Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu với Lào (Vilexim)

Đề tài “ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở công ty VILEXIM” được nghiên cứu trên đây nhằm phân tích, đánh giá tình hình thực tế công tác tổ chức quá trình xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty VILEXIM. Trong thời gian thực tập tôi cố gắng tìm hiểu những hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu với Lào (VILEXIM) trong đó chú trọng nhất đến hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty. Kết hợp giữa cơ sở lý luận chung đã trình bày ở chương I với việc nghiên cứu phân tích để tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu còn tồn tại trong quá trình xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty. Tuy nhiên do trình độ nhận thức và thời gian thực tập có hạn tôi chỉ đưa ra một số giải pháp và kiến nghị mang tính phương hướng để công ty vận dụng vào thực tế kinh doanh của mình.

doc85 trang | Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1040 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số biện pháp thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại công ty xuất nhập khẩu với Lào (Vilexim), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hó bảo quản, chất lượng luôn thay đổi bởi ảnh hưởng của thời tiết, không thể vận chuyển đi quá xa hơn nữa công tác đóng gói bao bì, bảo quản, vận chuyển của ta còn chưa tốt. Do đó thị trường xuất khẩu chủ yếu của công ty tập trung ở khu vực Châu á như Lào, Singapo, Nhật Bản, Inđônêxia, Trung Quốc... Đây là những thị trường truyền thống của Công ty trong đó thị trường lớn nhất là thị trường Singapo và thị trường lâu đời nhất là thị trường Lào. Đặc biệt là thị trường các nước ASEAN, tuy khả năng về vốn của thị trường này không phải là lớn nhưng Công ty đã đặt trọng tâm đây sẽ là thị trường chiến lược của Công ty. Về mặt địa lý các nước này đều nằm trong khu vực Đông Nam á rất gần với Việt Nam, dễ dàng trong vận chuyển. Hơn nữa Việt Nam và các nước ASEAN là những nước láng giềng, đã có nhiều mối quan hệ về kinh tế, chính trị, văn hoá lâu đời với nhau, phong tục tập quán có nhiều nét tương đồng, đều ưa chuộng mặt hàng nông sản. Mặt khác các nước ASEAN đều tham gia vào AFTA mà lịch trình cắt giảm thuế của AFTA vừa có hiệu lực từ 1/2002 trong đó có một số mặt hàng nông sản được cắt giảm thuế còn rất thấp. Đây là cơ hội rất lớn cho công ty VILEXIM. Ngoài ra Công ty cũng có giao dịch với một số nước thuộc khu vực Châu âu (Anh, Pháp, Italia...), châu Phi... Bảng 5:cơ cấu thị trường xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty trong 4 năm 1999-2002 Thị trường 1999 2000 2001 2002 Trị giá USD Tỷ trọng% Trị giá USD Tỷ trọng% Trị giá USD Tỷ trọng% Trị giá USD Tỷ trọng% Singapo 1.631.049 32,23 2.184.570 34,28 4.311.560 62,3 5.784.967 58,25 Malayxia 887.282 17,53 940.710 14,76 911.177 13,16 1.156.698 11,64 Inđônêxia 886.712 17,52 1.190.790 18,69 1.287.480 18,6 1.897.324 19,1 Lào 1.185.700 23,43 1.537.559 24,13 206.084 2,98 557.122 5,6 Trung quốc 469.838 9,29 518.335 8,14 204.278 2,96 534.691 5,41 Tổng cộng 5.060.581 100 6.371.964 100 6.920.579 100 9.930.802 100 Nguồn: báo cáo tổng kết công ty 1999-2002 Trước đây, Công ty thường xuất khẩu lạc sang khu vực Đông âu và Liên Xô cũ theo các nghị định thư của chính phủ. Nhưng từ năm 1990 khi hệ thống các nước XHCN này bị tan rã thì khu vực thị trường cũng bị thu hẹp. Hiện nay, Công ty mở rộng thêm quan hệ buôn bán với các nước Châu âu, các nước SNG và thị trường Mỹ. Vì các thị trường này là các thị trường tiêu dùng cuối cùng không phải qua trung gian do vậy khả năng lợi nhuận cao hơn thị trường khác. Với thị trường Lào Công ty đã đặt lợi ích chính trị lên trên mà hai Đảng, hai Nhà nước đã đề ra. Mối quan hệ đặc biệt Việt- Lào của Công ty với các Công ty của bạn vốn có từ nhiều năm nay kể từ khi vận chuyển hàng hoá quá cảnh viện trợ cho cách mạng Lào thời kỳ ( 1967-1987), quan hệ đó luôn được củng cố và bền vững, song song là phát triển buôn bán với bạn Lào trong thời kỳ mới (1987 đến nay). Công ty đặt đại diện tại Viên Chăn nhằm quan hệ buôn bán đặc biệt với thị trường truyền thống với bạn Lào. Tuy nhiên kim ngạch buôn bán với bạn không đều năm cao năm thấp. Cụ thể năm 1999 xuất khẩu sang Lào đạt 1.185.700 USD, năm 2000 đạt 1.537.559 USD, năm 2001 giảm mạnh chỉ còn 206.084 USD. Nguyên nhân là do sức mua của người tiêu dùng bị giảm sút. Năm 2002 lại tăng lên là 557.122 USD do có sự mua lại của người tiêu dùng. Với thị trường Singapo: Đây là thị trường có nhiều triển vọng, đã có quan hệ mua bán với Công ty trong nhiều năm qua, lượng hàng xuất khẩu của Công ty vào thị trường này tăng đáng kể trong những năm gần đây. Những thuận lợi và khó khăn của công ty trong xuất khẩu 1. Những thuận lợi và khó khăn 1.1 Những thuận lợi: Trong kinh doanh xuất khẩu, Công ty xuất nhập khẩu VILEXIM có rất nhiều thuận lợi, điều này đã giúp cho Công ty có thể cạnh tranh với các đối thủ khác. Cụ thể: Công ty hiện là công ty Nhà nước trực thuộc Bộ thương mại nên có nhiều ưu đãi từ phía Nhà nước như thu mua sản phẩm, vay vốn kinh doanh, chính sách thuế và thủ tục hải quan. Được thành lập từ năm 1967, công ty có một bề dầy trong kinh doanh xuất khẩu, tạo được uy tín lớn trên thị trường. Với chủ trương của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu, nghị định 57/1998/NĐ-CP đã nêu ra nhiều quan điểm cụ thể ưu tiên cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu như: hỗ trợ việc mua hàng xuất khẩu cho mặt hàng nông sản, xây dựng và sử dụng các quỹ “bảo hiểm xuất khẩu, khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu mặt hàng mới...”. Những quan điểm này tạo cho doanh nghiệp lựa chọn được phương hướng kinh doanh hiệu quả nhất. Các phòng xuất nhập khẩu của Công ty kinh doanh theo cơ chế tự chủ có nghĩa là các phòng phải tự tìm kiếm bạn hàng, nguồn hàng, tự ký kết và tự tìm hợp đồng xuất nhập khẩu trên cơ sở từng phương án kinh doanh đã được giám đốc duyệt. Các phòng kinh doanh tương đối độc lập với nhau và đều kinh doanh tổng hợp các mặt hàng. Cơ chế hoạt động này dẫn đến sự năng động sáng tạo của mọi thành viên trong Công ty. Việc duy trì cơ chế làm việc này trong những năm tới đây tình hình xuất khẩu nông sản cũng như các mặt hàng khác của Công ty sẽ được cải thiện. 