Chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 : đã chỉ rõ tầm nhìn phát triển của công nghiệp quốc gia là Việt nam sẽ trở thành một mắt xích của công nghiệp khu vực và thế giới. Điều này được hiểu là phát triển công nghiệp Việt Nam phải đặt trong phân công khu vực, hợp tác và sản xuất toàn cầu. Như vậy, công nghiệp phụ trợ cần được xác định rõ như là một công cụ quan trọng để công nghiệp Việt Nam có thể kết nối với khu vực.
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ giai đoạn đến năm 2010, định hướng tới năm 2020. Đối với ngành điện tử - tin học, từ nay đến năm 2010 tập trung đầu tư sản xuất linh kiện điện tử, vi mạch điện tử, vật liệu linh kiện từ, linh kiện thạch anh, linh kiện máy vi tính để phát triển các thiết bị ngoại vi và máy tính cá nhân, đồ điện tử gia dụng, thiết bị nghe nhìn, các thiết bị lắp ráp đơn giản. Sau năm 2010 sẽ phát triển sản xuất linh kiện lắp ráp đồng bộ, sản xuất thiết bị điện tử y tế, kỹ thuật cao, thiết bị điện tử dùng cho cảnh báo.Về biện pháp, quy hoạch cũng đề ra nhiều giải pháp cụ thể để nhằm đạt được mục tiêu của quy hoạch.
88 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1697 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số đề xuất nhằm phát triển công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam trong bối cảnh phát triển công nghiệp điện tử của khu vực Đông Nam Á, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
riển như: thành lập các tổ chức đầu ngành để làm cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước, phối hợp và kết hợp lợi ích của các doanh nghiệp tư nhân với nhau, xây dựng chính sách phát triển ngành đồng thời xây dựng và quản lý việc thực hiện ngân sách và các dịch vụ dành cho khu vực kinh tế tư nhân, tăng cường phát triển tiềm năng khoa học công nghệ quốc gia, phát triển hệ thống khoa học công nghệ, xúc tiến hợp tác giữa các cơ quan tư nhân và nhà nước để nghiên cứu khoa học công nghệ, đào tạo nhân lực, cung cấp tài chính, đổi mới cơ chế…Khuyến khích cao sự phát triển của công nghiệp phụ trợ dựa trên sự ủng hộ của các tập đoàn nước ngoài và chính phủ của họ.
Kinh nghiệm phát triển công nghiệp phụ trợ của Thái Lan
Trong suốt những năm 1970, Thái Lan đã thực hiện chính sách khuyến khích xuất khẩu cho ngành điện tử thông qua chính sách về thuế cho xuất khẩu. Sau thoả thuận Plaza năm 1985, Thái Lan phát triển nguồn điện, các khu công nghiệp và các cơ sở hạ tầng khác đồng thời cải cách pháp luật bao gồm luật liên quan đến tỷ lệ góp vốn để đảm bảo môi trường sản xuất kinh doanh của các công ty nước ngoài. Do đó, một số lượng lớn các nhà đầu tư đã nhắm vào Thái Lan và số lượng các nhà đầu tư nước ngoài vào Thái Lan tăng liên tục cho đến giữa thập kỷ 90. Từ cơ sở này, bộ Công nghiệp Thái Lan đã tiến hành thực hiện cải cách triệt để cơ cấu ngành công nghiệp và sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ.
Trong ngành điện tử của Thái Lan, hầu như các doanh nghiệp sản xuất linh kiện và các nhà lắp ráp không phụ thuộc vào nhau nhiều. Có nhiều công ty nước ngoài sản xuất đồ điện tử gia dụng như ti vi, tủ lạnh, điều hoà, máy quay phim, các thiết bị thông tin… và có nhiều nhà sản xuất linh kiện cho các sản phẩm điện tử nghe nhìn và các sản phẩm cho ngành công nghiệp thông tin và viễn thông, tuy nhiên các doanh nghiệp này hoạt động một cách độc lập voái nhau. Đồng thời số lượng các công ty tập trung vào sản xuất các sản phẩm điện và cơ khí như máy in và các phụ kiện của nó có số lượng nhiều hơn các công ty sản xuất các sản phẩm điện tử.
Năm 1998, viện điện và điện tử của Thái Lan được thành lập bởi bộ công nghiệp với mục đích phục vụ cho lợi ích chung của ngành. Cơ quan này đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của ngành điện tử Thái lan. Ngoài chức năng thiết lập các chính sách phát triển cho ngành thì viện Điện và điện tử giữ một vai trò quan trọng trong việc tạo ra cầu nối giữa khu vực tư nhân và khu vực nhà nước cũng như phối kết hợp lợi ích từ việc hợp tác giữa các công ty tư nhân với nhau, điều này giúp cho các ngành công nghiệp phụ trợ điện tử có đinh hướng rõ ràng trong quá trình phát triển.
Để phát triển các lĩnh vực công nghiệp thông tin – sinh học, vật liệu, công nghệ nano... chính phủ Thái Lan đã lập nên cơ quan chiến lược khoa học và công nghệ quốc gia. Tại đây, các mối quan hệ hợp tác giữa Thái lan và Nhật Bản được xúc tiến để cùng tạo ra các sản phẩm vật liệu mới phục vụ cho sự phát triển các ngành công nghiệp trong nước.
Chính phủ Thái Lan rất chú ý tới việc đưa ra những chính sách khuyến khích giành cho các nhà đầu tư nước ngoài nhằm đạt được sự cân bằng giữa các công ty trong nước và các công ty nước ngoài đưa đến một môi trường cạnh tranh lành mạnh trong quá trình phát triển.
Gần đây Thái Lan đang tăng cường chính sách xúc tiến đầu tư vào ngành công nghiệp phụ trợ có vốn FDI, chia thành những ngành ưu tiên đầu tư và những ngành khuyến khích đầu tư. Những ngành khuyến khích đầu tư được miễn giảm thuế môn bài trong một thời gian nhất định, miễn giảm thuế nhập khẩu máy móc và cho phép cộng một phần tiền lỗ vào các chi phí đầu tư. Thái Lan đã chọn ra ba ngành trọng điểm để tập trung phát triển là: ngành sản xuất linh kiện vi điện tử, ngành thiết kế điện tử và ngành sản xuất phần mềm. Các doanh nghiệp FDI chịu đầu tư vào các ngành này sẽ được hưởng nhiều ưu đãi khi bán hàng trong nước. Công nghiệp phụ trợ trong lĩnh vực điện tử của Thái Lan trở thành ngành rất có triển vọng, do vậy thu hút được rất nhiều sự đầu tư của các tập đoàn điện tử lớn mạnh trên thế giới, đó là chính sách khôn ngoan giúp phát triển ngành công nghiệp điện tử chính, tạo đà cho sự phát triển của các ngành công nghiệp khác.
Kinh nghiệm phát triển công nghiệp phụ trợ của Malaixia
Thành công lớn nhất mà Malaixia đã làm được là dựa vào sự hấp thụ của vốn nước ngoài để phát triển các ngành công nghiệp trong nước. Lúc đầu các công ty nước ngoài đầu tư vào Malaixia với mục đích tận dụng được chi phí rẻ nhờ vào chính sách khuyến khích đầu tư, nguồn nhân lực rẻ, các khu chế xuất và hệ thống cơ sở hạ tầng thuận lợi. Hơn nữa hoạt động đầu tư phát triển không ngừng trong suốt một thời gian dài dưới một nền chính trị ổn định, nhất quán và minh bạch, thêm vào đó là khả năng giao tiếp tiếng Anh tốt và các điều kiện môi trường thuận lợi đã biến Malaixia thành một trung tâm sản xuất công nghiệp điện tử.
Các công ty sản xuất các sản phẩm và linh kiện điện tử ở Malaixia hầu hết là các công ty của Nhật Bản, các công ty này đã có điều kiện thành lập các cụm sản xuất sản phẩm linh kiện và đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu của nước này. Các công ty hình thành các cụm sản xuất này thường phụ thuộc lẫn nhau và thu được lợi thế nhờ tập trung và chuyên môn hóa.
