Đề tài Một số các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam

các ngành, các cơ quan đơn vị để đẩy mạnh năng lực sản xuất của nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sẽ đạt được những thành tựu đáng kể trong việc mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu hướng tới một Ngân hàng đa năng tổng hợp, phát triển bền vững.

doc92 trang | Chia sẻ: ndson | Lượt xem: 1357 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số các giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch I - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Thứ hai, Ngân hàng cho phép các doanh nghiệp ký các Hợp đồng mua bán ngoại tệ giao ngay, hoán đổi, kỳ hạn để tránh rủi ro hối đoái. Thứ ba, ngân hàng cung cấp cho các doanh nghiệp thông tin về đối tác nước ngoài, tư vấn cho doanh nghiệp lựa chọn nhà cung cấp thiết bị, máy móc, dây chuyền công nghệ, giá cả và các điều khoản thanh toán tiết kiệm chi phí nhất. Thứ tư, doanh nghiệp có thể được gia hạn nợ nếu tình hình sản xuất kinh doanh gặp khó khăn hay đang trong giai đoạn chạy thử, lắp đặt máy móc thiết bị… Hình thức này có nhiều ưu điểm, tuy nhiên nó cũng có những hạn chế sau: Thứ nhất, đây là nguồn tài trợ của phía nước ngoài nên các khách hàng xin vay ngoài việc phải thoả mãn các điều kiện của một hợp đồng tín dụng thông thường còn phải thoả mãn các điều kiện của nhà tài trợ: Giá trị máy móc lớn hơn 150.000 USD. Có Hợp đồng nhập khẩu với nhà nhập khẩu có đủ tư cách pháp nhân hoạt động trên đất nước xuất khẩu và tài trợ. Trong hợp đồng nhập khẩu, hàng hoá nhập khẩu phải có ít nhất 60% hàng hoá được sản xuất ở nước xuất khẩu và tài trợ. Mặc dù có những ưu đãi và linh động đối với khách hàng trong việc lựa chọn lãi suất, tuy nhiên do thời hạn vay và trả nợ dài nên những biến động lãi suất trên thị trường quốc tế, biến động về tỷ giá là rủi ro lớn tác động đến nhà nhập khẩu. Ngoài việc trả lãi và nợ gốc, nhà nhập khẩu phải trả thêm các khoản sau: Phí bảo hiểm tín dụng (tính trên giá trị khoản vay) khoảng 6 – 6,5% được trả một lần hoặc trả suốt thời gian vay Phí quản lý: khoản phí được tính theo tỷ lệ % trên giá trị hợp đồng vay vốn, được thanh toán trước khi giải ngân. Phí cam kết: là khoản phí được tính theo tỷ lệ % tính trên số tiền chưa được rút vốn của hợp đồng nhập khẩu riêng lẻ. Hình thức này là hình thức riêng có và ra đời sớm nhất của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Tuy nhiên, từ năm 1998 trở lại đây, do nhiều nguyên nhân mà chủ yếu là những căng thẳng của nhu cầu ngoại tệ, tâm lý lo sợ tỷ giá tăng cao nên việc tài trợ xuất nhập khẩu qua hiệp định khung không còn hấp dẫn khách hàng như trước nữa. Vì vậy, doanh số phát hành bảo lãnh vay vốn nước ngoài trong 03 năm gần đây đều bằng 0. 4.2.2. Cho vay ứng trước thanh toán hàng nhập: Đây là hình thức tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu được thực hiện phổ biến nhất tại Sở giao dịch từ trước đến nay. Tuỳ theo đối tượng khách hàng, tình hình tài chính, mục đích vay vốn, đặc điểm sản xuất kinh doanh… mà cán bộ tín dụng lựa chọn hình thức cho vay phù hợp. Ví dụ đối với khách hàng truyền thống, có uy tín cao, tình hình tài chính tốt, có nhu cầu nhập khẩu nguyên vật liệu thường xuyên, cán bộ tín dụng xem xét và cho vay dưới hình thức hạn mức tín dụng. 5. Đánh giá tình hình trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở giao dịch. 5.1. Những thành tựu đạt được và thế mạnh của Sở giao dịch trong hoạt dộng tài trợ xuất nhập khẩu: Trong 3 năm liên tiếp (2000 - 2002), nguồn vốn huy động của Sở giao dịch tăng trưởng mạnh và có sự chuyển dịch theo hướng tăng nguồn vốn dài hạn, năm 2000 đã cơ bản tự chủ được nguồn vốn hoạt động kinh doanh. Sở giao dịch không ngừng tăng cường các biện pháp huy động ngoại tệ, thu hút nâng cao số lượng khách hàng gửi tiền, phát hành kỳ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi bằng ngoại tệ. Do vậy, Sở giao dịch luôn chủ động được nguồn ngoại tệ ngay cả trong những thời điểm khó khăn về ngoại tệ. Hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu máy móc thiết bị là mặt mạnh và là hoạt động truyền thống của Sở giao dịch với các loại hình đa dạng: cho vay nhập khẩu theo hiệp định khung, bảo lãnh trả chậm, bảo lãnh vay vốn, thuê mua tài chính… Là một chi nhánh Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, Sở giao dịch được giao nhiệm vụ thẩm định, cho vay theo kế hoạch Nhà nước trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản. Chính vì vậy, khách hàng truyền thống của Sở giao dịch là những công ty lớn, uy tín cao, tình hình tài chính vững mạnh, làm ăn hiệu quả cũng chính là những khách hàng có nhu cầu nhập khẩu máy móc thiết bị, nguyên vật liệu lớn. Qua 4 năm đi vào hoạt động, phòng thanh toán quốc tế đã có những kinh bước phát triển đáng kể. Đội ngũ cán bộ có trình độ, am hiểu nghiệp vụ ngoại thương, giàu kinh nghiệm, năng động, được trang bị mạng SWIFT (mạng thanh toán liên ngân hàng quốc tế) không những phục vụ an toàn hiệu quả nhu cầu thanh toán của khách hàng truyền thống mà còn thu hút được các khách hàng là các công ty TNHH, những khách hàng chuyên doanh nhập khẩu thiết lập quan hệ với Sở giao dịch. 5.2. Những tồn tại và yếu kém của Sở giao dịch trong hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu: Thứ nhất: Tài trợ xuất nhập khẩu của Sở giao dịch mới chỉ tồn tại ở hình thức cổ điển là cho vay theo món, cho vay luân chuyển và cho vay theo hạn mức tín dụng. Trừ hoạt động mở L/C trả chậm trên 1 năm, các hình thức tài trợ xuất nhập khẩu hiện đại khác còn quá mới mẻ hoặc chưa có. Thứ hai: Sở giao dịch có thị phần tín dụng và huy động vốn lớn nhất, nhì trên địa bàn Hà Nội nhưng đối tượng khách hàng có nguồn thu ngoại tệ từ việc xuất khẩu mà ngân hàng có thể mua lại quá nhỏ bé do khách hàng truyền thống chủ yếu là các Tổng công ty xây dựng. Thứ ba: Mặc dù Sở giao dịch đã thiết lập được quan hệ với các công ty chuyên doanh xuất nhập khẩu, nhưng số lượng còn ít do chính sách đối với các thành phần kinh tế khác nhau, thành phần kinh tế ngoài quốc doanh còn gặp nhiều khó khăn trong việc vay vốn của Ngân hàng. Thứ tư: Sở giao dịch chưa tự xây dựng cho mình quy trình tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu áp dụng trong nội bộ Sở để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hoạt động. Hơn nữa, nếu các quy trình này được áp dụng có hiệu quả cao thì có thể đề xuất với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam để ban hành chính thức thay cho các quy định tạm thời hiện nay. Thứ năm: Uy tín của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam