghiên cứu và quản lý thêm đến các nguồn hàng nhằm bổ sung vào khối lượng hàng hoá thu mua, giải quyết những trục trặc khi có hợp đồng lớn song không đủ hàng. Hơn nữa để xâm nhập và chiếm lĩnh thị trường thì chất lượng là yêu cầu số một. Trong những năm tới doanh nghiệp nên mở rộng quan hệ với các Công ty, cơ sở sản xuất, chế biến. Nguồn hàng này đảm bảo cả về số lượng, chất lượng. Tuy nhiên giá cả thường cao hơn các nguồn đại lý, việc ký kết hợp đồng mua hàng thường với điều kiện do phía nguồn hàng đưa ra, vì thế nó chỉ phù hợp với những hợp đồng có khối lượng lớn, thời hạn giao hàng dài. Nguồn hàng liên doanh liên kết Lựa chọn các nguồn hàng hợp lý có khả năng về tài chính và năng lực sản xuất, đảm bảo uy tín, thực hiện đầy đủ hợp đồng mua hàng để ký kết. Thiết lập mạng lưới mua hàng cơ động, thuận tiện, bố trí các kho hàng hợp lý Tăng cường đầu tư cơ sở vật chất cho công tác thu mua, đặc biệt cần bổ sung thêm các phương tiện vận chuyển, các thiết bị nhà kho, thiết bị kiểm nghiệm hàng hoá. Nâng cao hiệu quả công tác bán hàng xuất khẩu tại doanh nghiệp: Các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu nói chung, các hoạt động mua bán, tạo nguồn, nghiên cứu thị trường, nhằm mục đích là bán được hàng. Bán hàng là vấn đề khó khăn nhất trong phần lớn các công việc kinh doanh đối với doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Nhưng ít khi mọi người chịu bỏ thời gian ra để hoạch định những chiến lược khả thi sẽ đem lại khoản lợi nhuận lâu dài. Nhiều doanh nghiệp lại tin rằng hàng hoá của mình sẽ bán được mà sẽ không cần một chiến lược bán hàng được tổ chức tốt và đúng thể thức. Song sẽ không có gì huyền diệu hay bí hiểm trong việc bán hàng cả, với điều kiện việc hoạch định một chiến lược chi tiết đảm bảo phải được tiến hành trước khi bắt đầu chiến dịch bán hàng. Sự hoạch định kế hoạch bán hàng một cách kỹ lưỡng và chi tiết là điều quan trọng đảm bảo cho việc thu thập thị trường có “bài bản” và phù hợp. Nó phải được thiết lập để chỉ dẫn cho Công ty và đội ngũ bán hàng, tiếp thị đi theo con đường ngắn nhất đến thành công. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng Vận dụng được sách lược này không những doanh nghiệp có khả năng tăng được doanh số bán hàng mà còn lấy được sự tín nhiệm và thu hút được khách hàng. Tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong việc ký kết hợp đồng. Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình vận chuyển đưa hàng hoá tới tận tay khách hàng. Có các ưu đãi trong quá trình thanh toán, giá cả với những khách hàng truyền thống, khách hàng mua với số lượng lớn và những khách hàng đến với Công ty lần đầu. Tạo lập và mở rộng mạng lưới phân phối: Phân phối hàng hoá là một khâu quan trọng trong chính sách marketing hỗn hợp. Doanh nghiệp xem xét cân nhắc các thị trường tiềm năng, lựa chọn thị trường hấp dẫn, mở các văn phòng đại diện nhằm thúc đẩy hơn nữa khả năng bán hàng. Mỗi văn phòng đại diện ở nước ngoài đảm trách nhiệm vụ thu thập thông tin về thị trường, tìm kiếm khách hàng, giao dịch đàm phán, ký kết hợp đồng tạo điều kiện đưa hàng hoá đến với khách hàng tốt nhất, nhanh nhất. Khuyếch trương sản phẩm tại các hội chợ thương mạigiữa hai nước Điều đáng nói hiện nay là nhận thức chưa đúng của các doanh nghiệp Việt Nam về việc tham gia triển lãm hội chợ. Nhiều doanh nghiệp còn coi đây là nơi chủ yếu để bán hàng. Trong tương lai, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam cần tin tưởng rằng, hội chợ triển lãm là một phần quan trọng của xúc tiến thương mại, giúp các doanh nghiệp có thể hội nhập vào thị trường quốc tế mà không cần trông vào sự bảo hộ của Nhà nước. Tuy nhiên hàng năm Việt Nam và Lào có hàng chục hội chợ triển lãm lớn nhỏ khác nhau. Do khả năng tài chính có hạn, các doanh nghiệp Việt Nam nên chỉ tham gia những hội chợ triển lãm chuyên ngành, có quy mô lớn và có chọn lọc khách mời. Từ đó, doanh nghiệp mới có thể giảm thiểu chi phí mà vẫn đạt được hiệu quả kinh tế cao. Giá Giá là một trong bốn yếu tố mà bất kỳ nhà