Tổng công ty phát triển công nghiệp vừa và nhỏ của Malaixia (SMIDEC) được thành lập nhằm giúp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể phát triển, và với những nỗ lực marketing độc lập SMIDEC đã giúp cho các công ty trong nước có điều kiện trở thành nhà cung cấp cho các công ty nước ngoài. Malaixia chỉ có một số ít các công ty trong nước sản xuất các sản phẩm phụ trợ nhưng vẫn có khả năng cung cấp cho các công ty nước ngoài
Chính phủ Malaixia rất chú trọng tới việc thiết lập các chương trình phát triển để thúc đẩy các công ty có vốn đầu tư của người Malaixia quan hệ hợp tác với các công ty của Nhật Bản nhằm phát triển ngành công nghiệp phụ trợ của nước mình. Chương trình Vendor là một chương trình đặc biệt với ý nghĩa như trên. Trong chương trình này các công ty lớn của nước ngoài liên kết với một ngân hàng thương mại và các công ty cung cấp linh kiện phụ tùng, các công ty nước ngoài được yêu cầu tạo ra một hoặc hai đối tác là các công ty địa phương hàng năm. Chương trình này giúp tìm kiếm các nhà cung cấp trong nước có khả năng cạnh tranh để liên kết với các công ty nước ngoài trong số các công ty chế tạo các sản phẩm nhựa Plastics và trong số các công ty cung cấp phụ tùng HDD .
Các hội nghị lớn được tổ chức thường xuyên với sự tham gia của các quan chức chính phủ và các doanh nghiệp lớn nhằm đẩy mạnh hơn nữa sự phát triển của các ngành công nghiệp phụ trợ trong nước cho thấy việc phát triển công nghiệp phụ trợ ở Malaixia luôn được sự quan tâm trong chính sách phát triển kinh tế của nước này.
Bài học cho Việt Nam
Công nghiệp phụ trợ phát triển thuận lợi khi chính phủ có những tổ chức, cơ quan đầu ngành hoạt động chuyên nghiệp trong việc phối hợp liên kết giữa các doanh nghiệp trong và ngoài nước nhằm thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp này. Nhiệm vụ chủ yếu của những cơ quan này như: Xây dựng nhu cầu phát triển, hỗ trợ trao đổi thông tin giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài, tăng cường năng lực quản lý và trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong nước với sự trợ giúp của các doanh nghiệp nước ngoài đồng thời hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực của các doanh nghiệp; xây dựng, cung cấp các tiêu chuẩn và dịch vụ kiểm tra chất lượng, tiêu chuẩn an toàn sản phẩm quốc gia...
Công nghiệp phụ trợ phát triển song song với việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ được sự bảo trợ cao của chính phủ nước sở tại cũng như của các tập đoàn đa quốc gia và chính phủ của họ.
Để công nghiệp phụ trợ phát triển có kết quả cần thiết phải xây dựng được cho mình một chiến lược và quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp, trong đó đề ra được những mục tiêu và chính sách phát triển dài hạn, đề ra được các giải pháp phát triển cụ thể, có luận cứ khoa học và thực tiễn, đồng thời lựa chọn phát triển những lĩnh vực công nghiệp trọng điểm trong bối cảnh hội nhập mạnh mẽ làm điểm tựa cho công nghiệp phụ trợ phát triển.
Sự thành công của việc phát triển công nghiệp phụ trợ cho một số ngành công nghiệp trọng điểm ở các nước Thailand, Malaysia trong công nghiệp sản xuất thiết bị điện, điện tử - viễn thông, thiết bị điện dân dụng... là kết quả của sự điều tiết chuyển dịch cơ cấu sản xuất công nghiệp của chính phủ bằng các biện pháp khuyến khích gián tiếp, nhờ sự hoạt động tích cực, cách phối hợp đồng bộ của bộ máy quản lý Nhà nước trong đó luôn lấy doanh nghiệp làm trung tâm. Sự hỗ trợ của các Chính phủ trong việc đào tạo nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, ứng dụng, đổi mới và phát triển khoa học công nghệ cho các doanh nghiệp và quan trọng nhất là các doanh nghiệp đã nhìn thấy lợi ích của công ty mình trong phát triển dài hạn.
Thailand, Malaysia cố gắng phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất các linh kiện phụ trợ và đã có những chương trình liên kết kinh tế chặt chẽ giữa các doanh nghiệp FDI với các doanh nghiệp trong nước.
2.3. Đánh giá tiềm năng phát triển công nghiệp phụ trợ ngành điện tử
2.3.1. Xem xét bối cảnh phát triển công nghiệp phụ trợ của Việt Nam
2.3.1.1. Bối cảnh công nghiệp quốc gia
Việt Nam được các nhà kinh tế thế giới đánh giá là nước có nền kinh tế - chính trị - xã hội ổn định và an toàn. Vào thời điểm hiện nay, yếu tố này thực sự trở thành lợi thế lớn để hấp dẫn đầu tư nước ngoài.
Tuy nhiên, Việt Nam thực hiện quá trình công nghiệp hóa muộn hơn so với khu vực và thế giới với 70% lao động trong khu vực nông nghiệp còn thiếu các “thế hệ công nghiệp” để bắt nhịp nhanh với tác phong, ý thức và khả năng thực thi quá trình công nghiệp hóa. Trình độ công nghệ Việt Nam được đánh giá ở mức trung bình kém. Công nghệ đa nguồn, đa xuất xứ, thiếu đồng bộ là một đặc thù lớn của nền công nghiệp. Nếu so sánh với các quốc gia châu Á thì trình độ công nghệ của Việt Nam hiện nay tương đương với Trung Quốc vào những năm 80, Malaysia những năm 70, Hàn Quốc những năm 60 và Nhật Bản những năm 20 của thế kỷ trước. Đồng thời do công nghệ lạc hậu, ô nhiễm môi trường đang trở thành một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp. Phát triển công nghiệp đã đến lúc phải được đặt song song với việc xử lý ô nhiễm môi trường, điều này đang làm tăng chi phí đầu tư, gây sức ép lớn lên các nguồn lực tài chính.
Sức cạnh tranh của hàng công nghiệp Việt Nam thấp, phần lớn là sản xuất gia công, chưa hình thành các hiệp tác sản xuất khu vực và quốc tế. Sản phẩm gia công giá trị gia tăng thấp, thụ động trong cung ứng đầu vào và đầu ra làm tăng chi phí sản xuất. Nền kinh tế vận hành song song nhiều thành phần kinh tế. Việc phối hợp và điều hoà lợi ích giữa các thành phần đang đặt ra vấn đề lớn về chính sách. Bên cạnh một hệ thống doanh nghiệp nhà nước mạnh nhưng trì trệ là một hệ thống tư nhân năng động nhưng rời rạc. Thị trường Việt Nam thiếu các biện pháp bảo hộ hữu hiệu đã dẫn đến tình trạng nhiều hàng hoá bị mất chỗ đứng trong nước. Hình thành hiện tượng xuất khẩu hàng hoá dễ hơn sản xuất thay thế nhập khẩu cho nhu cầu trong nước.
Song bên cạnh đó, một số ngành đã tận dụng được các lợi thế so sánh động của Việt Nam hiện nay với nguồn nhân công dồi dào, cần cù, tiếp thu nhanh các kỹ thuật công nghệ mới. Các ngành này đã phát triển nhanh chóng trong thập kỷ vừa qua, như ngành viễn thông, công nghệ phần mềm, công nghiệp điện tử (gia dụng), công nghệ sinh học. Vấn đề đặt ra là yêu cầu về phát triển một cách bền vững, nhất là trong giai đoạn tiếp theo với các cam kết khi Việt Nam đã tham gia WTO.
2.3.1.2. Bối cảnh công nghiệp quốc tế và khu vực Đông Á
Trong nửa sau thế kỷ XX, dòng thác công nghiệp đã lan nhanh cả về chiều rộng và chiều sâu tại khu vực Đông Á, các quốc gia trong vùng nối đuôi nhau phát triển. Việt Nam hội nhập vào làn sóng công nghiệp trong khu vực từ đầu thập niên 1990 bằng công cuộc đổi mới. Mặc dù đã gần 20 năm nhưng đến nay Việt Nam còn một khoảng cách lớn với các quốc gia lân cận về trình độ phát triển.