nói chung, uy tín của Sở giao dịch I nói riêng trong hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn chưa cao. Về hoạt động này các doanh nghiệp thường giao dịch với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Sở giao dịch Ngân hàng Ngoại thương còn thành lập riêng Phòng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Nguyên nhân của những yếu kém trên là: Đa số đội ngũ cán bộ công nhân viên của Sở giao dịch nói riêng và của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung vẫn mang nặng quan điểm cũ rằng tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản là nhiệm vụ của Ngân hàng mình. Thêm vào đó, cán bộ tín dụng vẫn nhìn nhận tín dụng hỗ trợ xuất nhập khẩu theo quan điểm truyền thống chỉ gồm các hình thức cho vay theo món, cho vay theo hạn mức tín dụng và tín dung tài trợ cho người đặt hàng theo hiệp định khung. Lĩnh vực hoạt động truyền thống 45 năm qua của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam là đầu tư xây dựng cơ bản, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu là hoạt động mới được thực hiện trong mấy năm trở lại đây. Đội ngũ cán bộ tín dụng chưa được đào tạo về nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ, hoạt động kinh doanh đối ngoại của ngân hàng, thiếu kinh nghiệm và thông tin về các sản phẩm, thị trường nước ngoài. Chưa có cơ chế phối kết hợp giữa trung ương và chi nhánh để mở rộng hoạt động này đặc biệt là hoạt động tài trợ xuất khẩu. Thể hiện rõ nét nhất là Ngân hàng Đầu tư và Phát triển chưa ban hành quy trình chính thức cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, chưa thành lập phòng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch. 6. Sự cần thiết mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch: 6.1. Cơ hội để Sở giao dịch mở rộng hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu. Trong xu thế hội nhập nền kinh tế thế giới, Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, kinh doanh đối ngoại với nhiều quốc gia, tổ chức kinh tế trên thế giới. Kim ngạch xuất nhập khẩu tăng nhanh trong những năm qua. Doanh số xuất khẩu tăg nhanh và có sự chuyển dịch cơ cấu từ sản phẩm thô sang sản phẩm chế biến, gia công và sản phẩm công nghiệp nhẹ. Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ. Trong năm 2003, Việt Nam sẽ thực hiện một số cam kết trong AFTA, tiến tới gia nhập WTO. Một loạt các biện pháp như cổ phần hoá, giao bán, cho thuê… các doanh nghiệp nhà nước, cùng với việc ban hành Luật doanh nghiệp đã làm tăng tính cạnh tranh của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp nhà nước nói riêng, đồng thời thành lập thêm hàng nghìn doanh nghiệp mới chủ yếu là các công ty TNHH và các công ty cổ phần. Trong số này chắc chắn có các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, họ sẽ có nhu cầu được tài trợ của ngân hàng. Do đó, Sở giao dịch cần phải mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. 6.2. Thách thức đối với hoạt động của Sở giao dịch Trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay, ngành ngân hàng cũng như các ngành kinh tế khác đều phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt từ các ngân hàng nước ngoài. Khi thâm nhập vào thị trường Việt Nam , các ngân hàng nước ngoài với nhiều lợi thế về trình độ quản lý, trình độ công nghệ, thông tin, trình độ cán bộ, cung cấp các loại hình dịch vụ đa dạng với chất lượng cao đang dần mở rộng thị phần tín dụng. Thực tế, nhiều dự án khả khi đem lại lợi nhuận cao từ những mặt hàng xuất khẩu mạnh của Việt Nam như gạo, cà phê, than… đang rơi vào tay các ngân hàng nước ngoài. Đáp ứng nhu cầu vốn và dịch vụ ngày càng cao trên địa bàn hoạt động trong xu thế toàn cầu hoá là một cơ hội tốt để đẩy mạnh tín dụng, mở rộng thị phần, tăng khả năng cạnh tranh của mỗi ngân hàng trong điều kiện khó khăn hiện nay. Nền kinh tế nước ta hiện nay đang có sự đôla hoá nền kinh tế, cung cầu ngoại tệ căng thẳng, mua ngoại tệ khó khăn, tín dụng ngoại tệ bị co hẹp do tâm lý lo sợ rủi ro tỷ giá, cạnh tranh lãi suất gay gắt. Trong tình hình đó, muốn hoạt động ổn định, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng, tăng lợi nhuận, ngân hàng phải có nguồn huy động ngoại tệ ổn định và phải tăng nguồn ngoại tệ của khách hàng bằng biện pháp hữu hiệu nhất là mua lại ngoại tệ trên tài khoản tiền gửi của khách hàng. Trình độ sản xuất của nền kinh tế nói chung còn thấp, sức cạnh tranh của sản phẩm thấp. Vốn hoạt động chủ yếu của các Doanh nghiệp Nhà nước chủ yếu là vốn vay ngân hàng và còn tồn đọng một khối lượng nợ quá hạn lớn. Vấn đề rủi ro tỷ giá cũng là một cản trở đối với cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Tuy doanh số xuất khẩu tăng nhanh và có xu hướng thay đổi tích cực về tỷ trọng, nhưng hiện nay xuất khẩu dạng thô còn chiếm tới gần 70% giá trị xuất khẩu. Điều này gây khó khăn cho Sở giao dịch nói riêng và toàn ngành ngân hàng nói chung trong việc mở rộng hoạt động tín dung tài trợ xuất khẩu Việc quản lý nhập khẩu còn chưa chặt chẽ, các đơn vị sản xuất kinh doanh nhập khẩu tuỳ tiện, mạnh ai nấy làm, thấy lợi thì đổ xô đi nhập một loại thiết bị để sản xuất cùng một loại mặt hàng, máy móc, dây chuyền thiết bị nhập khẩu lạc hậu, không đồng bộ làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đồng thời gây ảnh hưởng đến hoạt động của ngân hàng. Việc hạch toán kế toán, lập báo cáo kết quả kinh doanh, lập dự án kinh doanh đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn yếu kém và còn có sự gian lận. Môi trường hoạt động tín dụng còn nhiều rủi ro. chương III Phương hướng và giải pháp nhằm mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu đối với Sở giao dịch i. I. phương hướng mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu Những kết quả trên đây là điểm tựa để Sở giao dịch bước vào giai đoạn mới, để thực hiện những định hướng của Sở giao dịch nói riêng và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển nói chung. Đó là: Phát huy nội lực và truyền thống, thực hiện đề án cơ cấu lại Ngân hàng theo hướng phát triển bền vững và hội nhập quốc tế Dựa trên đường lối kinh tế và chiến lược phát triển của Đảng, kế hoạch phát triển của hệ thống Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam giai đoạn 2001-2005, căn cứ vào phân tích môi trường kinh doanh và những điểm mạnh và yếu của các nguồn lực hiện có, Sở giao dịch xác định một số mục tiêu giai đoạn 2001-2005 như sau: - Trở thành ngân hàng đầu tiên trên địa bàn về quy mô hoạt động và chất lượng dịch vụ, về sức cạnh tranh và tính năng động. - Trở thành ngân hàng kinh