Đề tài Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính công ty mỹ thuật và vật phẩm văn hoá Hà Nội

Năm 2000, Công ty vẫn duy trì cố gắng trong việc giảm dự trữ 44.91% để tạo ra nguồn vốn của Công ty. Nhưng năm này, các khoản phải thu của Công ty đã tăng lên đáng kể (48.46% so với năm 1999) chiếm tới gần 1/3 sử dụng vốn. Cũng như năm ngoái, tiền, dự trữ, TSLĐ khác, khấu hao TSCĐ và nguồn vốn CSH được dùng để trang trải nợ nần và đầu tư cho các khoản phải thu của Công ty. Quản lý các khoản phải thu là một trong những nhiệm vụ quan trọng của quản lý tài sản lưu động. Khi Công ty sử dụng phương thức bán chịu tức cấp tín dụng thương mại cho người mua thì Công ty có điều kiện tăng khả năng mở rộng các quan hệ hợp tác kinh doanh một cách lâu bền. Mặt khác nó còn tạo cho Công ty có thể tăng doanh thu, tăng lượng hàng hoá bán ra thậm chí tăng được được giá bán từ đó tăng lợi nhuận. Tuy nhiên, khi các khoản phải thu tăng quá giới hạn an toàn thì sẽ có rủi ro như khách hàng không trả tiền. Do vậy, khi Công ty cấp tín dụng thương mại cho người mua thì Công ty cần phải sắp xếp những hoạt động tài chính có liên quan đến các khoản phải thu. Chi phí vay mượn ngắn hạn sẽ là một trong những yếu tố quyết định xem Công ty có nên cấp tín dụng thương mại cho người mua hay không.

doc95 trang | Chia sẻ: haianh_nguyen | Lượt xem: 1235 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính công ty mỹ thuật và vật phẩm văn hoá Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
) 2.93 2.98 2.81 3.17 3.14 Vòng quay khoản phải thu (1)/ (4) 48.51 39.83 23.02 18.7 24.43 2.3.2. Vòng quay dự trữ: Chỉ tiêu này là cơ sở đánh giá tình hình tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp. Nó cho biết số lần dự trữ bình quân được bán ra trong kỳ. Số vòng quay dự trữ càng lớn thì thời gian hàng tồn trong kho càng ngắn, vốn của doanh nghiệp luân chuyển càng nhanh. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng đối với kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bảng cho thấy vòng quay dự trữ của Công ty tăng dần qua các năm. Nguyên nhân là do dự trữ của Công ty có xu hướng giảm dần, còn doanh thu tương đối ổn định, tăng giảm không đáng kể. Đây là điều tốt cho Công ty bởi lẽ Công ty chỉ cần đầu tư hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao. Ngoài ra, nó còn chứng tỏ tốc độ luân chuyển vốn nhanh và Công ty sẽ có vốn để đầu tư vào việc khác. Mặc dù vậy, trong thời gian tới Công ty vẫn cần phải đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hơn nữa để đạt doanh thu cao hơn. Bởi vì khi vòng quay dự trữ cao cũng có nghĩa là doanh nghiệp đang gặp khó khăn, dự trữ và doanh thu đều thấp (ví dụ như năm 2001, cả dự trữ và doanh thu đều thấp nhất trong khi vòng quay tồn kho lại cao nhất so với các năm khác. 2.3.3. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi vốn trong thanh toán trên cơ sở các khoản phải thu và doanh thu tiêu thụ bình quân một ngày. Các con số về kỳ thu tiền bình quân cho thấy thời gian để thu hồi các khoản phải thu tăng dần lên, và cao nhất là năm 2000 (19.25 ngày), tuy vậy con số này đã giảm đi còn 14.74 ngày năm 2001. Điều này được lý giải bởi các khoản phải thu qua các năm đều tăng trong khi đó doanh thu lại có xu hướng giảm. Thoạt nhìn thì tình hình trên là khá lo ngại khiến người ta đặt câu hỏi tại sao các khoản phải thu tăng lên mà doanh thu không những không tăng mà còn giảm. Hơn nữa tỷ lệ các khoản phải thu so với TSLĐ cũng tăng và đạt cao nhất là 30.05% tổng TSLĐ vào năm 2000. Sở dĩ có hiện tượng đó là vì nền kinh tế trong nước, đặc biệt là thị trường băng đĩa nhạc ngày càng gặp khó khăn. Trong điều kiện như vậy Công ty có chính sách mở rộng tín dụng cho khách hàng là điều hợp lý. Tuy nhiên chưa có năm nào các khoản phải thu của Công ty trở thành khoản phải thu khó đòi. Điều này chứng tỏ khâu thu hồi nợ của Công ty khá tốt. 2.3.4. Hiệu suất sử dụng tài sản cố định: Hiệu suất sử dụng TSCĐ phản ánh hiệu quả sử dụng máy móc, thiết bị nhà xưởng phục vị cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết 1đ TSCĐ hao phí tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Bảng số liệu cho thấy hiệu suất sử dụng TSCĐ của Công ty tăng giảm thất thường qua các năm. Tỷ lệ này cao nhất vào năm 1997, cứ 1đ TSCĐ hao phí tạo ra 9.76đ doanh thu, còn năm 1999 tỷ lệ này chỉ đạt 6.5. Năm 1998, hiệu suất sử dụng TSCĐ giảm so với năm 1997 nhưng cả doanh thu tiêu thụ lẫn TSCĐ đều tăng. Điều này chứng tỏ tốc độ tăng của doanh thu thấp hơn tốc độ tăng của TSCĐ. Năm 1999 là năm mà Công ty gặp khó khăn nhất, hiệu suất sử dụng TSCĐ chỉ đạt 6.5 do cả doanh thu và TSCĐ đều giảm. Để có thể đánh giá chính xác hơn về hiện trạng TSCĐ của Công ty chúng ta hãy xem xét bảng sau: Hệ số hao mòn TSCĐ của Công ty tăng dần cho thấy việc đầu tư cho TSCĐ chưa theo kịp tốc độ hao mòn TSCĐ. Càng về sau hệ số hao mòn càng lớn, ở mức trên 50%. Hệ số hao mòn nhanh như vậy là do Công ty đã đầu tư máy móc thiết bị đã được sản xuất cách đây rất lâu mà thế giới đã loại bỏ. Trong điều kiện khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển như hiện nay thì những máy này đã trở nên quá lạc hậu. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty cần cân nhắc kỹ khi đầu tư cho TSCĐ sao cho vừa tận dụng được những tiến bộ khoa học công nghệ vừa phải nâng cao hiệu suất sử dụng máy móc để tăng hiệu quả kinh tế, đồng thời có biện pháp thúc đẩy tiêu thụ sản phẩm để tận dụng công suất của máy. Bảng II.2.3.4 – Hệ số hao mòn TSCĐ Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Nguyên giá TSCĐ 3,510.57 5,511.33 5,520.48 5,812.53 5,802 Giá trị hao mòn 1,340.31 2,034.65 2,518.03 2,975.25 3,376.97 Hệ số hao mòn TSCĐ (2)/ (1) 0.38 0.37 0.46 0.51 0.58 Nguồn: Thuyết minh báo cáo tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. 