Quỹ xã hội phải được quản lý và điều hành thống nhất từ trung ương, trong đó đặc biệt là quỹ tín dụng quay vòng, song xu hướng chung là phân cấp mạnh xuống cho địa phương, các tổ chức xã hội, chủ yếu là theo cơ chế uỷ quyền để nâng cao trách nhiệm của các cấp cơ sở trong việc thẩm định, xét duyệt và quyết định các dự án cho các đối tượng, đúng mục tiêu và có hiệu quả, đồng thời bảo toàn được quỹ. Quỹ xã hội phải được sử dụng có trọng tâm, trọng điểm và có khả năng điều hoà trên phạm vi cả nước. Nhưng cần đảm bảo nguyên tắc cơ bản là quỹ phải không ngừng được tăng lên.
Trong tương lai cần nghiên cứu hình thành loại ngân hàng chính phủ để thực hiện các chương trình xã hội. Ngân hành này có nguồn từ ngân sách, từ huy động tiết kiệm trong dân, từ sự đóng góp của các tổ chức kinh tế - xã hội, các nhà hảo tâm, từ viện trợ quốc tế. và đầu tư mang tính trợ giúp, hoạt động tuy không hướng vào mục tiêu lợi nhuận, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc cân bằng thu chi, tự trang trải, làm chức năng dịch vụ xã hội cho các đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội.
25 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 1149 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số đặc trưng cơ bản của chính sách kinh tế - Xã hội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chương I
TỔNG QUAN VỀ CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ XÃ HỘI
1/ Các khái niệm
1.1/ Chính sách
Thuật ngữ “chính sách” được sử dụng phổ biến trên sách báo. Các phương tiện thông tin và đời sống xã hội. Mọi chủ thể kinh tế - xã hội đều có những chính sách của mình. Ví dụ, có chính sách của các cá nhân, chính sách của các doanh nghiệp, chính sách của đảng, chính sách của một quốc gia, chính sách của một liên minh các nước hay tổ chức quốc tế...
Theo quan niệm phổ biến, chính sách là phương thức hành động được một chủ thể khẳng định và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại.
Chính sách căn cứ cho quá trình ra quyết định. Chúng vạch ra phạm vi, giới hạn cho phép của các quyết định, nhắc nhở các nhà quản lý những quyết định nào là có thể và những quyết định nào là không thể. Bằng cách đó, các chính sách hướng suy nghĩ và hành động của mọi thành viên trong tổ chức vào việc thực hiện các mục tiêu chung của tổ chực.
1.2/ Chính sách kinh tế - xã hội
1.2.1/ Khái niệm chính sách kinh tế - xã hội theo nghĩa rộng
Xét theo nghĩa rộng, chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm tư tưởng phát triển, những mục tiêu tổng quát và những phương thức cơ bản để thực hiện mục tiêu phát triển của đất nước.
Chính sách theo quan điểm trên là đường lối phát triển kinh tế của đất nước. Ở Việt Nam, đường lối do đảng cộng sản Việt Nam - lực lượng chính trị lãnh đạo nhà nước và xã hội xây dựng.
Các quan điểm, tư tưởng phát triển của đất nước là nguyên tắc thể hiện bản chất của chế độ xã hội, được dùng làm cơ sở để xem xét mọi vấn đề trong tiến trình xây dựng đất nước. Đánh mất nó nhà nước và xã hội sẽ bị biến chất . Người xưa nói rất đúng: hành động không quan điểm là múa rối, liên kết không hội nhập là đầu cơ, nhượng bộ không quan điểm là đầu hàng, thủ đoạn không quan điểm là phá hoại. Các quan điểm còn là kim chỉ nam cho hoạt động của các phân hệ trong xã hội (lĩnh vực, ngành, địa phương). Nó là chuẩn mực để lựa chọn các mục tiêu bộ phận và các mục tiêu ưu tiên cho từng giai đoạn phát triển, đảm bảo không gây tổn hại tới mục tiêu chung, lợi ích chung của cả đất nước.
Quan điểm phát triển của đất nước ta hiện nay là:
- Phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo vai trò lãnh đạo của đảng đối với nhà nước và xã hội,
- Phát triển nền kinh tế thị trường nhiều thành phần
- Tiến hành sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
- Tiến hành đa dạng hoá, đa phương hoá các mối quan hệ đối ngoại
- Lấy giáo dục, đạo tạo và khoa học, công nghệ làm quốc sách hàng đầu, gắn đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị
- Kết hợp hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện các chính sách công bằng xã hội.
Mục tiêu tổng quát của đất nước ta là từ nay đến khoảng năm 2020 là căn bản trở thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
1.2.2/ Khái niệm chính sách kinh tế - xã hội theo nghĩa hẹp
Có rất nhiều khái niệm khác nhau về chính sách kinh tế - xã hội.
1. Chính sách kinh tế xã hội là một hành động nào đó mà nhà nước lựa chọn thực hiện hoặc không thực hiện.
2. Chính sách công là phương thức hành động được nhà nước tuyên bố và thực hiện nhằm giải quyết những vấn đề lặp đi lặp lại. Ví dụ, thực hiện mức thuế VAT bằng 0 đối với tất cả các mặt hàng xuất khẩu.
3. Chính sách là những hành động của nhà nước nhằm hướng tới những mục tiêu của đất nước.
4. Chính sách kinh tế - xã hội là quyết sách của nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề chín muồi đặt ra trong đời sống kinh tế - xã hội của đất nước, thông qua hoạt động thực thi của các ngành, các cấp có liên quan trong bộ máy nhà nước.
5. Chính sách là phương thức hành động của nhà nước để tác động tới kết quả của các sự kiện kinh tế - xã hội, bao gồm một tập hợp mục tiêu của nhà nước và các phương pháp được lựa chọn để theo đuổi các mục tiêu đó.
6. Chính sách – kinh tế xã hội là tổng thể các quan điểm, các chuẩn mực, các biện pháp và các thủ thuật mà nhà nước sử dụng để tác động lên các đối tượng và khách thể quản lý nhằm đạt đến các mục tiêu trong số những mục tiêu chiến lược chung của đất nước.
Vậy : Chính sách kinh tế - xã hội là tổng thể các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng để tác động lên các chủ thể kinh tế - xã hội nhằm giải quyết vấn đề chính sách, thực hiện những mục tiêu nhất định theo định hướng mục tiêu tổng thể của đất nước.
2/ Một số đặc trưng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội
Chính sách là tư tưởng điển hình về các kiểu can thiệp của nhà nước vào kinh tế thị trường. Ví dụ, khi một người nghĩ về “chính sách tín dụng cho nông dân” thì sẽ gợi lên sự tưởng tượng về can thiệp của nhà nước trong việc cung cấp tín dụng cho nông dân. Nhà nước làm việc đó nhằm thay thế hoặc điều chỉnh cách thức nông dân nhận tín dụng khi không có sự can thiệp nào của nhà nước.