doanh đa năng tổng hợp, có tỷ trọng dịch vụ chiếm 40% trên lợi nhuận. - Trở thành ngân hàng có trình độ công nghệ tiên tiến cao hơn mức trung bình trên địa bàn. - Mục tiêu phấn đấu của Sở giao dịch giai đoạn này là đạt mức tăng trưởng từ 40-50% trong các chỉ tiêu: Tăng trưởng tài sản, tăng trưởng huy động vốn, tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng lợi nhuận. Để thực hiện những mục tiêu đã đề ra trong thời kỳ tới, Sở giao dịch tập trung vào thực hiện những công việc sau: Mở rộng, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn cả trong nước và nước ngoài. Tăng tỷ trọng nguồn vốn dài hạn để phục vụ đầu tư phát triển. Mở rộng tín dụng sang các lĩnh vực khác, các thành phần kinh tế khác, theo những mục tiêu: Hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, hỗ trợ xuất nhập khẩu, cho vay ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Nâng cao tính độc lập, tự chủ trong hoạt động Tín dụng, nâng cao chất lượng tín dụng. Mở rộng các hoạt động dịch vụ như bảo lãnh, thanh toán quốc tế, thanh toán trong nước…, phát triển một số sản phẩm mới. Đẩy mạnh công tác khách hàng. Tăng cường năng lực công nghệ, lắp đặt và đưa vào vận hành các chương trình cung cấp thông tin phục vụ công tác quản trị điều hành và nghiệp vụ. Tăng cường đội ngũ cán bộ cả về số lượng và chất lượng. Tổ chức tốt công tác tổ chức và quản lý. ii. giải pháp đối với Sở giao dịch 1.Xây dựng chính sách tín dụng linh hoạt: Chính sách tín dụng của ngân hàng đóng vai trò dẫn đường trong hoạt động cho vay nhằm mục đích cho vay an toàn, lành mạnh và đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng. Trong xu thế tự do hoá lãi suất, tự do hoá tỷ giá và nâng cao tính chủ động trong hoạt động của hệ thống ngân hàng hiện nay, việc đưa ra một chính sách tín dụng linh hoạt lại càng trở nên tối quan trọng vì những lý do sau: - Quy mô và tính chất nguồn vốn luôn biến động. - Hoạt động ngân hàng luôn đứng trước sự lựa chọn giữa các nhu cầu vay với mức rủi ro và khả năng sinh lợi khác nhau. - Môi trường kinh tế chung của từng ngành nghề, từng khu vực đầy biến động. - Chính sách tín dụng luôn phải được điều chỉnh cho phù hợp với chính sách tài chính tiền tệ, chính sách đầu tư, chính sách ngoại thương trong từng thời kỳ. Muốn có một chính sách tín dụng linh hoạt phải thực hiện đa dạng hoá tín dụng, phân tán rủi ro, gia tăng lợi nhuận. Để đa dạng hoá hoạt động tín dụng nói chung và mở rộng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng, Sở giao dịch cần phải: Mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng ngắn hạn: Trong kỹ thuật nghiệp vụ cấp tín dụng ngắn hạn, phải tập trung nghiên cứu đặc điểm chu chuyển vốn của khách hàng để áp dụng các hình thức cho vay phù hợp giữa cho vay theo món hoặc hạn mức tín dụng. Việc lựa chọn cho vay theo hạn mức không nên phân biệt theo thành phần kinh tế và mức độ quen biết như hiện nay mà phải căn cứ vào bốn điều kiện: - Khách hàng có nhu cầu vay vốn thường xuyên. - Mục đích sử dụng vốn rõ ràng. - Có tín nhiệm với ngân hàng (có khả năng tài chính, kinh doanh ổn định và có lãi vay trả nợ ngân hàng đúng hạn trong thời gian ít nhất một năm trước đó). - Được hội đồng tín dụng chấp thuận. Cần phát triển kỹ thuật cho vay theo hạn mức: Xác định hạn mức tín dụng một cách hợp lý, đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận tự động chuyển một tỷ lệ phần trăm nhất định trên doanh số tài khoản tiền gửi sang tài khoản cho vay hạn mức để tăng tính linh hoạt trong vay, trả của khách hàng. Phát triển kỹ thuật tín dụng tuần hoàn kết hợp với các hình thức thanh toán như L/C nhập quay vòng. Phát triển các hình thức mở L/C, chấp nhận thương phiếu, chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất… Nghiên cứu áp dụng các hình thức tài trợ mới như bao thanh toán khi đủ điều kiện. Mở rộng tín dụng đến các ngành nghề, đối tượng sản xuất kinh doanh có hoạt động xuất nhập khẩu mạnh. Thực hiện các biện pháp ưu đãi đối với khách hàng là các Tổng công ty có tiềm năng xuất nhập khẩu, có chức năng uỷ thác xuất nhập khẩu. Tiếp cận các doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu, các công ty sản xuất có tiềm năng xuất khẩu. Mở rộng tín dụng đối thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. 2.Quy định và kiểm soát chặt chẽ quy trình cho vay tài trợ xuất nhập khẩu, tăng cường các biện pháp kiểm soát nội bộ. 2.1. Quy trình cho vay tài trợ xuất nhập khẩu phải quy định rõ ràng cụ thể các vấn đề sau: Tìm hiểu, hướng dẫn khách hàng: Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn thì trực tiếp đến xin ngân hàng tài trợ. Lúc này, cán bộ tín dụng có nhiệm vụ: - Tìm hiểu những vấn đề đã trình bày và tư cách pháp lý của khách hàng. Tìm hiểu về doanh số mua, năng lực sản xuất, khả năng xuất nhập khẩu, thị trường tiêu thụ, mạng lưới tiêu thụ sản phẩm… Điều này giúp cán bộ khái quát về quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. - Tìm hiểu khái quát năng lực tài chính của khách hàng. Nếu vốn tự có của doanh nghiệp khá lớn, các số liệu tài chính khả quan, thì việc cho vay được quyết định khá dễ dàng. Còn nếu vốn vay vượt quá vốn tự có nhiều lần thì việc cho vay sẽ gặp nhiều rủi ro. Do vậy, cán bộ tín dụng phải xác định năng lực tài chính của khách hàng để quyết định cho vay. Mục đích của bước này là để làm rõ nhu cầu vay vốn thực sự, thời gian cần vay, mục đích sử dụng vốn, xem xét tính phù hợp giữa nhu cầu sử dụng vốn thực sự với thời gian và khoản tiền vay, đánh giá sơ lược khả năng trả nợ và tính hợp pháp của hồ sơ pháp lý. Tuy nhiên, kết quả đánh giá phải được xác minh lại sau khi cán bộ tín dụng tham quan cơ sở và tìm hiểu những thông tin cần thiết. Cán bộ tín dụng thẩm định hồ sơ Thẩm định tính khả thi của phương án kinh doanh . Trước tiên phải xác định hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh. Cán bộ tín dụng cần xem xét các yếu tố đưa ra trong phương án có phù hợp với thực tế hay không, khách hàng có kê cao giá bán và hạ thấp giá thành hay không. Đối với những mặt hàng lạ, mới, cán bộ tín dụng phải tìm hiểu giá cả bên ngoài thị trường. Cán bộ tín dụng phải đánh giá tỷ lệ Vốn tự có/Tổng vốn đầu tư theo đúng nguyên tắc vốn tín dụng là vốn bổ sung. Mặt khác, khi xem xét tính khả thi của phương án, cán bộ tín dụng còn xem xét tình hình tiêu thụ mặt hàng đó trên thị trường như thế nào? Đánh giá tình hình tài chính, công nợ của khách hàng: Các bộ tín dụng phải tính toán các chỉ số sau: Tỷ số thanh toán hiện thời: Tài sản lưu động / Nợ ngắn hạn. Tỷ số này cho ta thấy khả năng thanh toán của khách hàng, nó chỉ ra