2.3.5. Hiệu suất sử dụng tài sản lưu động: Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ quay vòng của TSLĐ nhanh hay chậm. Qua bảng ta thấy được hiệu suất sử dụng TSLĐ của Công ty tăng dần qua các năm, chứng tỏ Công ty đã sử dụng TSLĐ có hiệu quả. Mặc dù vậy,TSLĐ của Công ty đã giảm qua các năm và doanh thu cũng có chiều hướng như vậy. Nhìn tổng quát thì tốc độ quay vòng của TSLĐ là nhanh dần lên nhưng nói chung tồn kho và các khoản phải thu chiếm một tỷ trọng khá cao trong tổng TSLĐ, mà đây lại là những khoản kém sinh lợi cho Công ty. Do đó mà các năm tới Công ty vẫn cần đẩy mạnh khâu thu hồi nợ và xác định cơ cấu dự trữ cho hợp lý vừa đảm bảo cho sản xuất được tiến hành liên tục và đáp ứng nhu cầu thị trường, vừa phải tăng nhanh hơn nữa tốc độ quay vòng của TSLĐ. 2.3.6. Hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Cũng như hiệu suất sử dụng TSCĐ, hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng giảm thất thường. Có hai năm 1998 và 2000 là doanh thu tăng so với năm trước đó, còn tổng tài sản năm 1998 tăng với tốc độ chậm hơn so với tốc độ tăng của doanh thu do đó hiệu suất sử dụng tổng tài sản tăng so với năm 1997, tổng tài sản năm 2000 giảm dẫn đến hiệu suất sử dụng tài sản tăng lên cao hơn nhiều so với các năm trước. Hiệu suất sử dụng tài sản chịu ảnh hưởng của cả hiệu suất sử dụng TSCĐ và TSLĐ. Cả hai hiệu suất này đều giảm do đó kết quả tất yếu là hiệu suất sử dụng tài sản của Công ty đạt được giảm dần. Nhưng nhìn chung, hiệu suất sử dụng tài sản của Công ty có chiều hướng khá lên dần. Điều đó cho thấy sự nỗ lực của Công ty trong việc khắc phục những khó khăn trở ngại khách quan cũng như tìm cách sử dụng một cách có hiệu quả những tài sản hiện có của mình để nâng cao kết quả sản xuất kinh doanh. 2.3.7. Vòng quay khoản phải thu: Cũng như phân tích các tỷ lệ trên, các khoản phải thu của Công ty ngày càng tăng do Công ty có chính sách tín dụng mở rộng làm cho vòng quay khoản phải thu ngày càng giảm. Điều này có nghĩa là tốc độ thu hồi các khoản phải thu là rất thấp và Công ty bị đọng một lượng vốn khá lớn nằm ở các khoản phải thu. Năm 2001, tình trạng này đã được cải thiện do Công ty cố gắng đẩy nhanh tốc độ thu hồi nợ nhưng tỷ lệ này vẫn ở mức thấp. Nhận xét chung: Có thể thấy rằng các chỉ tiêu về khả năng hoạt động của Công ty qua các năm gần đây giảm sút nhiều do những tác động từ nhiều phía, sự cạnh tranh không lành mạnh, các chính sách thay đổi và chủ yếu là do bước đầu áp dụng thuế giá trị gia tăng với mức thuế suất chưa hợp lý. Tuy nhiên, Công ty đã có rất nhiều cố gắng trong việc khắc phục những khó khăn về mặt khách quan cũng như nội tại để nâng cao hiệu quả hoạt động của mình, thể hiện ở các chỉ tiêu của năm 2001 đều tăng hơn so với năm 1999, 2000. Công ty cần phát huy tính tích cực này trong thời gian tới. 2.4. Các tỷ lệ về khả năng sinh lời: Nếu như các nhóm tỷ lệ trên phản ánh hiệu quả từng loại hoạt động riêng biệt của Công ty thì tỷ lệ về khả năng sinh lời phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả kinh doanh của Công ty. Bảng II.2.4 – Các tỷ lệ về khả năng sinh lời Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 LN trước thuế 506.9 218.13 78.29 102.79 120.78 LN sau thuế 278.79 119.97 53.24 69.90 82.13 Doanh thu thuần 21,814.35 28,099.91 19,941.31 20,671.05 16,802.47 Vốn CSH 2,224.12 2,330.26 2,370.59 2,405.99 2,419.42 Tổng tài sản 7,455.65 9,424.62 7,106.78 6,519.84 5,347.37 Lãi tiền vay 407.97 453.2 423.73 292.06 240.99 Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm (2)/ (3) 1.28% 0.43% 0.27% 0.34% 0.49% Doanh lợi vốn chủ sở hữu (2)/ (4) 12.53% 5.15% 2.25% 2.91% 3.44% Doanh lợi vốn ((1) + (6))/ (5) 12.27% 7.12% 7.06% 6.06% 6.77% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty 2.4.1. Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm của Công ty có xu hướng giảm trong hai năm 1998 và 1999, sau đó có nhích dần lên trong hai năm 2000 và 2001. Năm 1998, doanh thu thuần của Công ty rất cao tăng 28.8% so với năm 1997 nhưng lợi nhuận năm này lại giảm tới 56.96% tức lợi nhuận giảm bằng hai lần mức tăng doanh thu, dẫn đến doanh lợi tiêu thụ sản phẩm giảm rất mạnh (giảm 66.41% so với năm 1997). Nguyên nhân của hiện tượng trên là do năm 1998 cả hai loại chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp đều tăng rất mạnh, trong đó chi phí quản lý doanh nghiệp tăng tới 111.92% năm 1997 còn chi phí bán hàng tăng 44.94%. Có thể lý giải hiện tượng này là do năm 1998, Công ty phải gánh một khoản chi phí khá lớn do Công ty Mỹ thuật cũ chuyển sang sau khi sáp nhập. Mặt khác năm này xuất hiện một khoản mục chi phí bất thường đó là khoản lỗ mà Công ty Mỹ thuật cũ chuyển sang, làm cho lợi nhuận của cả Công ty giảm xuống. Năm 1999, tình trạng này còn tồi tệ hơn. Doanh thu thuần giảm 29%, giá vốn hàng bán giảm 28.5%, chi phí quản lý doanh nghiệp giảm 72.66%, nhưng chi phí bán hàng tăng 1.59%, lợi nhuận sau thuế giảm 55.62%…Nguyên nhân chủ yếu do đây là năm đầu tiên thực hiện thuế giá trị gia tăng, hàng hoá, nguyên vật liệu dự trữ cuối năm 1998 không được khấu trừ đầu vào. Mặt khác, nguyên vật liệu của Công ty phải nhập ngoại mà giá cả của nước ngoài thì không hạ do yếu tố thuế nên Công ty rất khó khăn trong sản xuất kinh doanh. Từ năm 2000 trở đi, Công ty đã có rất nhiều cố gắng để tăng doanh lợi tiêu thụ sản phẩm. Trong hai năm này doanh thu có giá trị thấp hơn nhưng lợi nhuận đạt được lại cao hơn. Có được kết quả trên là do Công ty đã cố gắng giảm đáng kể giá vốn hàng bán ( năm 2000 giá vốn hàng bán giảm 0.82% so với năm 1999, năm 2001 giảm 23.38% năm 2000), mặt khác chi phí nguyên vật liệu giảm (năm 1999 là 6,250.58 triệu đồng, năm 2000 là 4,735.39 triệu đồng tức giảm 80.51%). Bên cạnh đó, từ năm 1999, Công ty chỉ phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp 32% thay vì trước đây phải chịu thuế lợi tức tới 45%. Đó là những yếu tố khiến lợi nhuận sau thuế hai năm này đều cao hơn các năm trước đó. 2.4.2. Doanh lợi vốn chủ sở hữu: Doanh lợi vốn chủ sở hữu phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu và được các nhà đầu tư đặc biệt quan tâm khi họ quyết định bỏ vốn đầu tư vào Công ty. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng thuộc một trong số các mục tiêu quan trọng của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Có thể thấy rằng cũng như doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, doanh lợi vốn chủ sở hữu giảm tương đối lớn qua các năm. Nguyên nhân chủ yếu là do doanh thu thuần thấp, còn vốn chủ sở hữu lại tăng không đáng kể. Đặc biệt năm 1999 là năm khó khăn nhất cho Công ty: 100 đồng vốn bỏ ra chỉ tạo được 2.25 đồng lợi nhuận. Điều này không làm thoả mãn chủ sở hữu vì so với người cho vay thì việc bỏ vốn đầu tư vào hoạt động kinh doanh của chủ sở hữu mang tính mạo hiểm hơn, đáng lẽ ra phải có nhiều cơ hội mang lại lợi nhuận cao hơn. Nhưng thực tế doanh lợi trên mức đầu tư của chủ sở hữu lại thấp hơn nhiều so với tỷ lệ lãi vay ngân hàng. Tuy nhiên đến năm 2001, tình hình Công ty có vẻ khả quan hơn, doanh lợi vốn chủ sở hữu tăng lên 3.44% nhưng vẫn còn ở mức thấp. Công ty vẫn cần phát huy nỗ lực cố gắng để tăng doanh thu nhiều hơn nữa từ đó tăng lợi nhuận và tạo nên mức lợi nhuận để lại cao hơn để mở rộng sản xuất kinh doanh và tăng vốn chủ sở hữu. 2.4.3. Doanh lợi vốn: Doanh lợi vốn phản ánh khả