Với việc gia nhập WTO, thị trường của Việt Nam đang mở rộng ra khắp thế giới. Tuy nhiên, có thể nói trong giai đoạn trước mắt, thách thức trực tiếp và cũng là cơ hội đối với công nghiệp Việt Nam là ở vùng Đông Á. Tại đây, hai trào lưu đang nổi cộm và sẽ tác động đến sự phát triển của công nghiệp Việt Nam, đó là sự biến động trong làn sóng công nghiệp Đông Á và khuynh hướng tự do thương mại trong vùng.
Bản đồ kinh tế Đông Á cho thấy Việt Nam đang đi sau khá xa các nước trong khu vực về trình độ phát triển công nghiệp, thể hiện trong sự cách biệt về tỷ lệ hàng công nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ sản phẩm máy móc các loại trong tổng xuất khẩu, thể hiện trong chỉ số cạnh tranh của những ngành công nghiệp chủ yếu và trong cơ cấu phân công lao động giữa Việt Nam với các nước này. Ngoài ra, Việt Nam phải nhập siêu nhiều với hầu hết các nước đó. Không kể một số nước mới gia nhập ASEAN, Việt Nam là nước đi sau cùng trong quá trình công nghiệp hóa ở vùng Đông Á và đang trực diện với hai thách thức lớn: Ảnh hưởng của kinh tế Trung Quốc và việc Việt Nam phải sớm thực hiện tự do hóa thương mại với các nước trong khu vực.
Để giảm thách thức và tận dụng được cơ hội do Trung Quốc và ASEAN mang lại, Việt Nam phải chuyển dịch nhanh cơ cấu xuất khẩu sang các nước này, phải có khả năng cung cấp ngày càng nhiều mặt hàng công nghiệp cạnh tranh được trên thị trường khu vực và thế giới. Điều này đang khẩn cấp đòi hỏi nước nhà một nền công nghiệp phụ trợ phát triển.
2.3.2. Xác định lợi thế so sánh của Việt Nam trong ngành công nghiệp phụ trợ điện tử tại khu vực Đông Á
Lợi thế so sánh tĩnh (static comparative advantage) : là lợi thế hiện tại, có ngành đã phát huy được và cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường quốc tế, nhưng cũng có ngành chưa phát huy được do môi trường hoạt động của doanh nghiệp chưa tốt.
Lợi thế so sánh động (dynamic comparative advantage) : là lợi thế tiềm năng sẽ xuất hiện trong tương lai gần hay xa khi các điều kiện về công nghệ, nguồn nhân lực và khả năng tích lũy tư bản cho phép. Nếu có chính sách tích cực theo hướng tạo ra nhanh các điều kiện đó sẽ làm cho lợi thế sẽ làm cho lợi thế so sánh động sớm chuyển thành sức cạnh tranh hiện thực.
Để xác định xem Việt Nam có lợi thế so sánh trong ngành công nghiệp nào, có thể chia các nganh công nghiệp thành các nhóm sau:
Nhóm A: gồm những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động giản đơn như các ngành vải vóc, quần áo, giày dép, dụng cụ lữ hành, dụng cụ du lịch...
Nhóm B: gồm những ngành có hàm lượng lao động cao và sử dụng nhiều nguyên liệu nông lâm thủy sản như thực phẩm gia công, các loại đồ uống...
Nhóm C: gồm những ngành có hàm lượng tư bản cao và dựa vào nguồn tài nguyên khoáng sản như thép, hóa dầu.
Nhóm D: gồm những ngành có hàm lượng lao động cao, chủ yếu là lao động lành nghề, lao động có kỹ năng cao với nhiều trình độ khác nhau như xe máy, máy bơm nước, đồ điện tử gia dụng, các loại máy móc, bộ phận điện tử, linh kiện điện tử...
Nhóm E: gồm những ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao như máy tính, xe hơi, máy công cụ, các linh kiện điện tử cao cấp, các bộ phận điện tử cao cấp...
Các ngành trong nhóm A và nhóm B là những ngành Việt Nam đang có lợi thế so sánh, chủ yếu trong ngành may mặc và giày dép, các ngành này phần lớn là ở công đoạn gia công và giá trị gia tăng không thực sự cao. Mặc dù vậy thì đây vẫn là những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh tĩnh, nghĩa là hiện đang có sức cạnh tranh trên thị trường.
Các ngành thuộc nhóm D và một phần nhóm E, là các ngành liên quan đến đồ điện tử gia dụng, linh kiện điện tử, các loại máy móc liên quan đến công nghệ thông tin như máy tính cá nhân, điện thoại di dộng là những ngành Việt Nam có lợi thế so sánh động. Điều này có thể nhận thấy thông qua hai lý do sau:
Thứ nhất, trong quá khứ những nước có trình độ phát triển như Việt Nam hiện nay đã bước vào giai đoạn phát triển các ngành này, đặc biệt là sự phát triển nhộn nhịp tại Thái Lan các mặt hàng điện tử từ khoảng 20 năm trước và tại Trung Quốc là 10 năm trước. Trong khi đó nhu cầu về các mặt hàng này vẫn không ngừng gia tăng, điều đó cho thấy Việt Nam hoàn toàn có thể đẩy mạnh phát triển các ngành này trong giai đoạn hiện nay.
Thứ hai, các công ty đa quốc gia trong các lĩnh vực trên đang đánh giá cao môi trường đầu tư của Việt Nam. Theo điều tra vào cuối năm 2004 của Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản về phương hướng lựa chọn môi trường đầu tư của các công ty lớn sản xuất hàng công nghiệp của Nhật Bản, Việt Nam được xếp thứ 4 trong những nước được đánh giá cao. Riêng với ngành điện tử Việt Nam xếp thứ 3. Điều tra thực tế tại các khu công nghiệp Biên Hòa, Thăng Long, Bình Dương và khu chế xuất Tân Thuận trong thời gian qua cũng cho thấy những công ty Nhật Bản trong ngành điện tử có kinh nghiệm hoạt động tại Việt Nam đều đánh giá rất cao chất lượng lao động của ta. Họ cho rằng sự lĩnh hội các chi thức cơ bản và cách thao tác máy móc, lao động Việt Nam hơn rất nhiều nước xung quanh.
Như vậy có thể thấy Việt Nam hoàn toàn có lợi thế so sánh động trong ngành sản xuất các sản phẩm phụ trợ điện tử, nếu có các chính sách đúng đắn thì hoàn toàn có thể biến các tiềm năng này thành hiện thực, làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất và xuất khẩu trong tương lai không xa.
Mặt khác, xét thấy nhu cầu của thế giới về các mặt hàng điện tử, máy tính, điện thoại di động... đều là những mặt hàng có nhu cầu cao khi mà thu nhập của xã hội ngày càng tăng lên. Mức độ phổ cập các mặt hàng điện tử tại Châu Á tăng nhanh nhưng còn thấp cho thấy tiềm năng ở khu vực này là rất lớn. Ví dụ : từ năm 2001 – 2002 mức độ phổ cạp củ máy tính cá nhân tại Đài Loan tăng từ 25% đến 40%, tại Thái Lan từ 3 – 4%, Trung Quốc và Philippin từ 2 -3% (số chiếc đang sử dụng/ 100 người dân ). Về điện thoại di động mức độ phổ cập năm 2002 tại Hàn Quốc là 68%, Malaixia là 38%, Thái Lan là 26%, Philippin 19% và Trung Quốc còn 16%. Về các mặt hàng điện tử gia dụng thống kê từ năm 1999 cho thấy hầu hết các gia đình ở Đài Loan, Hàn Quốc và Malaixia đều đã có tủ lạnh nhưng ở Thái Lan mới có 68%, Philippin là 37%, Inđônêxia là 24% và Trung Quốc là 6%. Về máy giặt Trung Quốc mới chỉ có 2% gia đình có phương tiện này và con số đó chỉ từ 5 – 8% ở các nước ASEAN (trừ Singapore và Malaixia). Những thống kê mới hơn cho thấy mức độ phổ cập tại các nước đã cao hơn rất nhiều nhưng nhu cầu vẫn còn rất lớn tại Châu Á. Tại các nước mà mức độ phổ cập đã đạt được 100% như Nhật Bản và các nước Âu – Mỹ thì nhu cầu thay thế sản phẩm cũ ở các thị trường này là rất lớn bởi vậy nhu cầu thế giới do đó sẽ tiếp tục tăng mạnh. Tiềm năng phát triển đối với ngành điện tử Việt Nam là rất lớn.