quy mô các yêu cầu của chủ nợ được trang trải bởi những tài sản lưu động có thể chuyển đổi thành tiền trong thời kỳ phù hợp với thời hạn trả nợ. Tỷ số thanh toán nhanh: (Tài sản lưu động – Tồn kho) / Nợ ngắn hạn. Chỉ số này cho thấy khả năng thanh toán của khách hàng bằng tài sản lưu động không gồm hàng tồn kho mà chỉ tính những tài sản có thể nhanh chóng chuyển thành tiền mặt. Tỷ số nợ: Tổng nợ / Tổng tài sản. Tỷ số này càng thấp càng tốt vì món nợ được đảm bảo trong trường hợp doanh nghiệp bị phá sản. Chỉ số này cũng cần phải so sánh với trung bình ngành và đánh giá lại để có quyết định chính xác. Ngoài ra, cán bộ tín dụng phải đánh giá công nợ của khách hàng, trong đó xem xét: Nợ phải thu là bao nhiêu, khả năng sẽ thu được trong kỳ là bao nhiêu. Nợ phải thanh toán: Bao gồm nợ vay ngân hàng, nợ các đơn vị kinh tế khác, nợ do bảo lãnh… Trong đó, nợ phải thanh toán trong kỳ là bao nhiêu , khả năng thanh toán của khách hàng bằng các nguồn cơ sở nào. Khi xem xét hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, cán bộ tín dụng sẽ xem xét kế hoạch sản xuất kinh doanh chính của khách hàng bao gồm những mặt hàng gì, tình hình tiêu thụ của mặt hàng đó ra sao, tiềm năng trong tương lai của nó thế nào. Cần tìm hiểu kết quả kinh doanh năm trước hay kỳ trước và dự kiến kỳ này ra sao. Chu kỳ sản xuất kinh doanh bao lâu… nhằm xác định phương thức cho vay và kỳ hạn nợ chính xác hơn. Trong quá trình đánh giá tài chính, cấn bộ tín dụng phải xác định nguồn trả nợ từ đâu và phải đạt được độ tin cậy khá chắc chắn trong việc thu hồi nợ. Nếu nguồn trả nợ từ bán hàng xuất khẩu thì phải xem phương án xuất khẩu có đạt hiệu quả cao hay không, xem mặt hàng có được phép xuất khẩu không, xuất khẩu theo hình thức gì, đã có khách hàng, hợp đồng hay người mua mở L/C chưa… Nếu nguồn trả nợ được thực hiện bằng tiền án hàng nhập khẩu, thì phải xem mặt hàng đó có được nhập khẩu không, có tiêu thụ được không, giá cả bình quân, phương thức bán hàng, bán buôn hay bán lẻ… Đánh giá uy tín, khả năng phát triển của khách hàng: ở bước này, cán bộ tín dụng cần đánh giá bộ máy điều hành, lý lịch, năng lực của người điều hành vàuy tín của họ trong việc hoàn trả tiền vay. Năng lực của khách hàng bao gồm năng lực về kỹ thuật và năng lực về quản trị. Nếu chỉ xét một trong hai khả năng thì quả là một thiếu sót lớn vì nhiều trường hợp người vay giỏi trong lĩnh vực này nhưng lại yếu kém trong lĩnh vực khác. Nếu đòi hỏi khách hàng giỏi trong cả hai lĩnh vực này thì khá cao, do đó, nếu khách hàng biết yếu kém của mình trong lĩnh vực nào để khắc phục có thể coi là khách hàng có đầy đủ cả hai khả năng.. Một khía cạnh quan trọng khác để đánh giá năng lực hoạt động của khách hàng là lợi nhuận thực hiện. Điều này có nghĩa là cán bộ tín dụng quan tâm đến một số chỉ tiêu cơ bản như doanh số bán, chi phí lợi nhuận tăng giảm, kiểm soát con nợ chặt chẽ không, vốn cổ phần của các chủ sở hữu ra sao. Nếu các điều kiện trên được thoả mãn thì hiển hiên cán bộ tín dụng kết luận rằng doanh nghiệp được quản lý bởi một bàn tay có năng lực và vốn vay sẽ được sử dụng hiệu quả trong bàn tay người đó. Cán bộ tín dụng đánh giá các chỉ tiêu như: Doanh thu thuần / Tổng tài sản Lợi nhuận / Doanh thu, Lợi nhuận / Tổng vốn kinh doanh. ROA = Lợi nhuận / Tổng tài sản. ROE = Lợi nhuận sau thuế / Vốn tự có. Chỉ tiêu ROA, ROE rất hữu ích trong việc phân tích một cách chi tiết hơn về hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, thị phần được tăng lên, các hợp đồn xuất nhập khẩu mới được ký kết cũng là những bằng chứng hữu hình chứng tỏ một sự quản lý tốt. Đối với những quan hệ kinh doanh và vay vốn, trả nợ của khách hàng, cán bộ tín dụng phải phải thu thập cả danh tiếng lẫn tai tiếng để đánh giá chính xác uy tín của khách hàng. Hiệu quả sử dụng vốn lưu động được thể hiện qua 2 chỉ tiêu: Vòng quay vốn kinh doanh = Doanh thu / Số dư tài sản lưu động bình quân. Tốc độ vòng quay vốn kinh doanh = Số ngày trong kỳ / Số vòng quay vốn kinh doanh trong kỳ. Thẩm định tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. Cán bộ lập tờ trình để trình lãnh đạo Ngân hàng . Ký hợp đồng thế chấp, cầm cố và hợp đồng tín dụng. Giải ngân: Khách hàng sau khi ký hợp đồng tín dụng sẽ lập giấy nhận nợ và đến phòng kế toán để xin giải ngân. Phòng kế toán căn cứ vào hợp đồng tín dụng đã ký tiến hành giải ngân cho khách hàng theo các yêu cầu chi trả phát sinh thuộc các đối tượng cho vay của khách hàng. Kiểm tra trong quá trình phát tiền vay: Trong quá trình phát tiền vay, cán bộ tín dụng phải giám sát việc rút vốn của khách hàng. đản bảo vốn vay phát ra đúng mục đích là nhập khẩu hàng hoá đáp ứng phương án kinh doanh hoặc sản xuất, mua hàng xuất khẩu. Đối với vay mở L/C nhập thì cán bộ tín dụng theo dõi quá trình vận chuyển hàng hoá đến khi hàng về đến cảng. Sau khi kiểm tra thấy việc sử dụng vốn lần trước có hiệu quả thì mới phát tiền vốn cho khách hàng. Đồng thời phải thường xuyên bám sát tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng để sớm phát hiện những lệch lạc trong sử dụng vốn vay, những khó khăn mà khách hàng đang gặp phải để kịp thời cố vấn cho khách hàng, tránh rủi ro mất vốn. Khi có sự cố biểu hiện nguy cơ ảnh hưởng đến vốn vay, cán bộ tín dụng kiên quyết, kịp thời đình chỉ việc phát vốn vay, phong toả tài sản tiền gửi của khách hàng. Kiểm tra sau khi cho vay: ở bước này, cán bộ tín dụng phải kiểm tra chu chuyển vốn vay, khi vốn vay tách ra khỏi vật tư hàng hoá là hết chu kỳ. Nếu cho vay nhập khẩu thì tồn kho vật tư hàng hoá giảm đến đâu, thu hồi vốn vay đến đấy. Nếu cho vay xuất khẩu, khi hàng hoá được giao, cán bộ tín dụng phải giám sát cẩn thận, nếu thu được tiền bán hàng xuất khẩu thì thu hồi nợ ngay. Cán bộ tín dụng đốc thúc khách hàng đẩy mạnh xuất khẩu, bán hàng sớm để thu hồi vốn. Trường hợp lô hàng nhập khẩu được dùng để thế chấp thì giải chấp khi khách hàng nộp tiền tương ứng với số hàng hoá xin giải chấp. Thu nợ, tính lãi, thu lãi. Gia hạn nợ. Xử lý nợ có vấn đề. Thực hiện tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch hiện nay cần lưu ý đến những điểm sau trong quy trình tài trợ: Trong quá trình xét duyệt cho vay: Nâng cao trình độ thẩm định tài chính dự án đầu tư cho cán bộ tín dụng như phổ biến những kỹ thuật, phương pháp thẩm định mới, tăng cường thu thập xây dựng các chỉ tiêu định lượng như chỉ tiêu kỹ thuật trung bình ngành. Đặc biệt lưu ý đến thẩm định dự án trong điều kiện lạm phát, điều kiện thay đổi tỷ giá, phân tích độ nhạy cảm của kết quả ở đầu ra khi các yếu tố đầu vào thay đổi. Tăng cường chất lượng thẩm định