Chính sách kinh tế - xã hội là hành động can thiệp của nhà nước nhằm giải quyết một hoặc một số vấn đề chính sách chín muồi. Đó là những vấn đề lớn, có tầm ảnh hưởng rộng, mang tính bức xúc trong đời sống xã hội. Chẳng hạn, chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình được ban hành khi vấn đề dân số trở thành một nguy cơ đối với sự phát triển của đất nước.
Chính sách kinh tế xã hội giải quyết những mục tiêu bộ phận, có thể mang tính dài hạn, trung hạn, hoặc ngắn hạn, nhưng phải hướng vào thực hiện mục tiêu chung, mang tính tối cao của nhà nước.
Chính sách kinh tế - xã hội không chỉ thể hiện kế hoạch của các nhà hoạch định chính sách, mà còn bao gồm những hành vi thực hiện những kế hoạch trên.
Chính sách kinh tế - xã hội được nhà nước đề ra nhằm phục vụ lợi ích chung của nhiều người hoặc của xã hội. Thước đo chính để đánh giá, so sánh và lựa chọn chính sách phù hợp là lợi ích mang tính xã hội mà chính sách đó đem lại. Đây cũng chính là lý do để các chính sách kinh tế - xã hội được gọi là các chính sách công. Trong thực tế, có tình trạng một chính sách đem lại lợi ích cho nhóm xã hội này nhiều hơn nhóm xã hội khác, thậm chí có nhóm còn bị thiệt thòi. Khi đó chính sách kinh - tế xã hội phải đứng trên lợi ích của đa số, của xã hội để giải quyết vấn đề.
Chính sách là một quá trình do nhiều người, nhiều tổ chức tham gia. Trước hết, chính sách kinh tế - xã hội là sản phẩm của các đường lối chính trị, do nhà nước, với tư cách là người tổ chức và quản lý xã hội xây dựng và chịu trách nhiệm tổ chức thực thi. Nhưng quá trình chính sách không phải chỉ do các tổ chức công của nhà nước thực hiện. Ngày nay, trong quá trình dân chủ hoá chính sách, vai trò của các tổ chức ngoài nhà nước và dân chúng ngày càng được nâng cao.
Chính sách kinh tế - xã hội có phạm vi tác động rộng lớn. Chính sách có thể tác động đến mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, thể hiện sự cần thiết can thiệp của nhà nước trong các lĩnh vực đó.
3/ Hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội
Các hình thái kinh tế - xã hội là công cụ quản lý quan trọng của nhà nước đối với mọi lĩnh vực hoạt động của đời sống xã hội, do đó chúng rất đa dạng. Có thể phân loại chính sách - kinh tế xã hội theo nhiêu tiêu chí khác nhau.
3.1/ Xét theo lĩnh vực tác động
Căn cứ vào lĩnh vực tác động, các chính sách kinh tế - xã hội có thể được chia thành những nhóm chính sau:
3.1.1/ Các chính sách kinh tế
Chính sách kinh tế là những chính sách điều tiết các mối quan hệ kinh tế nhằm tạo ra động lực phát triển kinh tế. Các chính sách kinh tế lại tạo thành một hệ thống phức tạp bao gồm nhiều chính sách:
- Chính sách tài chính
- Chính sách tiền tệ - tín dụng
- Chính sách phân phối
- Chính sách kinh tế đối ngoại
- Chính sách cơ cấu kinh tế
- Chính sách phát triển các ngành kinh tế
- Chính sách cạnh tranh
v.v...
3.1.2/ Các chính sách xã hội
Chính sách xã hội là những chính sách điều tiết các mối quan hệ xã hội, làm cho xã hội phát triển theo hướng công bằng và văn minh. Các chính sách xã hội cơ bản bao gồm:
- Chính sách lao động và việc làm
- Chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình
- Chính sách bảo đảm xã hội
v.v...
Nhà nước ta rất coi trọng các chính sách xã hội, bởi vì xét cho cùng sự phát triển kinh tế là nhằm nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho con người.
3.1.3/ Các chính sách văn hoá
Chính sách văn hóa là những chính sách nhằm phát triển nền văn hoá với tư cách là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực phát triển xã hội. Các chính sách văn hoá cơ bản là:
- Chính sách giáo dục và đào tạo.
- Chính sách phát triển khoa học kỹ thuật và công nghệ.
- Chính sách văn hoá thông tin.
- Chính sách bảo tồn và phát huy di sản và truyền thống dân tộc
v.v...
3.1.4/Chính sách đối ngoại
Chính sách đối ngoại là những chính sách điều tiết các mối quan hệ đối ngoại của một đất nước với các quốc gia trên thế giới. Đây là bộ phận chính sách rất quan trọng vì trong điều kiện thế giới đang ở xu thế tăng cường mở cửa và hội nhập, nếu một quốc gia không có những quyết sách đối ngoại đúng đắn thì sẽ bị cô lập và tụt hậu.
3.1.5/ Chính sách an ninh, quốc phòng
Bao gồm các chính sách an ninh và các chính sách quốc phòng. Đó là những chính sách hướng vào việc tăng cường tiềm lực quốc phòng, an ninh chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, tạo điều kiện cho công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
3.2/ Theo phạm vi ảnh hưởng của chính sách
Căn cứ vào quy mô tác động, có thể phân chia chính sách kinh tế - xã hội thành các loại:
- Chính sách vĩ mô: là những chính sách được xây dựng nhằm vận hành nền kinh tế quốc dân, có tác động đến những cân đối tổng thể (vĩ mô) của nền kinh tế - xã hội, chi phối nhiều lĩnh vực, có ảnh hưởng đến lợi ích quốc gia và lợi ích của đông đảo nhân dân. Các chính sách vĩ mô thường có hiệu lực thi hành trên phạm vi cả nước. Ví dụ: Chính sách tài chính, chính sách tiền tệ - tín dụng, chính sách phân phối, chính sách kinh tế đối ngoại được coi là chính sách kinh tế vĩ mô quan trọng nhất.
- Chính sách trung mô: Là những chính sách có quy mô tác động lên những bộ phận hay phân hệ của xã hội. Ví dụ như chính sách điều tiết cơ cấu của một ngành kinh tế, chính sách phát triển cơ cấu thành phần kinh tế, chính sách phát triển vùng v.v...
- Chính sách vi mô: là những chính sách tác động lên những chủ thể kinh tế - xã hội cụ thể như các đơn vị cơ sở hay một nhóm người riêng biệt trong xã hội. Các chính sách vi mô bao gồm chính sách tài chính doanh nghiệp, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách thi tuyển công chức v.v... Ngay những chính sách như chính sách công nghiệp, chính sách nông nghiệp cũng có thể được coi là chính sách vi mô vì điều tiết hoạt động của các doanh nghiệp, các hội các cá nhân.
Tuy nhiên, mọi sự phân loại chỉ là tương đối. Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng các chính sách ngành vừa là chính sách trung mô, vừa là chính sách vi mô.
