Đề tài Một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch

Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt may vì dân số của Mỹ đông (hơn 260 triệu người năm 1998), đa số sống ở thành thị, có thu nhập quốc dân cao, GDP lên tới 7000 tỷ USD và GDP bình quân đầu người là 25.900 USD năm 1998. Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng 40 tỷ USD hàng may mặc và dệt. Mỹ là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Trị giá hàng may mặc nhập khẩu lớn gấp 4 lần hàng dệt. Kể từ năm 1990, tỷ trọng hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới vẫn liên tục tăng. Năm 1999, tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ là 54.001,9 triệu USD tăng 17,5% sản phẩm với năm 1998. Gần đây, nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ đã chuyển mạnh từ khu vực Châu Á sang các nước thành viên của hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) và các nước láng giềng. Năm 1999, tỷ lệ nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ từ các nước Đông Á như Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan . giảm xuống chỉ còn 23% so với 47% của năm 1990. Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt từ Đông Á giảm từ 34% năm 1990 xuống còn 21% năm 1998. Như vậy trong những năm qua thì cơ cấu thị trường nhập khẩu của Mỹ đã có sự thay đổi. Nguyên nhân của sự chuyển dịch thị trường này là do tăng cường quan hệ thương mại khu vực và một nguyên nhân khác là quy định về xuất xứ của Mỹ nó là rào cản hàng may mặc nhập khẩu từ các nước Châu Á.

doc75 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1267 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu để đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hính 2000 (tính tới tháng 3/2001) tăng 89,4% so với năm trước và FDI vào Nhật Bản trong nửa năm đầu tài chính 2001 đạt 11,38 tỷ USD tăng 16% so với cùng kỳ năm trước. * Thị trường Liên Bang Nga. Thị trường Liên Bang Nga đã từng đóng vai trò hết sức quan trọng với xuất khẩu của Việt Nam nói chung và ngành dệt may Việt Nam nói riêng. Những biến động về chính trị, xã hội ở các nước Liên Xô cũ năm 1991-1992 đã làm xuất khẩu sang Cộng hoà Liên Bang Nga giảm mạnh, trong đó có xuất khẩu hàng dệt may. Tuy nhiên, trong một vài năm gần đây, với sự nỗ lực của các doanh nghiệp trong việc tìm lại thị trường truyền thống này cũng như các chính sách khuyến khích của chính phủ, xuất khẩu hàng dệt may sang Nga dần dần được khôi phục. Nga đã trở thành một trong 10 thị trường xuất khẩu hàng dệt may lớn nhất của Việt Nam với kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 70 triệu USD năm 2001, tăng 84% so với 38,39 triệu USD của năm 1995. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Nga sau khủng hoảng tăng đều qua mỗi năm. Biểu đồ 6: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang CHLB Nga Nguồn: Bộ Công nghiệp Tình hình thị trường Nga trong những năm gần đây có nhiều dấu hiệu khả quan, đến cuối năm 2000 (từ tháng 11 tới tháng 12) nhu cầu hàng dệt bông trong nước bắt đầu tăng vì sự cạnh tranh hàng nhập khẩu giảm đi do đồng rúp giảm giá. Từ tháng 9 đến tháng 12/2000 giá hàng dệt bông nhập khẩu tăng 64% còn giá hàng dệt bông sản xuất trong nước chỉ tăng 43%. Tính đến cuối năm 2000, lượng nhập khẩu bông rất thấp, từ tháng 8 đến tháng 12/2000, tổng nhập khẩu bông đạt 24.300 tấn (tháng 9 nhập khẩu ít nhất là 1.600 tấn và tháng 12 nhập 9.000 tấn). Hàng may mặc tại thị trường Nga có những thay đổi về cơ bản, yêu cầu về chất lượng cũng như hình thức sản phẩm ở mức cao với mức giá chấp nhận được. Hàng có phẩm chất trung bình chỉ tiêu thụ được ở các vùng nông thôn. Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ là 2 quốc gia có thị phần hàng may mặc lớn tại thị trường Nga. Hàng may mặc của Trung Quốc có giá rẻ hơn, đa dạng hơn về màu sắc, mẫu mã sản phẩm, phí vận chuyển thấp lại được trợ cấp xuất khẩu. Hàng Thổ Nhĩ Kỳ có ưu thế về vận chuyển và giao hàng. Đối với Việt Nam, hàng dệt may được coi là một trong số các nhóm hàng chiến lược trong xuất khẩu sang thị trường Nga. Để duy trì điều này từ ngày 24-29/8/1998. Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã có chuyến đi thăm chính thức Liên Bang Nga. Nó giúp mở ra những triển vọng mới trong phát triển quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước, trong đó có việc đặt cơ sở pháp lý cho thanh toán ngoại thương giữa hai nước thông qua hiệp định khung được ký kết giữa hai ngân hàng trung ương. Bước đầu giải quyết một trong những khó khăn lớn nhất của các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Nga đó là tín dụng và đảm bảo thanh toán. Như ta đã biết, ngày nay các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu khôi phục lại thị trường này sau nhiều năm gián đoạn do sự sụp đổ của Liên Xô cũ. Nhưng thị trường Nga nói riêng và thị trường Đông Âu nói chung đã có nhiều sự thay đổi. - Sức mua và nhu cầu của thị trường này đã có nhiều thay đổi, yêu cầu về chất lượng, nội dung và hình thức sản phẩm ở mức cao với giá cả ở mức chấp nhận được, hàng phẩm cấp trung bình chỉ tiêu thụ được ở các vùng nông thôn. - Cạnh tranh với hàng Trung Quốc, Thổ Nhĩ Kỳ ngày càng trở nên gay gắt hơn. Hàng may mặc của Trung Quốc có giá rẻ hơn, đa dạng hơn về màu sắc, mẫu mã sản phẩm, phí vận chuyển thấp lại được trợ cấp xuất khẩu. - Trước đây ưu thế của Việt Nam ở Nga là mạng lưới bán buôn, bán lẻ của người Việt Nam tại Nga, giờ đây đang bị vô hiệu hoá phần nào do các mạng lưới này trong 1, 2 năm gần đây chuyển sang bán hàng của Trung Quốc và Thổ Nhĩ Kỳ. - Tỷ giá biến động đã tác động mạnh đến xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường này. Hiện chỉ còn vài công ty xuất khẩu hàng may mặc sang Nga theo Nghị định thư. Các doanh nghiệp tư nhân xuất sản phẩm sang Nga để phân phối qua hệ thống bán lẻ của người Việt phần lớn phải ngừng các giao dịch để tình hình thị trường Nga dần ổn định. - Những khó khăn về chuyên chở hàng hoá vẫn chưa có giải pháp thích hợp, chi phí cao, đàm phán về vận tải đường sắt liên vận vẫn chưa đi đến thoả thuận, phương tiện vận tải đường thuỷ tuyến cảng Việt Nam - Viễn