về mặt định tính bằng cách thu thập thêm nhiều thông tin đặc biệt các thông tin về kỹ năng quản trị nhân lực, quản lý công nghệ, tài chính, kỹ thuật marketing. Tiến tới chuyên môn hoá cán bộ tín dụng theo ngành nghề để tạo điều kiện học tập và tìm hiểu thực tế kinh doanh. Nâng cao trình độ thẩm định về mặt kỹ thuật của cán bộ tín dụng, liên kết chặt chẽ với các cơ quan giám định kỹ thuật, cơ quan quản lý về chất lượng của Việt Nam, cần thiết thì thuê chuyên gia nước ngoài để đánh giá mức độ hiện đại của công nghệ, thiết bị, sự phù hợp của công nghệ đối với điều kiện sản xuất của doanh nghiệp, đánh giá khả năng làm chủ công nghệ của khách hàng đảm bảo việc tăng khả năng cạnh tranh và trả nợ ngân hàng. Nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng thẩm định tại Sở giao dịch (nguồn vốn – tín dụng –thẩm định) nhằm phân biệt rõ công việc, trách nhiệm. Vừa đảm bảo chia sẻ trách nhiệm nặng nề mà cán bộ tín dụng đảm nhận vừa đảm bảo hạn chế thấp nhất rủi ro tín dụng và các thiệt hại tín dụng khác có thể phát sinh khi đồng ý cho vay. Cụ thể là: Cán bộ tín dụng phối hợp cùng các bộ thẩm định thực hiện việc thẩm định theo các bước sau: Bước 1: Thẩm định lại tính khả thi của phương án trên cơ sở thẩm định bước đầu của các bộ tín dụng, đặc biệt lưu ý về mặt kỹ thuật của dây chuyền công nghệ đối với nhu cầu vay nhập khẩu. Tìm kiếm thông tin, thực hiện so sánh, phân tích các số liệu về hoạt động của khách hàng, về phương án sản xuất để xác minh tính chính xác, hợp lý của các nguồn thông tin. Bên cạnh việc phòng chống rủi ro tín dụng, cán bộ thẩm định cần phải xét đến khả năng thanh khoản, những thiệt hại về mặt tỷ giá, lãi suất, chi phí cơ hội khi đồng ý một món vay. Bước 2: Thẩm định tài sản thế chấp. Xem xét tính pháp lý của giấy tờ sở hữu, tài sản thế chấp, cầm cố và đề xuất mức cho vay hợp lý để đảm bảo an toán vốn vay. Sở giao dịch cần xem xét, bố trí, tuyển dụng các cán bộ làm công tác thẩm định cho phù hợp. Quy định rõ trách nhiệm của từng người, từng công đoạn, có chính sách ưu tiên về phương tiện đi lại, phụ cấp hàng tháng cho cán bộ tín dụng trong việc đi lại, kiểm tra, giám sát tình hình sử dụng vốn vay. Bằng việc chuyên môn hoá hơn trong hoạt động tín dụng, Sở giao dịch vừa nâng cao được trách nhiệm của cán bộ, vừa phát huy được khả năng của cán bộ tín dụng và giảm bớt gánh nặng hiện nay, từ đó giúp họ yên tâm công tác nâng cao hiệu quả tín dụng ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần phải nghiên cứu về uy tín, khả năng thanh toán và mục đích sử dụng vốn vay của khách hàng để hướng dẫn cho thanh toán viên trong nghiệp vụ chiết khấu bộ chứng từ hàng xuất. Nhằm đề phòng trường hợp thương phiếu khống hoặc bộ chứng từ bị từ chối thanh toán. Cán bộ tín dụng cần lưu ý đến kỹ thuật mở L/C nhập hàng trả chậm. Đặc iệt là L/C trả chậm dưới một năm vì hoạt động này mới mẻ và chưa có hướng dẫn quy trình nghiệp vụ cụ thể của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Phối hợp với phòng thanh toán quốc tế nhằm xác định mức ký quỹ hợp lý nhất tạo điều kiện cho khách hàng và phòng chống rủi ro cho ngân hàng ngay cả trường hợp mở L/C bằng vốn tự có. Trong việc quản lý vốn vay: Cán bộ tín dụng nên chú trọng đến kỹ thuật giải ngân để đảm bảo việc sử dụng tiền vay đúng mục đích thông qua điều tra mối quan hệ giữa khách hàng và nhà cung cấp, điều tra tính hợp pháp của các hoá đơn do thực trạng hiện nay rất nhiều hoá đơn được bán trên thị trường, nhiều hoá đơn cũ mà Nhà nước không cho phép lưu hành. Kết hợp kỹ thuật giải ngân với việc quản lý tiền vay điển hình là trong hoạt động mở L/C nhập hàng trả chậm nhằm ngăn ngừa tình trạng doanh nghiệp nhận hàng rồi bán phá giá ngay để lấy tiền đầu tư bất động sản, rồi mở L/C khác tạo vỏ trả nợ sòng phẳng. Đối với cho vay mua hàng trong nước cũng có những trường hợp sử dụng vốn sai mục đích tương tự như vậy. Thường xuyên theo dõi hoạt động kinh doanh của khách hàng thông qua theo dõi biến động số dư tiền gửi của khách hàng đối chiếu với chu kỳ sản xuất kinh doanh. Thực hiện đánh giá xếp hạng tín dụng doanh nghiệp theo những tiêu thức đã được xây dựng, đánh giá mức độ rủi ro của các khoản tín dụng mình đang thực hiện một cách thường xuyên. Về tài sản thế chấp: Cán bộ tín dụng luôn tâm niệm tài sản thế chấp chỉ là biện pháp cuối cùng để ngân hàng thu hồi đủ vốn vay khi rủi ro tín dụng xảy ra. Yếu tố quan trọng để quyết định cho vay là tư cách của khách hàng, tình hình hoạt động kinh doanh, tình hình tài chính, tính khả thi của dự án. Xem xét kỹ tình hình công nợ của khách hàng, đảm bảo tài sản thế chấp hợp pháp, chưa bị đem thế chấp cho chủ nợ nào khác làm ảnh hưởng đến việc thu hồi vốn sau này. Cán bộ tín dụng thực hiện nguyên tắc chủ động trong định giá tài sản thế chấp, chú ý đến tốc độ giảm giá của tài sản thế chấp. Đối với cho vay tài trợ xuất nhập khẩu đối tượng thế chấp thường là hàng hoá hoặc gắn liền với hàng hoá trong quá trình lưu thông, do vậy người vay thường thế chấp bằng chính lô hàng hình thành từ vốn vay, cán bộ tín dụng nên nghiên cứu sự khác biệt trong quản lý loại tài sản thế chấp này từ việc lưu kho đến khi giải chấp. 3.Đào tạo đội ngũ cán bộ tín dụng lành nghề trong nghiệp vụ cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Đào tạo cho cán bộ tín dụng về kỹ thuật thẩm định dự án đầu tư, kiến thức về quản lý công nghệ, kiến thức kỹ thuật. Nâng cao trình độ nghiệp vụ cho cán bộ tín dụng thông qua các đợt tập huấn, mở các lớp đào tạo. Thực hiện chuyên môn hoá cán bộ tín dụng làm công tác tài trợ xuất nhập khẩu, đào tạo thêm về nghiệp vụ ngoại thương, về hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng, về luật pháp. Gửi cán bộ đi thực tế tại các chi nhánh mạnh về hoạt động cho vay tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện quản lý cán bộ tín dụng theo nguyên tắc giới hạn dư nợ trên tổng cán bộ tín dụng, nếu chỉ tiêu này vượt mức nhất định thì tuyển thêm cán bộ tín dụng mới. 4. Đẩy mạnh hoạt động huy động vốn: Là một tổ chức tài chính trung gian, vì vậy muốn đẩy mạnh hoạt động tín dụng, cùng với việc tăng cường vốn tự có, Ngân hàng còn cần thiết phải huy động vốn từ trong và ngoài nước. Để đẩy mạnh huy động vốn VND, Ngân hàng cần: Tạo sự quan tâm đến người gửi tiền: khi gửi tiền vào ngân hàng, người gửi tiền quan tâm đến những mục đích chính là an toàn tiền gửi, thu được lãi cao, gửi tiền với mục đích thanh toán, gửi tiền với mục đích vay vốn… Do vậy, ngoài công cụ cạnh tranh bằng lãi suất, Sở giao dịch nên coi trọng việc sử dụng ba công cụ khác là cạnh tranh về sự đa dạng và chất