3.3/ Theo thời gian phát huy hiệu lực
Căn cứ vào thời gian phát huy hiệu lực sẽ có các loại chính sách kinh tế - xã hội như sau:
- Chính sách dài hạn: Là những chính sách được áp dụng lâu dài nhằm thực hiện những mục tiêu chiến lược, dài hạn của đất nước. Một trong những chính sách dài hạn do nhà nước ta đề ra là chính sách phát triển các thành phần kinh tế. Chính sách này có tác dụng khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển, yên tâm đầu tư mọi nguồn lực để phát triển sản xuất kinh doanh lâu dài, làm giàu cho mình và cho đất nước.
- Chính sách trung hạn: là những chính sách công có hiệu lực trong khoảng thời gian từ ba đến bảy năm. Những chính sách này tập trung vào những vấn đề có ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống kinh tế - xã hội, nhưng có thể giải quyết được trong một thời gian nhất định.Những chính sách loại này có thể là chính sách chống lạm phát, chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách chống suy thoái kinh tế v.v...
- Chính sách ngắn hạn: là những chính sách được áp dụng trong khoảng thời gian không lâu (dưới ba năm) nhằm vào những vấn đề có thể giải quyết tương đối nhanh chóng. Các chính sách ngắn hạn có thể là chính sách ổn định tỷ giá hối đoái, chính sách kiểm soát chặt chẽ các ngân hàng cổ phần, chính sách áp dụng mức giá trần đối với thu mua nông sản phục vụ xuất khẩu v.v...
3.4/ Theo cấp độ của chính sách
Phụ thuộc vào chủ thể quyết định chính sách có thể có những loại chính sách kinh tế - xã hội như:
- Chính sách quốc gia do quốc hội ra quyết định.
- Chính sách của chính phủ.
- Chính sách của địa phương do chính quyền địa phương (hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân) quyết định.
Thông qua việc nghiên cứu hệ thống chính sách kinh tế - xã hội theo các tiêu chí khác nhau có thể rút ra một số nhận xét:
Một là, để quản lý xã hội, nhà nước cần xây dựng nhiều chính sách kinh tế - xã hội khác nhau, nhưng tất cả các chính sách đó phải tạo thành một chỉnh thể thống nhất, bao trùm tất cả các lĩnh vực hoạt động xã hội, hướng tới việc thực hiện mục tiêu chung là xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh.
Hai là, mỗi chinh sách đều có mối liên hệ với các chính sách khác, đều có ảnh hưởng nhất định đến mục tiêu của các chính sách khác và mục tiêu chung của xã hội.
Ba là, hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội có cấu trúc rất đa dạng và lồng ghép vào nhau.
Chương II
TỔ CHỨC THỰC THI CHÍNH SÁCH KINH TẾ XÃ HỘI
1/ khái niệm về tổ chức thực thi chính sách kinh tế - xã hội
Sau khi chính sách kinh tế - xã hội được hoạch định, chính sách đó cần được thực thi trong cuộc sống. Đây là giai đoạn thứ hai trong cả quá trình chính sách sau giai đoạn hoạch định, nhằm biến chính sách thành những hoạt động và kết quả trên thực tế.
Các cơ quan nhà nước, trước hết là bộ máy hành chính là người chủ yếu hoạch định chính sách kinh tế - xã hội, cũng đồng thời là người tổ chức thực thi chính sách.
Như vậy, tổ chức thực thi chính sách kinh tế - xã hội là quá trình biến các chính sách thành những kết quả trên thực tế thông qua các hoạt động tổ chức trong bộ máy nhà nước, nhằm hiện thực hoá những mục tiêu mà chính sách đã đề ra.
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách kinh tế - xã hội
Việc đưa các chính sách kinh tế xã hội đi vào thực tiễn không phải là đơn giản, nhanh chóng. Trên thực tế đó là một quá trình phức tạp, đầy biến động, chịu tác động của một loạt các yếu tố, làm thúc đẩy hoặc cản trở kết quả thực thi. Có thể chia các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách kinh tế - xã hội thành 2 nhóm.
2.1 Các yếu tố khách quan
2.1.1 Bản chất của vấn đề cần giải quyết
Như đã biết, chính sách được đề ra nhằm giải quyết các vấn đề phát sinh trong kinh tế - xã hội. Vì vậy bản chất của các vấn đề cần giải quyết sẽ tác động bằng nhiều cách đến quá trình thực hiện chính sách đó.
Nếu chính sách nhằm giải quyết một vấn đề công phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau (ví dụ vấn đề lạm phát, vấn đề thất nghiệp v.v...) hoặc một vấn đề có nguyên nhân đa dạng (ví dụ vấn đề xuống cấp giáo dục, vấn đề ô nhiễm môi trường v.v...) thì quá trình thực hiện chính sách đó cũng thường khó khăn, phức tạp đòi hỏi mất nhiều thời gian và công sức, vì phải phối hợp với nhiều chính sách và thực hiện một loạt các quyết định có liên quan với nhau.
Đặc thù của các nhóm đối tượng mà chính sách tác động đến cũng có ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách đó. Chẳng hạn đối tượng của chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình trước hết là các gia đình nghèo, đông con, đẻ nhiều và các gia đình nông dân (90% dân số nước ta sống ở nông thôn). Đây là nhóm người thường bị hạn chế về trình độ nhận thức và hiểu biết cũng như về mức sống vật chất, tinh thần, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của nếp nghĩ phong kiến (trọng nam khinh nữ, cần có con trai “nối dõi tông đường”...). Do đó việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình ở nước ta không dễ, đòi hỏi phải thay đổi nhận thứ và hành vi của con người vốn đã trở thành tập quán từ bao đời, đồng thời phải kết hợp với việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo, chính sách giáo dục đào tạo, chính sách phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn v.v...
2.1.2 Bối cảnh thực tế
Bối cảnh thực tế, có thể là bối cảnh xã hội, kinh tế, công nghiệp và chính trị, có tác động lớn đến việc thực thi chính sách công.
- Bối cảnh xã hội: Những thay đổi về điều kiện xã hội có thể tác động đến cách lý giải vấn đề và vì vậy đến cách thực hiện chính sách. Nói chung xã hội càng văn minh hiện đại, nhận thức của con người càng tiến bộ, trình độ dân trí càng cao thì càng thuận lợi cho việc thực thi chính sách và luật pháp Nhà nước. Chẳng hạn xu hướng dân chủ hoá hiện nay đòi hỏi chính sách công phải được phổ biến và tranh thủ sự hưởng ứng của nhân dân, đòi hỏi nhà nước phải thu hút sự tham gia và sự kiểm tra của quần chúng, của các tổ chức đoàn thể và các tổ chức phi chính phủ đối với quá trình thực thi chính sách công.