1.2 Những khó khăn: Vốn kinh doanh của công ty eo hẹp, có khoảng thời gian dài Ngân hàng yêu cầu Công ty phải có thế chấp hoặc có bảo lãnh của Vụ kế toán tài chính Bộ mới được cho vay. Trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập khối ASEAN và AFTA sắp tới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, tuy có nhiều cơ hội để trao đổi hàng hoá, dịch vụ, thông tin...tạo cơ sở, động lực cho tăng trưởng kinh tế song cũng đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn nhất là sau năm 2005-2006 (trong khuôn khổ ASEAN và AFTA) khi Việt Nam không còn bảo hộ thị trường nội địa bằng hàng rào thuế quan thì vấn đề thách thức lớn nhất là khả năng cạnh tranh của nền kinh tế nói chung. Do đó Công ty VILEXIM sẽ gặp khó khăn trong vấn đề cạnh tranh về chất lượng mặt hàng xuất khẩu. Luật thuế GTGT mới được áp dụng năm 1999 còn nhiều vướng mắc. Công ty phải vay vốn Ngân hàng để nộp thuế trước nhưng vấn đề khấu trừ lại rất chậm và đầy trắc trở. Bên cạnh đó công tác hải quan cũng còn khá nhiều khâu rườm rà chưa hợp lý cho nên gây khó khăn trong khâu giao hàng xuất khẩu của Công ty. 2. Cơ hội và thách thức đối với Công ty trong xuất khẩu hàng nông sản 2.1 Những thách thức đối với Công ty VILEXIM Sự cạnh tranh ngày càng gay gắt Chất lượng hàng nông sản thực phẩm nội địa không cao, kém ổn định gây nên nhiều khó khăn trong vấn đề cạnh tranh. Nhu cầu tiêu dùng ngày càng cao và thị trường luôn biến động bởi vậy nhà lãnh đạo phải có tầm nhìn chiến lược. Thiếu thông tin thị trường nên kinh doanh xuất khẩu luôn ở thế bị động. Mặt hàng nông sản Việt Nam chưa được đầu tư để phát triển ổn định, công nghệ sau thu hoạch và chế biến kém. 2.2 Những cơ hội Việt Nam là nước có tiềm năng xuất khẩu nông sản lớn, khi mặt hàng này được đưa vào chương trình cắt giảm thuế sẽ thực sự đem lại cho Việt Nam nhiều lợi ích. Và đặc biệt, nó còn là yếu tố kích thích các doanh nghiệp mở rộng sản xuất xuất khẩu mặt hàng này sang các nước ASEAN và các nước ngoài khu vực để tăng dung lượng cung hàng hoá ra thị trường. 3.Những điểm đã đạt được và những điểm còn hạn chế của công ty: Từ những phân tích và đánh giá trên ta có thể thấy: Mặc dù gặp rất nhiều khó khăn trên nhưng bằng sự nỗ lực của mình công ty đã đạt được những điểm rất đáng khích lệ như tổng kim ngạch xúât nhập khẩu của công ty đều tăng qua các năm, góp phần tăng thu ngoại tệ cho đất nước. Luôn luôn hoàn thành các nghĩa vụ đối với nhà nước như nộp thuế và các nghĩa vụ khác và hoàn thành suất sắc các kế hoạch, chỉ tiêu mà Bộ giao. Từ một công ty ban đầu chỉ buôn bán với Lào với số vốn ít ỏi chỉ có 1.266.991.000 đ( vốn cố định), 2.266.991.000 đ( vốn lưu động), đến nay đã có 3.980.808.207 đ( vốn cố định), 6.757.474.539đ( vốn lưu động). Tạo dựng được hình ảnh, uy tín cao trên thị trường, ngày càng mở rộng được quan hệ buôn bán với nhiều thị trường trên thế giới. Đến nay công ty đã có quan hệ buôn bán với hơn 23 quốc gia. Công ty luôn bảo toàn và phát triển tốt nguồn vốn. Tạo công ăn việc làm và thu nhập ổn định cho hơn 85 cán bộ công nhân viên trong công ty. Tạo dựng được hình ảnh, uy tín cao trên thị trường, ngày càng mở rộng được Tuy nhiên, dù có nhiều thuận lợi hơn các đối thủ cạnh tranh khác nhưng công ty đã không khai thác hết được những điểm mạnh và những lợi thế đó của mình. Mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng qua các năm nhưng lợi nhuận của công ty tăng không nhiều, đặc biệt năm 2000,2001 lợi nhuận của công ty giảm mạnh, năm 2000 đạt 401 triệu đồng giảm 31,07% so với năm 1999, năm 2001 đạt có 100 triệu đồng giảm 75,20% so năm 2000. Chưa thực sự khai thác hết tiềm năng về thị trường của các nước trong khu vực. Nhiều thị trường chưa được mở rộng để khai thác. Công ty chưa thực sự chú ý tới công tác nghiên cứu thị trường, chỉ chú trọng xuất khẩu vào thị trường truyền thống sẽ dẫn đến sự quá phụ thuộc vào thị trường này mà bỏ quyên mất nhiều thị trường khác. Do đó khi thị trường truyền thống có biến động sẽ gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động kinh doanh của công ty. Việc định giá như hiện nay về giá mặt hàng nông sản xuất khẩu còn mang tính chất tình thế, giá cả luôn bị thụ động, thay đổi liên tục nhưng thiếu căn cứ gây khó khăn cho chiến lược mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty 4.các nguyên nhân tác động đến hoạt động xuất khẩu 4.1 Nguyên nhân khách quan: Tình hình thế giới trong thời gian qua: Những năm qua, tình hình kinh tế trong khu vực và trên thế giới có nhiều khó khăn, khủng hoảng tài chính, tiền tệ ở Châu á tác động tiêu cực đến nền kinh tế khu vực. Tình hình kinh tế thế giới có mức tăng trưởng chậm làm ảnh hưởng nhiều đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam nói chung và của Công ty nói riêng. Hàng rào thuế quan và phi thuế quan: Trong bối cảnh quốc tế hoá và khu vực hoá sôi động như hiện nay, hàng rào thuế là một trong những biểu hiện rõ nét nhất thể hiện sự đối sử phân biệt trong tổ chức hợp tác hoặc không có hiệp định thương mại song phương. Chính vì điều này mà hàng hoá Việt Nam khi thâm nhập vào một số thị trường mới bị đánh một mức thuế rất cao so với các đối thủ cạnh tranh và chính điều này làm cho hàng hoá của Việt Nam rất khó cạnh tranh nổi. Do vậy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang các thị trường tiềm năng còn rất hạn chế. Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế hiện nay, các nước thường có xu hướng cản trở hàng nhập khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước bằng các hàng rào phi thuế quan mà điển hình phaỉ kể đến là các quy định về an toàn ,vệ sinh đối với hàng nhập khẩu. Thị trường EU, Mỹ là nhóm nước sử dụng biện pháp rào cản này nhiều nhất. Để đảm bảo cho người tiêu dùng EU quy định phải kiểm tra các sản phẩm ngay từ nơi sản xuất và có hệ thống báo động giữa các nước thành viên. Mặt khác họ còn có các biện pháp thương mại khác nhau như “ luật chống bán phá giá” để đấu tranh với những trở ngại trong buôn bán với thế giới thứ ba. Trong khi đó ở Nhật Bản, hàng rào này thể hiện qua việc sử dụng phổ biến hệ thống dấu chất lượng JIS (tiêu chuẩn công nghiệp Nhật Bản), JAS (tiêu chuẩn nông nghiệp Nhật Bản). Các hàng rào theo kiểu trên đây hầu hết được tạo ra bởi các nước phát triển, có trình độ sản xuât và công nghệ cao, cũng như thị