năng sinh lợi của vốn đầu tư vào doanh nghiệp. Nó cho biết 1đ tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trước thuế và lãi. Cũng như các chỉ tiêu khác về khả năng sinh lợi, doanh lợi vốn của Công ty trong 5 năm cũng biến đổi theo chiều hướng giảm một cách đột biến vào năm 1998 và các năm sau đó có giảm nhưng với tốc độ chậm hơn. Sở dĩ năm 1998, doanh lợi vốn giảm nhiều như vậy (giảm 41.97% so với năm 1997) là do trong năm 1996, Công ty có vay vốn của Đài Loan đợt 1: 1.6 tỷ đồng đầu tư máy và khuôn ép vỏ băng và vay vốn ngân hàng thời hạn hai năm, do đó Công ty phải khấu hao nhanh để trả nợ và lãi tiền vay cũng cao. Mặt khác năm 1998, giá trị tài sản của Công ty tăng mạnh (26.41%) do Công ty tiếp tục vay vốn Đài Loan đợt 2: 1.9 tỷ đồng đầu tư TSCĐ trong khi đó do chi phí lãi vay và khấu hao cao nên lợi nhuận còn lại chẳng là bao, lợi nhuận trước thuế và lãi (EBIT) giảm 26.62% dẫn đến doanh lợi vốn giảm. Các năm sau tiếp tục giảm nhưng tốc độ chậm hơn và năm 2001 doanh lợi vốn của Công ty đã tăng lên 11.72% so với năm 2000, điều này chứng tỏ hiệu quả sử dụng tài sản của Công ty đã tăng dần lên. Nhận xét chung: Có thể thấy rằng các chỉ tiêu về khả năng sinh lợi của Công ty trong 5 năm gần đây tuy có giảm sút một cách đột biến vào năm 1998, 1999 do các trở ngại khách quan và chủ quan, song đến năm 2001 đã đạt được mức tăng trưởng đáng khích lệ, nhất là trong điều kiện cạnh tranh không lành mạnh như hiện nay và thực trạng khó khăn của thị trường băng đĩa nhạc ở nước ta. Khả năng sinh lời thấp còn do yếu tố chi phí còn quá cao, đặc biệt là lãi tiền vay. Công ty cần có giải pháp giảm các loại chi phí này xuống để đạt mức doanh lợi cao hơn. 3. Phương pháp phân tích Dupont: Để thấy rõ hơn nguyên nhân của tình trạng giảm sút của doanh lợi vốn chủ sở hữu ta hãy xem xét các nhân tố ảnh hưỏng tới doanh lợi vốn chủ sở hữu. Bảng II.3 – Doanh lợi vốn chủ sở hữu Đơn vị: triệu đồng Stt Chỉ tiêu Năm 1997 Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm 1.28% 0.43% 0.27% 0.34% 0.49% Hiệu suất sử dụng tài sản 2.93 2.98 2.81 3.17 3.14 Doanh lợi vốn chủ sở hữu 12.53% 5.15% 2.25% 2.91% 3.44% Hệ số nợ 0.73 0.75 0.67 0.63 0.55 Nguồn: Bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội. Năm 1998, mặc dù hệ số nợ tăng nhưng doanh lợi vốn chủ sở hữu lại giảm rất nhiều (58.9%). Nguyên nhân chủ yếu là do doanh lợi tiêu thụ sản phẩm giảm mạnh (66.41%). Như vậy mặc dù doanh nghiệp sử dụng nợ nhiều nhưng nợ không làm khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu do doanh lợi tiêu sản phẩm quá thấp. Các năm khác cũng vậy, vì doanh lợi tiêu thụ sản phẩm và hiệu suất sử dụng tài sản của Công ty thấp cho nên dù có sử dụng nợ nhiều đến đâu thì cũng khó làm cho doanh lợi vốn chủ sở hữu tăng lên được. Có thể nói khi các yếu tố khác ổn định thì sử dụng nợ nhiều sẽ khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu làm lợi cho chủ sở hữu doanh nghiệp. Tuy nhiên tình hình sẽ trở nên rất tồi tệ nếu đồng vốn của doanh nghiệp được sử dụng không hiệu quả dẫn tới thua lỗ, khi đó một hệ số nợ cao sẽ càng làm cho doanh nghiệp gặp khó khăn hơn trong vấn đề thanh toán và có thể dẫn đến tình trạng phá sản. Do đó, nhiệm vụ của nhà doanh nghiệp là phải xác định một cơ cấu vốn hợp lý và sử dụng vốn sao cho có hiệu quả. III. Đánh giá tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội: 1. Điểm mạnh: Qua những nội dung phân tích khái quát tình hình tài chính cũng như đi vào phân tích từng tỷ lệ tài chính đặc trưng của Công ty, ta có thể khái quát một số điểm mạnh hay những thành công của Công ty trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh như sau: Công ty đã có rất nhiều cố gắng và đạt được nhiều kết quả đáng kể trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Là một doanh nghiệp trong ngành văn hoá, Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội không những có thành tích tăng trưởng kinh tế mà nhiệm vụ chủ yếu là phục vụ, liên tục nhiều năm được thành phố khen ngợi. Mặc dù trong điều kiện khó khăn chung của ngành sản xuất băng đĩa nhạc như hiện nay nhưng Công ty luôn cố gắng duy trì uy tín của mình bằng việc đầu tư đổi mới máy móc, thiết bị, thay đổi mẫu mã, mặt hàng ngày càng phong phú, đa dạng. Đây là việc làm vừa đem lại doanh thu cao vừa hạn chế đẩy lùi, xoá bỏ các loại băng nhạc, băng hình nhập lậu mang nội dung phản động tràn lan trên thị trường. Nguồn vốn chủ sở hữu của Công ty năm sau đều cao hơn năm trước chứng tỏ hoạt động kinh doanh của Công ty cũng có lãi và Công ty luôn bảo toàn và phát triển được vốn cho sản xuất kinh doanh. Mặc dù tỷ lệ nợ cao, song khả năng độc lập về tài chính cao. Do đó Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội có thể đứng vững trong tình hình khó khăn hiện nay. Tuy Công ty bị chiếm dụng vốn tương đối lớn thể hiện qua tỷ trọng các khoản phải thu so với TSLĐ cao nhưng Công ty cũng có được nguồn vốn chiếm dụng khá cao (nợ ngắn hạn cao). Do đó mà vốn lưu động ròng của Công ty luôn < 0 tức khoản chiếm dụng được từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ cho khoản vốn mà Công ty bị chiếm dụng. Công ty vẫn đảm bảo được nguồn vốn cho sản xuất kinh doanh mà không cần phải dùng vốn ngắn hạn thêm nữa. Tuy những năm gần đây tình hình sản xuất kinh doanh có gặp nhiều khó khăn nhưng Công ty vẫn đảm bảo được mức lợi nhuận hợp lý, thu nhập của cán bộ công nhân viên bình thường, làm tròn nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước và đã hoàn trả hết số nợ vay của Đài Loan hai đợt để đầu tư dây chuyền sản xuất mới. Hàng hoá của Công ty nhiều năm được bình chọn là “hàng Việt Nam chất lượng cao”. Trong những năm tới Công ty tiếp tục phát huy chức năng nhiệm vụ của mình để vừa sản xuất kinh doanh vừa phục vụ nhu cầu thưởng thức âm nhạc, nghệ thuật của quần chúng, góp phần đẩy lùi những tư tưởng tinh thần không lành mạnh đang len lỏi vào đời sống chúng ta. 2. Điểm yếu: Bên cạnh những điểm mạnh trên, Công ty vẫn còn những điểm yếu cần khắc phục. Nhìn một cách tổng thể có thể thấy được tình hình tài chính cũng như hiệu quả sử dụng vốn của Công ty đang có chiều hướng giảm. Cụ thể là: Về vấn đề vốn và sử dụng vốn, Công ty đầu tư cho TSCĐ lại dùng tới 73.83% vốn ngắn hạn, điều này là không nên bởi vì không có sự tương thích về lãi suất và thời hạn. Cơ cấu TSCĐ và TSLĐ là tương đối hợp lý nhưng tỷ trọng các khoản phải thu lại chiếm tỷ trọng rất cao trong TSLĐ. Điều này cũng có thể hiểu được trong điều kiện cạnh tranh khó khăn như hiện nay nhưng sự tồn đọng vốn trong khoản này cũng làm cho Công ty gặp khó khăn về vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Khả năng thanh toán nợ của Công ty có dấu hiệu giảm sút mà nguyên nhân chủ yếu là nợ ngắn hạn quá cao, dẫn đến mất cân đối lớn giữa nợ ngắn hạn và nợ dài hạn. Ngoài ra, Công ty chưa xác định được lượng tiền dự trữ cho hợp lý ( lượng này còn quá thấp) cho nên có lúc còn bị động trong thanh toán. Khả năng cân đối vốn của Công ty chưa hợp lý, nợ ngắn hạn còn quá cao trong khi vay dài hạn lại thấp, điều này làm giảm khả năng thanh toán của Công ty xuống. Khả năng hoạt động còn thấp, các hiệu suất sử dụng tài sản chưa cao và còn có xu hướng giảm do doanh thu tiêu thụ giảm. Các yếu tố trên tất yếu dẫn đến doanh lợi vốn cũng như doanh lợi vốn chủ sở hữu giảm. Khả năng sinh lợi thấp do yếu tố chi phí còn quá cao. 3. Nguyên nhân: 3.1. Nguyên nhân chủ quan: Thị trường ngày càng cạnh tranh gay gắt trong khi các sản phẩm của Công ty còn chưa nhiều, chưa đặc sắc, thị trường chiếm lĩnh còn hạn chế đặc biệt là thị trường rộng lớn phía Nam, chưa phát huy được vai trò và chức năng của chi nhánh, tốc độ tiêu thụ hàng còn chậm. Công tác thu hồi nợ mặc dù đã có nhiều cố gắng, Công ty luôn sát sao trong việc thu hồi nợ của khách, đặc biệt là đối tượng khách hàng không thường xuyên. Tuy không khoản nợ nào khó đòi song kỳ thu tiền bình quân của Công ty là tương đối dài, ảnh hưởng đến vốn kinh doanh của Công ty. Giá thành sản phẩm của Công ty còn cao do chi phí nguyên vật liệu và chi phí nhân công còn cao do đó mặt hàng của Công ty tuy có chất lượng tốt hơn hẳn hàng Trung Quốc nhưng vẫn khó cạnh tranh về giá cả. Công tác marketing chưa được thực hiện đầy đủ mà mới chỉ dừng lại ở mức xúc tiến bán hàng thông qua khuyến mại, giảm giá. Việc phân bổ vốn của Công ty chưa hợp lý, vốn bị ứ đọng trong thanh toán nhiều làm giảm tốc độ luân chuyển vốn lưu động. Tài sản cố định chưa được đầu tư đồng bộ do thiếu vốn nên làm tiêu hao nhiều nguyên vật liệu, mà nguyên vật liệu của Công ty lại chủ yếu nhập ở nước ngoài với giá khá cao, trong khi đó giá đôla có xu hướng tăng khiến cho Công ty có muốn giảm chi phí để hạ giá thành cũng khó thực hiện. 3.2. Nguyên nhân khách quan: Tình hình thị trường băng, đĩa nhạc; băng, đĩa hình và hoạt động mỹ thuật ngày càng bất cập như tệ nạn buôn lậu băng, đĩa từ Trung Quốc chuyển về Việt Nam bằng mọi con đường, nạn in sao băng, đĩa lậu trong nước, nạn sao chép tranh của các hoạ sỹ tên tuổi trong và ngoài nước mà giới báo chí cho rằng đây là “nỗi đau rớm máu của các nhà sản xuất bởi sự thiệt hại to lớn về kinh tế, còn đối với xã hội thì bị nghèo nàn đi các sản phẩm văn hoá”. Với nhiều điểm kinh doanh, gallery mới ra đời, chủ yếu kinh doanh hàng băng đĩa lậu, băng đĩa ăn cắp bản quyền, các loại tranh sao chép nên làm giá cả thị trường không ổn định. Tất cả những điều trên đã gây nên khó khăn rất lớn cho Công ty trong việc tiêu thụ hàng hoá, làm cho khó khăn rất lớn cho Công ty trong vấn đề tiêu thụ hàng hoá, cho doanh lợi tiêu thụ sản phẩm luôn giảm, dẫn đến doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng từ đó giảm theo. Một nguyên nhân khác xuất phát từ chính khách hàng đó là họ cứ thấy rẻ là mua, không quan tâm đến bản quyền, chất lượng của sản phẩm. Đây là nguyên nhân hàng hoá nhập lậu Trung Quốc giá rẻ tràn lan, nạn ăn cắp bản quyền, tệ in sao băng không thể kiểm soát nổi. Sản phẩm của Công ty sản xuất ra phụ thuộc nhiều vào sự ổn định của tiền tệ như trong thời gian vừa qua, tỷ giá hối đoái trên thị trường biến đổi mạnh song giá bán sản phẩm của Công ty không tăng kịp mức tăng của ngoại tệ khiến cho chi phí đầu vào cao làm cho hiệu quả kinh doanh của Công ty gặp nhiều khó khăn. Từ năm 1999, chính sách thuế Giá trị gia tăng (VAT) với mức 5% đối với sản phẩm Video, 10% đối với sản phẩm Audio và các sản phẩm văn hoá khác là cao so với lãi kinh doanh ngành văn hoá, ảnh hưởng lớn đến hiệu quả kinh tế của Công ty. Thậm chí tác phẩm mỹ thuật: tranh, tượng cũng là 10%. Ví dụ tại cửa hàng 40 Hàng Bông 6 tháng đầu năm 1998 thuế doanh thu là 8.7 trđ, 6 tháng đầu năm 1999, thực hiện luật thuế Giá trị gia tăng, Công ty đã thực hiện 931 trđ bằng 132.8% kế hoạch cả năm. Do vậy, lợi nhuận sau thuế còn lại chẳng là bao, thậm chí không khéo là lỗ. Thu nhập của cán bộ công nhân viên giảm, tích luỹ tái sản xuất gặp khó khăn làm cho vốn kinh doanh không được mở rộng (đó còn chưa nói đến thuế nhập khẩu tại cảng trước khi lấy hàng). Sự kiện hợp nhất Công ty Mỹ thuật – quảng cáo Hà Nội và Công ty Vật phẩm văn hoá là chủ trương đúng đắn sáng suốt của lãnh đạo thành phố trong đó có Ban giám đốc Sở văn hoá Thông tin Hà Nội, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của doanh nghiệp, thực hiện tốt hơn nhiệm vụ chính trị của ngành. Tuy nhiên, gọi là hợp nhất nhưng thực chất là Công ty Vật phẩm văn hoá phải gánh vác vai trò cứu Công ty Mỹ thuật – Quảng cáo thoát khỏi tình trạng bê bối, bế tắc nan giải. Cùng một lúc Công ty phải giải quyết nhiều vấn đề tồn tại: công ăn việc làm cho gần 30 cán bộ công nhân viên đang chờ việc và phải rút 85 trđ từ vốn lưu động của Công ty Vật phẩm văn hoá để trả nợ bảo hiểm xã hội đảm bảo sổ hưu cho 10 người. Tỷ trọng vốn ngân sách trên tổng vốn kinh doanh ngày càng giảm, Công ty phải thuê toàn bộ nhà xưởng sản xuất, trả lãi tiền vay dẫn đến chi phí cao giá thành sản phẩm cao nên sản phẩm của Công ty khó cạnh tranh. Năm 1998, 1999 do ảnh hưởng khủng hoảng tài chính khu vực, sức mua của dân giảm, cùng với thiên tai lũ lụt làm giảm cầu dẫn đến giảm cung đặc biệt đối với sản phẩm nhạy cảm với cung cầu như mặt hàng của Công ty. Đặc biệt là sau sự kiện 11/ 9/ 2001, sức mua của toàn xã hội giảm sút, khách du lịch vào Việt Nam giảm đáng kể cũng ảnh hưởng đến hoạt động của Công ty. Những năm gần đây, Công ty trang bị thêm máy móc, thiết bị. Trừ thời gian lắp đặt chạy thử không khấu hao nên giá trị còn lại là rất lớn nhưng không được khấu trừ đầu vào so với TSCĐ mua sắm năm 1999 (mỗi năm mức khấu hao bình quân khoảng 500 triệu đồng, tính vào giá thành). Về lao động, tuy đã liên tục sắp xếp lại cho ổn định và không có lao động dôi dư song chưa thật tinh giảm vì còn vướng không nhỏ đến vấn đề nhân đạo tình cảm. Thị trường băng đĩa nhạc trong Nam rất rộng lớn. Các hãng băng nhạc trong đó liên tục hạ giá thành sản phẩm khiến cho Công ty gặp rất nhiều khó khăn do giữ nguyên giá thì không cạnh tranh được mà hạ giá thì ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh vốn đã đầy rẫy khó khăn. Các hãng tư nhân cũng hạ giá vô tội vạ trong khi Công ty chưa kịp điều chỉnh, hạ giá thành sản phẩm để đủ sức cạnh tranh với