- Bối cảnh kinh tế: Những thay đổi về điều kiện kinh tế có tác động tương tự đối với việc thực thi chính sách. Kinh tế tăng trưởng cao thì chính phủ sẽ bớt khó khăn hơn trong việc thực thi các chính sách công, nhất là các chính sách bảo trợ xã hội. Ví dụ việc thực hiện chính sách xoá đói giảm nghèo đối với Việt Nam hiện nay là rất cấp bách, nhưng nó sẽ thay đổi khi đời sống nhân dân được nâng cao, khi nền kinh tế phát triển hơn, tổng sản phẩm xã hội và thu nhập quốc dân phát triển.
- Bối cảnh công nghệ: Công nghệ mới có thể gây ra những thay đổi trong việc thực thi chính sách. Chẳng hạn sự phát triển của tin học, sinh học và việc áp dụng các công nghệ hiện đại hỗ trợ cho việc tổ chức thực hiện giáo dục từ xa hoặc cho việc thực hiện chính sách dân số và kế hoạch hoá gia đình v.v...
- Bối cảnh chính trị: Những biến động trong bối cảnh chính trị có tác động tới quá trình thực thi chính sách. Một đất nước mà tình hình chính trị rối ren không ổn định (nhiều phe phái, đảo chính, nội chiến... ) thì tất yếu gặp khó khăn trong quá trình thực thi chính sách. Việc thay đổi Chính phủ có thể dẫn đến những thay đổi về cách thực thi các chính sách công trong khi không thay đổi bản thân chính sách công.
- Bối cảnh quốc tế: Cùng với xu hướng hội nhập và toàn cầu hóa, các biến động kinh tế, chính trị, xã hội trong khu vực cũng như trên thế giới ngày càng có tác động đáng kể đến việc thực thi một chính sách công của mỗi quốc gia. Chẳng hạn cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ của các nước trong khu vực đã và đang ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách tiền tệ, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
Đôi khi, trong một vài lĩnh vực nhất định, những tác động từ bên ngoài này lại có ý nghĩa quyết định đến sự thành bại của một chính sách công. Đối với những nước đang phát triển, trong điều kiện vốn trong nước thiếu, cần phải huy động vốn nước ngoài và tận dụng các thành quả, các điều kiện, mà thế giới tạo ra để có thể rút ngắn thời gian và tiến kịp các nước.
Trong xu thế quốc tế hoá mạnh mẽ đời sống kinh tế thế giới, hoạt động ngoại thương không chỉ bù đắp được những thiếu hụt của nền kinh tế trong nước, mà còn giúp cho nền kinh tế có vị trí của mình trong phân công lao động quốc tế. Ngày nay, tình hình thế giới đòi hỏi các nước phải thực thi chính sách kinh tế đối ngoại mở rộng, phải rất quan tâm đến vấn đề xuất khẩu và có cơ cấu xuất nhập khẩu hợp lý.
2.1.3 Tiềm lực chính trị và kinh tế của các nhóm đối tượng chính sách nói riêng và của dân chúng nói chung
Các nhóm có quyền lực (về kinh tế, tài chính, chính trị) chịu ảnh hưởng của một chính sách công nào đó có thể tác động mạnh mẽ tới tiến trình thực hiện chính sách công thông qua việc ủng hộ hoặc chống đối chính sách công đó. Việc công chúng ủng hộ hoặc chống đối chính sách công cũng ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách.
Khi dân giàu có, tiềm lực kinh tế, khả năng kinh tế của dân mạnh thì biện pháp nhà nước và nhân dân cùng làm sẽ hiệu quả hơn và nhà nước có thể huy động được sự đóng góp về chất xám và tiền của từ các tổ chức, các nhà khoa học và từ dân cư trong việc thực hiện chính sách công.
2.2 Các yếu tố khách quan
2.2.1 Yếu tố giao tiếp truyền đạt
Việc giao tiếp - truyền đạt bao gồm công tác tuyền truyền, phổ biến, giáo dục cho người thực thi về nội dung và yêu cầu của chính sách. Nếu quan hệ giao tiếp không chọn vẹn thì hoạt động thực thi sẽ đi chệch hướng mà các nhà hoạch định mong muốn. Một chính sách công ra đời mà các cơ quan liên quan và các nhà chức trách không nắm rõ nội dung yêu cầu đề ra, người dân không được biết đến hoặc hiểu sai đi thì sẽ hạn chế rất nhiều đến kết quả thực thi.
2.2.2 Bộ máy và cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách kinh tế - xã hội
Thành công của một chính sách kinh tế - xã hội phụ thuộc rất nhiều vào khả năng và sự hoạt động của cơ quan và cán bộ thực thi chính sách đó, thông thường là các cơ quan trong bộ máy hành pháp - những người chủ yếu và trực tiếp thực thi chính sách công. Nếu bộ máy hành chính quan liêu, hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả, nếu các cán bộ công chức thiếu năng lực, trách nhiệm và sự trong sạch thì nó sẽ gây khó dễ cho việc thực hiện chính sách, ngăn chặn không cho chính sách đó phát huy tác dụng trên thực tế, bóp méo các mục tiêu của chính sách hoặc làm ngược lại hoàn toàn ý đồ của chính sách đó. Như vậy một chính sách đề ra hợp lý nhưng nếu bộ máy và cán bộ tổ chức thực thi kém năng lực và phẩm chất thì cũng sẽ không thực hiện được hoặc thực hiện sai chính sách trên thực tế. Việc thực thi chính sách cũng phụ thuộc vào sự phân công, phân nhiệm rõ ràng về nhiệm vụ, chức năng quyền hạn, lợi ích của các cơ quan thực thi chính sách. Bên cạnh cơ quan chủ chốt có trách nhiệm chính trong việc thực thi một chính sách nhất định, cần xác định rõ các cơ quan phối hợp thực hiện chính sách để tạo ra một môi trường đồng bộ và ăn khớp cho việc thực thi chính sách công. Nói chung nên hạn chế ở mức ít nhất có thể số lượng cơ quan thực thi chủ yếu để đảm bảo tính hiệu quả của chính sách.
2.2.3 Thủ tục hành chính
Để thực thi chính sách kinh tế - xã hội, các tổ chức liên quan lập ra những quy chế và thủ tục cần thiết. Các thủ tục này tạo ra môi trường thực thi chính sách, quy định những đòi hỏi và bước đi cần thiết trong việc thực thi chính sách, tạo ra trình tự ổn định và rành mạch cho hoạt động quản lý tối ưu.
Mỗi cơ quan có những quy định về thủ tục hành chính, mà các thủ tục này sẽ tạo điều kiện cho việc thi hành chính sách được thuận lợi. Các thủ tục phải có tính ổn định tương đối để không gây nhiều xáo trộn cho quá trình thực thi chính sách công. Tuy nhiên, khi những thủ tục đã trở nên lỗi thời, kìm hãm việc thực thi, thì cần phải thay thế bằng những thủ tục mới hợp lý và thuận tiện hơn. Chẳng hạn, hiện nay ta đang tiến hành cải cách thủ tục hành chính trong một số lĩnh vực: Cấp giấy phép đầu tư, đăng ký kinh doanh, xuất nhập khẩu v.v... là những lĩnh vực mà thủ tục hành chính còn rườm rà, gây cản trở và những tiêu cực trong việc thực hiện các chính sách kinh tế - xã hội.