hiếu cao của người tiêu dùng. Vì vậy để xâm nhập vào các thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung phải hết sức chú ý vượt qua được cản trở đó. Vấn đề quản lý và các chính sách của nhà nước chưa đáp ứng được các nhu cầu: Đầu năm 1997, luật thương mại được thông qua. Tháng 3/1998 TTCP đã ban hành quyết định số 55/1998/QĐ-TTg cho phép tất cả các doanh nghiệp Việt Nam được tham gia trực tiếp vào hoạt động xuất khẩu mà không đáp ứng bất cứ điều gì, ngoại trừ việc tự đăng ký mã số hàng hoá của mình tại hải quan. Đến tháng 7/1998, Nghị định 57/1998/NĐ-CP hướng dẫn việc thực hiện luật thương mại, theo đó các doanh nghiệp Việt Nam được kinh doanh xuất nhập khẩu theo nội dung đăng ký kinh doanh nội địa, chế độ phê duyệt hợp đồng và cấp giấy phép đối với hàng hoá gia công được bãi bỏ. Những cải cách này nhìn chung đã giúp các doanh nghiệp dễ dàng, bình đẳng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, nhưng đối với các DNNN thì từ nay sẽ phải gặp sự cạnh tranh mạnh mẽ, và như vậy việc chia sẻ giảm sút thị phần của một doanh nghiệp là không tránh khỏi. Kết quả là công ty VILEXIM mất nhiều khách hàng xuất nhập khẩu uỷ thác lâu năm, cạnh tranh ngày càng gay go, nguồn lợi nhuận từ kinh doanh xuất nhập khẩu giảm đáng kể. Thêm vào đó luật thuế VAT mới được áp dụng đã có một số vướng mắc trong các chứng từ yêu cầu thuế đầu vào và kê khai nộp thếu VAT phải chờ chỉ đạo hướng dẫn. Tất cả những điều trên đã gây không ít khó khăn cho doanh nghiệp, làm giảm khả năng tự do kinh doanh, gây tâm lý chờ đợi và giao dịch trở lên chầm lắng. Bên cạnh đó việc xử lý các văn bản chậm, sự phối kết hợp các Bộ, các ngành chưa thật nhịp nhàng đã làm cản trở hoạt động của doanh nghiệp. Các cơ quan quản lý cấp trên đôi khi còn chưa quan tâm đầy đủ và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc phát triển sản xuất, tạo nguồn hàng xuất khẩu và cung cấp thông tin thương mại chưa đáp ứng được nhu cầu 4.2. Nguyên nhân chủ quan. Chưa chú trọng vào công tác thị trường, chưa hoạch định được một chiến lược xúc tiến thương mại: Thực tế cho thấy, hoạt động xuất khẩu mà không có sự sàng lọc cẩn thận về thị trường thì dù thành công ở một chừng mực nào đấy nhưng sẽ bỏ lỡ những cơ hội xuất khẩu tốt hơn. Khi có một chiến lược xúc tiến rõ ràng, các chỉ tiêu ràng buộc xuất khẩu đều được lượng hoá một cách cụ thể, đồng thời thể hiện những thế mạnh và điểm yếu của doanh nghiệp một cách rõ ràng hơn. Đặc biệt là xây dựng một chiến lược phân bổ rõ ràng trách nhiệm của từng bộ phận và kết quả thực hiện. Do vậy, việc hoạch định chiến lược xuất khẩu là bước cơ sở nhằm đẩy mạnh xuất khẩu của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Hơn nữa, trong bối cảnh tình hình thế giới hiện nay, cầu hàng hoá giảm đồng thời cơ chế quản lý cởi mở cho phép doanh nghiệp được quyền kinh doanh xuất nhập khẩu đã biến vấn đề tìm kiếm và mở rộng thị trường, bạn hàng trở thành mối quan tâm hàng đầu. Trong các báo cáo gần đây, xúc tiến thương mại luôn là quan trọng được công ty đưa ra. Với đặc điểm là công ty kinh doanh nhiều mặt hàng và quan hệ với nhiều thị trường, bởi vậy hoạt động nghiên cứu thị trường đòi hỏi rất nhiều công sức và chi phí. Các hoạt động xúc tiến thương mại của chính phủ chưa phát huy được vai trò của mình là do: Công việc này được phân công về từng phòng ban riêng theo mặt hàng, do vậy với chi phí và số cán bộ ít ỏi không thể tiến hành nghiên cứu các thị trường một cách đầy đủ và sâu sắc được. Việc chưa phát huy được tác dụng của nghiên cứu thị trường trong đẩy mạnh xuất khẩu thường bị cho là thiếu kinh phí. Tuy nhiên, vấn đề chính ở đây là do hạn chế về trình độ marketing của các nhân viên nghiệp vụ. Khả năng tiếp thị của đội ngũ cán bộ còn chưa đáp ứng được yêu cầu. Sự phát triển của doanh nghiệp ngoại thương đòi hỏi có khả năng tiếp thị tốt hơn hẳn các doanh nghiệp nội thương và các doanh nghiệp sản xuất khác, do thị trường ngoài nước luôn có yêu cầu và tiêu chuẩn cao hơn hẳn. Phương thức kinh doanh: Trong những năm qua, công ty đã cố gắng đa dạng các hình thức kinh doanh của mình bằng việc cho thuê bất động sản( văn phòng, kho bãi...), đảm nhận việc giao nhận, quan hệ tốt với các doanh nghiệp khác và các đại lý trong nước. Nhờ đó hoạt động của các loại hình này chiếm ngày càng tăng trong doanh thu của công ty. Tuy nhiên, riêng về xuất khẩu dù đã rất nhiều cố gắng trong việc tìm ra phương thức xuất khẩu mới để tăng kim ngạch, các biện pháp này vẫn chưa kích thích xuất khẩu được bao nhiêu. Các hình thức làm hàng quá cảnh sang Lào, thực hiện hàng đổi hàng đã được công ty cố gắng thực hiện nhưng kết quả còn rất hạn chế. Các hình thức xúc tiến phân phối ở nước ngoài như thành lập đại lý bán hàng, văn phòng đại diện, các điểm bán hàng trực tiếp có rất ít. Đây là hình thức xúc tiến bán hàng hữu hiệu đồng thời nâng cao hình ảnh và uy tín của công ty đối vơí bạn hàng, nhưng để xây dựng được mạng lưới phân phối như vậy đòi hỏi về vốn và công sức rất tốn kém. Vấn đề về tìm kiếm và xử lý thông tin: Trong kinh doanh hiện đại, tin tức đóng vai trò hết sức quan trọng, ở đây là những tin tức về đặc điểm thị trường, giá cả, đối thủ cạnh tranh, xu thế biến động của thế giới và xúc tiến thương mại. Về lý thuyết, các thông tin được cung cấp bởi các nguồn tin nhưng hiện nay về cơ bản công ty vẫn phải chủ động tìm kiếm thông tin qua các phương tiện đại chúng: sách, báo... Vì vậy, sự hiện đại của phương tiện thông tin và sự nhanh nhạy trong việc nắm bắt xử lý thông tin la vô cùng cần thiết. Tình trạng thiếu và chậm thông tin đã khiến công ty rất bị động trong việc ứng phó với các biến động của thị trường, các thay đổi của bạn hàng cũng như điều kiện và tập quán thị trường. Cần chú ý hơn là công ty còn thiếu chuyên gia về phân tích, dự báo thị trường, đồng thời tư vấn những biện pháp thích hợp, vạch ra những kế hoạch phát triển thị trường của công ty. Việc dự kiến trước những thay đổi của thị trường và tác động của nó có thể được cải thiện một cách đáng kể nếu các doanh nghiệp biết sử dụng một cơ chế tổ chức nhằm nhận dạng nguồn gốc và các hướng phát triển của thị trường một cách có hệ thống. Vì vậy, việc tìm kiếm và xử lý thông tin về thị trường nhằm tạo ra các cơ hội xuất khẩu, mở rộng thị trường cho công ty vẫn còn là một điểm yếu mà công ty cần nhanh