kinh doanh nào cũng phải quan tâm đến, nhất là trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay. Định giá bán là một nghệ thuật trong kinh doanh, đề ra các quyết về giá để chiếm được ưu thế trong cạnh tranh là yêu cầu đặt ra với các doanh nghiệp. Sai lầm về giá có thể dẫn tới. Định giá bán cao gây ra tình trạng khó bán hàng, mất khách hàng, giảm khả năng cạnh tranh. Định giá thấp không bù đắp được chi phí, lợi nhuận giảm. + Để xác định được mức giá phù hợp, công ty cần chú ý tới những vấn đề sau: - áp dụng chính sách giá linh hoạt, thay đổi theo từng thời điểm cụ thể, từng khách hàng cụ thể. - Có chính sách ưu đãi, khuyến khích khách hàng mua hàng (giảm giá chiếu cố giá cho những đối tượng khách hàng khác nhau). - Xem xét các yếu tố ảnh hưởng đến giá: cung cầu, chi phí và đặc biệt là đối với hàng nông sản giá cả thị trường thế giới ảnh hưởng rất lớn đên các quyết dịnh về giá của công ty. + Công ty có thể định giá bán trên căn cứ sau: Giá mua cộng các chi phí khác. Nhu cầu và sức mua của khách hàng. Thị trường và tình hình cạnh tanh. Xúc tiến bán hàng Việc tung ra sản phẩm mới hay mở rộng hơn nữa phạm vi hoạt động đòi hỏi sự đẩy mạnh quảng cáo, sự tiếp xúc với công chúng và sự có mặt trong triễn lãm, hội trợ được lựa chọn cận thận. + Quảng cáo. - Quảng cáo của doanh nghiệp được xem như điều kiện tiên quyết để phát triển thị phân và mở rộng cơ sở khách hàng. Trong rất nhiều công việc kinh doanh, quảng cáo ít khi được nâng cao tới tầm quan trọng xứng đáng của nó và được đầu tư quá thấp so với hiệu quả muốn đạt được. Hoạt động quảng cao của doanh nghiệp tuy được thực hiện song không tập trung, kinh phí hoạt động không đáng kể. Doanh nghiệp cần lập ra kế hoạch quảng cáo cụ thể. - Việc lựa phương tiện quảng cáo có lợi nhất cần được tiến hành hết sức cẩn thận, Doanh nghiệp nên sử dụng tổng hợp các phương tiện quảng cáo như: báo chí trong nước và nước ngoài, radio, truyền hình, quảng cáo trên Internet... Khi tiến hành quảng cáo trên báo chí cần lưu ý: số lượng phát hành và độc giả không nói lên gì nhiều nếu đại đa số độc giả không thích hợp với tiêu chuẩn mua sản phẩm của công ty. Doanh nghiệp nên quan tâm tới việc quảng cáo trên mạng Internet. sự có mặt của công ty trong Website là vô cùng cần thiết. Qua Internet doanh nghiệp có thể gửi danh thiếp tới hàng nghìn hàng triệu khách hàng ở bất cứ đâu, giới thiệu hàng hoá của mình một cách đầy đủ nhất và cập nhật nhất. Và khi có nhu cầu khách hàng có thể liên hệ một cách rất đơn giản, bất cứ lúc nào. Hơn nữa công ty có thể lấy dược những thông tin phản hồi chính xác và nhanh nhất. Vì vậy doanh nghiệp không thể bỏ qua một phương tiện đa năng và tương đối rẻ như Internet. Quảng cáo trên Internet mặc dù không thể thay thế những phương tiện khác nhưng lại là một “khí giới” không thể thiếu để quảng cáo trong đời sống văn minh. Doanh nghiệp nên chọn Website có số lần truy cập lớn, có đối tượng và nội dung phù hợp với mục tiêu quảng cáo của công ty. Các quảng cáo sẽ đạt được hiệu quả cao hơn nếu chúng nằm trang đầu Webesite. Khách hàng có thể liên lạc ngay với công ty . Nó sẽ bao gồm đầy đủ các thông tin về công ty và sản phẩm công ty muốn quảng cáo. - Quảng cáo chỉ nên nằm ở trong khu vực thị trường được xác định kỹ lưỡng là có khả năng đưa ra những cơ hội bán hàng. Quảng cáo cần phải được tiến hành thường xuyên. Luôn tính được hiệu quả thu được sao là tối đa nhất. Các hoạt động phải đuợc đề ra chi tiết và theo dõi thường xuyên tiến độ thực hiện. Kết quả của việc quảng cáo khó có thể xác định một cách chính xác. Hiệu quả của nó phải thu được sau một thời gian. Ngoài ra công ty cần phải cân đối giữa các tài khoản mục chi phí, xác định kinh phí cho quảng cáo một cách hợp lý. Quá ít sẽ không mang lại kết quả, quá nhiều ảnh hưởng tới lợi nhuận của công ty. Mục đích của quảng cáo đem lại là tăng doanh thu bán hàng, Tăng lợi nhuận cho công ty không chỉ hiện tại mà cả trong tương lai. - Liên doanh liên kết Doanh nghiệp có thể tăng khả năng bán hàng của mình bằng cách