2.2.4 Kinh phí thực thi chính sách công
Việc thực thi bất kỳ một chính sách công nào cũng đòi hỏi phải có một nguồn kinh phí nhất định. Nguồn kinh phí để thực thi một chính sách công của nhà nước thường do ngân sách nhà nước cấp, do các tổ chức xã hội và tư nhân đóng góp, do huy động trong dân hoặc do nước ngoài tài trợ.
Trong quá trình thực thi, các tổ chức thực thi cần khai thác triệt để các nguồn đầu tư, nhất là các nguồn kinh phí ngoài ngân sách nhà nước. Ngày nay, nhiều chính phủ trên thế giới chú trọng khai thác các nguồn lực trong nhân dân nhằm giảm bớt chi phí ngân sách, nâng cao trách nhiệm cộng đồng xã hội của dân cư. Các nước đang phát triển còn có thể và cần phải khai thác các nguồn tài trợ từ các tổ chức quốc tế và các chính phủ khác.
Nguồn kinh phí này được chi dùng cho các nhu cầu sau:
- Chi phí xây dựng cơ sở vật chất cho việc thi hành chính sách.
- Mua sắm thiết bị vật tư, phương tiện kỹ thuật và các chi phí vật tư khác.
- Trả lương cho đội ngũ cán bộ quản lý, tổ chức và những người thực thi chính sách.
- Chi phí bồi thường cho những người bị thiệt hại do việc thực thi chính sách gây ra.
Nếu chúng ta không có hoặc không đủ kinh phí, thì không thể thực hiện được chính sách công hoặc thực hiện không đến nơi đến chốn dù cho chính sách đó mang ý nghĩa xã hội to lớn.
Vì vậy, việc thực thi chính sách công phải đi liền với việc đảm bảo đủ kinh phí. Ngay từ khi xây dựng và thông qua chính sách công cần phải dự tính trước nguồn kinh phí về mặt số lượng cũng như các nguồn đầu tư.
Nguồn kinh phí cần được sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Cơ quan nhà nước có thẩm quyền giám sát, kiểm tra chặt chẽ và định kỳ xem xét việc sử dụng kinh phí, đánh giá hiệu qủa kinh phí được giao.
2.2.5 Thái độ và hành động của nhân dân
Hồ Chủ Tịch đã từng dạy: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu; khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Một chính sách công chỉ có thể thành công khi nó nhận được thái độ và hành động ủng hộ, hưởng ứng của nhân dân. Nếu bản thân chính sách đó không đem lại lợi ích cho đất nước và cho đa số nhân dân nếu nhân dân chưa hiểu đúng ý đồ và lợi ích của chính sách đó, thì họ sẽ không ủng hộ và không thực hiện chính sách.
Có thể nói, yếu tố có tính quyết định nhất là ở chỗ chính sách công tác động như thế nào đến lợi ích của công chúng, sự tương quan giữa những người có lợi và những người bị thiệt hại do thực thi chính sách công này. Nếu chính sách đáp ứng đúng những đòi hỏi bức xúc của nhân dân thì nó sẽ được duy trì và phát triển. Chẳng hạn như chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần đã được đông đảo công chúng hưởng ứng và thực hiện, vì nó đáp ứng được lợi ích và nguyện vọng của người dân, phát huy mọi tiềm năng của nền kinh tế tạo ra sức mạnh to lớn để phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Một chính sách như chính sách chống buôn lậu, chống tham nhũng, đương nhiên sẽ ảnh hưởng đến lợi ích của những kẻ buôn lậu, những kẻ tham nhũng, nhưng nó lại được đa số nhân dân hưởng ứng, vì vậy tuy việc thực thi có thể gặp một số khó khăn, song nó vẫn được mọi người ủng hộ. Nếu nhà nước có những biện pháp kiên quyết cộng với sự ủng hộ này thì hoàn toàn có thể thực hiện thành công những chính sách nói trên.
Các cơ quan thực thi có thể dùng biện pháp điều tra dư luận để chứng minh cho việc có nên tiếp tục chính sách công đó hay không. Hoặc qua đó có các thông tin phản hồi làm căn cứ cho việc điều chỉnh chính sách.
Ngoài các yếu tố trên, bản sắc văn hoá, truyền thống dân tộc... cũng có ảnh hưởng đến việc thực thi các chính sách công.
Do chịu tác động của một loạt những yếu tố nói trên, trong quá trình thực thi chính sách công, có thể nảy sinh các dạng khó khăn như:
- Việc duy trì và thực thi chính sách kinh tế xã hội phụ thuộc vào chính trị, là lĩnh vực vốn rất nhạy cảm, có liên quan tới khả năng từ bỏ hoặc đảo ngược quá trình thực thi một chính sách nào đó. Chẳng hạn Việt Nam đang thực hiện chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài, chính sách tăng cường hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực khoa học – công nghệ, kinh tế quốc phòng, chính sách gửi cán bộ và học sinh đi đào tạo, nghiên cứu ở nước ngoài v.v... Nhưng nếu quan hệ chính trị giữa hai nhà nước và hai chính phủ mà xấu đi thì có thể dẫn đến sự khó khăn, chậm trễ hoặc thậm chí dẫn đến sự phá sản trong việc thực hiện những chính sách nói trên.
- Những người thực thi chính sách công, do nhiều lý do, trong đó có lý do về năng lực không giải quyết được những đòi hỏi về thông tin và quản lý hành chính mà chính sách đó tạo nên. Chẳng hạn có thể gặp các khó khăn như: Các khoản thuế đề ra quá phức tạp và hay thay đổi nên khó có thể thực hiện được một cách đúng đắn; những biện pháp kiểm soát giá toàn diện đòi hỏi phải thu thập được một lượng thông tin rất lớn và có nhiều nhân lực để quản lý và thi hành... làm cho các cơ quan thực thi không đảm bảo nổi.
- Những người có trách nhiệm hoặc có ảnh hưởng tới việc thực thi một biện pháp nào đó cố tình làm trái với mục tiêu đề ra của chính sách, vì họ thấy chính sách đối lập lại với lợi ích của họ. Chẳng hạn chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước động chạm đến chức quyền và thu nhập của một số người quản lý doanh nghiệp hiện nay, vì vậy họ không tích cực thực hiện chủ trương này.
- Thông thường giai đoạn thực thi chính sách công có một số nhóm người có lợi ích và một số khác bị thiệt hại. Do đó tiến trình thực thi chính sách công đôi khi trở thành một cuộc giao tranh, trong đó các phía khác nhau theo đuổi mục đích riêng của mình và chống lại lợi ích của phía kia. Điều đó có thể gây tác hại tới sự thành công của chính sách công trên thực tế.