lượng sản phẩm, đẩy mạnh việc phát triển các quầy giao dịch một cách hợp lý và thực hiện các biện pháp mang tính khuyếch trương, xây dựng chính sách khách hàng và chính sách tín dụng linh hoạt. Không những đưa ra mức lãi suất cạnh tranh, Ngân hàng cần hoàn thiện công tác huy động vốn theo tiêu chuẩn quốc tế. Cần phải đa dạng hoá các hình thức huy động vốn trung và dài hạn với nhiều kỳ hạn khác nhau. Cần quan tâm đến khoản mục đầu tư chứng khoán đặc biệt là chứng khoán thanh khoản nhằm quản lý rủi ro thanh khoản một cách an toàn với chi phí hợp lý. Nghiên cứu áp dụng hệ thống chi trả tiền chủ động, dịch vụ thông tin, chuyển tiền nhanh chóng, thanh toán an toàn, tiếp tục phát huy tinh thần các quầy giao dịch thanh niên kiểu mẫu. Nâng cao trình độ quản lý, trình độ nghiệp vụ của cán bộ, không ngừng nâng cao uy tín của Ngân hàng. Với nguồn vốn ngoại tệ: Nhu cầu nguồn vốn ngoại tệ của Sở giao dịch rất lớn vì hiện nay hoạt động tài trợ xuất nhập khẩu đang phát triển mạnh. Thực hiện chủ trương vốn trong nước là quyết định, vốn ngoài nước đóng vai trò quan trọng, Ngân hàng nên tăng cường phát hành kỳ phiếu, trái phiếu trong và ngoài nước, tận dụng hiệu quả các hiệp định khung, nâng cao chất lượng hoạt động mở L/C trả chậm. Làm tốt chức năng ngân hàng đại lý, ngân hàng phục vụ để tiếp nhận ngày càng nhiều nguồn vốn tài trợ uỷ thác trung dài hạn từ các tổ chức quốc tế, các tổ chức chính phủ và phi chính phủ cho đầu tư phát triển. Tham gia đồng tài trợ cho các dự án xuất nhập khẩu với các ngân hàng nước ngoài để khai thác những nguồn vốn với chi phí thấp. Sử dụng nguồn vốn ODA tạm thời nhàn rỗi để cho vay ngắn hạn xuất nhập khẩu. Nghiên cứu áp dụng các phương thức quản lý rủi ro lãi suất, rủi ro tỷ giá, rủi ro thanh khoản vào hoạt động ngân hàng. 5.Nâng cao chất lượng hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ. Hoạt động thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ có liên quan trực tiếp đến hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Mua bán ngoại tệ sẽ tác động đến trạng thái ngoại tệ của Ngân hàng do vậy tác động đến nguồn vốn ngoại tệ cho xuất nhập khẩu đặc biệt là nhập khẩu. Thanh toán quốc tế ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu thông qua việc đáp ứng kịp thời về chi trả của khách, nó là một phần của tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu ở khâu thanh toán. Hoạt động thanh toán quốc tế phát triển sẽ tăng nguồn thu ngoại tệ cho ngân hàng, từ đó sẽ làm giảm lãi suất cho vay bằng ngoại tệ, thúc đẩy được hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Thực hiện việc thanh toán nhanh chóng, kịp thời không chỉ nâng cao uy tín cho Ngân hàng mà còn hạn chế được tổn thất do yếu tố chủ quan và nhờ đó nâng cao chất lượng tín dụng cho Ngân hàng. Để đẩy mạnh được các dịch vụ thanh toán quốc tế cũng như kinh doanh ngoại tệ cần thực hiện những công việc sau: Thanh toán viên phát huy những kết quả đã đạt được, tiếp tục nâng cao chất lượng nghiệp vụ nhằm phòng chống tối đa không những rủi ro thanh toán mà toàn bộ rủi ro hợp đồng cho khách hàng có quan hệ tín dụng xuất nhập khẩu của Sở giao dịch. Đặc biệt nâng cao trình độ tư vấn cho khách hàng xuất khẩu trong khâu đàm phán, lựa chọn điều kiện mở L/C, nâng cao tính hợp lệ của bộ chứng từ hàng xuất làm cơ sở cho hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu của Sở giao dịch. Mở rộng hoạt động ngân hàng đại lý một cách hợp lý đối với các thị trường xuất khẩu lớn. Không ngừng hiện đại hoá công nghệ thanh toán ngân hàng. áp dụng công nghệ tin học vào hoạt động kế toán, thanh toán ngân hàng. Tiến tới nối mạng vi tính với các khách hàng lớn, tạo thuận lợi tối đa trong giao dịch. Phòng kinh doanh ngoại tệ nên tiến hành thu thập các thông tin dự báo tỷ giá trong ngắn hạn, dài hạn. Vận dụng linh hoạt các công cụ trên thị trường ngoại hối nhằm tư vấn và giúp khách hàng, phòng chống rủi ro tỷ giá. Phòng nguồn vốn nên nghiên cứu áp dụng các phương thức quản lý rủi ro tỷ giá, rủi ro lãi suất và rủi ro kỳ hạn trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng. 6.Thực hiện chính sách marketing hỗn hợp: Cán bộ phòng nên nhận thức đúng đắn về mục đích, yêu cầu, những công việc cần làm và sự cần thiết của hoạt động marketing để thực hiện hoạt động mới mẻ này có hiệu quả, bài bản, nhằm đạt được các mục tiêu đề ra. Xây dựng kế hoạch marketing nghiên cứu thực thi đồng bộ 5 chính sách marketing nhằm thúc đẩy hoạt động tín dụng nói chung và tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng. 6.1.Về chính sách thông tin, tìm hiểu điều tra Phòng thực hiện đầu mối chức năng đầu mối thông tin, thực hiện nhiệm vụ đấp ứng những thông tin cần thiết phất sinh trong hoạt động tín dụng. ứng dụng những tiến bộ mới về công nghệ thông tin vào hoạt động của Sở giao dịch. Tìm hiểu nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp đang có quan hệ thanh toán quốc tế tại Sở giao dịch. Nghiên cứu nắm bắt ý kiến của ngân hàng đối với các sản phẩm hiện có phục vụ các mục tiêu mở rộng thị phần tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, lôi kéo khách hàng ngoài quốc doanh, áp dụng linh hoạt hình thức cho vay theo hạn mức và cho vay theo món, tiến tới nghiên cứu áp dụng cho vay theo món sử dụng tài khoản vãng lai. Chủ động tìm kiếm khách hàng hướng tới đối tượng các doanh nghiệp chuyên doanh xuất nhập khẩu , doanh nghiệp có tiềm năng xuất khẩu ở địa phương thuộc mọi thành phần kinh tế. Tiến hành tổng kết, phân loại các đối tượng khách hàng tiềm năng theo các tiêu thức đánh giá về tư cách pháp nhân, tình hình tài chính, ngành nghề kinh doanh, tình hình hoạt động kinh doanh. Phân đoạn khách hàng, phân tích các đặc điểm từng nhóm khách hàng. Đưa ra những giải pháp hỗ trợ cần thiết. Ví dụ đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp họ khắc phục những yếu điểm trong quản lý tài chính, lập dự án đầu tư, cung cấp thông tin… 6.2. Về lãi suất và chất lượng dịch vụ: Quy định ngành hàng xuất khẩu nào được hưởng những ưu đãi về lãi suất, phí dịch vụ, dịch vụ tư vấn và các ưu đãi khác. Xây dựng các biện pháp nâng cao khả năng cạnh tranh thông qua tăng chất lượng dịch vụ. 6.3.Chính sách giao tiếp khuyếch trương Hiện nay, đây là chính sách được sử dụng nhiều nhất. Cán bộ của Sở giao dịch cần sử dụng chính sách này nhằm tạo một hình ảnh về Sở giao dịch kinh doanh đa năng tổng hợp với khả năng đáp ứng nhu cầu tài trợ xuất nhập khẩu của mọi đối tượng khách hàng, có những biện pháp tốt nhất nhằm hỗ trợ doanh nghiệp xuất khẩu. 7.Tăng cường các hoạt động phối kết hợp giữa các phòng ban của