liên doanh liên kết với các công ty sản xuất chế biến các sản phẩm của công ty ở nước ngoài. Điều này giúp doanh nghiệp tạo được mối tiêu thụ hàng hoá ổn định, lâu dài và có tính chắc chắn cao. Công ty có điều kiện có được những đơn đặt hàng lớn hàng năm. Tóm lại kế hoạch bán hàng có tính chất cụ thể, đa dạng và linh hoạt nên rất khó có một mô hình cố định, bất di bất dịch. Công ty muốn thành công thì phải dựa vào tình hình thay đổi của thị trường để điều chỉnh kịp thời kế hoạch bán hàng của mình cho phù hợp. Nâng cao sức cạnh tranh hàng xuất khẩu tại doanh nghiệp Việt Nam được đánh giá là một nước có vị trí thuận lợi, có đất đai màu mỡ, khí hậu nhiệt đới gió mùa, rất phủ hợp với việc trồng các cây nông nghiệp và các cây công nghiệp: cà phê, cao su, điều... hơn nữa Việt Nam là một nước có nguồn nhân lực dồi dào, con người Việt Nam cần cù chịu khó, thông minh. Chính vì thế Việt Nam rất có thể trong việc sản xuất và xuất khẩu. Thực hiện tế đã chứng minh bằng việc sản lượng xuất khẩu cà phê, gạo của Việt Nam đứng thứ 2 thế giới. Tuy nhiên khả năng cạnh tranh của hàng xuất của Việt Nam trong thời gian qua còn thấp. Trước hết, nói đến khả năng cạnh tranh là phải nói đến chất lượng, mà chúng ta phải thừa nhận rằng mặc dù đã hết sức cố gắng song trong năm qua chất luợng hàng xuất khẩu của doanh nghiệp rất thấp, chủ yếu là xuất khẩu sản phẩm thô chưa qua chế biến. Chính vì chất lượng thấp nên hàng xuất khẩu của doanh nghiệp không có khả năng cạnh tranh, rất khó khăn trong tiêu thụ. và bắt buộc doanh nghiệp bán với giá thấp hơn nhiều so với giá thế giới. nguyên nhân chủ yếu và cơ bản nhất vẫn là khâu chế biến. Đặc điểm là doanh nghiệp chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu nên khâu chế biến do các cơ sở sản xuất, chế biến liên doanh với doanh nghiệp đảm nhận. Công nghệ và kỹ thuật quá cũ kỹ, lạc hậu, lại không được đầu tư xứng đáng của các doanh nghiệp, cơ sở này đã gây ra tình trạng chất lượng hàng xuất khẩu (nông sản) không đảm bảo. Bởi khâu chế biến là khâu quyết định tới chất lượng hàng xuất khẩu (nông sản) Ngoài yếu tố chất lượng, bao bì, mẫu mã, kiểu dáng dơn giản nên cũng không được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Công tác tiếp thị và nghiên cứu thị trường chưa được đầu tư thoả đáng nên doanh nghiệp rất bị động trong việc tìm kiếm thị trường. Hàng sản xuất (nông sản) của doanh nghiệp thường bị ép giá do vậy khả năng cạnh tranh với hàng Thái Lan và Trung Quốc còn hạn chế. Thực trạng sản xuất chế biến và xuất khẩu sản phẩm, cùng với những thông tin về thị trường trên thế giới cho thấy trong những năm tới cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt và khốc liệt, trong khi đó khả năng cạnh tranh hàng xuất khẩu của doanh nghiệp còn yếu. Như vậy đòi hỏi cấp bách hiện nay là phải làm sao nâng cao khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu , cần có những giải pháp cụ thể cho thời gian tới. Tăng cường đầu tư cho khâu chế biến Khâu chế biến là khâu quan trọng quyết định đến chất lượng và giá thành của hàng xuất khẩu, doanh nghiệp thương mại không thể trực tiếp tác động tới khâu chế biến song có thể tác động gián tiếp thông qua các công ty, các cơ sở sản xuất chế biến hàng xuất khẩu. Doanh nghiệp liên doanh, liên kết cùng với họ để tập trung đưa tiến bộ kỹ thuật vào khâu sau thu hoạch nhằm giảm tổn thất hao hụt sản phẩm và nâng cao chất lượng sản phẩm. Không chỉ chú trọng công tác chế biến, cần tăng cường hơn nữa công đoạn bảo quản sau khi chế biến cũng như sau khi thu hoạch. 