thị trường. Chương 3 Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội I. Những cơ hội và thách thức của ngành văn hoá và của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội trong tiến trình phát triển: Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội là một doanh nghiệp của ngành văn hoá Thủ đô có chức năng chính là sản xuất băng đĩa nhạc; băng đĩa hình, tổ chức triển lãm, trưng bày và bán các tác phẩm mỹ thuật của các hoạ sỹ cùng với các mặt hàng vật phẩm văn hoá khác. Đây là những mặt hàng không chỉ có tác dụng giải trí mà nó còn thể hiện tư tưởng văn hoá của Đảng và Nhà nước, truyền bá lối sống có văn hoá, phong tục tập quán tốt đẹp từ bao đời nay của nước Việt Nam. Vì vậy, Công ty rất được sự quan tâm, động viên và giúp đỡ nhiều mặt của các cấp lãnh đạo Nhà nước, đặc biệt là Sở văn hóa Thông tin Hà Nội. Những sản phẩm do Công ty sản xuất và kinh doanh vẫn là nhu cầu không thể thiếu trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Mức sống của người dân đặc biệt là nhân dân Thủ đô ngày càng cao, hoạt động của các phương tiện nghe nhìn ngày càng phổ cập và trở thành nhu cầu rất lớn trong đời sống nhân dân, nhu cầu thưởng thức âm nhạc cũng tăng theo đòi hỏi Công ty phải biên tập những chương trình với nội dung ngày càng phong phú đa dạng và có chất lượng nghệ thuật cao. Mặt khác những sản phẩm văn hoá độc hại đang thâm nhập sâu vào đời sống tinh thần của một bộ phận không nhỏ người dân đặc biệt là thanh thiếu niên. Vì vậy nhiệm vụ trước mắt của ngành văn hoá nói chung và Công ty nói riêng là “xây” để chống lại những tư tưởng văn hoá độc hại. Trên thị trường, sự phát triển phong phú về số lượng, chủng loại, nội dung các chương trình băng hình, băng nhạc vừa mang lại những thông tin thẩm mỹ mới mẻ cho quần chúng vừa gây không ít những khó khăn cho công tác quản lý Nhà nước và ảnh hưởng xấu đến tâm lý tình cảm đạo đức xã hội. Trong tình hình đó, Sở văn hoá Thông tin Hà Nội đã đề ra một số biện pháp đó là “Ngành sẽ tăng cường đầu tư chiều sâu, tạo ra nhiều sản phẩm văn hóa có giá trị lành mạnh như các loại băng nhạc, băng hình ca ngợi quê hương, tình yêu đất nước, đưa tình cảm người dân về với cội nguồn dân tộc, phù hợp tâm lý và hoàn cảnh xã hội Việt Nam, góp phần thay thế các văn hoá phẩm xấu đang lưu hành trên địa bàn thành phố”. Bên cạnh những cơ hội thuận lợi trên, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, Công ty cũng phải đối mặt với không ít khó khăn thách thức, đặc biệt là tình hình cạnh tranh trên thị trường băng đĩa nhạc. Chưa kể đến các hãng sản xuất băng đĩa nhạc; băng đĩa hình có tiếng trong Thành phố Hồ Chí Minh, chỉ riêng các tỉnh phía Bắc, đặc biệt tại Thủ đô Hà Nội đã có rất nhiều doanh nghiệp cả của nhà nước cả của tư nhân hoạt động trong lĩnh vực này như: Công ty Vật phẩm văn hoá VINEMATIM của Bộ Văn hoá Thông tin, Trung tâm Hoa Sữa, các Công ty TNHH tư nhân khác…Đó còn chưa kể đến hàng nghìn điểm in sao lậu băng đĩa nhạc, hàng hoá Trung Quốc buôn lậu tràn lan trên thị trường với giá rất rẻ gây ra sự cạnh tranh không bình đẳng. Mặt khác, nguyên vật liệu cho sản xuất băng Co, vỏ đĩa, Công ty phải nhập các linh kiện (chủ yếu là nhựa GPPS) của Hàn Quốc, Triều Tiên, Trung Quốc mà tỷ giá USD trong những năm qua cũng diễn biến thất thường, thuế nhập cũng cao…ảnh hưởng lớn đến kết quả kinh doanh của Công ty. Như vậy, chỉ với những khái quát trên thôi đã đủ cho thấy Công ty đang đứng trước những khó khăn lớn đến thế nào. Muốn tồn tại và phát triển được, Công ty không còn cách nào khác là phải tìm cho mình được chỗ đứng vững chắc trên thị trường, không ngừng nâng cao uy tín với khách hàng. Để làm được điều này, trong thời gian tới Công ty cần có những giải pháp phù hợp nhằm phát huy những điểm mạnh và khắc phục những điểm yếu về tài chính. II. Một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội: 1. Giữ vững thị trường hiện tại, tìm kiếm thị trường tiềm năng và đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm: Quá trình tiêu thụ sản phẩm là yếu tố cuối cùng có tính chất quyết định đến doanh thu tiêu thụ và lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì vậy, việc củng cố và giữ uy tín đối với thị trường hiện tại và mở rộng khai thác thị trường tiềm năng là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nói chung và của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội nói riêng. Qua việc phân tích tình hình tài chính của Công ty ở trên ta thấy tình hình tiêu thụ của Công ty là tương đối chậm, lượng hàng hoá tồn kho (chủ yếu là thành phẩm tồn kho) còn nhiều. Mặt khác, sản phẩm của Công ty lại bị cạnh tranh bởi hàng nhập lậu giá rẻ, do đó việc tiêu thụ sản phẩm mới và thành phẩm tồn kho đòi hỏi những nỗ lực rất lớn, góp phần tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty cũng như củng cố mạng lưới khách hàng hiện tại và tìm kiếm khách hàng tương lai. Do đó để đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm, Công ty cần: Thứ nhất, mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Hiện nay, sản phẩm của Công ty mới chỉ được tiêu thụ ở các tỉnh thành phố phía Bắc, mà chủ yếu tại Thủ đô Hà Nội, Hải Phòng, Thái Nguyên, Thanh Hóa. Thị trường rộng lớn phía Nam chưa xâm nhập được do địa lý cách trở, chi phí vận chuyển lớn, hơn nữa Miền Nam có những Công ty lớn (như Công ty Vật phẩm văn hoá Thành phố Hồ Chí Minh chuyên dàn dựng , sản xuất băng đĩa nhạc; băng đĩa hình) đã áp dụng dây chuyền công nghệ hiện đại từ lâu, chất lượng cao, giá cả phải chăng, nội dung phong phú đa dạng. Vì vậy, để có thể tiếp cận được với thị trường này Công ty cần mở rộng một số cửa hàng giới thiệu sản phẩm ở các tỉnh và thành phố khác. Có thể trước mắt sane phẩm này chỉ bán hoà vốn để dễ cạnh tranh, khi mọi người đã quen và biết đến chất lượng sản phẩm của mình thì Công ty có thể nâng giá lên. Đối với thị trường phía Bắc, Công ty cần giữ mối quan hệ với các khách hàng truyền thống như các cửa hàng đại lý, các cơ sở bán buôn ở các tỉnh phía Bắc, đồng thời cử người đi các tỉnh để nắm bắt nhu cầu thị trường để có kế hoạch định hướng cho sản xuất, đồng thời ký hợp đồng trực tiếp bán buôn với các công ty tư nhân tránh tình trạng họ phải mua qua các trung gian với giá cao hơn. Xa hơn nữa, trong tương lai Công ty cần phải vươn tới thị trường nước ngoài, đặc biệt ở những nơi mà kiều bào ta đang sinh sống. Điều này hết sức quan trọng trong xu thế hội nhập và hướng ra xuất khẩu như hiện nay. Thứ hai, nâng cao chất lượng sản phẩm. Sản phẩm của Công ty mang tính chất đặc thù của ngành văn hóa. Ngoài yếu tố vật chất trong