Sở giao dịch, giữa Sở giao dịch và Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương: Đối với Sở giao dịch cũng như Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương nên thành lập riêng bộ phận ngân hàng hoạt động kinh doanh đối ngoại bao gồm các chức năng thanh toán quốc tế, kinh doanh ngoại hối, tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, marketing nhằm nghiên cứu đưa ra những kế hoạch kinh doanh chung với các định hướng đc cụ thể hoá trong chính sách khách hàng, chính sách tín dụng… Thực hiện việc phân chia công việc một cách cụ thể, phối hợp hoạt động nhịp nhàng. Đồng thời thực hiện phối hợp chặt chẽ trong việc quản lý cũng như hỗ trợ giữa bộ phận kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Trung ương và của Sở giao dịch trong việc xác định ngành hàng tài trợ, đối tượng tài trợ, phương thức tài trợ, tận dụng những sự giúp đỡ về kỹ thuật nghiệp vụ, về công nghệ, thông tin thị trường… iii. những kiến nghị đối với Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam 1.Thành lập bộ phận chuyên trách về hoạt động kinh doanh đối ngoại: Sớm thành lập lại phòng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu vì đây là nòng cốt trong hoạt động kinh doanh đối ngoại của Ngân hàng. Phòng tiếp tục thực hiện các biện pháp đã thi hành như thu thập báo cáo, thông tin, đánh giá tình hình định hướng, hỗ trợ các chi nhánh trong việc mở rộng hoạt động mới mẻ này. Tiến tới thành lập trang thông tin tài trợ xuất nhập khẩu trong mạng nội bộ của Ngân hàng. Bước đầu nghiên cứu các hoạt động tài trợ mới như Factoring, Forfaithing đối với ngân hàng nước ngoài. Đẩy mạnh hoạt động của Công ty thuê mua tài chính - Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam. Nghiên cứu thành lập công ty Bảo hiểm tín dụng trực thuộc ngành ngân hàng nhằm thúc đẩy việc đa dạng hoá hoạt động tín dụng của các ngân hàng cùng với việc quản lý tốt việc thực hiện dự phòng rủi ro của các ngân hàng. Công ty Bảo hiểm tín dụng trực thuộc ngành ngân hàng sẽ phát huy được tính cộng đồng, tính tương trợ giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng góp phần hạn chế rủi ro cho từng ngân hàng và cả toàn ngành ngân hàng. Sớm thành lập Quỹ hỗ trợ tín dụng xuất nhập khẩu nhằm cấp tín dụng ưu đãi, bảo lãnh tín dụng, hỗ trợ doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường, gắn xuất khẩu với nhập khẩu. Trong đó chú trọng hỗ trợ cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có khả năng xuất khẩu. Nâng cao chất lượng hoạt động trung tâm thông tin tín dụng Ngân hàng Nhà nước, đảm bảo cung cấp thông tin một cách đầy đủ, cập nhật về các đối tượng doanh nghiệp có quan hệ tín dụng với các ngân hàng thành viên. Cán bộ tín dụng yêu cầu khách hàng cung cấp thông tin một cách đầy đủ, chính xác đúng thời hạn. Các tổ chức tín dụng thành viên thực hiện cung cấp thông tin đầy đủ, thường xuyên, kịp thời cho trung tâm thông tin tín dụng theo định kỳ quý, 6 tháng, một năm. Tổ chức lưu trữ thông tin dưới dạng bảng có hệ thống theo từng kỳ kế toán (3 tháng, 6 tháng, 1 năm), cán bộ sắp xếp thông tin, dữ liệu kiểu so sánh nhằm phân tích, đánh giá xu hướng vận động, phát triển của doanh nghiệp. 2.Ban hành quy định cụ thể cho hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Ngân hàng phải sớm hoàn thiện quy chế cho vay tài trợ xuất nhập khẩu để ban hành chính thức, thực hiện thống nhất trong toàn hệ thống. Trong đó chú trọng đến quản lý sau khi vay và các hình thức đảm bảo nợ vay. Xây dựng cơ chế có liên quan về quản lý, mua bán ngoại tệ, thanh toán quốc tế trên cơ sở pháp lệnh của Ngân hàng Nhà nước và vận dụng linh hoạt vào Ngân hàng Đầu tư và Phát triển. Xây dựng chiến lược phát triển cụ thể cho nghiệp vụ tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu những năm tiếp theo trong toàn hệ thống. Phòng tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu chịu trách nhiệm tổ chức cho vay cả ngắn, trung và dài hạn trong toàn hệ thống. Xây dựng hệ thống mẫu biểu báo cáo cho vay tài trợ xuất nhập khẩu toàn hệ thống. Lên kế hoạch về hạn mức tín dụng cho xuất nhập khẩu hàng năm đối với toàn hệ thống và cho từng chi nhánh. IV. Kiến nghị đối với Nhà nước Hoạt động xuất nhập khẩu giữ một vai trò quan trọng trong việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vì vậy để thúc đẩy hoạt động này một cách có hiệu quả đồng thời nâng cao được chất lượng tín dụng cho xuất nhập khẩu không chỉ là mối quan tâm của các Ngân hàng mà còn là mối quan tâm của Nhà nước. Để đạt được mục tiêu nói trên trong giai đoạn trước mắt Nhà nước cần phải: 1.Bổ sung, hoàn thiện các văn bản, cơ chế chính sách quản lý Nhà nước đối với hoạt động kinh tế đối ngoại: Các văn bản, cơ chế chính sách quản lý Nhà nước cần phải tinh giản, chính xác và thuận lợi nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho các doanh nghiệp và Ngân hàng trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Thời gian qua, chính sách và cơ chế quản lý Nhà nước về kinh tế tuy đã có nhiều sửa đổi nhưng vẫn bộc lộ những yếu kém. Minh chứng cho điều này là hàng loạt các vụ án kinh tế lớn có liên quan đến các Doanh nghiệp và Ngân hàng. Sự lừa đảo chiếm dụng vốn của Ngân hàng, của Nhà nước, của các doanh nghiệp, của các cá nhân đã thể hiện sự lỏng lẻo trong quản lý Nhà nước. Việc ban hành các chính sách, chế độ còn nhiều khe hở khiến cho bọn lừa đảo có thể lợi dụng. Tác hại của những vụ việc đó không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng mà còn ảnh hưởng đến cả nền kinh tế. Để khắc phục những hạn chế đó Nhà nước cần: Tiến hành nghiên cứu, sửa đổi các chính sách cũ, ban hành các chính sách mới chặt chẽ hơn nhưng lại phải thuận lợi cho các doanh nghiệp và Ngân hàng làm ăn đích thực hơn. Cải tổ hơn nữa bộ máy ngoại thương bao gồm: cơ quan quản lý Nhà nước về hoạt động ngoại thương, các đơn vị chuyên doanh xuất nhập khẩu. Cần phải chia rõ lợi ích của các tổ chức ngoại thương và người trực tiếp làm hàng xuất nhập khẩu. 2. Thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu và quỹ tín dụng xuất khẩu Về quỹ bảo hiểm xuất khẩu: xuất phát từ tính rủi ro cao về giá cả thị trường quốc tế. Để các nhà xuất khẩu yên tâm ổn định sản xuất và một phần giúp đỡ họ khách hàng gặp rủi ro bất lợi, Nhà nước nên sớm thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu. Quỹ này có thể vận động theo nguyên tắc: Bộ thương mại và các cơ quan quản lý có liên quan sẽ tiến hành khảo sát thị trường để định ra một mức giá trị bảo hiểm nhất định sao cho người sản xuất có thể thu hồi vốn đầu tư, trang trải các chi phí và có được