đông (hoặc biển Đen) trước kia hầu như đã bị đình trệ. - Chính sách thuế của Nga quy định xếp hàng Việt Nam vào nhóm các nước như Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc... đã làm cho hàng dệt may của Việt Nam khó cạnh tranh hơn so với các nước có trình độ sản xuất cao hơn này. - Do nền kinh tế Nga suy thoái dẫn đến việc rủi ro thanh toán cao. Các ngân hàng chưa có đủ tín nhiệm để thực hiện các giao dịch giữa 2 quốc gia. * Thị trường Mỹ Mỹ là thị trường khá hấp dẫn, lý tưởng của ngành dệt may vì dân số của Mỹ đông (hơn 260 triệu người năm 1998), đa số sống ở thành thị, có thu nhập quốc dân cao, GDP lên tới 7000 tỷ USD và GDP bình quân đầu người là 25.900 USD năm 1998. Hàng năm Mỹ nhập khẩu khoảng 40 tỷ USD hàng may mặc và dệt. Mỹ là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. Trị giá hàng may mặc nhập khẩu lớn gấp 4 lần hàng dệt. Kể từ năm 1990, tỷ trọng hàng dệt may nhập khẩu vào thị trường Mỹ trong tổng giá trị nhập khẩu của thế giới vẫn liên tục tăng. Năm 1999, tổng giá trị nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ là 54.001,9 triệu USD tăng 17,5% sản phẩm với năm 1998. Gần đây, nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ đã chuyển mạnh từ khu vực Châu á sang các nước thành viên của hiệp định tự do thương mại Bắc Mỹ (NAFTA) và các nước láng giềng. Năm 1999, tỷ lệ nhập khẩu hàng may mặc của Mỹ từ các nước Đông á như Hồng Kông, Trung Quốc, Đài Loan ... giảm xuống chỉ còn 23% so với 47% của năm 1990. Kim ngạch nhập khẩu hàng dệt từ Đông á giảm từ 34% năm 1990 xuống còn 21% năm 1998. Như vậy trong những năm qua thì cơ cấu thị trường nhập khẩu của Mỹ đã có sự thay đổi. Nguyên nhân của sự chuyển dịch thị trường này là do tăng cường quan hệ thương mại khu vực và một nguyên nhân khác là quy định về xuất xứ của Mỹ nó là rào cản hàng may mặc nhập khẩu từ các nước Châu á. Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường xuất khẩu hàng dệt may có nhiều tiềm năng của Việt Nam. Đặc biệt 3/2/1994 Mỹ quyết định bỏ cấm vận đối với Việt Nam, sau đó tháng 8/1994 Mỹ bỏ cấm viện trợ và tháng 7/1995 Mỹ bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Mặc dù chưa được hưởng ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) và tối huệ quốc (MFN) nhưng các doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu tiếp cận được với thị trường Mỹ. Ngay sau khi bình thường hoá quan hệ, Việt Nam đã xuất khẩu sang Mỹ trị giá 51,94 triệu USD trong đó có hơn 2 triệu USD hàng may mặc. Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ tuy còn thấp nhưng có tốc độ tăng trưởng cao. Năm 2000, trong khi nhiều thị trường xuất khẩu phi hạn ngạch của Việt Nam giảm mạnh thì thị trường Mỹ khá ổn định và đạt kim ngạch nhập khẩu 17,4 triệu USD trong 8 tháng đầu năm 2000 và đã đạt 24 triệu USD trong cả năm 2000, tăng lên 30 triệu USD năm 2001. Biểu đồ 7: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang Mỹ Nguồn: Bộ Thương mại Mặc dù thị trường Mỹ khá ổn định đối với xuất khẩu dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang thị trường Mỹ còn rất nhỏ bé đạt 23 triệu USD năm 1999, năm 2000, đạt 24 triệu USD tăng 4,3%, năm 2001, đạt khoảng 30 triệu USD tăng 25%. Chủng loại hàng hoá: Trong những năm qua, Việt Nam chủ yếu xuất sang Mỹ một số mặt hàng dệt thoi, găng tay, sơ mi trẻ em.. (khoảng 85% tổng kim ngạch) và hàng dệt kim, sơ mi trẻ em, sơ mi man, nữ, găng dệt kim, áo len... Mặc dù Mỹ có nhu cầu về hàng dệt kim lớn nhưng Việt Nam chưa xuất khẩu được nhiều hàng dệt kim sang thị trường này do mức chênh lệch về thuế suất đối với các nước được hưởng GSP và MFN cũng như sự khác biệt trong tiêu chuẩn về sợi dệt và quy trình ráp sản phẩm. Thực trạng hiện nay ở Việt Nam các doanh nghiệp may còn thiếu rất nhiều thông tin về thị trường Mỹ. Tuy nhiên, thông qua các khách hàng như Nam Triều Tiên, Hồng Kông... thì việc đáp ứng các đòi hỏi chặt chẽ về chất lượng theo tiểu chuẩn ISO9000, các quy định nghiêm ngặt về tuân thủ luật thương mại, về nhãn hiệu hàng hoá, xuất xứ sản phẩm của thị trường này hoàn toàn nằm trong tầm tay của các doanh nghiệp Việt Nam. Sự lạc quan đồng thời nằm trong nỗi lo âu vì Mỹ vẫn chưa giành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc và như vậy, hàng Việt Nam qua Mỹ sẽ chịu mức thuế nhập khẩu từ 40% - 90% giá nhập, trong khi Trung Quốc và một số nước khác được hưởng quy chế này chỉ phải chịu mức thuế 25%. Mặt khác ngân hàng hai nước chưa có mối bang giao nên việc thanh toán là vấn đề nan giải đối với các doanh nghiệp. Trường hợp này đã có một thực tế khi một công ty Mỹ muốn trả tiền cho một công ty Việt Nam, họ không thể mở L/C từ Mỹ mà phải sang tận Việt Nam để làm việc này. Thị trường này được đánh giá như sau: - Thị trường Mỹ được đánh giá là thị trường xuất khẩu hàng dệt may có nhiều tiềm năng của Việt Nam. - Là thị trường dễ tính. - Mỹ thường đặt hàng với khối lượng lớn và thanh toán đảm bảo. - Đây là thị trường với những hợp đồng mua hàng trực tiếp từ Việt Nam, không ký hợp đồng gia công xuất khẩu. - Trong tương lai, nếu Việt Nam được hưởng MFN thì đó là một thuận lợi với các doanh nghiệp Việt Nam. Mặc dù vậy không có nghĩa là hàng dệt may Việt Nam sẽ chiếm lĩnh được một cách dễ dàng thị trường may mặc Mỹ vì: - Khi Việt Nam được hưởng MFN thì hàng dệt may Việt Nam cũng sẽ phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt của hàng dệt may Trung Quốc, Hồng Kông, Băng la đét... những nước có vị trí chắc chắn trên thị trường Mỹ, có uy tín, có khách hàng ổn định. Ngoài ra còn các nước khối NAFTA với những điều kiện ưu đãi theo thoả thuận buôn bán nội khu vực. Sản phẩm của Việt Nam sẽ phải phát huy được ưu thế về giá, về thời hạn giao hàng và uy tín về chất lượng để cạnh tranh được với các nước này. - Thực tế hiện nay Việt Nam chưa được hưởng quy chế MFN của Mỹ dẫn đến việc hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chịu thuế suất cao. Hơn nữa giữa hai nước chưa có hiệp định thương mại song phương tạo ra trở ngại lớn cho việc thanh toán giữa hai nước. - Thị trường Mỹ có các đòi hỏi chặt chẽ về chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000, các