Chương III
Các điều kiện cần thiết để thực thi chính sách kinh tế - xã hội thành công
Nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách kinh tế - xã hội tất cả những khó khăn đó, có thể thấy rằng, để khắc phục những khó khăn nói trên, làm cho chính sách kinh tế - xã hội phát huy tác dụng lớn nhất, để thực thi một chính sách kinh tế - xã hội, cần chủ động tạo ra những điều kiện sau đây:
1. Phải có chính sách hợp lý khoa học - điều kiện tiên quyết để thực thi chính sách thành công
Có thể coi đây là điều kiện tiền đề, điều kiện tiên quyết để thực thi chính sách thành công, bởi vì thật ra điều kiện này được xác định ngay từ quá trình hoạch định chính sách. Làm tốt công tác hoạch định chính sách sẽ cho ta một chính sách hợp lý để chuẩn bị thực thi.
Hoạch định chính sách kinh tế - xã hội là một quá trình bao gồm việc nghiên cứu đề xuất ra một chính sách với các mục tiêu, giải pháp và công cụ nhằm đạt tới mục tiêu, được cơ quan có thẩm quyền thông qua và ban hành chính sách đó dưới hình thức văn bản quy phạm pháp luật.
Mục định của quá trình hoạch định chính sách nhằm:
- Đáp ứng đòi hỏi về sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước
- Xác định cơ hội và những vấn đề cần giải quyết
- Hiện thực hoá triển vọng, khắc phục nguy cơ
Trong quá trình hoạch định chính sách phải tuân thủ những quan điểm, nguyên tắc nhất định. Các quan điểm chủ yếu đó là: Quan điểm nhân văn, quan điểm giai cấp, quan điểm lịch sử và quan điểm hệ thống. Nguyên tắc hoạch định chính sách bao gồm:
- Đường lối chính trị quyết định nội dung của chính sách kinh tế - xã hội, quyết định việc lựa chọn giữa các phương án chính sách đưa ra.
- Chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với những quy định pháp luật hiện hành.
- Các chính sách đề ra phải dựa trên cơ sở hoàn cảnh kinh tế cụ thể, các mục tiêu và giải pháp của chính sách không thể vượt quá xa những điều kiện kinh tế hiện có của đất nước.
- Việc đề ra chính sách kinh tế - xã hội cần xuất phát từ những điều kiện xã hội và những bối cảnh cụ thể của đất nước và thế giới.
- Chính sách kinh tế xã hội phải tận dụng được những thành tựu của khoa học, công nghệ và chú ý đến vấn đề môi trường.
Hoạch định chính sách là một quá trình bao gồm một chuỗi các công việc liên hoàn sau: Một là, xác định và lựa chọn vấn đề cần đề ra chính sách. Hai là, xác định mục tiêu của chính sách. Ba là, xây dựng các phương án chính sách với các giải pháp, công cụ để thực hiện mục tiêu. Bốn là, lựa chọn phương án chính sách tối ưu. Năm là, thông qua và quyết định chính sách.
Như vậy, hoạch định chính sách là giai đoạn đầu tiên có ý nghĩa quyết định đối với toàn bộ quá trình chính sách. Để có một chính sách tốt đi vào cuộc sống thì đòi hỏi phải thực hiện tốt công tác hoạch định chính sách. Ngược lại, với một chính sách sai, dù công tác tổ chức thực thi chính sách đó có cố gắng đến đâu chăng nữa thì trước sau chính sách đó cũng sẽ thất bại và mang lại những tổn thất lớn cho đất nước.
Một chính sách được coi là hợp lý, khoa học khi:
- Nó không trái với những quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế và xã hội.
- Nó xác định đúng vấn đề, đúng đối tượng của chính sách (nhằm giải quyết cái gì? Cho ai? ...).
- Xác định đúng mục tiêu ưu tiên cho chính sách (vì mỗi chính sách đều có nhiều mục tiêu, mà nguồn lực thì có hạn).
- Xác định đúng các giải pháp và công cụ cụ thể để thực hiện mục tiêu.
- Xây dựng được chương trình hành động - tức là chính sách đó phải được cụ thể hoá thông qua các chương trình lớn và nhỏ.
2. Phải có nền hành chính công đủ hiệu lực, có khả năng thích nghi cao và trong sạch để thực thi đúng các chính sách công qua các thời kỳ phát triển.
Đây là điều kiện quyết định sự thành bại của công tác thực thi chính sách công, nhưng cũng là điều kiện khó khăn nhất, không thể một sớm một chiều tạo ra được, mà đòi hỏi phải có thời gian.
Thực tiễn ở Việt Nam và kinh nghiệm của nhiều nước cho phép kết luận rằng: để thực hiện thành công một chính sách kinh tế - xã hội, điều kiện rất quan trọng là phải có hệ thống tổ chức thực thi chính sách từ trung ương đến tận cơ sở hoạt động một cách đồng bộ, kịp thời và một đội ngũ cán bộ, công chức có đủ năng lực và phẩm chất để làm nhiệm vụ này. Mặt khác, trong lĩnh vực kinh tế, nhà nước phải tạo ra môi trường và điều kiện để các chủ thể kinh tế được tự chủ trong sản xuất kinh doanh; Nhà nước thực hiện quản lý kinh tế một cách gián tiếp thông qua các công cụ điều tiết thích hợp. Song về các vấn đề xã hội, nếu nhà nước cũng áp dụng cách quản lý như trong lĩnh vực kinh tế, thì các chính sách sẽ không đạt được mục tiêu. Vì vậy, đòi hỏi nhà nước phải tăng cường can thiệp một cách trực tiếp vào việc xây dựng và thực hiện các chính sách xã hội ở mức tối đa bằng hệ thống các công cụ, biện pháp cụ thể, được phản ánh tập trung nhất thông qua các chương trình quốc gia với hàng loạt các dự án có mục tiêu để giải quyết những vấn đề xã hội vừa cơ bản, vừa cấp bách đặt ra.
Như vậy, khi bàn đến quản lý nhà nước trong việc thực thi các chính sách kinh tế - xã hội, thì vấn đề cốt lõi và trọng tâm nhất là phải đổi mới cơ chế xây dựng và vận hành chính sách xã hội để đưa chính sách xã hội vào cuộc sống, đến đúng mục tiêu, đối tượng và có hiệu quả.
Lịch sử kinh tế của một số nước Châu Mỹ La tinh cho thấy các chính sách và định chế của kinh tế thị trường có thể được thiết lập tương đối nhanh chóng trong một thời gian không lâu lắm. Song, do không thiết lập được một bộ máy hành chính có hiệu lực, trong sạch, nên nạn tham nhũng phát triển, chênh lệch giàu nghèo tăng, nợ nước ngoài không trả được... đã làm cho các nước đó không đạt được tăng trưởng cao và lâu bền, nền kinh tế thị trường hoạt động kém hiệu quả , xã hội thiếu ổn định.