2.3.3. Đánh giá tầm quan trọng của ngành công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử Việt Nam thông qua mô hình chuỗi giá trị.
Mô hình chuỗi giá trị (value - chain) của một ngành công nghiệp
Chuỗi giá trị là quá trình biến một sản phẩm hay dịch vụ phát triển từ ý tưởng qua nghiên cứu thử nghiệm đến sản xuất rồi đến tay người tiêu dùng và cuối cùng là dịch vụ bán hàng và sau bán hàng.
Mỗi một công đoạn trên tùy theo tính chất của hàng hóa và các loại dịch vụ mà có một hệ thống các hoạt động bao gồm hàng loạt các hãng khác nhau đảm trách tạo thành một mạng lưới sản xuất, lắp ráp, dịch vụ nằm rải rác trên khắp thế giới tạo nên chuỗi giá trị toàn cầu.
Sau đây là sơ đồ minh họa chuỗi giá trị:
Giá trị gia tăng
R&D Product Assemply Distribution Marketing
Design And
Production
Hình 2.3: Chuỗi giá trị của một ngành công nghiệp
(Nguồn : Kenichi Ohno - Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaixia và Nhật Bản)
Chuỗi giá trị toàn cầu có 2 dạng liên kết kinh tế quốc tế. Đó là hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi phối (global value chain driven by producer) và hệ thống chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường hay người mua chi phối (global value chain driven by marketer). Trong chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi phối, các doanh nghiệp sản xuất lớn đóng vai trò chủ đạo trong hệ thống sản xuất (bao gồm cả các liên kết ngược chiều và xuôi chiều). Đây chính là các ngành thâm dụng vốn và công nghệ cao như ô tô, máy bay, máy vi tính, chất bán dẫn và chế tạo máy. Vai trò chủ đạo trong chuỗi giá trị này thuộc về các công ty đa quốc gia và lợi nhuận sẽ phụ thuộc chủ yếu vào quy mô, số lượng và sự vượt trội về công nghệ.
Chuỗi giá trị toàn cầu do thị trường hoặc người mua chi phối bao gồm các nhà bán lẻ lớn, các nhà marketing, các nhà sản xuất có thương hiệu mạnh có vai trò then chốt trong việc hình thành mạng lưới sản xuất tập trung xuất khẩu khác nhau trên phạm vi toàn cầu, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Mô hình này là đặc trưng của các ngành thâm dụng lao động, sản xuất hàng tiêu dùng như dệt may, da giầy, đồ chơi và điện dân dụng. Trong hệ thống này các nhà thầu của thế giới thứ ba chịu trách nhiệm sản xuất sản phẩm cuối cùng cho người tiêu dùng nước ngoài. Các nhà bán lẻ lớn hay các nhà bán buôn đặt hàng cung cấp các sản phẩm với đặc tính rõ ràng. Chuỗi giá trị toàn cầu do người mua chi phối trái ngược với chuỗi giá trị toàn cầu do nhà sản xuất chi phối là do chuỗi giá trị này được đặc trưng bởi cạnh tranh mạnh và hệ thống các nhà máy sản xuất tập trung toàn cầu với rào cản nhập ngành thấp. Các công ty có thương hiệu nổi tiếng kiểm soát hệ thống sản xuất trên phạm vi toàn cầu, hơn nữa họ còn tác động đến lợi nhuận là bao nhiêu trong mỗi giai đoạn trong chuỗi giá trị. Cũng trong chuỗi giá trị toàn cầu do người mua chi phối lợi nhuận lại phụ thuộc chủ yếu vào các giá trị gia tăng cao trong nghiên cứu và phát triển, thiết kế marketing và chiến lược kết nối các nhà sản xuất trên phạm vi toàn cầu và bán các sản phẩm ở thị trường tiêu dùng chính.
Dòng chảy giá trị gia tăng toàn cầu theo đó chỉ có thể nhảy một chiều từ các quốc gia nghèo lên các quốc gia giàu chứ không có chiều ngược lại. Nếu các nước đang phát triển như Việt Nam không lựa chọn mục tiêu sống còn là phải vươn lên cạnh tranh ở hai phân khúc tạo giá trị gia tăng cao nói trên thì khoảng cách với các nước phát triển ngày càng xa.
Mô hình chuỗi giá trị cũng chỉ ra rằng: ngành điện tử Việt Nam đang dừng lại ở khâu lắp ráp trong chuỗi giá trị sản phẩm điện tử của thế giới, đây là khâu mang lại giá trị gia tăng thấp nhất trong chuỗi giá trị của ngành điện tử, trong khi đó các nước đã đồng loạt tiến về thượng nguồn để tìm kiếm giá trị gia tăng cao hơn. Do vậy Việt Nam cũng cần nhanh chóng di chuyển sang các công đoạn khác mang lại giá trị cao hơn. Trong điều kiện thực tế của Việt Nam hiện nay, chưa thể ngay lập tức tham gia vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển - sở hữu trí tuệ, nhưng hoàn toàn có thể đua tranh với thế giới trong lĩnh vực khác, ngành điện tử Việt Nam cần tiến thêm một bước trong chuỗi giá trị đó là bước phát triển công nghiệp phụ trợ, sản xuất các loại linh kiện, phụ kiện điện tử trước khi đưa vào lắp ráp, đây chính là cách mà Việt Nam tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu ngành điện tử đồng thời nâng cao được giá trị gia tăng cho quốc gia.
2.2.4. Đánh giá nhu cầu mua sắm của các công ty đa quốc gia
Với các công ty đa quốc gia hướng vào thị trường nội địa:
Trong ngành công nghiệp điện tử các công ty Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam cung cấp chủ yếu là ti vi và các thiết bị gia dụng như máy giặt, tủ lạnh, một số các thiết bị âm thanh như đầu DVD, thiết bị hi-fi stereo... Vì ti vi và các thiết bị gia dụng trên là những sản phẩm có nhu cầu đặc biệt cao trong thời kỳ đầu của quá trình phát triển kinh tế do nguyện vọng nâng cao mức sống của nhân dân, để đáp ứng nhu cầu này các công ty đa quốc gia thường xây dựng các nhà máy tại thị trường tiêu thụ để không bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Ngoài ra, các sản phẩm này thường có khối lượng nặng và kích thước cồng kềnh nên các nhà máy cần được xây dựng gần địa điểm tiêu thụ để giảm chi phí vận chuyển.
Các công ty này nhắm vào thị trường nội địa thường có động lực mạnh mẽ trong việc nội địa hóa, rất nhiều linh kiện điện tử sử dụng trong tivi và các thiết bị gia dụng rất nặng và cồng kềnh, đặc biệt là các linh kiện bằng nhựa và kim khí. Việc nhập khẩu các linh kiện này rất tốn kém, ngoài ra do đặc điểm của quá trình sản xuất nên sự tập trung các bộ phận này theo địa điểm không phải là một ưu thế. Thêm vào đó, các công ty đa quốc gia này thường có xu hướng nội địa hóa một số công đoạn sản xuất như đúc, mạ, giập... Việc thay đổi mẫu mã thường xuyên và phản hồi nhanh từ công đoạn này khiến người ta thường xây dựng các nhà máy ngay tại các địa điểm cung cấp dịch vụ.
Các công ty đa quốc gia với mục tiêu xuất khẩu
Các công ty đa quốc gia Nhật Bản đóng tại Việt Nam nhưng hướng vào thị trường quốc tế thường sản xuất các thiết bị máy tính ngoại vi và các thiết bị âm thanh. So với việc sản xuất ti vi và đồ gia dụng, các công ty này thường có xu hướng xây dựng các nhà máy cách xa thị trường tiêu thụ vì cầu đối với các sản phẩm này tăng chậm so với các sản phẩm ti vi và đồ gia dụng, mặt khác các sản phẩm này thường có kích thước tương đối nhỏ nên các nhà sản xuất vẫn thu được những khoản lợi sau khi đã khấu trừ chi phí vận chuyển.