một phần lợi nhuận hợp lý. Khi giá thị trường thế giới thuận lợi, giá xuất khẩu cao hơn giá bảo hiểm Nhà nước sẽ thu phần chênh lệch bổ sung vào quỹ. Ngược lại, khi giá thị trường thế giới thấp hơn giá bảo hiểm. Quỹ sẽ trích tiền hỗ trợ cho nhà xuất khẩu để họ có sản phẩm tại mức giá bảo hiểm. Như vậy, với quỹ bảo hiểm xuất khẩu, Nhà nước sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp ổn định thu nhập, từ đó gián tiếp tác động đến khả năng hoàn trả vốn vay ngân hàng của doanh nghiệp. Đối với ngân hàng thì điều này là hết sức có ý nghĩa trong việc nâng cao chất lượng của các khoản tín dụng. Về quỹ tín dụng xuất khẩu: Với mục đích hỗ trợ vốn cho xuất khẩu, bảo hiểm tín dụng cho các Ngân hàng thương mại tham gia tài trợ xuất khẩu , hầu hết các nước trên thế giới đều có cơ quan tài trợ và bảo hiểm tín dụng xuất nhập khẩu như EXIM Bank Nhật, EXIM Bank Mỹ, EXIM Bank Hàn Quốc, EXIM Bank Thái Lan… Vì vậy, Chính phủ cần nhanh chóng cho ra đời Quỹ tín dụng xuất khẩu để cấp tín dụng xuất khẩu ưu đãi, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu nhằm hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu mở rộng thị trường xuất khẩu và hạn chế rủi ro cho các Ngân hàng thương mại. Về nguyên tắc hoạt động: Quỹ sẽ do Ngân hàng Nhà nước quản lý. Đối với từng dự án cụ thể Quỹ sẽ tài trợ một phần hay toàn bộ. Để tăng hiệu quả, Quỹ nên hỗ trợ một phần với lãi suất ưu đãi, phần còn lại các doanh nghiệp tự đi vay của Ngân hàng. Như vậy, vừa đảm bảo hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp và Ngân hàng vừa đạt mục tiêu xuất khẩu. 3. Sắp xếp lại các Doanh nghiệp Nhà nước chuyên doanh xuất nhập khẩu Các Doanh nghiệp Nhà nước chuyên doanh xuất nhập khẩu cần phải được sắp xếp lại, khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm giá thành sản xuất, tăng năng suất lao động trong khu vực làm hàng xuất khẩu. Từ khi quy chế cho vay không cần thế chấp đối với các Doanh nghiệp Nhà nước ra đời, hầu như thị trường tín dụng đổ dồn vào các Doanh nghiệp Nhà nước. Tại Sở giao dịch khách hàng là doanh nghiệp Nhà nước chiếm tới 80-90%. Trong hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu cũng không có ngoại lệ, khách hàng chính hiện nay vẫn là các Doanh nghiệp Nhà nước. Chính vì vậy hiệu quả sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp Nhà nước có tác động rất lớn đến hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Đồng thời với việc sắp xếp lại các Doanh nghiệp Nhà nước, Chính phủ cũng cần đề ra các chính sách khuyến khích tiết kiệm trong nước, giảm giá thành sản phẩm, tăng năng suất lao động trong lĩnh vực làm hàng xuất khẩu. Chẳng hạn như khuyến khích sử dụng nguuyên vật liệu trong nước, đề ra chính sách thi đua, khen thưởng thích đáng để khuyến khích người lao động trong lĩnh vực này… 4. Hoàn thiện hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước Để giúp các doanh nghiệp nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác phục vụ cho việc ra quyết định về sản xuất, đầu tư, đồng thời để định hướng thị trường cho các doanh nghiệp và ngân hàng. Nhà nước cần xây dựng một hệ thống thông tin thị trường trong và ngoài nước một cách chính xác và đầy đủ. Một việc mà Ngân hàng Nhà nước cần làm ngay là ban hành các văn bản pháp lý về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu. Hiện nay, các văn bản pháp lý về tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu còn sơ sài. Các Ngân hàng chỉ được hướng dẫn theo định hướng chung mà chưa có hệ thống văn bản quy định và hướng dẫn cụ thể. Do vậy, Ngân hàng Nhà nước cần sớm ban hành các văn bản pháp lý và hướng dẫn thực hiện về hoạt động tín dụng xuất nhập khẩu để các Ngân hàng có cơ sở hoạt động, tránh được sự vi phạm pháp luật đồng thời hạn chế được rủi ro và mở rộng, nâng cao được chất lượng tín dụng xuất nhập khẩu của mình. Kết luận Nhìn một cách khái quát qua hơn 15 năm đổi mới, cùng với sự phát triển chung của nền kinh tế, trong đó có kinh tế đối ngoại, hoạt động kinh doanh đối ngoại của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dần dần có những khởi sắc. Cũng như các hoạt động kinh doanh tiền tệ, ngân hàng trong nước, chuyển từ cơ chế độc quyền của Ngân hàng Nhà nước sang cơ chế thị trường, đa dạng hoá các loại hình kinh doanh tiền tệ – tín dụng – ngoại hối, hoạt động kinh doanh đối ngoại của các Ngân hàng thương mại Việt Nam dần dần xác lập được vị thế trên thương trường. Xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá với những đặc trưng nổi bật là tự do hoá thương mại và tự do hoá tài chính ngày càng rộng khắp và mạnh mẽ đã và sẽ chi phối khuynh hướng và cấu trúc vận động của hệ thống tài chính- ngân hàng của nhiều quốc gia. Ta có thể khẳng định rằng việc mở rộng và phát triển hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu nói riêng là một hướng đi đúng đắn, có tính quyết định không những giúp Sở giao dịch sớm đạt được mục tiêu đã đặt ra đến năm 2005 mà còn giúp Sở giao dịch đứng vững trong môi trường cạnh tranh gay gắt, duy trì vị thế của mình trên địa bàn Hà Nội và trong hệ thống ngân hàng. Do đặc điểm hình thành và phát triển của Ngân hàng, do những yếu tố bất lợi về môi trường kinh tế, pháp lý, công nghệ, hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu tại Sở giao dịch còn mới mẻ, đơn điệu, chủ yếu dưới dạng cổ điển. Điều này tạo nên những trở ngại trong việc phát triển hoạt động này. Tuy nhiên em tin rằng, bằng những nỗ lực tháo gỡ khó khăn về nhận thức và nguồn lực của Sở giao dịch, bằng sự nhanh nhạy trong nắm bắt những cơ hội mới trong nỗ lực chung của các cấp, các ngành, các cơ quan đơn vị để đẩy mạnh năng lực sản xuất của nền kinh tế, thúc đẩy hoạt động xuất nhập khẩu, Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam sẽ đạt được những thành tựu đáng kể trong việc mở rộng hoạt động tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu hướng tới một Ngân hàng đa năng tổng hợp, phát triển bền vững. Danh mục tài liệu tham khảo Tín dụng tài trợ xuất nhập khẩu, thanh toán quốc tế và kinh doanh ngoại tệ GS. TS Lê Văn Tư - Lê Tùng Vân. NXB Thống Kê 2001 Giáo trình thanh toán quốc tế trong ngoại thương Đinh Xuân Trình, Trường Đại học ngoại thương, NXB Giáo dục Nghiệp vụ ngân hàng hiện đại. David Cox – NXB Chính trị quốc gia 1999 Tiền tệ, tín dụng, ngân hàng – GS .TS Lê Văn Tư. Báo cáo tổng kết của Sở giao dịch I các năm 2000, 2001, 2002. Số liệu của Phòng tín dụng, Phòng thanh toán quốc tế – Sở giao dịch I Các tài liệu khác của Sở giao dịch I và của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0184.doc
Tài liệu liên quan