chóng khắc phục. Chương III: MộT Số GIảI PHáP Và KIếN NGHị NHằM THúC ĐẩY HOạT động xuất khẩu nông sản ở công ty vilexim I. Tình hình thị trường hàng nông sản thế giới và định hướng phát triển kinh doanh của công ty trong thời gian tới 1. Tình hình thị trường hàng nông sản thế giới Năm 2001, thị trường hàng nông sản biến động mạnh. Lượng xuất khẩu tăng nhưng giảm về giá trị do giá nông sản thế giới giảm. Năm 2002 giá cả mặt hàng nông sản được phục hồi do nền kinh tế thế giới phục hồi phát triển ổn định. Sản lượng gạo thế giới vụ 2001/2002 giảm 0,44% so với vụ trước, còn 394,44 triệu tấn. Nhu cầu tiêu thụ gạo trên thế giới vụ 2001/2002 vẫn duy trì ở mức của vụ trước là 404,8 triệu tấn cao hơn sản lượng 10,36 triệu tấn. Tồn kho gạo thế giới cuối vụ giảm 7,5 so với vụ trước. Giá gạo các loại tăng 9% so với năm 2001 Hiện nay gạo của Việt Nam có mặt trên 100 nước tuy nhiên, gạo có phẩm cấp, chất lượng cao chỉ chiếm 35- 40% tổng sản lượng. Mặt khác giá gạo trong nước không ổn định phụ thuộc vào thời vụ. Năm 2002 cả nước sản xuất được khoảng 32 triệu tấn lúa, tăng 2% trong đó gạo xuất khẩu khoảng 3,7 triệu tấn, tăng 4,2% so với năm 2001 Về thị trường cà phê sản lượng cà phê tăng 1,9 triệu bao so với vụ 2000/2001 Nhu cầu nhập khẩu của thế giới trong vụ 2001/2002 tăng khoảng 0,8 triệu bao. Làm cho giá cà phê tăng lên nhưng vẫn ở mức thấp trung bình 530 USD/tấn và không có sự chênh lệch đáng kể về giá xuất khẩu giữa các thị trường. Sản lượng cà phê Robusta thế giới tăng mạnh chủ yếu do sản lượng của Việt Nam và Braxin vẫn còn duy trì ở mức cao. Đối với ngành cà phê Việt Nam thì năm 2002 là năm đầy thử thách. Chương trình giới hạn diện tích Robusta và chuyển đổi cơ cấu cây trồng bắt đầu phát huy tác dụng cùng các biện pháp hỗ trợ mạnh mẽ của Nhà nước. Ngoài ra, tình hình hạn hán nghiêm trọng và việc người sản xuất giảm thâm canh làm giảm mạnh sản lượng, số lượng cà phê xuất khẩu vụ 2001/2002 đạt 750 ngàn tấn, với giá trị đạt 320 triệu USD, bằng 82,3% về lượng và 82,7% về giá trị so năm 2001 Về thị trường chè thì năm 2001 nước sản xuất chè chủ yếu vẫn là ấn Độ với sản lượng đạt 870 ngàn tấn, Srilanka 320 ngàn tấn...và riêng 5 nước là ấn Độ, Srilanka, Trung Quốc, Kênia và Inđônêxia đã chiếm trên 85% sản lượng chè của thế giới. Trong năm 2002, xuất khẩu chè của Việt Nam gặp khó khăn do thị trường chè thế giới chưa lấy được trạng thái cân bằng. Số lượng chè xuất khẩu chỉ tăng 3,4% thấp hơn so với mức tăng của năm 2001 và giá trị tăng 1,5% so với năm 2001 Thị trường đối với mặt hàng nông sản khác cũng trong trạng thái tương tự Năm 2003 các chuyên gia về thị trường dự báo giá cả hàng nông sản thế giới sẽ biến động do tình hình chính trị thế giới có nhiều diễn biến phức tạp có thể sẽ ảnh hưởng xấu đến nền kinh tế thế giới. 2. Định hướng phát triển cho Công ty Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, để đứng vững và phát triển mỗi doanh nghiệp phải tìm được một hướng đi phát triển cho riêng mình, trên cơ sở phù hợp với những điều kiện thực tế của mỗi doanh nghiêp và của đất nước nói chung. Bước sang năm 2003 là năm thứ 3 trong kế hoạch 5 năm 2001-2005 và được coi là năm bản lề của kế hoạch này, là năm có rất nhiều cơ hội và thách thức, năm phải có bước tiến nhanh chóng và toàn diện để đủ điều kiện cho việc thực hiện cam kết theo hiệp định ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEP/APTA). Trên cơ sở kim ngạch xuất khẩu đã đạt được trong 2002 và tình hình kinh doanh thực tế của Công ty hiện nay cũng như trong tương lai gần Công ty dự kiến kế hoach xuất khẩu năm 2003 như sau: - Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu là 26 triệu USD + Kim ngạch xuất khẩu : 12,5 triệu USD + Kim ngạch nhập khẩu : 13,5 triệu USD - Tổng doanh thu : 300 tỷ VNĐ - Nộp ngân sách : 28,07 tỷ VNĐ - Lợi nhuận : 670 triệu VNĐ - Tổng quỹ lương : 1,847 tỷ VNĐ Để thực hiên được những chỉ tiêu trên Công ty cố gắng tập trung xuất khẩu một số mặt hàng nông sản chủ lực như: lạc nhân, gạo, tinh bột sắn, sắn lát, cà phê, hạt tiêu, hoa hồi... bên cạnh việc xuất sang các thị trường truyền thống ở các nước châu á như Singapo, Philipin, Inđônêxia, Hồng Kông, ấn Độ... tìm cách mở rộng sang các thị trường khác như: Trung Quốc, Nam Phi, Mỹ, các nước Trung cận đông. Mục tiêu xuất khẩu hàng nông sản được Công ty đặt ra cho phấn đấu như sau: Bảng 6: dự kiến kế hoạch năm 2003 Mặt hàng xuất khẩu Số lượng (tấn) Trị giá (USD) Gạo các loại Lạc nhân Hạt tiêu Chè các loại 25.000 6.000 500 500 5.000.000 3.000.000 750.000 250.000 Nguồn: báo cáo tổng kết công ty 2002 Năm 2002, Công ty thực hiện doanh số được 330 tỷ đồng vì bán được một số lượng lớn hàng tồn kho, tuy nhiên kế hoạch năm 2003 Công ty chỉ để doanh số 300 tỷ đồng vì phải lường đến những khó khăn và thách thức. Bước sang năm 2003 và một số năm tới Công ty cần đẩy mạnh tập trung đẩy mạnh xuất khẩu lấy hình thức tự doanh là chính, chú trọng phát triển xuất khẩu các mặt hàng như: lạc nhân, gạo, cà phê, hạt tiêu... ngoài việc kinh doanh xuất nhập khẩu ngắn hạn Công ty phải chú trọng đến việc xây dựng mặt hàng ổn định, lâu dài, nhất là mặt hàng nông sản xuất khẩu, gắn với việc xuất khẩu nông sản dạng thô hay qua sơ chế với việc xuất khẩu nông sản đã qua chế biến để tạo thế đứng lâu dài cho Công ty trên thị trường quốc tế. Điều này rất quan trọng khi các đầu mối xuất khẩu được Nhà nước mở rộng, khai thác mọi khả năng để tìm các hình thức kinh doanh mới như hợp tác sản xuất, xây dựng cửa hàng, đại diện tại nước ngoài mà ở đó có trưng bầy hàng mẫu xuất khẩu... Động viên có biện pháp cụ thể nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm, kiến thức chuyên môn của đội ngũ cán bộ, giải quyết tốt quan hệ tiền hàng cũng như xử lý trắc về nghiệp vụ xuất nhập khẩu là những vấn đề phải đặt lên hàng đầu để đảm bảo kinh doanh an toàn hiệu quả. II. một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty trong thời gian tới Xây dựng một số chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu Để xây dựng một chiến lược như vậy, công ty phải xác định được những điểm mạnh, điểm yếu của mình như: Điểm mạnh: + Là một đơn vị luôn đạt thành tích kinh doanh- sản xuất tốt, đạt và vượt các chỉ tiêu được giao. + Tình trạng tài chính lành mạnh, luôn đảm bảo nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh, hầu