2.11. Không dựa mãi vào mặt hàng sẵn có Một trong những khó khăn, thách thức hàng xuất khẩu Việt Nam sang Lào là cơ cấu nhập khẩu của thị trường này có những thay đổi mạnh trong vài năm trở lại đây. Trước tình hình này, doanh nghiệp Việt Nam cần có chính sách đa dạng hoá sản phẩm, theo đó doanh nghiệp phải tích cực đầu tư sản xuất vào những mặt hàng mà thị trường cần chứ không phải chỉ là những mặt hàng doanh nghiệp có. Bởi lẽ, nếu nhu cầu thị trường giảm xuống, không nhập khẩu gì hết, thì doanh nghiệp sẽ đứng trước tình trạng không trả nổi lương cho công nhân và buộc phải kêu cứu Nhà nước. Sau khi nghiên cứu thị trường Lào, ta nhận thấy các doanh nghiệp Việt Nam không thể mãi mãi dựa vào mặt hàng truyền thống như gạo, cà phê, đồ gia dụng Cần phải nhanh chóng chuyển sang những mặt hàng vở học sinh, nông sản chế biến, hàng công nghiệp chế tạo. Ví dụ, một vài mặt hàng có triển vọng đặc biệt là đồ dùng gia dụng chất lượng cao, cáp viễn thông, do nhu cầu thị trường Lào còn lớn, nhưng tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam chưa chú ý nhiều. 2.12. Xây dựng và củng cố tiềm lực vô hình của doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu Tiềm lực vô hình tạo nên sức mạnh trong hoạt động xuất khẩu thông qua khả năng "bán hàng" gián tiếp của doanh nghiệp. Sức mạnh thể hiện ở khả năng ảnh hưởng và tác động đến sự lựa chọn, chấp nhận và quyết định mua hàng của khách hàng. Vô hình bởi người ta không thể lượng hoá một cách trực tiếp mà phải “ Đo” qua các tham số trung gian. Tiềm lực vô hình không tự nhiên mà có. Tuy có thể hình thành một cách tự nhiên, nhưng nhìn chung cần được tạo dựng một cách ý thức thông qua các mục tiêu và chiến lược xây dựng tiềm lực vô hình cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp có uy tín là doanh nghiệp luôn có vị trí cao và hình ảnh đẹp trong con mắt và ấn tượng của khách hàng. Điều đó có nghĩa là sự tín nhiệm của doanh nghiệp càng cao thì khả năng ký lợi, doanh nghiệp sẽ thuận lợi hơn trong cạnh tranh. Tuy nhiên, tín nhiệm luôn ở trạng thái động của thị trường, nghĩa là nó có thể nhận khách quan và chủ quan, song nguyên nhân chủ quan là yếu tố quyết định. Tiếng lành đồn xa, có được sự tín nhiệm sẽ không ngừng mở rộng được thị trường, đây là cái đích mà nhiều doanh nghiệp đang hướng tới. * Tạo dựng và củng cố tín nhiệm về chất lượng sản phẩm. Các sản phẩm có tín nhiệm về chất lượng trên thị trường là những sản phẩm được người tiêu dùng tin tưởng, chỉ cần nói nhãn hiệu của sản phẩm đó là người ta bỏ tiền ra mua không hề hoài nghi về chất lượng. Doanh nghiệp thương mại chuyên kinh doanh xuất nhập khẩu chứ không phải là doanh nghiệp sản xuất, do vậy doanh nghiệp không thể tự mình tác động trực tiếp vào sản phẩm nhằm cải tiến chất lượng của nó được. vì vậy đáp ứng yêu cầu của khách hàng về chất lượng của sản phẩm đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự khéo léo sáng suốt trong việc lựa chọn nguồn hàng xuất khẩu. Vì khi đó uy tín chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp dựa trên uy tín và chất lượng sản phẩm của nguồn hàng thu mua đã chọn. Sau sự phát triển của đời sống làm cho nhu cầu của con người ngày càng đa dạng, phong phú và thường xuyên thay đổi. Bên cạnh đó là sự cạnh tranh khốc liệt trên thị trường thế giới đòi hỏi các doanh nghiệp nếu không bắt kịp nhu cầu của thị trường thì doanh nghiệp sẽ tụt lại phía sau. Thành công chỉ giành cho người nhạy bén. Các công ty đều có thể chiếm lĩnh được thị trường nếu họ phát hiện ra xu thể của thị trường hoặc kẽ hở của thị trường để len chân vào. Sản phẩm doanh nghiệp cho là tốt chưa đủ, mà còn phải xem sự chấp nhận của thị trường về sản phẩm đó như thể nào. Bản thân doanh nghiệp cố gắng, ngoài ra còn cần phải nhìn ra xung quanh để phát hiện ra xu thế mới để chuyển đổi. Ngày nay xu thể xuất khẩu hàng hoá (Nông sản thô giảm), các nước xuất khẩu đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá qua chế biến. Doanh nghiệp phải nhận thức điều này để củng cố và nâng cao chất lượng sản phẩm ngày một đáp ứng tốt hơn nhu cầu của thị trường sẽ giúp doanh nghiệp củng cố được sự tín nhiệm của khách hàng đã giành cho doanh nghiệp. 