quy định nghiêm ngặt về tuân thủ luật thương mại, về nhãn hiệu hàng hoá, xuất xứ sản phẩm. - Một tập quán thương mại của Mỹ gây trở ngại cho phía Việt Nam là thường yêu cầu mua hàng FOB, trong khi ngành may Việt Nam chủ yếu là ngành gia công xuất khẩu. - Hiện nay nhiều doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu qua trung gian. Điều này làm hạn chế hiệu quả xuất khẩu. * Thị trường các nước trong khu vực. Hàng năm, ngành dệt may Việt Nam xuất khẩu một lượng sản phẩm lớn sang các nước trong khu vực như: Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông Singapore.... Đây là một thị trường đông dân trên 400 triệu người, thu nhập bình quân đầu người hàng năm tuy có sự chênh lệch lớn giữa các quốc gia, nhưng tính trung bình cũng khá cao (Hồng Kông 23.000 USD). Với một thị trường như thế cùng với tốc độ phát triển bình quân 6 - 8%/năm (năm 1998) thì nhu cầu về hàng may mặc không phải là nhỏ! Các nước trong khu vực có một đặc điểm nổi bật là nền văn hoá giữa các quốc gia khá tương đồng dẫn đến một thị hiếu khá giống nhau. Tuy nhiên, vẫn còn không ít những trở ngại vẫn còn tồn tại. Từ nửa cuối năm 1999, những hỗn loạn tài chính đã đẩy nền kinh tế các quốc gia trong khu vực đến khủng hoảng, các vụ cháy rừng ghê gớm (ở Indonêxia) cùng với thiên tai xảy ra ở nhiều nơi trong khu vưc. Nền kinh tế của các nước này vốn được coi là mạnh, đã xuống dốc một cách nhanh chóng. Nhiều nước có tốc độ tăng trưởng âm. Tuy nhiên, sang năm 2001 nền kinh tế đã đi dần vào ổn định. Một vài quốc gia có nền kinh tế phát triển trong khu vực như: Hàn Quốc, Singapore,.... là những quốc gia nhập khẩu nhiều nhất sản phẩm dệt may của Việt Nam. Tuy nhiên, các nước này không phải là thị trường tiêu thụ mà là nước nhập khẩu hoặc thuê Việt Nam gia công để tái xuất sang các nước thứ 3. Ước tính, khoảng 7% hạn ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU (là một thị trường có hạn ngạch lớn nhất của Việt Nam) phải xuất khẩu qua các nước này. Đài Loan là quốc gia nhập khẩu nhiều sản phẩm dệt may của Việt Nam, năm 1999 kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Đài Loan đạt gần 200 triệu USD. Đến năm 2000 như bao quốc gia trong khu vực khác, suy thoái kinh tế do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực đã ảnh hưởng mạnh đến nền kinh tế Đài Loan. Xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam về số lượng và giá trị các hợp đồng thuê gia công hàng dệt may của nước này với doanh nghiệp Việt Nam giảm mạnh và tình hình này đã kéo dài đến những tháng đầu năm 2001. Biểu đồ 8: Kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam sang một số nước Châu á Nguồn: Bộ công nghiệp Tuy vừa chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ khu vực nhưng các quốc gia Châu á vẫn là nhóm thị trường phải được coi trọng và phát triển của hàng dệt may Việt nam vì: - Đây là một nhóm thị trường quan trọng giúp nhiều doanh nghiệp trong nước về công nghệ, máy móc, thiết bị và nguyên phụ liệu. - Nhiều bạn hàng đã tạo cho các doanh nghiệp may Việt Nam xâm nhập vào thị trường thứ 3 với vai trò là người trung gian. - Đây là khu vực thị trường gần Việt Nam, việc tìm hiểu thị trường và thiết lập các mối quan hệ thuận lợi hơn Bên cạnh đó: - Thị trường các quốc gia trong khu vực chủ yếu là thị trường gia công. - Thị trường thiếu ổn định, đặc biệt là trước sự biến động của cuộc khủng hoảng tài chính, làm ảnh hưởng đến tiến độ giao hàng và thực hiện các hợp đồng. Thị trường Hàn Quốc là một thị trường điển hình trong khu vực. Sau cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ, có rất nhiều công ty ở Hàn Quốc phá sản. Phần lớn các công ty Việt Nam đều mất đi một số lượng đáng kể hợp đồng từ thị trường này và đến nay thị trường này đang đi vào ổn định cho khách hàng đã đạt hàng trở lại. III. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường phi hạn ngạch. Những kết quả đạt được. Ngành dệt may trong những năm qua gặp không ít khó khăn trở ngại, song ngành vẫn vượt qua và phấn đấu để đạt được một số kết quả rất đáng mừng. Ngoài việc là giải quyết được việc làm cho một bộ phận lao động xã hội thì ngành dệt may còn đóng góp nhiều cho sự phát triển nền kinh tế đất nước, có kim ngạch xuất khẩu cao năm 2001 đã đạt 1680 triệu USD và là một trong mười mặt hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn nhất của Việt nam. Việc nỗ lực mở rộng thị trường đặc biệt là nhóm thị trường phi hạn ngạch là điều rất đáng khích lệ vì trong tương lai không xa thì quá trình hội nhập (tham gia tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT của khu vực mậu dịch tự do AFTA, tham gia Diễn đàn hợp tác khu vực châu á -Thái Bình Dương APEC và chuẩn bị gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới WTO) đòi hỏi phải có sự cạnh tranh có hiệu quả của các doanh nghiệp trong nước và khả năng cạnh tranh này được đánh giá như sau: Nhìn chung, trên thị trường quốc tế hàng dệt may Việt Nam có mức giá thấp, ở đây do nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản là chi phí tiền lương thấp so với nhiều quốc gia trên thế giới và khu vực. Như ở Thái Lan, tiền lương chiếm 30 - 35% giá thành sản phẩm, chính vì vậy đã đội giá thành lên cao và cao hơn so với các nước có giá nhân công thấp hơn. Hơn nữa, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Myanma, .. có giá nhân công thấp song phí hạn ngạch lại khá cao. Chính phủ thường bán hạn ngạch cho doanh nghiệp ở mức trên 20%, do đó giá thành sản phẩm cũng cao so với nước ta. Giá cả là yếu tố cạnh tranh rất có hiệu quả nhưng ngày nay, đối với nhiều doanh nghiệp, thực tế rất khó khăn trong việc xác lập một chính sách giá hợp lý. Vào những năm 1999, 2000 vừa qua, khả năng cạnh tranh của sản phẩm dệt may Việt Nam đã bị đe doạ do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ đồng tiền nhiều nước trong khu vực bị mất giá, giá nhân công giảm làm cho giá cả ở các nước này đồng thời giảm xuống, gây khó khăn cho xuất khẩu hàng dệt may của ta. Thực tế, cuộc khủng hoảng tài chính, tiền tệ đã góp phần tạo ưu thế cạnh tranh về đơn giá lao động và nguồn nguyên liệu của các nước trong khu vực như: Trung Quốc, Inđonexia, Thái lan... mạnh hơn Việt nam, đã có nhiều khách hàng đã chuyển sang đặt hàng tại các nước trên. Giá gia công vì thế cũng liên tục bị giảm tới 20-30%, thậm chí có doanh nghiệp giá gia công giảm tới 50%, mà vẫn phải chấp nhận đơn đặt hàng để nhằm mục đích giải quyết việc làm cho công nhân. Tuy nhiên, năm 2001 tình hình có khả quan hơn nhiều. 