quy trình sản xuất như: ép nhựa hoá chất làm vỏ băng, cắt băng, in băng…phải đảm bảo thông số kỹ thuật, chất lượng về độ bền, kiểu dáng…chất lượng sản phẩm của Công ty chủ yếu nằm ở giá trị tinh thần, đó chính là nội dung chương trình của băng đĩa. Cần phải biết rằng trào lưu âm nhạc mới đang rất sôi động và thay đổi từng ngày, từng giờ, sản phẩm của Công ty có thể được ưa chuộng, là “cơn sột” của ngày hôm nay nhưng rất có thể sẽ bị lãng quên, chối bỏ trong ngày mai. Vì vậy trong công tác xây dựng, biên tập chương trình cần có sự nghiên cứu sâu sắc tỉ mỉ để không ngừng nâng cao chất lượng, nội dung, xây dựng những chương trình có nét độc đáo, hấp dẫn người mua. Nội dung chương trình phải phong phú, mới mẻ, hợp thị hiếu thưởng thức cho mọi người, mang tính văn hoá cao nhằm mục đích tạo vẻ đẹp tâm hồn và giáo dục lối sống âm nhạc lành mạnh. Ngoài ra, Công ty nên chú trọng đến việc trình bày bìa, vỏ hộp gây ấn tượng và kích thích người mua. Tất cả những điều trên đều nhằm bảo vệ nhãn hiệu uy tín của sản phẩm trong điều kiện ngày càng có nhiều sản phẩm giống nhau, thật giả lẫn lộn. Để thực hiện tốt vấn đề này, Công ty nên có những hội thảo làm chương trình mới, họp hội nghị khách hàng. Thứ ba, ổn định và phát triển thị trường đầu vào. Nguyên vật liệu chính để sản xuất là hạt nhựa hoá chất, bành chủ yếu được nhập ngoại cho nên Công ty phải hoàn toàn phụ thuộc vào các nhà cung cấp và thị trường nước ngoài, đặc biệt về mặt giá cả (ví dụ, năm 1998 hạt nhựa giá 5 triệu đồng/ tấn thì đến năm 1999 Công ty có lúc phải nhập 17 triệu đồng/ tấn). Đây là điều hết sức khó khăn trong việc định giá thành sản phẩm của Công ty. Vì vậy, để nâng cao chất lượng khâu cung ứng cà hạ giá thành sản phẩm, Công ty cần chú trọng tới một số vấn đề: Mở rộng quan hệ bạn hàng, lựa chọn người cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng nguyên vật liệu. Tìm kiếm thị trường nguyên vật liệu rẻ, ổn định. Thứ tư, đẩy mạnh các biện pháp hỗ trợ và xúc tiến bán hàng. Quảng cáo là công cụ đắc lực giúp doanh nghiệp giới thiệu và bán sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Tuy nhiên, với nguồn vốn hạn hẹp Công ty không nhất thiết phải thực hiện những chương trình quảng cáo lớn trên tivi hay liên tục xuất hiện trên các trang báo lớn. Công ty có thể sử dụng những phương pháp quảng cáo phù hợp với khả năng chi phí của mình như quảng cáo bằng tờ rơi, cử nhân viên đi tiếp thị, chào hàng hay tổ chức các buổi chiếu ca nhạc miễn phí ở nơi công cộng với các chương trình có nội dung đặc sắc trong chương trình băng đĩa nhạc của mình. Công ty cũng cần quan tâm đến trình độ bán hàng của các mậu dịch viên, họ không chỉ làm nhiệm vụ bán hàng mà họ chính là những người quảng cáo, giới thiệu sản phẩm một cách có hiệu quả với chi phí rẻ nhất cho sản phẩm của Công ty khi trực tiếp giao tiếp với khách hàng. Thái độ, phong cách bán hàng của mậu dịch viên thường gây ấn tượng rất mạnh đối với khách hàng. Ngoài ra, cách bày trí, tính thẩm mỹ của cửa hàng giới thiệu sản phẩm cũng rất quan trọng. Công ty cần sắp xếp các quầy bán từng loại sản phẩm một cách khoa học để khách hàng dễ dàng lựa chọn và xem xét chúng. 2. Khai thác huy động vốn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh: Hiện tượng thiếu vốn đầu tư là khó khăn chung hiện nay của các doanh nghiệp trong nước để mở rộng năng lực sản xuất. Điều đó càng khó khăn hơn đối với Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội do đặc thù của Công ty là sản xuất các sản phẩm văn hóa phục vụ mục đích chính trị tư tưởng là chính. Qua phân tích tình hình tài chính ở trên ta thấy rằng nguồn vốn của Công ty để tài trợ cho các mục đích sử dụng khác nhau còn rất hạn chế, rất nhiều tài sản của Công ty cần được đầu tư thêm, thay thế để nâng cao hiệu quả hoạt động còn chưa có đủ vốn tài trợ cần thiết. Là một doanh nghiệp nhà nước, nguồn vốn của Công ty chủ yếu là do Nhà nước cấp, nhưng hàng năm, nguồn vốn ngân sách cấp bổ sung cho Công ty là rất ít, hầu như không có. Vốn tự bổ sung lại quá ít do lợi nhuận để lại của Công ty không nhiều. Đây là tình trạng phổ biến đối với các doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế nước ta hiện nay. Để giải quyết vấn đề này, Công ty đã tiến hành vay nợ của Đài Loan, vay ngân hàng và có một số nguồn vốn chiếm dụng được từ một số đối tượng như nhà cung cấp, cán bộ công nhân viên, Nhà nước (thông qua các khoản nộp thuế và nghĩa vụ đối với Nhà nước). Tuy nhiên, tỷ lệ sinh lời của Công ty thấp, đồng vốn vay sử dụng hiệu quả không cao nên chỉ bù đắp được lãi vay, lợi nhuận còn lại không đáng kể. Trong khi đó, khả năng thanh toán thực tế của Công ty lại không khả quan lắm do tỷ lệ dự trữ cao. Mặc dù chính phủ đã có những giải pháp hỗ trợ như doanh nghiệp nhà nước khi vay vốn của các ngân hàng thương mại quốc doanh thì không phải thế chấp tài sản, không bị giới hạn tỷ lệ vốn điều lệ, chỉ cần căn cứ vào hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp, song tình hình kinh doanh không mấy khả quan của các doanh nghiệp nhà nước trong thời gian qua thực sự là mối lo ngại của các ngân hàng, bởi nếu cho vay thì rủi ro rất cao. Vì thế ngân hàng thường đòi hỏi các doanh nghiệp phải có phương án, có hợp đồng đầu ra, có lãi chắc chắn, có tiền ứng trước của phía đối tác. Do đó, mặc dù trong điều kiện hiện nay, về lý thuyết Công ty vẫn có thể vay thêm vốn ngân hàng song trong thực tế như trên thì khả năng vay vốn bổ sung từ vốn vay ngân hàng là khó thực hiện được. Như vậy, để giải quyết khó khăn trên Công ty cần phải có những giải pháp sau: Giải quyết những tài sản không cần thiết hoặc thừa đang được sử dụng không hiệu quả như hàng tồn kho, các khoản phải thu để tránh bị ứ đọng vốn trong lưu thông dẫn đến phải tăng cường vay nợ để bù đắp thiếu hụt về vốn. Nâng cao khả năng thanh toán lãi vay, khả năng thanh toán tức thời thông qua tăng lợi nhuận và xác định cơ cấu nợ hợp lý cũng như mức dư tiền tối ưu. Từ đó Công ty có thể dễ dàng hơn trong việc huy động vốn từ ngân hàng. Trong năm 1996, 1998 Công ty đã có được nguồn vốn dài hạn đáng kể để đầu tư cho máy móc dây chuyền sản xuất nhờ vay ưu đãi của Đài Loan. Tuy nhiên để có thể vay được Công ty phải có kế hoạch đầu tư chiều sâu khả thi. Vì vậy trong những năm tới để có thể tranh thủ huy động nhiều hơn từ nguồn vốn này, Công ty nên có chính sách đẩy mạnh việc nghiên cứu tham khảo dây chuyền công nghệ hiện đại nước ngoài, xây dựng dự án đầu tư có hiệu quả. Bổ sung từ các nguồn vốn tự có của Công ty, các nguồn lợi nhuận để lại, các khoản khấu hao. Tranh thủ huy động vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên của Công ty. Nguồn vốn này tuy không lớn nhưng nó đáp ứng được nhu cầu thiếu hụt vốn đột xuất của Công ty, ngoài ra nó còn có ưu điểm là lãi suất thấp hơn lãi suất vay ngân hàng và có thể hoãn nợ khi đến hạn mà chưa có khả năng thanh toán. Đẩy mạnh liên doanh, liên kết. Công ty nên thực hiện liên doanh liên kết với các Công ty khác để tạo nên một mạng lưới sản xuất ổn định, chủ động và có điều kiện để hỗ trợ lẫn nhau. Công ty có thể thuê mua TSCĐ và công nghệ mới. Đây là một hình thức mà Công ty không phải bỏ vốn ra để mua sắm mà chỉ cần trả một khoản tiền nhất định hàng tháng cho tài sản thuê mua. 3. Quản lý tài sản lưu động: Tài sản lưu động của Công ty nằm trong các khoản phải thu và dự trữ. Do vậy Công ty cần có những giải pháp thích hợp để giải quyết vấn để này. 3.1. Đối với các khoản phải thu: Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khốc liệt như hiện nay thì tín dụng thương mại là hình thức tài trợ tiện lợi và linh hoạt, giúp cho doanh nghiệp đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ hàng hoá, giảm chi phí tồn kho, tận dụng công suất máy móc thiết bị. Tuy nhiên nếu tỷ trọng này lớn thì nó làm tăng đáng kể chi phí của doanh nghiệp trong việc tìm nguồn tài trợ để bù đắp thiếu hụt vốn. Vì vậy, trong thời gian tới Công ty nên duy trì các khoản phải thu này một cách thích hợp. Cụ thể là: Công ty cần theo dõi chặt chẽ về thời hạn các khoản nợ đặc biệt là các khoản nợ cũ mà khách hàng còn chiếm dụng, đẩy nhanh tốc độ thu hồi nợ. Công tác thu hồi nợ cần được tiến hành theo phương pháp cuốn chiếu: thu hồi và tiến tới dứt điểm đối với những khoản nợ cũ, đồng thời đốc thúc thu hồi những khoản nợ mới phát sinh. Công ty cần khuyến khích các đơn vị thực hiện việc thanh toán ngay khi đã tiêu thụ được hàng tránh để lâu sẽ tạo điều kiện cho đơn vị đó chiếm dụng vốn của Công ty, nghiên cứu cách thức bán hàng chiết khấu giảm giá để thu tiền ngay. Muốn vậy, Công ty cần tổ chức việc thu hồi nợ một cách đều đặn, nhịp nhàng, không để tình trạng thu hồi nợ dồn dập vào cuối năm làm cho vốn của Công ty bị chiếm dụng quá lâu, gây thiếu vốn cho nhu cầu kinh doanh, trong khi đó thì lượng tiền mặt tồn quỹ tăng nhanh vào cuối năm gây tình trạng dư thừa giả mạo. Khi quyết định cho khách hàng nợ, Công ty phải tính đến rủi ro vỡ nợ, rủi ro giảm giá trị do ảnh hưởng của lạm phát và các khoản phí tổn trong quá trình thu nợ. Công ty nên sắp xếp thời gian bán chịu cho khách hàng lệch nhau sao cho tiền của Công ty thu được đều đặn, tránh tình trạng căng thẳng về ngân quỹ. 3.2. Đối với dự trữ: Một phần lớn tài sản lưu động của Công ty cũng nằm trong hàng tồn kho. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là sản phẩm sản xuất ra những năm trước nhưng không tiêu thụ được, hàng hoá chất lượng kém bị trả lại…Lượng hàng hoá tồn đọng trong kho gây tình trạng ứ đọng vốn lớn trong khi Công ty lại đang thiếu vốn lưu động trong kinh doanh. Đứng trước thực trạng này, Công ty cần phải tiến hành những biện pháp giải toả hàng tồn kho tương đối lớn hiện nay: Giảm giá những mặt hàng đã tồn đọng lâu ngày. Tăng cường mạng lưới tiêu thụ, phạm vi và địa điểm tiêu thụ. Công tác quản lý hàng tồn kho cũng nên tổ chức theo hướng phân cấp hợp lý. Đối với các loại hàng hoá nào chuyên tiêu thụ ở từng bộ phận nên giao cho kho của đơn vị quản lý và cấp phát sẽ đảm bảo quá trình cung cấp nhanh kịp thời, còn nếu hàng hoá nào chung thì giao cho kho của Công ty quản lý và cấp phát…góp phần phân cấp chuyên môn hoá trong quản lý. Công tác thanh quyết toán hàng tồn kho cũng nên thực hiện theo từng đơn đặt hàng để có biện pháp xử lý khắc phục kịp thời, đồng thời phải quyết toán cho từng đơn vị để xác định rõ trách nhiệm và nguyên nhân. Trong khâu dự trữ cần xác định đúng đắn nhu cầu dự trữ cần thiết, tối thiểu để bảo đảm công tác kinh doanh diễn ra liên tục. Tránh dự trữ dư thừa, gây ứ đọng vốn hoặc dự trữ quá thấp gây ảnh hưởng đến khâu bán ra. Bên cạnh đó Công ty phải thường xuyên xác định mức dự trữ hợp lý theo từng tháng, từng quý tuỳ theo nhu cầu thị trường. Ngoài ra, để tối đa hoá doanh lợi dự kiến, Công ty nên điều chỉnh việc giữ tiền mặt một cách hợp lý nhằm nâng cao khả năng thanh toán tức thời. 4. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định: Trong điều kiện khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển như hiện nay, yêu cầu đầu tư đổi mới máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng sản phẩm đáp ứng đòi hỏi ngày càng cao của người tiêu dùng là vấn đề được các nhà doanh nghiệp rất quan tâm. Đối với Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội cũng vậy. Mặc dù có nhiều cố gắng trong việc đầu tư cho TSCĐ nhưng hiệu quả sử dụng vẫn không cao thể hiện ở hiệu suất sử dụng TSCĐ thấp. Để khắc phục tình trạng trên Công ty cần thực hiện một số giải pháp sau: Do nguồn vốn hạn chế và do yêu cầu hạ giá thành sản phẩm Công ty không thể thay thế ngay toàn bộ máy móc cũ, lạc hậu. Tuy nhiên Công ty cần phân loại tài sản cố định để xác định những tài sản đã khấu hao hết hoặc sắp hết thời gian khấu hao từ đó xây dựng kế hoạch về vốn, tìm nguồn tài trợ để đầu tư đổi mới, đồng thời thanh lý các tài sản không sử dụng được hoặc những tài sản đem lại hiệu quả hoạt động thấp. Cần cân nhắc kỹ giữa chi phí sửa chữa lớn bỏ ra với giá trị còn lại của máy móc thiết bị cần phải thu hồi. Đây được coi là căn cứ để đưa ra quyết định tiếp tục kéo dài tuổi thọ của máy hay thanh lý nhượng bán để đổi mới tài sản cố định. Phân cấp quản lý TSCĐ cho các phân xưởng, bộ phận trong nội bộ Công ty để nâng cao ý thức trách nhiệm của người sử dụng giúp kéo dài tuổi thọ của máy đồng thời khai thác hết công suất của máy. Công ty có thể thực hiện thuê mua máy móc thiết bị và công nghệ mới. Hình thức này giúp Công ty có điều kiện sử dụng công nghệ mới nhất, tiên tiến nhất, hạn chế rủi ro tụt hậu về khoa học kỹ thuật, thực hiện đầu tư kịp thời mà không phải đảo lộn về cơ cấu tài chính. III. Một số kiến nghị nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội: 1. Kiến nghị với cơ quan quản lý cấp trên: Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội thuộc Sở văn hoá Thông tin Hà Nội. Trong những năm gần đây, với diễn biến phức tạp trên thị trường băng đĩa nhạc nên Công ty gặp rất nhiều khó khăn. Do vậy, Sở văn hóa Thông tin Hà Nội nên tạo điều kiện cho Công ty thoát khỏi khó khăn trước mắt ổn định phát triển trong tương lai. Cụ thể là: Sở văn hoá Thông tin Hà Nội cần nhanh chóng xem xét tạo điều kiện cho Công ty có vốn để xây dựng xưởng sản xuất tại bãi