Một vài ý kiến cho rằng các công ty đa quốc gia đóng tại Việt Nam với mục tiêu hướng vào xuất khẩu không có động cơ nào để tiến hành nội địa hóa bởi lẽ họ hoàn toàn được miễn thuế linh kiện nếu được hưởng quy chế Doanh nghiệp sản xuất cho xuất khẩu hay đóng tại các khu chế xuất. Tuy nhiên các doanh nghiệp này vẫn tìm cách tăng tỉ lệ nội địa hóa, vì họ muốn rút ngắn thời gian thực hiện đơn đặt hàng, việc xuất khẩu sang các thị trường như Mỹ, EU, hay Nhật Bản luôn phải đảm bảo yêu cầu giao hàng nhanh, đúng và đủ.
Sau đây là những ý kiến từ công ty Canon :
Công ty TNHH Canon Việt Nam
Không giống như các công ty đa quốc gia hướng vào xuất khẩu, Canon rất tích cực trong việc nội địa hóa các linh kiện. Theo lời của Ngài Tổng giám đốc, Canon mong muốn nội địa thật nhiều các linh phụ kiện nhằm rút ngắn thời gian thực hiện đơn đặt hàng và chi phí hậu cần. Tuy nhiên, Ông cũng chỉ ra rằng, Canon cũng cần nhập khẩu một vài linh kiện bởi năng lực hạn chế của các ngành công nghiệp phụ trợ Việt Nam
(Nguồn GS.TS Kenichi Ohno - Hoàn thiện chiến lược phát triển công nghiệp )
Từ những phân tích trên có thể nhận thấy, dù các công ty trên có mục tiêu là nội địa hay quốc tế thì cũng đều có động cơ và nhu cầu nội địa hóa một số các loại linh kiện điện tử hoặc phụ tùng, đặc biệt là nột số các phụ tùng có kích cỡ cồng kềnh và khối lượng lớn như vỏ nhựa, ống kim loại, các công cụ ép, đúc...
Việc sản xuất các linh kiện bằng nhựa và kim khí này không đòi hỏi công nghệ cao siêu nhưng nó lại có thể rất hữu ích cho các ngành khác. Ví dụ công nghệ sử dụng trong ngành điện tử có thể khả dụng đối với các ngành sản xuất ô tô hay xe máy... Các sản phẩm cuối cùng có thể thay đổi thường xuyên và đặc biệt nhanh đối với ngành công nghiệp điện tử. Chẳng hạn, màn hình tinh thể lỏng đã nhanh chóng qua mặt màn hình truyền thống sử dụng đèn hình, tuy nhiên các linh kiện kim khí và nhựa cũng như các công đoạn liên quan sẽ vẫn luôn cần thiết cho dù có bất cứ sự thay đổi nào về sản phẩm cuối cùng. Bởi vậy, các quốc gia có đủ công nghệ sản xuất linh phụ kiện bằng nhựa hay kim khí sẽ có khả năng bảo vệ vị trí cạnh tranh của mình như là một trung tâm sản xuất trong thời gian dài. Hiện chưa có nhiều quốc gia có được sự tích tụ cần thiết trong việc phát triển các ngành công nghiệp này, và như vậy Việt Nam hoàn toàn có lợi thế trong khu vực nếu thành công trong việc xây dựng được các ngành công nghiệp phụ trợ như trên.
2.3.4. Đánh giá về công nghiệp phụ trợ điện tử của Việt Nam thông qua phân tích mô hình SWOT
Qua mô hình SWOT sẽ cho thấy điểm mạnh, đỉểm yếu từ môi trường bên trong và những cơ hội, thách thức từ môi trường bên ngoài. Sau đây là bảng tổng kết đánh giá :
Điểm mạnh
-Nhận được nhiều chính sách quan tâm hỗ trợ từ phía Chính phủ và các tổ chức hỗ trợ
-Số lượng các doanh nghiệp phụ trợ nội địa ngày một tăng lên
Điểm yếu
-Thiếu các cơ sở sản xuất nguyên vật liệu hỗ trợ
-Thông tin hai chiều từ nhu cầu sản phẩm và khả năng cung cấp chưa hoạt động
-Năng lực toàn ngành công nghiệp còn yếu
Cơ hội
-Cầu về các sản phẩm phụ trợ điện tử ngày một gia tăng
-Cơ hội thu hút vốn và nhận chuyển giao công nghệ từ những nước có nền công nghiệp phụ trợ phát triển sang Việt Nam đang tăng lên
Thách thức
-Chiu sự khống chế của các công ty đa quốc gia
-Cạnh tranh gay gắt từ Trung Quốc và các nước ASEAN có nền công nghiệp phụ trợ phát triển hơn
Bảng 2.2 :Phân tích SWOT cho công nghiệp phụ trợ thuộc ngành công nghiệp điện tử của Việt Nam
CHƯƠNG 3: MỘT SỐ ĐỀ XUẤT NHẰM PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP PHỤ TRỢ THUỘC NGÀNH CÔNG NGHIỆP ĐIỆN TỬ VN
******************
3.1. Dự báo nhu cầu về ngành công nghiệp phụ trợ thuộc công nghiệp điện tử Việt Nam
3.1.1. Nhu cầu về máy nguyên chiếc
Hiện nay máy vi tính là một công cụ không thể thiếu trong công việc của mỗi người, số lượng tiêu thụ máy vi tính tại thị trường nội địa ngày một gia tăng. Gần đây, nhu cầu về máy vi tính xách tay tại thị trường Việt Nam bùng nổ với sự tham gia của hầu hết các nhãn hiệu lớn trên thế giới như HP, Apple, IBM, Sony, Acer, Toshiba, Ben Q, Dell... Các hãng này đã dưa vào Việt Nam một dải rộng các sản phẩm máy tính xách tay, tù các loại cấp thấp, trung bình đến các loại tiên tiến nhất như Centrino, Sonoma, Core 2 Duo... với mức giá sản phẩm từ 700USD đến vài nghìn USD. Do đó mà khách hàng có nhiều điều kiện để lựa chọn theo nhu cầu và khả năng của mình.
Các mặt hàng như ti vi, đầu đọc đĩa... do liên doanh được với những hãng điện tử nổi tiếng trên thế giới như Sony, Toshiba, Samsung, JVC...nên đã sản xuất được dư thừa so với nhu cầu của thị trường. Sự ra đời của công nghệ tivi LCD và Plasma đang dần thay thế công nghệ CRT cung làm cho cầu về sản phẩm ti vi giảm.
Sản phẩm điện tử sẽ mở rộng cả về số lượng và chất lượng với sản lượng ti vi sản xuất, lắp ráp khoảng 3 triệu chiếc năm 2010, trong đó nhu cầu nội địa là 1,5 triệu. Nhu cầu máy tính khoảng 2000 triệu chiếc trong đó lắp ráp trong nước chiếm khoảng 50% - 60%. Trong vài năm tới nhu cầu về máy tính xách tay cũng sẽ tăng mạnh hơn nữa...
3.1.2. Nhu cầu về linh kiện
Nền tảng của công nghiệp điện tử là các linh kiện bán dẫn, chúng có tỷ trọng ngày tăng trong tổng giá trị thiết bị điện tử , chiếm khoảng 50% giá trị linh kiện nói chung. Nhật Bản và Mỹ là những nước đứng đầu thế giới về lĩnh vực cung cấp các sản phẩm bán dẫn.
Việt Nam hiện chủ yếu nhập khẩu linh kiện rồi tổ chức lắp ráp và gia công thành phẩm hoặc bán thành phẩm. Một phần cung cấp cho các nhà sản xuất trong nước và một phần để xuất khẩu. Những linh kiện điện tử được xuất khẩu tới các cơ sở lắp ráp trong khu vực cho các doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm điện tử hoàn chỉnh.
Mục tiêu đến năm 2010 tốc độ tăng trưởng bình quân vào khoảng 20%/năm, dưới đây là nhưng con số dự báo:
Đơn vị tính: triệu USD
Kim ngạch
2000
2001
2002
2005
2010
Nhập khẩu
859,4
664,2
644,7
664,2
644,7
Xuất khẩu
556
1400
>3000
Bảng 3.1: Dự báo nhu cầu về linh kiện
(nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp)
3.1.3. Nhu cầu về phụ kiện nhựa
Ngành nhựa của Việt Nam hiện nay có thể đáp ứng được nhu cầu sản xuất các linh kiện, phụ kiện bằng nhựa phục vụ cho sản xuất các sản phẩm điện tử, tuy nhiên chi phí để làm khuôn mẫu lại khá lớn, thường tốn gấp 2 đến 3 lần so với chi phí làm ở nước ngoài. Dự báo về nhu cầu phụ kiện nhựa như sau:
Loại
2005 (tấn/năm)
2010 (tấn/năm)
2020 (tấn/năm)
-Điện tử gia dụng: vỏ ti vi, điều hòa, máy giặt, nồi cơm điện...