Có thể nói điều kiện này hiện nay Việt Nam chúng ta cũng chưa có một cách đầy đủ. Vì vậy cùng với những cải cách kinh tế, Đảng và Nhà nước đang phải tiến hành cải cách nền hành chính Nhà nước, với các nội dung quan trọng là:
- Cải cách thể chế hành chính cho phù hợp với cơ chế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đảm bảo dân chủ và kỷ cương xã hội. Trong đó khâu đột phá là cải cách thủ tục hành chính. Xuất phát từ tình hình thực tế ở nước ta là các thủ tục hành chính quá rườm rà, nhiều cửa và không thống nhất, tạo nên những kẽ hở cho nạn tham nhũng, hối lộ, làm giảm lòng tin của một bộ phận nhân dân và bộ máy nhà nước, Nghị quyết 38 – CP ngày 4-5-1994 của Chính phủ về cải cách thủ tục hành chính là một nội dung quan trọng của công cuộc cải cách một bước nền hành chính quốc gia. Thông qua việc cải cách, hoạt động của các cơ quan hành chính đã có bước tiến bộ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các chính sách công của nhà nước ta. Tuy nhiên, ở nhiều nơi, nhiều khâu, thủ tục hành chính phiền hà, phức tạp vẫn đang là một cản trở đáng kể đối với hoạt động thực thi chính sách công.
- Xây dựng bộ máy hành chính gọn nhẹ, thống nhất và thông suốt theo nguyên tắc tập trung dân chủ và nguyên tắc pháp quyền.
Trong nhiều văn bản nói về thực trạng của nền hành chính quốc gia Việt Nam, nhà nước ta đã nghiêm khắc tự đánh giá những nhược điểm, tồn tại về mặt này là: bộ máy hành chính cồng kềnh, hoạt động kém hiệu lực và hiệu quả, bộc lộ những mặt yếu kém, bất cập về chất lượng, năng lực của bộ máy; chức năng nhiệm vụ chồng chéo, quyền hạn không rõ ràng; bệnh quan liêu, tham nhũng khá phổ biến và nghiêm trọng... Tất cả những điều này dẫn đến những ách tắc chậm trễ trong việc thực hiện các chính sách công cũng như trong việc quản lý kinh tế - xã hội một cách có hiệu quả.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức có phẩm chất chính trị, đạo đức và năng lực, đáp ứng đước yêu cầu nhiệm vụ của giai đoạn mới.
Ai là người chủ yếu và trực tiếp tổ chức thực thi chính sách kinh tế - xã hội? Đó chính là các cơ quan hành chính nhà nước, suy cho cùng là các công chức làm việc trong bộ máy này. Do đó đây là điều kiện quyết định sự thành bại của công tác thực thi chính sách, đưa chính sách vào thực tiễn cuộc sống. Thực tế cho thấy khi thực hiện chính sách cũng như công vụ, có người chỉ quan tâm, hướng vào quyền lợi cá nhân, chứ không vì quyền lợi cơ quan, không vì lợi ích quốc gia, lợi ích công dân. Do đó cải cách nền hành chính quốc gia không chỉ cải cách hệ thống cơ cấu tổ chức thể chế, mà còn phải làm thay đổi cả tư tưởng hành vi, phong cách và nâng cao đạo đức cũng như năng lực của công chức. Đội ngũ cán bộ thực thi chính sách có phẩm chất chính trị và đạo đức tốt, có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, có đủ kiến thức và kỹ năng cần thiết cho việc thực thi chính sách thì mới có thể đưa chính sách đi vào cuộc sống. Để có được một đội ngũ cán bộ như vậy, đối với Việt Nam hiện nay cần coi trọng công tác đào tạo, tuyển dụng và sử dụng cán bộ, coi trọng cả đức và tài.
- Tăng cường phân cấp, phân công trách nhiệm, quyền hạn, kể cả quyền hạn về tài chính.
- Tiến hành thể chế hoá các mục tiêu để từng bước hình thành hệ thống chính sách xã hội đồng bộ, nhanh chóng khắc phục được tình trạng song trùng chính sách, song trùng thể chế trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế - xã hội của đất nước.
- Tăng cường sự hợp tác và tranh thủ sự hỗ trợ của quốc tế, trước hết là các nước trong tiểu khu vực và khu vực; trong đó cần đặc biệt chú ý đến giải quyết những vấn đề có tính đặc thù của quốc gia, đồng thời phải hết sức quan tâm đến các chương trình hành động chung có tính chất toàn cầu của quốc tế hướng vào phát triển xã hội (những vấn đề xã hội có tính chất toàn cầu).
- Phối hợp lực lượng (của các ngành, các cấp) tham gia vào việc xây dựng kế hoạch, chương trình giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội ở tầm quốc gia, địa phương và cơ sở.
- Hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước cần bố trí một cách khoa học đội ngũ công chức lãnh đạo và công chức thực thi theo hướng chuyên nghiệp hoá công chức thực thi công vụ và nâng cao năng lực thực thi chính sách kinh tế - xã hội hoạch định chính sách đối với đội ngũ công chức lãnh đạo, minh bạch hoá công tác xây dựng đội ngũ công chức, xây dựng rành mạch các chế tài liên quan đến trách nhiệm của quản lý hành chính nhà nước.
3. Sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo
Chính sách kinh tế xã hội bao giờ cũng thể hiện quan điểm chính trị, lợi ích giai cấp. Vì vậy, rất có thể một chính sách đưa ra sẽ vấp phải sự phá hoại, sự chống đối của các lực lượng thù địch trong và ngoài nước, cũng sẽ không tránh khỏi những khó khăn phức tạp do nhiều yếu tố ảnh hưởng trong quá trình thực hiện. Điều đó đòi hỏi các nhà lãnh đạo đất nước - những nhân vật quan trọng trên chính trường, những người có quyền quyết định chính sách cũng như có quyền quyết định tổ chức thực thi chính sách phải cương quyết, có đủ quyết tâm và bản lĩnh để thực hiện chính sách đến thắng lợi cuối cùng nếu thấy rằng đó là một chính sách đúng đắn và hợp lòng dân.
4. Phải tạo được niềm tin và sự ủng hộ của đại đa số quần chúng nhân dân
Như phần trên đã đề cập, một chính sách công chỉ có thể thành công nếu nó được nhân dân tin tưởng và ủng hộ. Các chính sách công được sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân là những chính sách phục vụ lợi ích chính đáng của đại đa số. Tuy nhiên đôi khi người dân không ủng hộ chính sách vì họ chưa hiểu đúng ý đồ và lợi ích do chính sách đem lại. Để có được sự ủng hộ của nhân dân cần phải:
- Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến, hướng dẫn chính sách một cách đầy đủ và kịp thời thông qua các phương tiện thông tin đại chúng cũng như các tổ chức đoàn thể, làm cho mọi người hiểu biết về nội dung chính sách.
- Thực hiện cơ chế “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
- Coi trọng quyền tự vạch kế hoạch và hành động của cá nhân, các nhóm xã hội. Tạo điều kiện dễ dàng cho tất cả các cá nhân, nhóm xã hội tham gia một cách tích cực vào việc vạch chính sách, kế hoạch nhằm nâng cao tính hiệu quả của chính sách kinh tế - xã hội.