như không tồn tại nợ khó đòi, luôn đảm bảo an toàn và phát triển vốn. + Đội ngũ cán bộ ngoại thương nhìn chung có năng lực và kinh nghiệm cao đáp ứng được đòi hỏi của thị trường. + Có uy tín cao Điểm yếu: + Chi phí hạn hẹp cho công tác thị trường, trình độ còn hạn chế... + Hạn chế về vốn Từ việc phân tích trên, Công ty rut ra được những cơ hội và kho khăn cho công tác thị trường và trên cơ sở đó xây dựng một chiến lược phát triển thị trường cho riêng mình. Chiến lược đó được lập theo hướng sau: Xây dựng thị trường chủ lực cho Công ty. Giữ vững và mở rộng các thị trường bạn hàng truyền thống. Xúc tiến bán hàng vào các thị trường mới. 2.Nâng cao khả năng tiếp thị Do quen làm ăn trong cơ chế cũ, khi mọi hoạt động của công ty đều dựa trên chỉ tiêu, kế hoạch của Nhà nước, các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn rất khó khăn trong việc nâng cao ý thức về nghiệp vụ tiếp thị để có thể tăng khả năng kinh doanh của mình. Cũng như vậy, mặc dù thời gian qua đã có rất nhiều cố gắng như: đề ra phương hướng nhiệm vụ, tăng cường khả năng tài chính, nâng cấp nghiệp vụ...song hiệu quả tiếp thị của Công ty chưa mấy hiệu quả. Để hoạt đông tiếp thị có hiệu quả, Công ty cần phải: Xác định thị trường mục tiêu tiếp thị Có khả năng chiếm lĩnh và giữ vững thị trường Thành lập các cửa hàng giới thiệu sản phẩm, đại lý bán hàng Tích cực tham gia triển lãm, hội chợ Ngoài ra, Công ty cần chú ý lựa chọn phương tiện và quy mô quảng cáo và khuyếch trương thích hợp với tình hình tài chính và yêu cầu của thị trường, tổ chức hội thảo, soạn thảo các tài liệu giới thiệu về Công ty và các lĩnh vực kinh doanh. 3. Đảm bảo nguồn hàng cung cấp ổn định Hiện nay công ty có quan hệ với các bạn hàng trong nước ổn định và có uy tín cao. Trong bối cảnh hiện nay, hầu hết cung lớn hơn cầu nên việc tìm hàng không mấy khó khăn. Tuy nhiên, để đảm bảo cho uy tín của công ty với các đối tác nước ngoài để duy trì và mở rộng xuất khẩu cần chú ý các vấn đề sau: + về chất lượng Nhìn chung, công ty luôn chủ trương coi trọng uy tín của mình, nên rất coi trọng vấn đề đảm bảo chất lượng xuất khẩu. Muốn đảm bảo một nguồn hàng có chất lượng tốt, cần phải: Đối với các mặt hàng thu mua, cần nghiên cứu kỹ để chọn được những nhà cung cấp hàng có chất lượng tốt, ổn định. Kiên quyết không mua những hàng không đủ tiêu chuẩn để xuất khẩu, nếu đã mua thì để lại bán trong nước hoặc có biện pháp khắc phục nếu có thể. Phối hợp với nhà cung cấp kiểm tra chất lượng ngay từ khi sản xuất. + về số lượng Công ty cần có sẵn một danh mục các nhà cung cấp, thường xuyên trao đổi thông tin cập nhật để biết khả năng cung cấp hàng của họ. Trên cơ sở nghiên cứu kỹ nhu cầu(đặc biệt là các mặt hàng có tính thời vụ) và xu hướng biến động của thị trường, bạn hàng. Công ty nên chuẩn bị cho các vụ làm ăn sắp tới bằng cách đặt hàng trước hay nhập dự trữ. Đẩy mạnh hơn nữa hoạt động của các chi nhánh, xây dựng mạng lưới thu mua từ địa phương. Liên doanh liên kết với các nhà cung cấp, tạo ra sự gắn kết chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh nhằm giảm tối đa chi phí trung gian, kiểm soát được chất lượng, chủ động về số lượng và thời gian giao hàng 4. Tích cực tìm kiếm thông tin phục vụ kinh doanh Công tác này cho đến nay chưa mấy được chú ý. Việc nắm bắt thông tin theo kịp thị trường có thể nói là một trong những yếu tố quyết định cơ hôị làm ăn của doanh nghiệp Hiện các doanh nghiệp nhìn chung chỉ lấy thông tin từ các báo chí, từ các cơ quan nhà nước,các hiệp hội ngân hàng, và chủ yếu là từ phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên thực tế thì cơ quan này chưa mấy phát huy tác dụng trong việc cung cấp thông tin và tư vấn cho doanh nghiệp. Trong điều kiện ấy doanh nghiệp buộc phải tự tìm kiếm thông tin bằng các biện pháp riêng của mình. Biện pháp tìm kiếm thông tin nhanh chóng nhất và đa dạng nhất hiện nay có thể nói là mạng internet và thương mại điện tử 5. Nâng cao trình độ cán bộ theo kịp yêu cầu mới Nhìn chung công ty có đội ngũ cán bộ công nhân viên có đủ phẩm chất chính trị, nghiệp vụ nên hoạt động sản xuất kinh doanh khá hiệu quả. Tuy nhiên cơ chế mới có nhiều yêu cầu mới mà công ty buộc phải theo kịp. Đó là các yêu cầu về chuyên môn như quản lý công nghiệp để mở rộng sang lĩnh vực sản xuất, nghiệp vụ ngoại thương trong tình hình các quy tắc và tập quán cũng như phương thức có nhiều thay đổi. Còn có các yêu cầu về trình độ ngoại ngữ và tin học để có thể theo kịp và hoà nhập với trình độ phát triển chung của thế giới trong xu thế quốc tế hoá hiện nay. Đặc biệt công ty cần có kế hoạch đào tạo tuyển dụng các cán bộ có trình độ marketing đáp ứng các yêu cầu kinh doanh hiện đại. III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty 1.Định hướng rõ ràng về chiến lược lựa chọn thị trường vĩ mô `Lựa chọn thị trường trong chính sách ngoại thương của một nước là hết sức quan trọng nhằm đạt hiệu qủa kinh tế tối đa. Để lựa chọn loại thị trường đúng đắn cho hoạt động ngoại thương của một nước đòi hỏi phải giải quyết nhiều vấn đề liên quan như môi trường kinh tế vĩ mô, môi trường luật pháp, chính trị, văn hoá và nhất là phải xem xét, đánh giá cơ cấu tiêu dùng của một quốc gia xem có phải là thị trường tiềm năng hay không. Nằm trong khu vực kinh tế phát triển năng động và là nước đi sau, Việt Nam rất có điều kiện để xem xét các kinh nghiệm từ chiến lược lựa chọn thị trường nằm trong chiến lược ngoại thương chung của các nước như NICs và ASEAN để học tập. Trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, cũng như các nước này Việt Nam xác định lựa chọn thị trường của các nước phát triển có dung lượng thị trường lớn, có sức tiêu thụ cao, nhằm tranh thủ những lợi thế cạnh tranh về giá nguyên vật liệu và giá nhân công rẻ. Như hầu hết các nước ASEAN, Việt Nam thực hiện chính sách đa phương hoá mở rộng quan hệ, mở cửa thị trường. Tuy nhiên, nhằm hướng tới sự cân bằng tương đối giữa các khu vực thị trường, tránh tập trung quá mức vào một thị trường dẫn đến ảnh hưởng bất lợi đến thị trường ngoại thương mà cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực cách đây một vài năm là một minh chứng rõ ràng, theo một số chuyên gia thì từ nay đến năm 2010 chính sách chuyển dịch thị trường chuyển dịch theo tỷ lệ sau: Châu á- Thái Bình Dương: 50%. Trong đó Trung