2100 - 2500
2500 - 3000
4000 - 4200
-Điện tử tin học: vỏ máy tính, vỏ bàn phím, chuột máy tính, máy điện thoại, máy in...
300 - 400
1000 - 1200
2000 – 2500
-Linh kiện, phụ kiện bằng nhựa khác.
100
200
400
Bảng 3.2 : Dự báo nhu cầu về phụ kiện nhựa
(nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp)
3.1.4. Nhu cầu về khuôn mẫu và các chi tiết sắt thép, cơ khí
Khuôn mẫu được sử dụng để sản xuất ra các sản phẩm bằng nhựa cho các nhà lắp ráp, nhu cầu đối với khuôn mẫu cho việc tạo hình các sản phẩm điện tử là khá lớn và được dự báo đến năm 2020 như sau:
Loại
2005
2010
2020
Khuôn sử dụng cho đúc các linh kiện nhựa
30
45-50
70-80
Vỏ, khung sắt (tấn/năm)
1600
2000
2500
Bảng 3.3 : Dự báo nhu cầu về khuôn mẫu
(nguồn: Viện nghiên cứu chiến lược chính sách công nghiệp)
3.1.5. Nhu cầu phát triển công nghiệp phụ trợ trong thời gian tới
Với tốc độ phát triển nhanh của ngành công nghiệp điện tử thì khó có thể dự báo được chính xác về chủng loại nguyên liệu, linh kiện hỗ trợ cần thiết, do vậy chỉ có thể dự báo được thông qua nhu cầu thực tế của các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các doanh nghiệp sản xuất lắp ráp sản phẩm điện tử trong nước. Các công ty này đều muốn mua nguyên liệu và phụ tùng trên thị trường nội địa với giá cả tương xứng với giá trị thực của chúng, mặt khác, các phụ tùng đặc biệt hoặc thường xuyên phải cải tiến đương nhiên phải được mua trên thị trường nội địa thay vì phải nhập khẩu. Cụ thể những linh kiện, phụ kiện cần sớm được sản xuất trong nước bao gồm: phụ tùng chi tiết nhựa và kim loại, công cụ đúc, nén, xử lý nhiệt... các loại nguyên liệu bao gói.
3.2. Đề xuất các giải pháp phát triển công nghiệp phụ trợ cho ngành công nghiệp điện tử
3.2.1. Xây dựng cơ sở dữ liệu(CSDL) công nghiệp phụ trợ
Một trong những nguyên nhân làm cho công nghiệp phụ trợ của Việt Nam không phát triển được đó là do khoảng cách về thông tin, bởi vậy thiết lập một cơ sở dữ liệu về công nghiệp phụ trợ là một giải pháp quan trọng giúp giải quyết vấn đề trên, giúp cho giao dịch giữa các nhà lắp ráp FDI và các nhà cung cấp được mở rộng, đồng thời khi có một cơ sở dữ liệu tốt sẽ giúp cho cả hai đối tác tiết kiệm được thời gian và chi phí giao dịch. Sơ đồ 3.1 sau sẽ chỉ rõ sự tiết kiệm về mặt thời gian khi có một cơ sở dữ liệu tốt cho công nghiệp phụ trợ.
2 đến 3 năm
Không có CSDL CNPT
Tìm kiếm ban đầu
Kiểm tra cơ sở sx
Đánh giá mẫu
Đặt hàng lần đầu
Đặt hàng hàng loạt
Có CSDL CNPT
Tìm kiếm ban đầu
Kiểm tra cơ sở sx
Đánh giá mẫu
Đặt hàng lần đầu
Sơ đồ 3.1 : CSDL CNPT giúp giảm thời gian dao dịch tiếp xúc
Tạo lập được một cơ sở dữ liệu hữu ích về công nghiệp phụ trợ là một giải pháp giúp đẩy nhanh quá trình phát triển công nghiệp phụ trợ ở mỗi ngành và mỗi địa phương. Khi đó ngành công nghiệp phụ trợ của công nghiệp điện tử cũng sẽ nhận được sự chia sẻ của các ngành khác như xe máy, cơ khí... Việc thiết lập cơ sở dữ liệu cần phải học tập từ các quốc gia đã có kinh nghiệm, đồng thời phải khuyến khích các công ty tích cực tham gia vào quá trình thiết kế này. Cơ sở dữ liệu không đơn giản là một danh bạ các công ty trong lĩnh vực phụ trợ mà nó phải chính xác, đầy đủ các thông tin cần thiết, phải có sự cam kết của các doanh nghiệp đăng ký. Nên thiết lập một cơ sở dữ liệu về công nghiệp phụ trợ với các tiêu chí như sơ đồ sau:
Các tiêu chí lựa chọn nhà cung cấp
Thông tin muốn có trong CSDL CNPT
Năng lực sản xuất
Phạm vi giao hàng
Chi phí
Chất lượng
Chính sách của công ty
Khách hàng hiện nay
Các chứng chỉ liên quan
Tự giới thiệu
Thiết bị sản xuất
Độ chính xác chế tạo
Danh mục máy móc, tên nhà sx
Đơn vị milimet
Kinh nghiệm
ISO 9000 ISO 14000
Các kỹ năng dặc biệt
Số lao động
Sơ đồ 3.2 : Đảm bảo đầy đủ các thông tin trong CSDL về CNPT
(nguồn: Mori 2005)
3.2.2. Thu hút vốn đầu tư
Đầu tư trực tiếp từ nước ngoài là nguồn lực quan trọng nhất hiện nay để phát triển các ngành công nghiệp phụ trợ điện tử qua đó phát triển công nghiệp điện tử của quốc gia.
Đẩy mạnh mối liên kết giữa các công ty đa quốc gia nước ngoài với các doanh nghiệp trong nước cần được ưu tiên hàng đầu. Các doanh nghiệp của Việt Nam cần phải nỗ lực hết mình trong việc cải thiện năng lực để trở thành nhà cung cấp cho các nhà sản xuất FDI hoặc cho các khách hàng nước ngoài. Chính phủ cũng cần có những chính sách để hỗ trợ cho những nỗ lực đó. Để mất niềm tin với các nhà đầu tư nước ngoài mặc dù vẫn đang có lợi thế cạnh tranh thì cũng không thể tránh được sự dịch chuyển của dòng vốn đầu tư sang các nước mới nổi lên trong khu vực. Cần phải rút kinh nghiệm từ các nước đi trước để tiết kiệm thời gian và tập trung vào cơ chế thực hiện chính sách.
Đối với một số ngành công nghiệp, nhất là các ngành đòi hỏi công nghệ và thâm dụng vốn thì việc xem xét để nhìn nhận và lựa chọn cách thức sản xuất modul hay tích hợp cho Việt Nam là rất cần thiết. Để trở thành một đối tác trong sản xuất tích hợp cần có khả năng thiết kế và vận hành nhà máy đạt hiệu quả, phải biết điều chỉnh, bảo dưỡng, sửa chữa máy móc, thiết kế linh phụ kiện, đào tạo nhân công có trình độ cao, sản xuất khuôn mẫu chính xác... Điều này sẽ giúp cho nền công nghiệp trưởng thành từ nền sản xuất lắp ráp đơn giản theo đơn đặt hàng của nước ngoài thành một đối tác khó có thể thay thế trong mạng lưới sản xuất toàn cầu. Nó cũng giải quyết được mối quan hệ phụ thuộc giữa các quốc gia kém phát triển với các quốc gia đi trước, sẽ không còn là mối quan hệ một chiều mà trở thành quan hệ song phương bình đẳng vì chính các quốc gia đó cũng sẽ phụ thuộc vào các quốc gia đang sản xuất tích hợp cho mình. Nếu Việt Nam thực hiện được điều này thì quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản sẽ được nâng lên một tầm cao hơn.