- Thực hiện các biện pháp khuyến khích bằng vật chất và tinh thần đối với công dân trong việc thực hiện chính sách.
- Tạo ra một khung pháp lý thực sự đảm bảo sự tham gia của người dân trong việc ra quyết định.
- Phát huy và nâng cao năng lực của các cộng đồng; minh bạch và công khai hoá thông tin
- Đổi mới công tác cán bộ theo hướng nâng cao năng lực và trách nhiệm của cán bộ trong việc giải quyết các vấn đề phức tạp có sự tham gia của người dân.
- Từ những điều kiện nói trên, có thể nhận xét thấy rằng: quá trình thực thi chính sách kinh tế - xã hội có liên quan đến nhiều cơ quan, nhiều chủ thể khác nhau:
- Những cơ quan, những nhà hoạch định chính sách
- Những cơ quan, những nhà quyết định chính sách
- Những cơ quan, những người tổ chức thực thi chính sách
- Dân chúng và những đối tượng thực thi chính sách
Vì vậy, để thực hiện thắng lợi chính sách công cần có sự phối hợp giữa các cơ quan (chủ thể) này, để khai thác mọi nguồn lực, tạo ra sức mạnh tổng hợp cả trung ương lẫn địa phương, sức mạnh của cả hệ thống chính trị trong quá trình hoạch định chính sách kinh tế - xã hội.
Việc thực hiện chính sách kinh tế - xã hội không thể dội từ trên xuống là xong, mà cần huy động lực lượng của địa phương, cơ sở và của nhân dân, để họ hiểu rõ chính sách đó, coi đó là trách nhiệm của họ thì việc thực hiện mới có kết quả tốt.
5. Đảm bảo nguồn lực tài chính
Khi bàn đến chính sách xã hội, bao giờ cũng phải tính toán nguồn vật chất đảm bảo, trước hết là từ ngân sách nhà nước đầu tư cho các chương trình xã hội.
Cơ chế quản lý tài chính cho các chương trình phát triển xã hội thường được thiết kế ngay trong chương trình , dự án cụ thể và được vận hành trong quá trình triển khai chương trình dự án ví dụ như, các chương trình dự án phát triển xã hội có nguồn đầu tư nước ngoài...
Theo kinh nghiệm của một số nước trên thế giới, thì để đảm bảo nguồn ngân quỹ cho việc thực hiện các chính sách xã hội thì phải lập các quỹ xã hội. Quỹ xã hội được hình thành rất linh hoạt từ nhiều nguồn: Từ ngân sách nhà nước dành cho đầu tư phát triển xã hội, sự đóng góp của cộng đồng, từ viện trợ quốc tế...
Quỹ xã hội phải được quản lý và điều hành thống nhất từ trung ương, trong đó đặc biệt là quỹ tín dụng quay vòng, song xu hướng chung là phân cấp mạnh xuống cho địa phương, các tổ chức xã hội, chủ yếu là theo cơ chế uỷ quyền để nâng cao trách nhiệm của các cấp cơ sở trong việc thẩm định, xét duyệt và quyết định các dự án cho các đối tượng, đúng mục tiêu và có hiệu quả, đồng thời bảo toàn được quỹ. Quỹ xã hội phải được sử dụng có trọng tâm, trọng điểm và có khả năng điều hoà trên phạm vi cả nước. Nhưng cần đảm bảo nguyên tắc cơ bản là quỹ phải không ngừng được tăng lên.
Trong tương lai cần nghiên cứu hình thành loại ngân hàng chính phủ để thực hiện các chương trình xã hội. Ngân hành này có nguồn từ ngân sách, từ huy động tiết kiệm trong dân, từ sự đóng góp của các tổ chức kinh tế - xã hội, các nhà hảo tâm, từ viện trợ quốc tế... và đầu tư mang tính trợ giúp, hoạt động tuy không hướng vào mục tiêu lợi nhuận, nhưng phải đảm bảo nguyên tắc cân bằng thu chi, tự trang trải, làm chức năng dịch vụ xã hội cho các đối tượng thụ hưởng chính sách xã hội.
MỤC LỤC
Chương I
TỔNG QUAN VỀ CÁC CHÍNH SÁCH KINH TẾ XÃ HỘI 1
1/ Các khái niệm 1
1.1/ Chính sách 1
1.2/ Chính sách kinh tế - xã hội 1
1.2.1/ Khái niệm chính sách kinh tế - xã hội theo nghĩa rộng 1
1.2.2/ Khái niệm chính sách kinh tế - xã hội theo nghĩa hẹp 2
2/ Một số đặc trưng cơ bản của chính sách kinh tế - xã hội 3
3/ Hệ thống các chính sách kinh tế - xã hội 4
3.1/ Xét theo lĩnh vực tác động 4
3.1.1/ Các chính sách kinh tế 4
3.1.2/ Các chính sách xã hội 5
3.1.3/ Các chính sách văn hoá 5
3.1.4/Chính sách đối ngoại 5
3.1.5/ Chính sách an ninh, quốc phòng 5
3.2/ Theo phạm vi ảnh hưởng của chính sách 6
3.3/ Theo thời gian phát huy hiệu lực 6
3.4/ Theo cấp độ của chính sách 7
Chương II
TỔ CHỨC THỰC THI CHÍNH SÁCH KINH TẾ XÃ HỘI 8
1/ khái niệm về tổ chức thực thi chính sách kinh tế - xã hội 8
2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách kinh tế - xã hội 8
2.1 Các yếu tố khách quan 8
2.1.1 Bản chất của vấn đề cần giải quyết 8
2.1.2 Bối cảnh thực tế 9
2.1.3 Tiềm lực chính trị và kinh tế của các nhóm đối tượng chính sách
nói riêng và của dân chúng nói chung 10
2.2 Các yếu tố khách quan 11
2.2.1Yếu tố giao tiếp truyền đạt 11
2.2.2 Bộ máy và cán bộ làm nhiệm vụ tổ chức thực thi chính sách
kinh tế - xã hội 11
2.2.3 Thủ tục hành chính 12
2.2.4 Kinh phí thực thi chính sách công 12
2.2.5 Thái độ và hành động của nhân dân 13
Chương III
CÁC ĐIỀU KIỆN CẦN THIẾT ĐỂ THỰC THI CHÍNH SÁCH
KINH TẾ - XÃ HỘI THÀNH CÔNG 16
1. Phải có chính sách hợp lý khoa học - điều kiện tiên quyết để thực
thi chính sách thành công 16
2. Phải có nền hành chính công đủ hiệu lực, có khả năng thích nghi
cao và trong sạch để thực thi đúng các chính sách công qua các thời
kỳ phát triển. 18
3. Sự quyết tâm của các nhà lãnh đạo 20
4. Phải tạo được niềm tin và sự ủng hộ của đại đa số quần
chúng nhân dân 21
5. Đảm bảo nguồn lực tài chính 22
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- V0311.doc