2. Những khó khăn và thách thức hiện nay. Ngoài những khó khăn khách quan do thị trường các nước đem lại, thì ngành dệt may nước ta còn gặp không ít những trở ngại khác và cũng ảnh hưởng mạnh tới việc xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường phi hạn ngạch của nước ta trong những năm qua. 2.1. Khó khăn về vốn. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp may đang gặp những khó khăn về vốn, thiếu vốn đã hạn chế rất lớn đến việc mở rộng xuất khẩu, đổi mới máy móc thiết bị, nâng cao tay nghề người lao động và đẩy mạnh nghiên cứu thị trường. Trong nhiều doanh nghiệp nguồn vốn tín dụng luôn chiếm tỷ trọng cao so với tổng nguồn vốn. Hơn nữa, vốn thiếu ở đây chủ yếu là vốn lưu động. Điều này gây nên áp lực trả lãi vay và đã ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, lợi nhuận đạt được thấp. Trong khi đó, thủ tục vay vốn còn phiền hà, thời hạn ngắn không phù hợp với công tác đầu tư, thu hồi vốn của các doanh nghiệp. Để có được nguồn vốn tín dụng, một doanh nghiệp phải lập dự án hoặc giải trình kèm theo nhiều điều kiện và văn bản giấy tờ khác nhau. Công việc này mất rất nhiều thời gian làm ảnh hưởng đến tiến độ thực hiện hợp đồng. 2.2. Khó khăn trong mua nguyên phụ liệu. Do ngành dệt may nước ta còn chưa phát triển dẫn đến các doanh nghiệp may hiện nay phải nhập khẩu phần lớn nguyên phụ liệu, chỉ trừ một vài mặt hàng là mua ở trong nước. Chính điều này đã gây ra một số khó khăn từ phía nhà cung cấp, cụ thể: nguyên phụ liệu của khách hàng đôi khi về không đồng bộ, làm ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm và tiến độ giao hàng. Đây cũng là nguyên nhân quan trọng dẫn đến nhiều hợp đồng bị huỷ bỏ trong thời gian qua. Hơn nữa, cơ chế quản lý của nhà nước đối với việc mua nguyên phụ liệu còn nhiều vấn đề bất cập. Nguyên phụ liệu nhập khẩu để sản xuất hàng xuất khẩu được miễn thuế trong thời hạn 90 ngày. Thời hạn này là quá ngắn đối với quá trình sản xuất công nghiệp. 2.3. Khó khăn do sức ép cạnh tranh trên thị trường. Như đã nói cạnh tranh luôn là vấn đề cần được quan tâm của doanh nghiệp, đặc biệt khi xâm nhập vào thị trường phi hạn ngạch thì sức ép cạnh tranh là rất lớn. Không những cạnh tranh với các doanh nghiệp trong nước mà còn phải cạnh tranh với các doanh nghiệp của các nước khác. Điều này buộc các doanh nghiệp may phải giảm giá, cỉa tiến sản xuất, giảm chi phí và đổi mới công nghệ. 2.4. Khó khăn trong hoạt động Marketing và thiết kế mẫu. Nhiều doanh nghiệp may chưa xây dựng được kế hoạch xuất khẩu mang tính chiến lược nhằm phân tích môi trường kinh doanh, đặt ra các mục tiêu kinh doanh cụ thể và huy động các nguồn lực để phát triển. Việc tìm hiểu thị trường, tìm kiếm khách hàng còn mang tính bị động do chưa có các tổ chức xúc tiến thương mại cung cấp các thông tin về thị trường cũng như các đặc điểm kinh tế, xã hội, quy định, luật pháp, chính sách thương mại, chế độ ưu đãi thuế quan.... cho các doanh nghiệp. Do đó nhiều thương vụ là do khách hàng tự tìm đến chứ các doanh nghiệp dệt may chưa chủ động tìm đến khách hàng. Do chưa có các tổ chức đại diện thương mại... nên việc thu thập thông tin chưa kịp thời, thiếu thông tin đặc biệt là thông tin về giá cả, cung cầu trên thị trường... điều này đã gây ra rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp may trong quá trình đàm phán và xây dựng giá cả. Hiện nay, nhìn chung hoạt động thiết kế mẫu của các doanh nghiệp dệt may Việt nam còn yếu, mặc dù nhiều doanh nghiệp đã có xưởng thời trang nhưng hoạt động vẫn chưa đem lại hiệu quả cao, trình độ kỹ thuật còn chưa đạt được sự hoàn chỉnh. Nhiều mẫu mã được thiết kế chưa hợp với thị hiếu người tiêu dùng, chưa đảm bảo được yếu tố thời trang trong thiết kế sản phẩm. 2.5. Khó khăn do cơ chế quản lý của Nhà nước. Bên cạnh những chính sách của Nhà nước cho phát triển ngành dệt may đem lại sự thuận lợi cho ngành thì cũng còn không ít những chính sách đem lại nhiều bất cập, trong điều kiện cơ chế quản lý của nhà nước không đồng bộ, phức tạp. Thủ tục giấy tờ xuất nhập khẩu rườn rà, công tác kiểm hoá còn chậm, chi phí cao như: vận chuyển container, xe tải không cho phép vào giờ hành chính, ngược lại kiểm định hải quan không được phép làm ngoài giờ, khi cần các doanh nghiệp phải có công văn đề nghị. Điều này cản trở xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước. Chương III Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch I. Những thuận lợi để phát triển của ngành dệt may Việt Nam. Rõ ràng, việc đánh giá những thuận lợi và khó khăn trong từng thị trường phi hạn ngạch của Việt Nam đóng một vai trò không nhỏ trong việc đưa ra những giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường này. Bên cạnh đó, ngành dệt may Việt Nam còn có một số những thuận lợi khác nữa xuất phát từ điều kiện tự nhiên, kinh tế,... và những đặc thù trong ngành dệt may của đất nước và cũng góp phần vào việc hoạch định những chính sách, chiến lược phát triển của ngành dệt may trong tương lai. 1. Vị trí địa lý Việt Nam có diện tích đất đai 331.689km2 với hơn 78 triệu dân. Vị trí của Việt Nam rất thuận lợi, nó nằm trên tuyến đường giao lưu hàng hải quốc tế từ các nước Đông Bắc á sang các nước Nam á. Trung Đông và châu Phi. Bờ biển Việt Nam có chiều dài 3260km với nhiều hải cảng có mực nước sâu và khí hậu tốt, điều này cho phép tầu bè các nước có thể ra vào an toàn quanh năm. Việt Nam còn nằm trên trục đường bộ và đường sắt từ châu Âu sang Trung Quốc, qua Campuchia, Thái Lan, Pakistan, ấn Độ... Về vận tải hàng không, nước ta có sân bay Quốc tế Tân Sơn Nhất nằm ở vị trí thuận lợi cách đều thủ đô và các thành phố của các nước trong vùng. Mặc dù trong những năm qua, nền kinh tế của một vài quốc gia trong khu vực bị ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chímh tiền tệ, nhưng đến năm 2001 nền kinh tế của các nước này bắt đầu phục hồi và trong tương lai sẽ nhanh chóng ổn định. 2. Nguồn lao động và giá nhân công. Đối với ngành may mặc thế giới, ngành may mặc Châu á nói chung có lợi thế tương đối về nguồn nhân công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các khu vực khác. Có thể nói đây cũng là thế mạnh của Việt Nam, tính đến năm 1999, tốc độ tăng dân số của nước ta đã vượt quá con số bình quân từ 1,8 - 2%/ năm. Với tốc độ này, theo các chuyên gia thì đến năm 2005 có 87,6 triệu người và năm 2010 Việt Nam sẽ đạt dân số 100 triệu người.Ngoài ra do mức lương tương đối thấp nên giá công may của Việt Nam so với các nước trên thế giới còn thấp. Yếu tố lao động dồi dào, tiền lương thấp là lợi thế cơ bản của Việt Nam để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam để phát triển nền kinh tế đất nước. 3. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Mục tiêu đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực dệt may Việt Nam rất đa dạng và phong phú, ngoài lĩnh vực may quần áo xuất khẩu, các chủ đầu tư còn đầu tư vào những lĩnh vực khác: sản xuất túi du lịch, bô lô, vali, túi thể thao, dây khoá kéo, kim máy may, giầy da... với thời hạn đầu tư ngắn nhất là 5 năm và dài nhất là 30 năm. Hiện nay ngành dệt may Việt Nam có nhiều bước phát triển, dành được chỗ đứng trên thị trường thế giới và đạt được sự tin cậy của các nhà đầu tư. 4. Đổi mới thiết bị công nghệ Ngành may là ngành có tỷ suất đầu tư thấp, nên ngành dệt may Việt Nam hoàn toàn có khả năng đầu tư mới thiết bị công nghệ, không ngừng tăng năng suất, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, đa dạng hoá mặt hàng, đủ sức cạnh tranh với các nước trong khu vực về giá cả cũng như chất lượng. Thực tế ngành dệt may nước ta, từ 1992 nhất là sau thời kỳ tan rã của thị trường Liên Xô và Đông Âu, đã đầu tư hàng triệu USD để đổi mới các thiết bị công nghệ của các nước Đức, Nhật, Hà Lan, Hàn Quốc để bắt kịp trình độ may tiên tiến. Từ năm 1995 đến nay, mỗi năm đều có 18000 máy móc, thiết bị chuyên ngành may được nhập khẩu vào Việt Nam để nâng cao dần khả năng dệt may của trong nước. 5.Chính sách của Nhà nước đối với phát triển ngành dệt may. Nhiều chính sách của Đảng và Nhà nước trong thời kỳ đổi mới đã có những tác động tích cực tới kết quả của ngành dệt may trong những năm vừa qua, cụ thể như sau: - Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần và đặc biệt là việc nới lỏng trong quy chế thương mại, cho phép các doanh nghiệp và tổ chức kinh doanh cũng như các địa phương được quyền xuất khẩu trực tiếp đã tạo ra môi trường sản xuất và kinh doanh thuận lợi đối với ngành dệt may. - Đại hội VII và Đại hội VIII của Đảng đã xác định việc sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu là một trong những lĩnh vực chú trọng trong chiến lược đầu tư nhằm chuyển dịch cơ cấu và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trong đó việc thu hút vốn đầu tư sẽ được thực hiện theo phương châm “nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn từ bên ngoài là quan trọng”. Cụ thể hoá chiến lược đầu tư này là Luật khuyến khích đầu tư trong nước (được Quốc hội khoá IX kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 22/6/1994) và luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam (ra đời vào tháng 12/1987 và được sửa đổi 2 lần: lần 1 tại kỳ họp thứ 2 quốc hội khoá IX ngày 23/12/1993 và lần 2 tại kỳ họp thứ 10, quốc hội khoá IX ngày 12/11/1997) đưa lại cho nền kinh tế nói chung và ngành dệt may nói riêng nhiều cơ hội thu hút vốn nhằm nâng cao năng lực sản xuất và kinh doanh. Cụ thể hoá đường lối đổi mới cơ chế quản lý Doanh nghiệp Nhà nước (được bắt đầu từ đại hội VI của Đảng) và tiếp theo sau một loạt các quyết định: Quyết định 315-HĐBT (nay là Chính phủ) ngày 1/9/1991 về sắp xếp lại Doanh nghiệp Nhà nước; Nghị định 388-HĐBT ban hành quy chế về thành lập và giải thể Doanh nghiệp Nhà nước; Quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 7/3/1994 về việc tiếp tục sắp xếp Doanh nghiệp Nhà nước và thí điểm thành lập tập đoàn kinh doanh; chỉ thị 500/TTg ngày 25/8/1995 “về việc khẩn trương tổ chức, sắp xếp lại Doanh nghiệp Nhà nước”; Nghị định số 55-CP của Chính phủ ngày 6/9/1995 đã phê chuẩn điều lệ tổ chức và hoạt động của Tổng công ty dệt may Việt nam. Đây là một bước quan trọng tiến tới việc xoá bỏ tình trạng manh mún, phân tán của nghành dệt may làm tăng sức cạnh tranh của nghành trong việc thu hút vốn và tiêu thụ sản phẩm. Đảng và Chính phủ đã có những chính sách thiết thực trong việc mở rộng thị trường xuất khẩu cho hàng dệt may, đặc biệt đối với thị trường phi hạn ngạch là việc lập lại quan hệ ngoại giao với Mỹ, Việt Nam cũng đã bước đầu khai thông được thị trường này và hiện dang cố gắng có được “quy chế tối huệ quốc” nhằm giúp cho hàng dệt may Việt Nam có sự cạnh tranh bình đẳng với các quốc gia ASEAN khác và Trung Quốc trên thị trường hàng dệt may của Mỹ. Ngoài ra, nhiều chích sách thương mại và đầu tư được ban hành hoặc sửa đổi trong những năm gần đây để phù hợp với tình hình mới cũng tác động tích cực tới sự phát triển của ngành dệt may như; -Luật khuyến khích đầu tư trong nước (sửa đổi ) ban hành theo nghị định của Chính phủ số 7/1998/NĐ-CP ngày 15/1/1998 đã xác định các dự án đầu tư sản xuất hàng dệt, may mặc cũng như sản xuất nguyên phụ liệu cho sản xuất hàng xuất khẩu, thay thế nhập khẩu thuộc danh mục các ngành nghề được hưởng ưu đãi đầu tư. -Luật đầu tư nước ngoài cũng có những thay đổi có tác dụng khuyến khích xuất khẩu và đầu tư cho ngành dệt may cụ thể là Nghị định Chính phủ số 10/1998/NĐ-CP ngày 23/1/1998 về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt nam -Nghị định 02 của Chính phủ ngày 26/1/1998 và sau đó là Nghị định số 57/1998/NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ về hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu, gia công và đại lý mua bán hàng hoá đối với nước ngoài đều đã có những thay đổi lớn theo hưóng khuyến khích xuất khẩu... II. Định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam từ nay tới