Trong số các nước ASEAN thì Thái Lan và Việt Nam được Nhật bản coi là ứng cử viên hàng đầu cho cách thức sản xuất tích hợp này. Đã đến lúc chính phủ cần đưa ra được những mục tiêu rõ ràng liên quan đến cách thức sản xuất cùng với những kế hoạch hành động thích hợp nhất là đối với một số ngành công nghiệp thâm dụng vốn và công nghệ cao mà chưa thể tự mình đứng vững. Chính phủ Nhật Bản và cộng đồng khối doanh nghiệp cũng phối hợp chủ động để hỗ trợ hợp tác kinh doanh và hỗ trợ kỹ thuật cho mục tiêu này. Với việc sản xuất tích hợp thì trong thời gian đầu các doanh nghiệp trong nước có thể bị phụ thuộc vào Nhật Bản. Ngược lại, với sự liên kết này thì Nhật bản cũng sẽ bị phụ thuộc vào Việt Nam. Khi xây dựng quan hệ đối tác chiến lưổctng ngành chế tạo , khi cần mở rộng đầu tư sang nước khác, các nhà lắp ráp Nhật Bản cũng kéo theo các nhà cung cấp Việt Nam, tương tự như một số các nhà cung cấp Thái lan đã đầu tư vào Việt Nam theo như yêu cầu của các nhà lắp ráp Nhật Bản. Trong thời gian tới đây có thể là mô hình sản xuất hiệu quả nhất để tiếp nhận vốn và chuyển giao công nghệ nhanh nhất từ các nước sang các doanh nghiệp Việt Nam.
3.2.3. Phát huy tối đa lợi thế so sánh quốc gia
Chi phí nhân công: trong ngành công nghiệp điện tử, bên cạnh những đòi hỏi mới thì lợi thế vốn có vẫn là nhân tố động lực để phát triển. Ở Việt Nam chi phí tiền lương nhân công tương đối thấp là một điều kiện tốt để hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các ngành công nghiệp nói chung và ngành công nghiệp điện tử nói riêng, đặc biệt là những ngành sản xuất các linh kiện cồng kềnh, các sản phẩm điện tử gia dụng. Giá sức lao động ở Việt Nam đang được đánh giá là chỉ bằng một nửa của Trung Quốc, tuy nhiên, trong quá trình sản xuất của công nghiệp điện tử lại đòi hỏi phải có những kỹ năng và trình độ nhất định do những tiến bộ khoa học kỹ thuật. Bởi vậy cần nhanh chóng đào tạo một đội ngũ công nhân lành nghề trong lúc mà chi phí cho việc đào tạo còn thấp để vẫn duy trì được những lợi thế về tiền lương và có thể khai thác được ngay.
Thể chế chính trị: với môi trường chính trị ổn định thì Việt Nam đang có một lợi thế cạnh tranh quan trọng cho công nghiệp điện tử so với các nước ASEAN khác vốn đang bị đe dọa bởi nhiều vấn đề bất ổn về chính trị, tôn giáo, sắc tộc. Mặt khác, Việt Nam cũng là một quốc gia có độ an toàn cao cho đầu tư kinh doanh so với các nước như Indonesia, Philippin... môi trường đầu tư cho ngành công nghiệp điện tử Việt Nam cũng có nhiều thuận lợi nhờ hàng loạt các biện pháp kích thích kinh tế và sự thay đổi cơ chế kiểm soát của chính phủ đã đưa ra trong thời gian gần đây.
Dân số đông: xu hướng tiêu dùng các sản phẩm điện tử trong các ngành công nghiệp và trong hộ gia đình ngày càng tăng là nhân tố quan trọng để mở rộng quy mô thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm điện tử Việt Nam. Với mức dân số cao thứ 13 trên thế giới cộng với nền kinh tế đang thay đổi từng giờ Việt Nam sẽ là một thị trường nội địa hấp dẫn đối với ngành điện tử gia dụng. Mặc dù thu nhập bình quân đầu người còn thấp về tuyệt đối nhưng tốc độ tăng lại tương đối cao, cơ cấu tiêu dùng thay đổi nhanh chóng... sẽ là các nhân tố có sức thu hút đầu tư FDI rất lớn.
Vị trí đị lý: Việt Nam nằm ở khu vực Đông Á – giữa ASEAN với Trung Quốc và Nhật Bản, Hàn Quốc, vị trí thuận lợi này cũng cần phải đươc khai thác triệt để trong công nghiệp điện tử. Do thuận lợi trong việc vận chuyển các linh kiện và thiết bị từ các quốc gia khác đến nên sự phân công lao động thông thường trong công nghiệp điện tử có thể thực hiện dễ dàng, Việt Nam sẽ là địa điểm thực hiện hoạt động lắp ráp các loại linh kiện từ các quốc gia trong khu vực sau đó xuất khẩu thành phẩm sang các thị trường lân cận. Mặt khác, với chi phí vận tải thấp nên các sản phẩm điện tử lắp ráp tại Việt Nam sẽ có lợi thế cạnh tranh về giá, tuy nhiên, phương thức này chỉ thích hợp với giai đoạn đầu của quá trình phát triển. Nếu không biết sử dụng lợi thế về sức cạnh tranh và sức lan tỏa trong thu hút FDI thì lợi thế về chi phí thấp sẽ có tác dụng ngược lại, giữ chân Việt Nam nằm trong mắt xích thấp nhất của chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong những năm tiếp theo, Việt Nam nên khai thác những lợi thế này theo phương thức liên kết ngược lại, cần khuyến khích và thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài để xây dựng các cơ sở công nghiệp phụ trợ ngay tại Việt Nam và cung ứng cho các cơ sở lắp ráp ở các quốc gia lân cận. Thông qua liên kết sản xuất các doanh nghiệp điện tử Việt Nam sẽ tiếp nhận được công nghệ mới và những kỹ năng cần thiết để phát triển công nghiệp điện tử quốc gia ngày một lớn mạnh.
3.2.4. Phát triển các ngành công nghiệp chế tạo cơ bản
Các chuyên gia của Nhật Bàn đã nhận xét: vì muốn đi tắt đón đầu nên các nước đang phát triển thường có xu hướng bỏ qua ngành công nghiệp chế tạo cơ bản, cho đến khi đứng trước nguy cơ bị mất đi những nhà đầu tư lớn của nước ngoài thì họ mới nhận thức được tầm quan trọng của ngành này. Công nghiệp của Trung Quốc hay Việt Nam hiện tại có thể thực hiện được những chi tiết đơn giản trong công nghiệp khuôn mẫu nhưng những chi tiết đòi hỏi có độ chính xác cao chỉ có thể thực hiện được ở Nhật Bản và một số ít ở Thái Lan. Ngay cả những nước có trình độ phát triển cao như Hàn Quốc cũng gặp phải khó khăn trong ngành này. Inđônexia và Thái Lan đã thức tỉnh được điều này và nhận biết đó chính là ngành công nghiệp có vai trò then chốt nên đã có nhiều chính sách hợp lý và kịp thời. Thái Lan đã xây dựng được một khu công nghiệp cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Nhật thuê để sản xuất khuôn mẫu và Indonexia cũng đang cố gắng mời các doanh nghiệp Nhật Bản trong các lĩnh vực này vào đầu tư.
Theo điều tra của ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản – JBIC năm 2006 cho thấy: có khoảng 32% số công ty Nhật Bản coi Việt Nam là nước có tiềm năng để phát triển sản xuất và đã tỏ rõ sự quan tâm tới Việt Nam. Ngành công nghiệp chế tạo của Nhật Bản xác định Việt Nam được đặt ở vị trí thứ 4 trong số các nước có tiềm năng phát triển sản xuất (sau Trung Quốc, Thái Lan và Mỹ). Nếu Việt Nam chiếm lĩnh được ưu thế ở các ngành chế tạo thì trong mọi hoàn cảnh các công ty đa quốc gia sẽ khó có thể rời khỏi Việt Nam.
3.2.5. Đảm bảo nguồn nhân lực
Do có dân số đông nên lực lượng lao động rất lớnnhưng đa số người lao động của Việt Nam chưa được đào tạo về tác phong, kỹ năng và kỉ luật lao động công nghiệp. Đối với ngành công nghiệp điện tử luôn đòi hỏi lao động được đào tạo ở trình độ cao bởi vậy cần sớm hình thành các giải pháp đào tạo nguồn nhân lực cho ngành này như:
+ Nhanh chóng hình thành quỹ hỗ trợ đào tạo nhân lực cho ngành công nghiệp điện tử, quỹ sẽ được tài trợ bởi ngân sách đầu tư phát triển của ngành và từ sự đóng góp của các doanh nghiệp điện tử Việt Nam.