2.13. Nâng cao hiệu quả công tác huy động và sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu Vốn là yêu cầu thiết yếu của tất cả các doanh nghiệp đặc biệt là doanh nghiệp hoạt đông trong lĩnh vực xuất nhập khẩu. Vốn của doanh nghiệp trong những năm qua được huy động từ các nguồn sau: - Vốn ngân sách cấp: bao gồm vốn cố định, vốn lưu động, vốn xây dựng cơ bản do ngân sách hoặc vốn có nguồn gốc lợi nhuận để lại, chênh lệch tỷ giá không phải nộp, các vốn vay sau khi đã trả xong nợ và lãi suất tiền vay, các quỹ xí nghiệp. - Vốn liên doanh liên kết. - Vốn tín dụng gồm: tiền vay ngắn hạn, vay dài hạn ngân hàng hoặc các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước. Trong những năm qua doanh nghiệp luôn phải tự cân đối vốn do nguồn vốn quá eo hẹp, nhiều lúc doanh nghiệp rơi vào thế bị động khi có hợp đồng lớn, qua xem xét tình hình trong doanh nghiệp cũng như tình hình bên ngoài doanh nghiệp, có thể thấy được rằng có các nguồn mà doanh nghiệp có khả năng huy động để tăng cường, mở rộng khả năng tài chính. * Nguồn liên doanh, liên kết Trên địa bản thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội hiện nay có nhiều doanh nghiệp tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu quy mô nhỏ, đặc biệt kinh doanh các mặt hàng giống nhau. Họ cũng có nhu cầu cao về đầu tư và phát triển. Đây là cơ hội để doanh nghiệp liên doanh liên kết tăng thêm vốn tài chính phục vụ cho hoạt động kinh doanh xuất khẩu. * Vốn vay từ Ngân hàng Đây là nguồn vốn có thể giúp doanh nghiệp thực hiện các hợp đồng xuất khẩu đòi hỏi vốn lớn, đặc biệt các nguồn vay ngắn hạn. đối với hoạt động Ngân hàng ở Việt Nam, tài trợ cho hoạt động xuất khẩu đang là vấn đề thu hút được sự quan tâm. Hơn nữa, chủ trương của Chính phủ hiện nay là đưa ra các tỷ lệ lãi suất hấp dẫn nhằm kích thích các doanh nghiệp vay vốn để kinh doanh. Điều này phù hợp với mong muốn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp nên tận dụng các khoản vay của Ngân hàng để mở rộng, phát triển hoạt động kinh doanh của mình. * Vốn từ hoạt động cổ phần hoá. Doanh nghiệp mới chuyển sang cổ phần hoá, điều này gây cho doanh nghiệp không ít khó khăn trong hoạt động kinh doanh song cũng đưa đến cho doanh nghiệp một phương thức làm ăn mới, có hiệu quả hơn, với đặc điểm là một công ty cổ phần, doanh nghiệp có thể huy động vốn bằng cách bán các cổ phiếu. Đối tượng ở đây là các cán bộ, nhân viên trong doanh nghiệp, sau mới đến những người ngoài doanh nghiệp. Bằng cách này ngoài việc huy động một lượng vốn nhàn rỗi của các cán bộ, công nhân viên trong doanh nghiệp mà còn thúc đẩy tinh thần lao động, sáng tạo, trách nghiệm của mọi người đối với doanh nghiệp. Huy động được vốn là điều vô cùng khó song sử dụng đồng vốn giao cho có hiệu quả lại khó khăn hơn nhiều. Trong những năm qua các doanh nghiệp đã chú ý tập trung đầu tư mở rộng nguồn vốn, điển hình vốn lưu động, vốn cố định tăng qua các năm. Song tỷ suất lợi nhuận xuất khẩu trên vốn kinh doanh giảm, hiệu quả sủ dụng vốn giảm. Để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong hoạt động xuất khẩu doanh nghiệp cần thực hiện các biện pháp sau: - Đẩy mạnh tiến độ thực hiện hợp đồng xuất khẩu, thực hiện thanh toán dúng thời hạn, tránh tình trạng bị chiếm dụng vốn. - Phân bổ cơ cấu vốn hợp lý trong kinh doanh, ưu tiên sử dụng VLĐ vào việc khai thác các nguồn hàng có tốc độ vòng quay lớn. Thực hiện tỷ lệ doanh thu hàng hoá 8.2 tức là 80% doanh thu từ 20% mặt hàng chủ lực. - Trong quá trình kinh doanh thường xuyên xem xét việc sử dụng vốn sao cho tránh lãng phí mà vẫn đem lại hiệu quả. Tập trung vào các chi phí bất hợp lý trong khâu thu mua và giao dịch. 2.14. Hạn chế rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu Trong quá trình thực hiện hợp đồng xuất khẩu, doanh nghiệp thường gặp những rủi ro như: bạn hàng không đủ khả năng thanh toán việc thanh toán chậm, chứng từ bị thiếu sót. Những điều này có thể dẫn tới các tranh chấp, khiếu nại đáng tiếc xảy ra, làm ảnh hưởng đến hiệu quả xuất khẩu trước mắt cũng như mối quan hệ thương mại lâu dài. Có rất nhiều cách thức để giảm bớt và hạn chế rủi ro trong kinh doanh xuất khẩu. - Doanh nghiệp có thể quyết định không bán với những bạn hàng mà doanh nghiệp chưa có đủ thông tin về họ, có nhiều mối quan hệ không rõ ràng. Những thị trường mà xác suất gặp rủi ro cao. - Đảm bảo hàng xuất khẩu