Quốc và một số lãnh thổ thuộc Trung Quốc như: Hông Kông, Đài Loanm, Ma Cao...giữ mức không quá 25%, còn lại là các thị trường Nhật Bản, NICs Đông á, ASEAN, OXTRALIA... Châu âu: 20%,gồm các thị trường các nước EU như: Đức, Pháp, Anh, Hà Lan. Tiếp đó là các nước Bắc Âu, các nước SNG (Nga là chính) các nước Đông Âu và Trung Đông. Châu Mỹ: 25%, ngoài Canada là bạn hàng quen thuộc ở Bắc Mỹ, cần đặc biệt lưu ý mở rộng thị trường Mỹ do Việt Nam vừa ký hiệp định thương mại với Mỹ xong, tiếp tục tìm kiếm thị trường các nước Mỹ la tinh. Các châu lục khác 5% Phát triển kinh tế xã hội, hạn chế những ảnh hưởng của các yếu tố khách quan Một điều thấy rằng trong thời gian qua tình hình thế giới biến động vô cùng phức tạp điều đó ảnh hưởng trực tiếp hay gián tiếp khiến cho xuất khẩu của Việt Nam bị chững lại trong thời gian qua. Để giảm thiểu tác động đó, một số định hướng được đưa ra như sau: - Duy trì và xúc tiến cải cách kinh tế theo hướng đổi mới một cách thật toàn diện và nhanh chóng hơn trước hết về chính sách và pháp luật, lĩnh vực tài chính ngân hàng, thương mại, thu hút đầu tư nước ngoài, trong quản lý khu vực doanh nghiệp...trên nguyên tắc quan trọng và phải đảm bảo sự minh bạch rõ ràng, và tạo ra sự bình đẳng trong mọi thành phần kinh tế. Thực tế đồng bộ các giải pháp cải cách cơ cấu, đó là cơ cấu xuất nhập khẩu tích luỹ tiêu dùng, công nghệ lao động, cơ cấu các doanh nghiệp, cơ cấu nợ vốn, cơ cấu tài chính. Tích luỹ và hội nhập hơn vào kinh tế khu vực và thế giới. Chính phủ cần ủng hộ mạnh mẽ tích cực về thể chế và nhiệm vụ cho việc tham gia WTO và cũng đẩy mạnh tiến trình AFTA và tham gia APEC trong tương lai gần. Tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài không thua kém trình độ trong khu vực. Từng bước tự do hoá khu vực tài chính. Đặc biệt lưu ý chính sách tỷ giá hối đoái linh hoạt, thích nghi với thị trường. 3.Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường . Những quy định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Chẳng hạn: Đồng bộ hệ thống văn bản pháp lý. Hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty chuyên doanh xuất khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đấy nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các công ty làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Chẳng hạn: Hiện nay nhà nước đã có những chính sách ưu tiên đối với người sản xuất và những đơn vị tham gia xuất khẩu hàng nông sản nhưng lại chưa quan tâm thích đáng tới các đơn vị cung cấp máy móc, thiết bị, phân bón phục vụ cho nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần phải xem xét và có các chính sách ưu đãi đối với các đon vị này. Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của công ty. Để nạp thuế VAT, công ty phải đi vay tiền của ngân hàng với lãi xuất cao. Tuy nhiên, quá trình hoàn thuế VAT của nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều này làm cho công ty đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn. trong thời gian tới, nhà nước cần xem xét lại chính sách này nhằm tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu Đơn giản cơ chế quản lý xuất khẩu. Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của nhà nước còn nhiều bất cập. Thủ tục xuất khẩu rườm rà phức tạp, gây lãng phí thời gian và công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều khi tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian tới nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho công ty cũng như cho nhà nước. Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. ở chính sách này, để tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, các nhà hoạch định chính sách thường phá giá đồng bản tệ. Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho ngoại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không “suy sụp“ trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này việc chọn thời điểm phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngày 7/8/1998, ngân hàng nhà nước đã quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống ± 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức 11.800VNĐ/USD lên 12.998 VNĐ/USD đã làm cho sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sau một năm tăng 75%, Cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%... Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giảm lỗ cho những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ, một số mặt hàng xuất khẩu đang bị lỗ đã chuyển thành lãi. Thực tiễn này cho thấy, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở các doanh nghiệp trong nước (nói chung) và ở công ty VILEXIM nói riêng, nhà nước nên thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu, chế độ tỷ giá này phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác của nhà nước. 4.Trợ giúp cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản. Trợ giúp vốn. Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi các công ty phải có lượng vốn đủ lớn để thu mua hàng trong vụ thu hoạch và dự trữ cho xuất khẩu trong cả năm. Hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam đều gặp khó khăn do thiếu vốn nên bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy, do thiếu vốn nên các công ty gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Chính vì vậy thời gian tới nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để công ty có thể nâng cao hoạt động chế biến và thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo điều kiện cho các công ty vay vốn với lãi suất thấp, thời gian hợp lý và đặc biệt thủ tục hành chính cần phải được cải tiến. Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại đối với mỗi công ty. Thị trường hàng nông sản là một thị trường thường có sự biến động khá phức tạp. Các công ty xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam thường rất thiếu thông tin về tình hình cung cầu hàng nông sản, về sự biến động giá cả, về các đối thủ cạnh tranh....Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cũng như các Bộ nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo sự biến động của thị trường thế giới. Đồng thời nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Nhà nước cần lập qũy bảo hiểm xuất khẩu. Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài nhiều công ty thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận công ty thu được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy nhiên công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Do vậy nhà nước cần lập nên một qũy bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro. Nhà nước cần lập qũy bình ổn giá cả. Nhà nước cần xem xét bằng qũy bình ổn giá cả để bớt đi một phần gánh nặng lãi suất tín dụng cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thu mua hàng nông sản trong nước tăng cao gây thua lỗ cho các công ty. Nhà nước nên áp dụng thuế suất ưu đãi và mở rộng hơn nữa đối với số lượng mặt hàng được miễn giảm thuế. 5. Đẩy mạnh và tạo điều kiện cho hoạt động của các dịch vụ hỗ trợ xuất khẩu khác 5.1 Dịch vụ cung cấp thông tin Cung cấp thông tin cho doanh nghiệp một hệ thống thông tin đa dạng liên quan đến một thị trường mà doanh nghiệp quan tâm, tư vấn cho hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp. 5.2 Dịch vụ vận tải, giao nhận, kho vận Việc vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam hiện nay chủ yếu do các công ty nước ngoài đảm nhiệm. Nguyên nhân là do đội tàu thuyền của Việt Nam hiện nay rất yếu, tàu không đủ an toàn và hiện đại, giá cước đắt hơn mức trung bình của quốc tế. Về giao nhận gồm có vận chuyển hàng hoá xuất nhập khẩu thông thường, hàng hoá hội chợ, hàng tạm nhập tái xuất, hàng chuyển phát nhanh, làm đại lý giao nhận từ cửa đến cửa. Về kho vận gồm: bốc, xếp, bảo quản, đóng gói lưu giữ hàng hoá trong kho, làm dịch vụ khai báo hải quan thay chủ hàng, mua bảo hiểm và làm các thủ tục liên quan đến hàng hoá. 5.3 Dịch vụ kiểm nghiệm giám định hàng hoá xuất nhập khẩu 5.4 Dịch vụ quảng cáo, triển lãm 6. tăng cường công tác xúc tiến thương mại Bộ thương mại cần đẩy nhanh hoạt động xúc tiến thương mại trên cơ sở: Phối hợp chặt chẽ với cơ quan đại diện, các tham tán thương mại của ta ở nước ngoài nhằm sử dụng một cách có hiệu quả nhất các thông tin thu được về tình hình phát triển kinh tế xã hội, tình hình phát triển ngoại thương, các chính sách kinh tế đối ngoại và vĩ mô khác, các nhu cầu và biến động của thị trường, các phương thức và tập quán buôn bán, cũng như thói quen tiêu dùng. Trên cơ sở phân tích có hệ thống, phải đưa ra dự báo chiến lược và có định hướng rõ ràng, kịp thời đến từng doanh nghiệp. Xây dựng một “ Danh mục thương mại” đầy đủ các mặt hàng, thị trường và bạn hàng nước ngoài. Danh mục này phải đổi mới cập nhật với những thay đổi đa dạng của từng nước. Triển khai các biện pháp để nắm bắt và khai thác triệt để, đồng thời hướng dẫn các doanh nghiệp cách thu thập thông tin của tổ chức nước ngoài hiện có mặt tại Việt Nam như: AMCHAM (đại diện văn phòng thương mại Mỹ), KOTRA (cơ quan xúc tiến thương mại và đầu tư Hàn Quốc), TDC (hội đồng phát triển thương mại Hồng Kông)... Hỗ trợ kinh phí cho các doanh nghiệp tham gia hội chợ triển lãm ở các thị trường quan trọng như Mỹ, Nhật... thay vì việc chờ các doanh nghiệp cho người đi nghiên cứu thị trường rồi về báo cáo như trước kia, nay Bộ chủ động trong việc cử người đi tiếp cận thị trường, mở đường cho các doanh nghiệp. Đầu tư vào hệ thống công nghệ thông tin hiện đại để kịp thời phục vụ cho các doanh nghiệp. 7. Tổ chức các kênh phân phối ở nước ngoài. Hiện nay nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể sản xuất được sản phẩm xuất khẩu nhưng số lượng không lớn. Mà với số lượng không lớn thì việc tổ chức để bán hàng ở nước ngoài không đem lại nhiều lợi nhuận, hoặc các nhà nhập khẩu nước ngoài không ký hợp đồng vì không đủ số lượng. Hơn nữa, các doanh nghiệp vừa và nhỏ thường thiếu kiến thức về marketing và không tự mình lập được mạng lưới marketing hoặc không thể xâm nhập được vào các thị trường đã được an bài. Lúc này sự giúp đỡ của Nhà nước là rất có giá trị. Các thương vụ ở các nước cần tìm hiểu xem bạn hàng cần gì, số lượng bao nhiêu, khi đó thông báo để hình thành một kênh phân phối với một đầu là các doanh nghiệp Việt Nam, một đầu là tổ chức thương vụ. Với chi phí từ ngân sách Nhà nước, hàng hoá được vận chuyển ra nước ngoài và giao cho nhà nhập khẩu. Chỉ có cách này mới giúp được các doanh nghiệp vừa và nhỏ ít vốn hoặc cả các doanh nghiệp lớn nhiều vốn nhưng gặp khó khăn trong phân phối hàng ra nước ngoài. 8. Chú trọng biện pháp thưởng xuất khẩu Bộ thương mại đã có quy định những diện được thưởng như sau: Xuất khẩu mặt hàng mới Để khuyến khích các doanh nghiệp phát triển đa dạng hoá ngành hàng xuất khẩu, nhằm thu được nhiều lợi nhuận hơn và giảm rủi ro. Bộ thương mại cần phải có những biện pháp thưởng xứng đáng, nhanh chóng cho những doanh nghiệp nào chịu khó tìm ra mặt hàng mới để xuất khẩu. Mở thêm thị trường xuất khẩu Đối với những thị trường mà các doanh nghiệp Việt Nam gặp nhiều khó khăn hoặc chưa bao giời thâm nhập thì Bộ thương mại phải tạo nhiều điều kiện thuận lợi, trợ giúp cũng như thưởng cho doanh nghiệp nào mà thâm nhập vào được các thị trường đó nhằm giảm bớt chi phí cho doanh nghiệp khi thâm nhập vào thị trường đó, từ đó khuyến khích được các doanh nghiệp khác năng động hơn trong việc tìm kiếm thị trường. Sản xuất mặt hàng xuất khẩu có chất lượng cao Sự cạnh tranh trên thị trường quốc tế ngày càng gay gắt về chất lượng, giá cả. Trong khi đó các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay vẫn còn sở hữu rất nhiều công nghệ lạc hậu tạo ra các sản phẩm chất lượng không cao. Chính vì thế để nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế cũng như đảm bảo sự tồn tại của doanh nghiệp Việt Nam. Bộ thương mại cần chú trọng hơn nữa đến biện pháp thưởng cho các doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu có chất lượng cao, để cho doanh nghiệp có điều kiện hơn đầu tư cải tiến công nghệ tạo ra các sản phẩm có chất lượng cao hơn nữa, giúp cho doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh tốt trên thị trường quốc tế Hàng gia công chế biến chủ yếu bằng nguyên vật liệu trong nước, có kim ngạch xuất khẩu cao Việc gia công chế biến bằng nguyên vật liệu trong nước sẽ khuyến khích các ngành nghề phát triển, tạo ra được nhiều công ăn việc làm hơn và đem lại lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp. Chính vì vậy chính phủ phải có nhiều chính sách đãi ngộ về thuế và thưởng cho doanh nghiệp gia công chế biến bằng nguyên vật liệu trong nước để cho các ngành