năm 2010 Ngành dệt may Việt Nam hiện được đánh giá là ngành có lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu do đầu tư thấp, giá nhân công rẻ và đang có thị trường để phát triển. Mặt khác ngành dệt may cũng là ngành sản xuất nhiều hàng xuất khẩu và thu hút nhiều lao động Đây là các lĩnh vực đang được nhà nước khuyến khích ưu tiên phát triển. Với những lợi thế trên, từ nay tới năm 2010 ngành dệt may đang tập trung chú trọng và phát triển cả về chiều rộng, lẫn chiều sâu, trên cơ sở phát huy nội lực là chính, tranh thủ vốn và công nghệ tiên tiến nước ngoài. Phấn đấu đạt tốc độ tăng trưởng bình quân 13%/ năm với các mục tiêu là hướng ra xuất khẩu để tăng nguồn thu ngoại tệ, đảm bảo cân đối trả nợ và tái xuất. Mở rộng các cơ sở sản xuất của ngành nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước về số lượng, chất lượng, chủng loại và giá cả. Từng bước đưa ngành công nghiệp dệt mayViệt nam trở thành ngành xuất khẩu mũi nhọn, góp phần tăng trưởng kinh tế, giải quyết việc làm, thực hiện đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Mục tiêu sản xuất và cân đối các nhu cầu đến năm 2010 của ngành dệt may được thể hiện ở bảng 6 và 7: Bảng 6: Mục tiêu kéo sợi và dệt vải SP chủ yếu Năm 2002 Năm 2005 Năm 2010 Tr.m3 Tấn % Tr.m3 Tấn % Tr.m3 Tấn % Kéo sợi các loại 144.000 243.000 343.000 Vải dệt thoi 800 120.000 60,8 1.400 210.000 61,7 2.000 300.000 63,8 Khăn bông 30.000 15,0 41.000 12,1 46.000 9,8 Dệt kim 40.000 20,0 70.000 20,6 940.000 20,0 Vải không dệt 4.000 1,2 10.000 2,1 Các sản phẩm khác 10.000 5,0 15.000 4,4 20.000 4,3 Nguồn: Bộ Công nghiệp. Bảng 7: Mục tiêu về sản phẩm và xuất khẩu Chỉ tiêu 2002 2005 2010 * Hàng may xuất khẩu (Tr.sản phẩm) 490 670 810 Trong đó: - Sản phẩm may quy đổi sơ mi chuẩn 400 550 750 - Sản phẩm dệt kim 90 120 160 * Hàng may mặc nội địa (Tr.sản phẩm) 210 270 540 Trong đó - Sản phẩm may quy đổi sơ mi chuẩn 190 240 500 - Sản phẩm dệt kim 20 30 40 * Kim ngạch xuất khẩu (Tr.USD) 2.000 3.000 4.000 Trong đó - Hàng may 16.000 22.000 30.000 - Hàng dệt 400 800 1.000 Nguồn: Bộ Công nghiệp * Định hướng phát triển theo vùng và lãnh thổ Về dệt: - Vùng 1: Vùng Đồng bằng Nam bộ và Đồng bằng sông Cửu Long. Tập trung vào các tỉnh thành sau: thành phố Hồ Chí Minh, các tỉnh Đồng Nai, An Giang, Bình Dương, Đồng Tháp, Tây Ninh, Long An, lấy thành phố Hồ Chí Minh làm trung tâm. Dự kiến sản lượng dệt chiếm 40 - 50% toàn ngành - Vùng 2: Vùng đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh phụ cận gồm: Hà Nội, các tỉnh Hà Tây, Hải Dương, Hưng Yên, Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam, Phú Thọ, Phú Yên, Nghệ An lấy Hà Nội làm trung tâm. Dự kiến sản lượng dệt chiếm 30 - 40% toàn ngành. - Vùng 3: Vùng Duyên hải miền Trung và một số tỉnh khu 4 cũ gồm: thành phố Đà Nẵng, các tỉnh Quảng Nam, Khánh Hoà, Thừa Thiên-Huế lấy thành phố Đà Nẵng làm trung tâm. Dự kiến sản lượng dệt chiếm 10% toàn ngành. Về may: Tập trung tại các thành phố lớn như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Nha Trang, Đà Nẵng, các tỉnh trở thành vệ tinh của các thành phố lớn. *Định hướng cho đầu tư công nghệ: Kết hợp hài hoà giữa đầu tư chiều sâu, cải tạo, mở rộng và đầu tư mới. Nhanh chóng thay thế những thiết bị và công nghệ lạc hậu, nâng cấp các thiết bị còn có khả năng khai thác, bổ xung thiết bị mới để nâng cao chất lượng sản phẩm. *Định hướng cho thị trường tiêu thụ: Duy trì, củng cố và phát triển quan hệ ngoại thương với các thị trường truyền thống, thâm nhập và tạo đà phát triển vào các thị trường có tiềm năng và thị trường khu vực. Từng bước hội nhập thị trường kinh tế khu vực AFTA và thị trường kinh tế thế giới WTO Đối với thị trường trong nước, đáp ứng nhu cầu các mặt hàng dệt, may với chất lượng cao, giá thành hạ, đa dạng hoá mặt hàng, đáp ứng thị hiếu và phù hợp với túi tiền của mọi tầng lớp nhân dân. *Định hướng về phát triển nguyên liệu: Phát triển vùng nguyên liệu bông và tơ tằm để chủ động về nguyên liệu dệt, hạ giá thành sản phẩm và thu hẹp nhập khẩu nguyên liệu. *Định hướng về đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật: Phát triển hình thức và cấp đào tạo để tăng số lượng cán bộ, công nhân kỹ thuật. III. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch. 1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp. 1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc xuất khẩu của doanh nghiệp. Nâng cao năng lực cạnh tranh là vấn đề các Doanh nghiệp cần phải chú trọng. Sản phẩm có sức cạnh tranh là phải đáp ứng được yêu cầu về chất lượng, giá,... và có khả năng thu hút được khách hàng đặt hàng và tiêu thụ mạnh trên thị trường. Để tạo cho sản phẩm có năng lực cạnh tranh đòi hỏi rất nhiều yếu tố có liên quan, đặc biệt ngày nay trong điều kiện hội nhập của nền kinh tế khu vực và thế giới thì việc theo đuổi tiêu chuẩn ISO 9000 là cần thiết. Bộ Công nghiệp cho biết, hiện nay (đầu năm 2002) có 17 công ty trong ngành công nghiệp đang nỗ lực thực hiện việc áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9000 với sự tư vấn của các chuyên gia trong và ngoài nước. Trong đó có một số công ty: May 10, May Thăng Long, May Việt Tiến, Dệt Hà Nội... Để đạt được điều này thì các Doanh nghiệp cần phải: - Đổi mới máy móc, thiết bị, nâng cao tay nghề người lao động Các Doanh nghiệp nên đồng bộ hoá các chủng loại máy móc, lắp đặt thêm số máy chuyên dùng hiện đại nhằm hỗ trợ cho sản xuất. Thường xuyên phát động các phong trào thi đua tay nghề. Tổ chức đào tạo, tư vấn và hỗ trợ cho người lao động. Tăng cường hơn nữa chất lượng lao động, giảm bớt lượng lao động không cần thiết. Xây dựng được đội ngũ cán bộ, nhân viên kỹ thuật đủ mạnh am hiểu công nghệ và có trách nhiệm cao. - Chú trọng khâu định mức, đổi mới sản phẩm: Cần hoàn thiện các định mức kinh tế kỹ thuật cho từng loại sản phẩm để làm cơ sở xác định đơn giá tiền lương hợp lý và thúc đẩy được việc tăng khả năng tiết kiệm nguyên liệu phụ. - Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên liệu phụ, tạo bạn hàng cung cấp nguyên phụ liệu ổn định, đúng thời hạn, bảo quản tốt nguyên phụ liệu, tránh xuống phẩm cấp. Cần lưu ý rằng nguyên liệu