của doanh nghiệp không phải tập trung tất cả vào một thị trường mà mỗi sản phẩm có vài ba thị trường trọng điểm và có nhiều thị trường bổ sung. - Sử dụng công cụ bảo hiểm. Với những rủi ro xảy ra, doanh nghiệp hạn chế đến mức tối đa những thiệt hại bằng việc thực hiện những bảo hiểm có thể được lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm có uy tín để quan hệ. Kinh doanh mà không có bảo hiểm thì không phải là làm kinh tế mà chỉ là một cuộc đánh bạc. Không thể coi đồng tiền bảo hiểm như là một thứ có thể cắt xén được. Sai lầm nếu như chi bảo hiểm một cách tuỳ tiện, không tính toán, luôn có các khoản bảo hiểm cho những hoạt động có khả năng gặp rủi ro lớn. 2.15. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên Trong kinh doanh đặc biệt trong lĩnh vực thương mại dịch vụ con người là yếu tố quan trọng hàng đầu để đảm bảo thành công. Có người đã đặt con người ở vị trí số một, trên cả vốn và tài sản khi đánh giá sức mạnh của một doanh nghiệp. Chính con người với năng lực thật của họ mới lựa chọn đúng được cơ hội và sử dụng các sức mạnh khác một cách có hiệu quả để khai thác và vượt qua cơ hội. Trong những năm tới doanh nghiệp cần định ra cho mình, một chương trình nâng cao trình độ nghiệp vụ xuất khẩu cho cán bộ, nhân viên và đào tạo lại những nhân viên trình độ không còn phù hợp với yêu cầu hiện nay. Người cán bộ phải là người có nhận thức và khả năng vận dụng các qui luật kinh tế, chủ trương, chính sách pháp luật của nhà nước... để có những quyết định phù hợp với yêu cầu đặt ra. Họ phải có tầm nhìn xa trông rộng có bản lĩnh và ý chí, tinh thần dám nghĩ dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với mọi thử thách. Hơn nữa họ phải có trình độ nghiệp vụ vững vàng, có sự am hiểu về luật pháp, có ý thức ham học hỏi. Một công ty gồm nhiều cán bộ giỏi chắc chắn sẽ có khả năng vượt qua mọi khó khăn, vững vàng đi lên và không ngừng phát triển doanh nghiệp. Kinh doanh trong cơ chế thị trường cần những người vừa có đức vừa có tài. Người cán bộ quản trị kinh doanh, có vị trí, trách nhiệm càng cao, phạm vi càng rộng thì đòi hỏi càng cao về phẩm chất đạo đức và trình độ chuyên môn, người cán bộ phải biết tạo ra bầu không khí đoàn kết, thân mật giữa các thành viên trong công ty. Như vậy, nhân viên trong công ty cố gắng làm hết sức mình vì lợi ích của cá nhân và lợi ích của tập thể. Trong các năm tới, dự đoán quy mô hoạt động của doanh nghiệp sẽ tăng, do đó có thể nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Đây là điều kiện quan trọng giúp các doanh nghiệp bổ sung thêm được cán bộ có trình độ cao. Doanh nghiệp cần có kế hoạch tuyển dụng hợp lý, việc tuyển dụng, lao động thật công minh, với những người có bằng cấp, sức khoẻ tốt, kinh nghiệm, trình độ thật sự. Nâng cao chất lượng lao động, tạo động lực và sự nhiệt tình cho người lao động, công ty phải quan tâm đích đáng đến lợi ích của công nhân viên. Có vậy, cán bộ công nhân viên mới góp hết sức mình vì công ty. Tăng cường áp dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 và hệ thống quản lý môi trường ISO 14000. Nói một cách khái quát, ISO 9000 là tập hợp một cách có hệ thống những kinh nghiệm quản lý chất lượng tốt nhất do tổ chức tiêu chuẩn quốc tế ISO đặt ra. Nó có tác dụng giúp các đơn vị sản xuất cải tiến hệ thống quản lý nhằm đạt được các mục tiêu tăng năng suất và chất lượng sản phẩm. Giảm lãng phí và tỷ lệ phế phẩm để duy trì một dạng sản phẩm luôn có chất lượng đồng nhất và phấn đấu hạ giá thành. Hiện nay, “vấn đề chất lượng” nổi lên như là một trong những yếu tố quan trọng nhất của thương mại và công nghiệp. Càng ngày, khách hàng Lào nói riêng và khách hàng trên khắp thế giới nói chung càng có yêu cầu lớn đối với các nhà cung cấp như đảm bảo chất lượng hàng hoá và dịch vụ, chấp hành đầy đủ và nhanh chóng các điều kiện khác trong hợp đồng như thời hạn cung cấp, thái độ phục vụ v.v Thông thường, khách hàng không chỉ muốn có được sản phẩm thích hợp với khả năng thanh toán của họ mà còn muốn các yêu cầu của họ phải được