+ Xúc tiến các chương trình hợp tác đào tạo và các chương trình nghiên cứu phát triển. Các trường đại học ở Việt Nam, các cơ quan nghiên cứu có tiềm năng khá lớn về công nghiệp điện tử mặt khác chi phí đào tạo và nghiên cứu ở Việt Nam cong ở mức độ thấp nên cần có sự phối hợp giữa các cơ quan này với các doanh nghiệp trong việc đào tạo và nghiên cứu, có như vậy mới phát huy được nội lực tạo điều kiện cho sự phát triển lâu dài và bền vững của công nghiệp điện tử Việt Nam.
+ Thực hiện chế độ đào tạo thường xuyên để người lao động được tiếp cận với các chi thức mới của ngành công nghiệp điện tử. Có thể đào tạo tại chỗ theo định kỳ hàng năm để nâng cao trình độ cho các cán bộ quản lý doang nghiệp và đội ngũ lao động kỹ thuật, đây cũng là bài học kinh nghiệm quý báu từ các doanh nghiệp điện tử hàng đầu Nhật Bản ở ASEAN nhằm nâng cao trình độ của nguồn nhân lực nội địa.
+ Khuyến khích các đối tác nước ngoài thực hiện những chương trình trao đổi vè kỹ thuật, trao đổi về nghiên cứu phát triển công nghiệp điện tử với các doanh nghiệp và các viện nghiên cứu của Việt Nam nhằm nâng cao trình độ công nghệ và quản lý để phát triển ổn định.
+ Chú ý đến khả năng ngoại ngữ của nguồn nhân lực bởi nó có ảnh hưởng rất lớn đến thu hút đầu tư FDI. Chính phủ cần cân nhắc để cải tiến hệ thống giáo dục gắn chặt với phát triển ngoại ngữ theo như kinh nghiệm của Phillippin, Singapore và Malaixia, đã đến lúc cần nhìn nhận và đánh gía chính sách này như một trong các công cụ quan trọng của quốc gia trong chiến lược đi tắt đón đầu để đạt được các thành tựu công nghiệp như mong đợi.
3.2.6. Phát triển ngành công nghiệp điện tử
Bên cạnh các giải pháp cần tập trung thực hiện thì cần có thêm một số các giải pháp bổ trợ để thúc đầy nhanh nền công nghiệp điện tử phát triển.
Lựa chọn mô hình và bước đi thích hợp cho ngành công nghiệp điện tử cũng là vấn đề đang có nhiều ý kiến khác nhau. Việt Nam bắt đầu lắp ráp công nghiệp điện tử từ những năm 1990 đến nay, là quốc gia đi sau nhưng giai đoạn 1 đã tiêu phí gần 20 năm trong khi cần bắt đầu giai đoạn 2 sớm hơn. Đã đến lúc công nghiệp điện tử Việt Nam phải chuyển sang giai đoạn sau, và trong thời điểm hiện nay cần tập trung vào giai đoạn đầu tư sản xuất các linh kiện, thiết bị và những sản phẩm đòi hỏi công nghệ cao, lao động có kỹ năng và hàm lượng nghiên cứu phát triển. Các ngành công nghiệp chế tạo là một ngành như vậy.
Với những kinh nghiệm ban đầu, công nghiệp điện tử Việt Nam đã có thị trường tiêu thụ được chuyển giao và được tiếp nhận những công nghệ tương đối cao, tuy chưa có nhiều đội ngũ cán bộ lao động có kỹ năng nhưng có thể đào tạo nhanh dựa trên năng lực vốn có. Mặt khác, chỉ khi đi thẳng vào khâu sản xuất các linh kiện và sản phẩm có chất lượng cao thì mới phát huy được lợi thế của Việt Nam để cạnh tranh các sản phẩm điện tử với các nước trong khu vực. Học tập kinh nghiệm của Trung Quốc, Việt Nam cũng nên xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm chất lượng quốc tế có nhãn hiệu Việt, từng bước hình thành hệ thống phân phối loại sản phẩm điện tử Việt Nam này trên thị trường trong nước.
Phát triển công nghiệp điện tử Việt Nam là vấn đề có ý nghĩa kinh tế - xã hội, được đặt trong chiến lược phát triển các ngành công nghiệp để công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế. Hơn nữa, trong tương lai không xa công nghiệp điện tử sẽ trở thành một ngành công nghiệp mũi nhọn không chỉ thỏa mãn nhu cầu của thị trường nội địa mà còn vươn ra xuất khẩu tới các thị trường khác trên thế giới. Việc học tập kinh nghiệm của những quốc gia đi trước như Nhật Bản, tập trung các nguồn lực để thực hiện các giải pháp là đòi hỏi khách quan. Đồng thời vấn đề này cũng liên quan trực tiếp và cấp thiết với các doanh nghiệp của ngành công nghiệp điện tử Việt Nam đang hoạt động và những doanh nghiệp sẽ hình thành trong tương lai, tạo nên những mối quan hệ kinh tế mới giữa Việt Nam và nền kinh tế thế giới.
KẾT LUẬN
Chiến lược phát triển Công nghiệp Việt Nam đến năm 2010, tầm nhìn đến 2020 : đã chỉ rõ tầm nhìn phát triển của công nghiệp quốc gia là Việt nam sẽ trở thành một mắt xích của công nghiệp khu vực và thế giới. Điều này được hiểu là phát triển công nghiệp Việt Nam phải đặt trong phân công khu vực, hợp tác và sản xuất toàn cầu. Như vậy, công nghiệp phụ trợ cần được xác định rõ như là một công cụ quan trọng để công nghiệp Việt Nam có thể kết nối với khu vực.
Thủ tướng Chính phủ vừa phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp phụ trợ giai đoạn đến năm 2010, định hướng tới năm 2020. Đối với ngành điện tử - tin học, từ nay đến năm 2010 tập trung đầu tư sản xuất linh kiện điện tử, vi mạch điện tử, vật liệu linh kiện từ, linh kiện thạch anh, linh kiện máy vi tính… để phát triển các thiết bị ngoại vi và máy tính cá nhân, đồ điện tử gia dụng, thiết bị nghe nhìn, các thiết bị lắp ráp đơn giản. Sau năm 2010 sẽ phát triển sản xuất linh kiện lắp ráp đồng bộ, sản xuất thiết bị điện tử y tế, kỹ thuật cao, thiết bị điện tử dùng cho cảnh báo.Về biện pháp, quy hoạch cũng đề ra nhiều giải pháp cụ thể để nhằm đạt được mục tiêu của quy hoạch.
Đề tài này xin được đóng góp một phần vào cách nhìn nhận về công nghiệp phụ trợ như là một chiến lược giúp đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa của Việt Nam
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
GS.Trần Văn Thọ - Biến động kinh tế đông Á và con đường công nghiệp hóa VN – Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
Dương Hoàng Linh – Công nghiệp phụ trợ VN, cơ hội và tiềm năng.
Kenichi Ohno - Hoạch định chính sách công nghiệp ở Thái Lan, Malaysia và Nhật Bản - Nhà xuất bản Lao động xã hội.
Kyoshiro Ichikawa – Báo cáo điều tra: Xây dựng và tăng cường ngành công nghiệp phụ trợ tại VN.
Tạp chí công nghiệp kỳ I tháng 9/2007.
Tạp chí công nghiệp kỳ I tháng 4/2007.
Tài liệu môn học quản lý và phát triển kinh tế địa phương.
Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020.
Trường đại học KTQD, Khoa khoa học quản lý - Giáo trình quản trị học – NXB Giao thông vận tải.
Trang Web của tổng cục thống kê
Trang Web của viện chiến lược chính sách công nghiệp: www.ips.gov.vn
Chính sách công nghiệp và thương mại của VN trong bối cảnh hội nhập.NXB thống kê: www.gso.gov.vn
Tài liệu của “Hội thảo quốc tế Trung Quốc 5 năm sau gia nhập WTO:Chia sẻ kinh nghiệm với VN”.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 10536.doc