nghề phát triển mạnh hơn 9. Tiếp tục cải cách thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu trong thời gian gần đây Bộ thương mại đã cùng phối hợp với các cơ quan chức năng khác không ngừng đơn giản hoá và hoàn thiện các thủ tục hành chính trong quản lý xuất nhập khẩu. Cụ thể là: Một là công bố công khai quy trình và thời gian giải quyết công việc. Tại quyết định số 385/1998/QĐ-BTM, Bộ thương mại đã quy định chi tiết các hồ sơ và hạn định thời gian giải quyết các yêu cầu về xuất nhập khẩu, về đặt văn phòng đại diện của doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài và văn phòng đại diện của tổ chức kinh tế nước ngoài tại Việt Nam. Hai là thực hiện uỷ quyền, bỏ nấc. Bộ đã uỷ quyền cho các khu công nghiệp, khu chế xuất và UBND tỉnh phê duyệt kế hoạch xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp có vốn FDI. Riêng đối với các mặt hàng thuộc diện quản lý chuyên ngành trước đây phải xin giấy phép XNK ở các cơ quan quản lý chuyên ngành rồi lên Bộ thương mại, nhưng nay không phải làm thủ tục này ở Bộ nữa. Tuy nhiên, thủ tục quản lý XNK vẫn còn tồn tại một số khúc mắc phải giải quyết tiếp. Một số mặt hàng vẫn còn sự quản lý chồng chéo của chuyên ngành và của Bộ thương mại, quy chế kiểm tra hàng tại cửa khẩu còn nhiều phức tạp, vấn đề ghi ngành hàng trong giấy chứng nhận kinh doanh chưa thống nhất nên không phù hợp với thực tế, gây khúc mắc trong khi áp thuế. Mặt khác Bộ thường xuyên tổ chức tiếp xúc với doanh nghiệp để phát hiện và xử lý kịp thời các vướng mắc của doanh nghiệp, hoặc để cung cấp một thông tin chi tiết trong chính sách mới vừa ban hành. Đồng thời không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ và đạo đức cho đội ngũ thi hành. Kết luận đề tài “ Một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở công ty VILEXIM” được nghiên cứu trên đây nhằm phân tích, đánh giá tình hình thực tế công tác tổ chức quá trình xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty VILEXIM. Trong thời gian thực tập tôi cố gắng tìm hiểu những hoạt động kinh doanh xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu với Lào (VILEXIM) trong đó chú trọng nhất đến hoạt động xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty. Kết hợp giữa cơ sở lý luận chung đã trình bày ở chương I với việc nghiên cứu phân tích để tìm ra những điểm mạnh và điểm yếu còn tồn tại trong quá trình xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty. Tuy nhiên do trình độ nhận thức và thời gian thực tập có hạn tôi chỉ đưa ra một số giải pháp và kiến nghị mang tính phương hướng để công ty vận dụng vào thực tế kinh doanh của mình. Với trình độ còn hạn chế, kinh nghiêm thực tế còn quá ít ỏi, chắc chắn tôi không tránh khỏi sai sót và thiếu chặt chẽ trong quá trình hoàn thành đề tài nghiên cứu. Nhưng tôi hy vọng rằng đề tài nghiên cứu này có thể khái quát được phần nào hoạt động kinh doanh của công ty và những định hướng có thể áp dụng vào thực tiễn góp phần nâng cao hoạt động kinh doanh của công ty. Cuối cùng cho phép tôi được bày tỏ lòng cảm ơn chân thành và sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn Th.s Đàm Quang Vinh cùng các thầy cô giáo trong khoa: “ Kinh tế và kinh doanh quốc tế”, tập thể cán bộ nhân viên phòng xuất nhập khẩu II của công ty xuất nhập khẩu với Lào đã giúp tôi hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Hà nội, tháng 4 năm 2003 Sinh viên Tô Xuân Hải Mục lục Lời nói đầu Trang CHƯƠNG I: cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường I.Xuất khẩu hàng hoá và vai trò của hoạt động xuất khẩu trong nền kinh tế thị trường... ............................................................................................................1 II. Các nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu ở các doanh nghiệp............................6 III. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu hiện nay..................................................9 IV. Nội dung hoạt động xuất khẩu ở các doanh nghiệp...................................13 chương ii: thực trạng hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty vilexim .......................................................28 I.Khái quát về công ty VILEXIM.....................................................................28 II. Khái quát hoạt động kinh doanh của công ty trong thời gian gần đây........ 34 III.Tình hình xuất khẩu nông sản ở Việt Nam và hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty xuất nhập khẩu VILEXIM hiện nay...............................42 IV.Những thuận lợi và khó khăn của công ty trong xuất nhập khẩu..................................................................................................................55 Chương III: MộT Số GIảI PHáP Và KIếN NGHị NHằM THúC ĐẩY HOạT động xuất khẩu nông sản ở công ty vilexim.............63 I. Tình hình thị trường hàng nông sản thế giới và định hướng phát triển kinh doanh của công ty trong thời gian tới...............................................................63 II. một số giải pháp để đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty trong thời gian tới..............................................................................................66 III. Một số kiến nghị đối với Nhà nước và Bộ thương mại nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản của công ty...............................................................69 Danh mục bảng số liệu Bảng1: Tình hình thực hiện chỉ tiêu kim ngạch xuất khẩu các năm 1991-2002 Bảng2: So sánh các chỉ tiêu kinh tế thực hiện của từng năm so với kế hoạch và so với cùng kỳ năm trước Bảng3: Tình hình thực hiện xuất khẩu nông sản ở nước ta qua các năm 1999-2002 Bảng4: Biểu hình về cơ cấu mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty Bảng5: Cơ cấu thị trường xuất khẩu mặt hàng nông sản của công ty 1999-2002 Bảng6: Dự kiến kế hoạch năm 2003 Danh mục tài liệu tham khảo Báo ngoại thương –2001,2002 Báo kinh tế và dự báo 2003 Quản trị Marketing- Philip Kotler Marketing quốc tế- trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân Đàm phán vá ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế- ĐH Kinh Tế Quốc Dân Quản trị kinh doanh quốc tế- ĐH Kinh Tế Quốc Dân

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc9502.doc
Tài liệu liên quan