giải quyết một cách nhanh chóng. Vì vậy đối với một số sản phẩm xuất khẩu, việc chứng nhận phù hợp ISO 9000 gần như là một yêu cầu bắt buộc, là một trong những điều kiện giúp sản phẩm Việt Nam thâm nhập vào thị trường Lào. ISO 1400 là bộ tiêu chuẩn về quản lý môi trường, được xây dựng trên cơ sở thoả thuận quốc tế bao gồm các yêu cầu đối với các yếu tố cơ bản có thể điều chỉnh được để thiết lập nên hệ thống quản lý môi trường có khả năng cải thiện môi trường một cách liên tục tại các tổ chức cơ sở. Cũng như bộ tiêu chuẩn ISO 9000, ISO 14000 là bộ tiêu chuẩn quốc tế về quản lý (đối tượng quản lý của ISO 9000 là chất lượng, còn của ISO 14000 là môi trường). III. Một số biện pháp cụ thể về phát triển quan hệ thương mại Việt - Lào. Các kế hoạch tiếp theo trong hợp tác giữa Việt Nam và Lào trong thời gian tới. 1. Việt Nam và Lào tiếp tục đầu tư vốn để nâng cấp đường 8, đường 9 và các cảng Cửa Lò, Đà Nẵng bảo đảm thông thương từ Lào đến các cảng miền Trung của Việt Nam. Nâng cấp sửa chữa các tuyến đường 217 (Lang Tra - Na Mèo) phía Việt Nam và đường 6A phía Lào, quốc lộ 43 (Sơn La - Hủa Phàn), quốc lộ 49 (Thừa Thiên Huế - Xalavan), tiếp tục đầu tư đường 18B (KonTum - Attapu) đường 7 (Nghệ An - Xiêm Khoảng), đường 42 (Lai Châu - phôngxaly). Phía Việt Nam hoàn thành và nâng cấp tuyến đường nối từ quốc lộ 1 đến cảng Vũng áng. Tiến hành xây dựng cảng giai đoạn 2, 3 để sớm trở thành cảng trung chuyển số 1 của Lào. 2. Hai bên tạo mọi điều kiện thuận lợi cho ngành thương mại hai nước, tăng nhanh kim ngạch XNK hàng hoá, khuyến khích trao đổi hàng hoá phục vụ dân cư khu vực biên giới. Bộ Công thương Việt Nam nhanh chóng ban hành chính sách và mặt hàng cụ thể miễn giảm thuế xuất nhập khẩu qua cửa khẩu và đường biên giới hai nước, phù hợp với các chính sách phía Lào đã ban hành (chỉ thu thuế một lần tại cửa khẩu, mức thuế thấp hơn hiện nay, ưu tiên miễn thuế cho các mặt hàng sản xuất tại 2 nước). 3. Bộ Công thương Việt Nam uỷ ban nhân dân tỉnh sớm hoàn tất các chợ đường biên tại nơi có cửa khẩu và đường biên giới chung với Lào. Xây dựng các trung tâm thương mại ở các thị xã tỉnh lỵ để giới thiệu và bán hàng Việt Nam, đảm bảo chất lượng và giá cả phải chăng. Với ưu đãi của Lào cho phép hàng hoá mang sang chưa tính thuế xuất nhập khẩu, nếu không bán hết mang về không thu thuế. 4. Xây dựng mở thêm một số trung tâm giới thiệu và bán hàng tại Viên Chăn, Savanakhet, và một số tỉnh khác của Lào, nhanh chóng hoàn thành quy chế điểm, về khu thương mại đường biên Lao Bảo - Đenxavẳn. 5. Mở rộng thị trường lên các tỉnh bắc Lào, Mianma, Nam Trung Quốc, nâng cấp cửa khẩu Pahang (Sơn La) và cửa khẩu Tây trang (Lai Châu). 6. Trước mặt nhà nước cần có chủ trương trợ cấp cước vận tải, hỗ trợ một phần lỗ cho doanh nghiệp buôn bán, sản xuất kinh doanh ở Lào, đảm bảo cho sản xuất kinh doanh của họ không bị lỗi thời nhằm tạo ra cho họ một vị thế trên thị trường Lào. 7. Củng cố tổ chức quản lý các cửa khẩu đường biên, thực hiện đúng quy chế biên giới và cửa khẩu được thoả thuận giữa chính phủ của hai nước. 8. Ngân hàng nhà nước cần có chính sách ưu đãi đối với các công ty, đơn vị, cá nhân buôn bán và tổ chức sản xuất kinh doanh đầu tư 100% vốn hoặc liên doanh với các công ty; đơn vị cá nhân Lào, vay vốn ưu đãi lãi suất thấp hoặc không lãi để kích thích việc đầu tư sản xuất, buôn bán hàng hoá với Lào. Đồng thời, tổ chức, triển khai hoạt động ngân hàng tín dụng ở các cửa khẩu, thành lập các đại diện chi nhánh ngân hàng ở các trung tâm kinh tế và thương mại của Lào, hỗ trợ vốn và giải quyết phương thức thanh toán cho các doanh nghiệp hoạt động. 9. Hoàn thiện chính sách thể chế và sự phối hợp tốt hơn giữa các ngành để tiếp tục duy trì hàng đổi hàng với Lào. Qua tình hình trao đổi hàng hoá và một số kế hoạch trong hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Lào trong thời gian tới đã khẳng định giữa hai nước có mối quan hệ đặc biệt và được gắn bó từ lâu đời. Các quan hệ trong thời gian tới của Việt Nam phần nào đó thể hiện được chiến lược