Mai Động góp phần ổn định sản xuất và có hướng đầu tư lâu dài, tạo ra nhiều sản phẩm góp phần lấy “xây” để “chống” sản phẩm độc hại. Các cơ quan quản lý cấp trên nên tạo điều kiện cho Công ty có được khu đất để xây dựng địa điểm, tránh tình trạng chi phí cao do phải đi thuê quá nhiều địa điểm như hiện nay. Sở văn hóa Thông tin nên có chính sách hỗ trợ vốn làm những chương trình phục vụ chính trị vì với khả năng tài chính hiện nay thì Công ty không thể làm nhiều chương trình được. 2. Kiến nghị đối với Nhà nước: Đối với doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước như Công ty hiện nay thì Nhà nước cần có quy hoạch, xem xét cấp đủ vốn và cơ sở vật chất để doanh nghiệp phát triển. Nhà nước nên bổ sung nguồn vốn cho phù hợp với đặc điểm và tiềm lực mà Công ty đang sản xuất kinh doanh hoặc cho Công ty vay vốn với lãi suất ưu đãi. Nhà nước có chủ trương chỉ bổ sung vốn lưu động cho những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả, đóng góp nhiều cho ngân sách Nhà nước…là một tín hiệu tốt đối với các doanh nghiệp. Tuy nhiên cách bổ sung vốn lưu động cần được kết hợp với miễn giảm thuế trong một thời gian nhất định hoặc giữ lại khoản nộp ngân sách hàng năm để Công ty tái đầu tư. Làm như vậy sẽ đề cao tinh thần trách nhiệm của Công ty, tạo ra sự công bằng giữa các doanh nghiệp. Bên cạnh đó, Nhà nước cũng nên khuyến khích Công ty tăng vốn bằng cách tạo môi trường pháp lý cho phép các doanh nghiệp Nhà nước vay vốn mà không phải thế chấp. Bộ tài chính cần xem lại mức thuế, bởi với mức thuế 10% đối với ngành văn hoá là quá cao. Đối với tranh, tượng Bác Hồ nên ghi rõ thuế suất bổ sung vào bảng thuế như: sách chính trị biểu thuế là 0% nhưng tượng Bác không ghi nên thuế lại là 10%. Các ngân hàng cần điều chỉnh mức lãi suất cho vay hợp lý, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vay vốn với thủ tục nhanh, gọn và đa dạng hoá các hình thức cho vay. Một điều quan trọng nữa là Nhà nước phải tìm cách ổn định tỷ giá, kiềm chế lạm phát để bảo toàn và phát triển vốn cho doanh nghiệp và những người đầu tư. Bộ tài chính cần có sự ổn định tương đối trong việc đưa ra các chế độ chính sách về quản lý tài chính và hạch toán kinh doanh tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp trong việc hạch toán, lập báo cáo tài chính nhất là báo cáo lưu chuyển tiền tệ – một báo cáo tài chính rất quan trọng nhưng hầu hết các doanh nghiệp không phải lập hoặc có lập nhưng rất sơ sài. Phân tích tài chính vẫn còn xa lạ với các doanh nghiệp, do đó Chính phủ, Bộ tài chính cần sớm có các quy định mang tính bắt buộc đối với việc thực hiện phân tích tài chính hàng năm của các doanh nghiệp, đồng thời Chính phủ và Bộ tài chính cũng cần có hướng dẫn cụ thể và các biện pháp giúp đỡ, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong việc phân tích tình hình tài chính doanh nghiệp mình. Bộ tài chính cũng cần sớm thành lập một cơ quan chuyên tập hợp số liệu để đưa ra hệ thống chỉ tiêu trung bình cho từng ngành để các doanh nghiệp có cơ sở chính xác trong việc đánh giá vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó có biện pháp giải quyết thích hợp. Chính phủ cũng nên xây dựng một thị trường tài chính, thị trường vốn ổn định, hoàn thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam để các doanh nghiệp có thể huy động vốn trong và ngoài nước. Thông qua hệ thống ngân hàng thương mại, các Công ty tài chính, các quỹ đầu tư…hoà nhập thị trường vốn trong nước với khu vực, giúp cho các doanh nghiệp có thể đa dạng hoá cách thức huy động vốn của mình như phát hành trái phiếu, cổ phiếu, góp vốn liên doanh… Để giúp cho Công ty có thể đứng vững và phát triển, Chính phủ nên có những biện pháp kiên quyết ngăn chặn, xử lý hàng nhập lậu, hàng trốn thuế, hàng không đảm bảo chất lượng đang tràn lan trên thị trường. Bộ tài chính cũng nên có quy định cụ thể về vấn đề các doanh nghiệp phải thực hiện công khai báo cáo tài chính làm cơ sở cho việc quản lý doanh nghiệp và phân tích tài chính được dễ dàng hơn. Hiện nay chỉ có doanh nghiệp là có đủ cơ sở tài liệu để phân tích tài chính còn những người ngoài doanh nghiệp chưa thể tìm hiểu về doanh nghiệp mà mình quan tâm. Kết luận Trong nền kinh tế thị trường, tình hình tài chính là yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của các doanh nghiệp. Cho nên doanh nghiệp nào cũng mong đạt được tình hình tài chính ổn định và tăng trưởng. Phân tích tài chính đóng vai trò quan trọng đối với tất cả mọi người, nó giúp nhà quản lý tài chính đánh giá được những điểm mạnh, điểm yếu của Công ty ở hiện tại và trong quá khứ, từ đó lập kế hoạch cho tương lai nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty. Do vậy vấn đề phân tích tài chính cần được quan tâm ở tất cả các loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhà nước để làm sao cho khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đại hội VI của Đảng đã đề ra. Trên cơ sở những kiến thức đã học và những tìm hiểu về hoạt động tài chính của Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội, em đã phân tích được tình hình tài chính của Công ty trong 5 năm gần đây nhằm nêu ra những kết quả và hạn chế trong hoạt động tài chính của Công ty, trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty và một số kiến nghị đối với Chính phủ và các cơ quan cấp trên nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp trên. Do hiểu biết về vấn đề còn chưa sâu, thời gian tìm hiểu về Công ty có hạn và chưa có kinh nghiệm thực tiễn nên cách phân tích và giải pháp, kiến nghị đưa ra vẫn chưa hoàn toàn hợp lý, chỉ mới là những ý kiến góp phần thúc đẩy hoạt động phân tích tài chính tại Công ty và vẫn cần phải tiếp tục nghiên cứu, bổ sung thêm. Em xin chân thành cảm ơn Thạc sỹ Nguyễn Quang Ninh và các cô chú, anh chị ở Công ty Mỹ thuật và Vật phẩm văn hoá Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành luận văn này. Tài liệu tham khảo 1- Giáo trình tài chính doanh nghiệp - TS. Lưu Thị Hương - Nhà xuất bản giáo dục - 1998. 2- Quản trị tài chính doanh nghiệp - TS. Vũ Duy Hào - Đàm Văn Huệ - ThS. Nguyễn Quang Ninh - Nhà xuất bản Thống kê - 1998. 3- Quản trị tài chính doanh nghiệp- PGS- TS. Nguyễn Đình Kiệm – TS. Nguyễn Đăng Nam – NXB Tài chính – 1999. 4- Phân tích tài chính doanh nghiệp – Josette Peyrard – NXB Thống kê - 1997. 5- Hệ thống chế độ quản lý tài chính doanh nghiệp – Bộ tài chính – 1999. 6- Tạp chí tài chính. 7- Tạp chí kế toán. 8- Tạp chí kiểm toán 9- Tạp chí nghiên cứu kinh tế 10- Tạp chí ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0252.doc
Tài liệu liên quan