phát triển kinh tế của Lào, là Chính phủ Lào quan hệ mua bán với nhiều nước, không để một nước nào độc quyền, chủ trương dành ưu tiên mở rộng quan hệ thương mại trao đổi hàng hoá với Việt Nam và Trung Quốc, nhằm giảm dần sự lệ thuộc vào hàng hoá Thái Lan, quan hệ ngoại thương giữa Việt Nam và Lào có xu hướng ngày càng tốt đẹp, có hiệu quả và lâu dài. kết luận Trong xu thế khu vực hoá, toàn cầu hoá đang diễn ra trên thế giới, xuất khẩu đóng vai trò quan trọng đối với bất kỳ nền kinh tế nào, nhất là đối với các nước đang phát triển. Việt Nam là nước đang trên con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đang hoà nhập vào kinh tế thế giới và khu vực, vì thế xuất khẩu được coi là một trong những công cụ quan trọng để thực hiện thành công các mục tiêu đã đề ra trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Trong những năm qua, mối quan hệ thương mại Việt Nam-Lào đã có nhiều tiến bộ vượt bậc, đánh dấu một điểm quan trọng trong quá trình phát triển mối quan hệ lâu dài. Hoà chung với tăng trưởng xuất khẩu Việt Nam các doanh nghiệp Việt Nam là những hạt nhân gắn kết thêm tình hữu nghị và hợp tác giữa hai nước, đồng thời góp phần không nhỏ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Thời gian trước mắt là giai đoạn chứa nhiều thử thách song cũng nhiều cơ hội thành công đối với kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xuất nhập khẩu Việt Nam nói riêng. Để nắm bắt được cơ hội kinh doanh cần thực hiện chiến lược kinh doanh đa dạng hoá, kết hợp với chuyên môn hoá tăng cường hoạt động kinh doanh xuất khẩu thị trường các nước nói chung và thị trường Lào nói riêng về chiều rộng và chiều sâu, nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất khẩu. Chúng ta cần làm tốt công việc nghiên cứu, tìm hiểu, tận dụng mọi nguồn lực nhằm phát huy những lợi thế, mặt mạnh và hạn chế những thiếu sót và tồn tại để khắc phục. Không ngừng đổi mới dây chuyền công nghệ, tạo ra những sản phẩm có chất lượng cao, mẫu mã đẹp, chủng loại đa dạng, đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng ở tất cả các thị trường nói chung và thị trường Lào nói riêng. Năm 2006 vừa qua, Việt Nam được đánh dấu bằng những sự kiện có ý nghĩa lịch sử quan trọng, là một năm thu được nhiều thành công trong hoạt động đối nội, đối ngoại và nâng cao vị thế Việt Nam trên trường quốc tế. Làm cơ sở cho phát triển, hợp tác và cạnh tranh toàn cầu. Là năm Việt Nam tổ chức thành công hội nghị APEC lần thứ 14, được các nước Châu á đề cử vào uỷ viên không thường trực của Liên hợp quốc, và trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới (WTO). Mặc dù thiên tai liên tiếp diễn ra và dịch bệnh rình rập, kinh tế đất nước vẫn đạt được tăng trưởng cao. Xuất khẩu đạt gần 40 tỷ USD. Vì thời gian nghiên cứu và thực hiện bài viết có hạn, em chỉ đề cập tới một số giải pháp chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang thị trường Lào. Rất mong được sự góp ý kiến và chỉ đạo của Thầy, em xin chân thành cảm ơn. Đề tài này được hoàn thành với sự giúp đỡ và hướng dẫn trực tiếp của Thầy, em xin bày tỏ biết ơn về sự chỉ bảo tận tình, những ý kiến quý báu của Thầy trong thời gian qua. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình thương mại quốc tế - Chủ biên PGS.TS. Nguyễn Duy Bột Giáo trình quản trị kinh doanh thương mại quốc tế - Chủ biên PGS-TS Trần Chí Thành Luật Thương mại 2005 Tổng cục Thống kê - Thông tin Thống kê hàng tháng (số 07/2007) Bộ Kế hoạch Đầu tư - Báo điện tử- Thời báo Kinh tế Việt Nam (ngày 16/8/2007) Báo cáo đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch thương mại 1999, 2006- Bộ Thương mại Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á số 6 (39)- 2002 Các Nghị định Chính phủ và Thông tư hướng dẫn Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 Nghị định số 44/2001/NĐ-CP ngày 08/8/2001 Nghị định số 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ 08 Đảng Cộng sản Việt Nam (Trang 21).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3472.doc
Tài liệu liên quan