sợi vải là những hàng hoá hút ẩm dễ hư hỏng. - Tuân thủ nghiêm ngặt yêu cầu của bên đặt hàng về nguyên phụ liệu, công nghệ, quy trình sản xuất theo đúng mẫu hàng và tài liệu kỹ thuật bên đặt hàng cung cấp về mã hàng, quy cách kỹ thuật, nhãn mác, đóng gói bao bì. - Tuân thủ đúng quy trình kiểm tra chất lượng trước khi xuất khẩu. - Để đảm bảo chất lượng hàng xuất khẩu, giữ uy tín trên thị trường thế giới, một hệ thống kiểm tra chất lượng bắt buộc là một biện pháp cần thiết. - Trong tương lai cần phấn đấu xuất khẩu theo điều kiện CIF, chủ động trong thuê tầu, vận chuyển và bảo hiểm tránh rủi ro tổn thất và suy giảm chất lượng thành phẩm. - Đảm bảo yêu cầu về giao hàng. Giao hàng đúng hạn là yêu cầu rất quan trọng với sản phẩm dệt may do yếu tố thời vụ và phù hợp thời trang là một trong những yếu tố quyết định về tính cạnh tranh của nhóm hàng này. 1.2. Xây dựng phương án và tổ chức sản xuất kinh doanh. Ngày nay các Doanh nghiệp Việt Nam có quan hệ buôn bán với nhiều bạn hàng với nhiều nước trên thế giới. Chính do sự phức tạp và tiềm ẩn các yếu tố rủi ro của môi trường kinh doanh ở các thị trường này cho nên điều đặc biệt đối với Doanh nghiệp là xây dựng một phương án kinh doanh. Tổ chức sản xuất kinh doanh cũng có một vai trò to lớn cho hoạt động xuất khẩu. Do đặc thù của các Doanh nghiệp dệt may phần lớn là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ, tổ chức sản xuất có hiệu quả cao nhưng có thể gặp khó khăn trong tìm kiếm thị trường và giao dịch xuất khẩu. Giải pháp cho vấn đề này có thể là hình thức tổ chức sản xuất liên kết dọc theo kiểu vệ tinh: Một công ty mẹ với nhiều công ty vệ tinh cùng sản xuất một loại sản phẩm. Hình thức tổ chức này cũng có thể là giải pháp cho vướng mắc hiện nay của các Doanh nghiệp nhỏ. Công ty mẹ sẽ chịu trách nhiệm đặt hàng và cung ứng nguyên phụ liệu cho các công ty con, sau đó thu gom và xuất khẩu dưới nhãn hiệu của một công ty lớn, đảm bảo về thị trường tiêu thụ ổn định. 1.3. Tăng cường tìm hiểu thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xúc tiến khẩu khẩu. Marketing thị trường đặc biệt quan trọng đối với sản phẩm dệt may do đặc điểm của nhóm hàng này là yêu cầu cao về sự phù hợp với các tiêu chuẩn xuất khẩu, truyền thống văn hoá, xu hướng thời trang... Nó còn đóng vai trò quan trọng hơn nữa trong các thị trường phi hạn ngạch luôn đòi hỏi sự nhạy bén, kịp thời của các nhà xuất khẩu. Đã có nhiều Doanh nghiệp quan tâm tới vấn đề này nhưng các hoạt động tìm hiểu thị trường thường vượt quá khả năng tài chính của các Doanh nghiệp, nhất là các Doanh nghiệp vừa và nhỏ như hầu hết các Doanh nghiệp may. Hoạt động của các tổ chức xúc tiến thương mại như tổ chức các đoàn đi khảo sát thị trường, tổ chức giới thiệu sản phẩm Việt Nam ở nước ngoài qua các hội chợ, triển lãm... cho các Doanh nghiệp là hết sức cần thiết. Một kinh nghiệm của các Doanh nghiệp vừa và nhỏ của Trung Quốc hay Thái Lan là cử nhân viên tiếp thị mang sản phẩm mẫu đi chào hàng trực tiếp với các Công ty nhập khẩu hàng dệt may. Để có bước đi này cần có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, tìm hiểu kỹ về hệ thống phân phối ở các nước nhập khẩu thông qua các phòng thương mại, các đại diện thương mại và một đội ngũ nhân viên tiếp thị giầu kinh nghiệm. Phương pháp tiếp thị thứ 2 cũng được nhiều Doanh nghiệp sử dụng là thuê nhân viên tiếp thị của các thị trường nhập khẩu dưới hình thức trả hoa hồng theo hợp đồng họ ký được. Thành lập trung tâm thông tin ngành dệt may với các chức năng: thu thập, phân tích thông tin cho các Doanh nghiệp thành viên về xu thế mới, kiểu dáng, chất liệu vải, thời trang, tư liệu kỹ thuật mới và dự báo tình hình thị trường thế giới. Tổ chức hội thảo định kỳ, xuất bản các ấn phẩm chuyên môn và các dịch vụ tư vấn khác. 1.4. Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. Cần khẳng định rằng trong vài năm tới, Việt Nam vẫn gia công hàng may xuất khẩu là chủ yếu, một mặt xuất phát từ xu hướng chuyển dịch sản xuất tất yếu của ngành dệt may thế giới, mặt khác do ngành dệt may Việt Nam chưa đủ “nội lực” để xuất khẩu trực tiếp. Trong điều kiện hiện nay, khi khâu tiếp thị, cung cấp nguyên liệu, thiết kế... và đặc biệt là phối hợp các công đoạn này để cho ra đời một sản phẩm có sức cạnh tranh của ngành dệt may Việt Nam còn yếu kém thì gia công vẫn là biện pháp cần thiết và hiệu quả. Tuy nhiên, cuộc khủng hoảng tài chính khu vực vừa qua đã làm giảm lợi thế tương đối của ngành dệt may Việt Nam về giá gia công rẻ và theo dự tính, lợi thế này chỉ được khôi phục sau năm 2002 - 2003. Vì vậy, để giữ được bạn hàng, thị trường... các doanh nghiệp dệt may cần có biện pháp nâng cao chất lượng, giảm giá thành, tiết kiệm chi phí nhằm duy trì sức cạnh tranh của sản phẩm. Gia công là bước đi quan trọng để tạo lập uy tín của sản phẩm Việt Nam trên thị trường thế giới bằng những ưu thế riêng biệt, giá rẻ, chất lượng tốt, giao hàng đúng thời hạn. Đồng thời, thông qua gia công xuất khẩu để học hỏi kinh nghiệm, tiếp thu công nghệ của các nước khác và tích luỹ đổi mới trang thiết bị, tạo cơ sở vật chất để chuyển dần sang xuất khẩu trực tiếp. 1.5. Thu hút vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn Thách thức đối với ngành dệt may nước ta trong tương lai là không nhỏ. Chiến lược đầu tư đúng đắn, có hiệu quả là cần thiết, một là theo hướng đầu tư thêm thiết bị hiện đại để nâng cao chất lượng sản phẩm đủ sức cạnh tranh. Hai là, tăng cường đầu tư chiều sâu, chỉ giữ lại những sản phẩm truyền thống có khả năng hoà nhập. Để tạo nguồn vốn và tăng hiệu quả sử dụng vốn đầu tư cần: - Tăng cường vốn tự có, giảm chi phí, tăng lợi nhuận và đầu tư đổi mới máy móc thiết bị nhằm nâng cao hơn nữa năng suất lao động, giảm giá thành, tăng nguồn vốn lưu động. - Huy động nguồn vốn từ cán bộ công nhân viên trong Doanh nghiệp với lãi suất hợp lý. - Thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tranh thủ các nguồn vốn hỗ trợ. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực may vẫn cần thiết nếu như chúng ta muốn có một ngành công nghiệp may thực sự hướng tới xuất khẩu. Các sản phẩm may của các Doanh nghiệp này với các ưu thế về công nghệ, nguyên liệu, mẫu mã sẽ mở đường cho sản phẩm may với nhãn hiệu hàng hoá của Việt Nam trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, nên tập trung đầu tư vào các mặt hàng mới, phức tạp mà các Doanh nghiệp hiện có chưa sản xuất được. Các doanh nghiệp trong nước tự tìm kiếm thị trường đặc biệt là thị trường phi hạn ngạch. Thu hút sự trợ giúp của các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức môi trường thế giới cho “sản phẩm công nghiệp xanh và sạch”. Hiện nay các Doanh nghiệp dệt đang rất khó khăn trong việc tìm nguồn vốn để thay đổi công nghệ dệt - nhuộm theo các quy định ISO 9000 và ISO 14000. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức và các nước quan tâm nhiều đến vấn đề này như Hà Lan, Đức, Canada, Niudilân... mà các nước xuất khẩu sản phẩm dệt trong khu vực như ấn Độ, NêPan đã áp dụng có thể là một kinh nghiệm tốt cho Việt Nam. 2. Một số giải pháp từ phía nhà nước 2.1. Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu Cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên phụ liệu, nhập hàng mẫu, nhập bản vẽ để thực hiện các hợp đồng gia công xuất khẩu hiện vẫn còn rườm rà, mất nhiều thời gian gây nhiều khó khăn cho Doanh nghiệp đặc biệt các hợp đồng gia công xuất khẩu có thời hạn ngắn. Đơn giản thủ tục hoàn thuế nhập khẩu và xây dựng mức thuế chi tiết cho các loại nguyên liệu nhập khẩu. Tình trạng một loại nguyên liệu nhưng có các thông số kỹ thuật khác nhau với định mức tiêu hao cũng như chức năng khác nhau vẫn được áp dụng cùng một mức thuế như hiện nay đem lại nhiều thiệt hại cho Doanh nghiệp, trong đó có doanh nghiệp may xuất khẩu. Cải tiến thủ tục hoàn thuế cho các Doanh nghiệp sản xuất hàng nguyên phụ liệu cho các Doanh nghiệp khác may xuất khẩu. Đồng thời tính phần xuất khẩu tại chỗ này vào tỷ lệ sản phẩm xuất khẩu quy định tại giấy phép đầu tư, giảm khó khăn của Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trong việc thực hiện quy định này, đặc biệt là những năm đầu tiên sản xuất chưa ổn định. Cho phép Doanh nghiệp xuất khẩu nộp thuế giá trị gia tăng đối với nguyên liệu đầu tư vào sau khi xuất khẩu, thay vì phải nộp ngay sau khi hàng về. 2.2. Chính sách ưu đãi khuyến khích các Doanh nghiệp may. - Nhà nước cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích các Doanh nghiệp may mở rộng thị trường đặc biệt là thị trường phi hạn ngạch. - Nhà nước hỗ trợ tư vấn cho các Doanh nghiệp với lãi suất ưu đãi, thủ tục vay đơn giản, gọn nhẹ, đưa ra những chính sách thu hút vốn đầu tư nước ngoài. - Giảm hoặc miễn thuế cho các Doanh nghiệp xuất khẩu với tỷ trọng lớn. - Để tăng dần tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp, nhà nước cần có các chính sách khuyến khích sử dụng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước. - Thành lập các trung tâm tư vấn đại diện thương mại tiếp thị cho ngành may. Các trung tâm này có nhiệm vụ thông tin, nắm bắt kịp thời các thay đổi về giá cả, tỷ giá, quy định hải quan, những chính sách thương mại đầu tư của nước nhập khẩu. Đồng thời, tiếp thị tốt hơn bằng cách giới thiệu sản phẩm Việt Nam. Tìm hiểu yêu cầu mặt hàng của các nước nhập khẩu, tìm hiểu xu hướng thời trang, cung cấp các thông tin về mẫu mốt có như vậy, các mẫu chào hàng sẽ phong phú và sát nhu cầu thị trường. Tìm hiểu và tiếp cận với hệ thống phân phối sản phẩm dệt may của từng nước và giúp Doanh nghiệp tiếp cận với những nhà nhập khẩu trực tiếp. Các đại diện thương mại cần xúc tiến hơn nữa việc nghiên cứu thị trường nước ngoài, đặc biệt các đối tác nước ngoài, nâng cao hiệu quả của việc tham gia triển lãm hội chợ. Khi đưa sản phẩm sang giới thiệu tại các hội chợ triển lãm, các Doanh nghiệp cần có sẵn danh mục các đối tác đã được nghiên cứu, chọn lọc từ trước để giới thiệu sản phẩm, ký kết hợp đồng. - Hỗ trợ cho ngành thời trang, thiết kế, tạo điều kiện để phát triển ngành may trở thành ngành kinh tế kỹ thuật hoàn chỉnh. 2.3. Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự cân đối giữa ngành dệt và may. Đầu tư đổi mới công nghệ cho ngành dệt là một đòi hỏi cấp bách không chỉ có ý nghĩa về mặt kinh tế mà cả về mặt chính trị, xã hội. Nhà nước cần dành cho ngành dệt một phần vốn nhất định kể cả vốn ngân sách cấp và vốn vay với lãi suất ưu đãi. Ngành dệt trong nước hiện nay vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu nguyên phụ liệu cho ngành may. Các doanh nghiệp may hầu như phải nhập khẩu đặc biệt với các mặt hàng cao cấp, mặt hàng có chất lượng cao. Nhà nước cần có chính sách thực sự khuyến khích các Doanh nghiệp sử dụng nguyên phụ liệu trong nước, những khó khăn này đã cản trở một phần tới sự phát triển của ngành may. Chính vì vậy ngành dệt may cần phải có sự đầu tư, phát triển mạnh cụ thể như sau: - Có quy hoạch phát triển ngành dệt may trong đó đảm bảo sự cân đối giữa 2 ngành. - Có quy hoạch sắp xếp lại ngành dệt để có thể phối hợp phát huy năng lực hiện có. - Có chính sách thực sự khuyến khích các Doanh nghiệp may sử dụng nguồn nguyên phụ liệu trong nước. Kết luận Đẩy mạnh xuất khẩu là mục tiêu quan trọng của hoạt động kinh tế đối ngoại. Điều này đã được Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII Đảng cộng sản Việt nam khẳng định, là điều kiện để thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế với tốc độ cao, là tiền đề để thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam mới bước vào giai đoạn phát triển, do đó muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thì cần phải có sự nỗ lực hơn nữa của Nhà nước cũng như của các doanh nghiệp trong việc mở rộng thị trường đặc biệt là nhóm thị trường phi hạn ngạch trong tương lai. Đẩy mạnh xuất khẩu cũng góp phần phát triển kinh tế đối ngoại của đất nước. Trong thời gian thực tập , tìm hiểu và tham khảo ý kiến của thầy cô, bạn bè em đã quyết định tìm hiểu về: “Một số giải pháp chủ yếu nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch”. Do trình độ hiểu biết có hạn, lại do chưa có kinh nghiệm nên bản luận văn chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em mong muốn nhận được sự đóng góp ý kiến quý báu của thầy cô, ban lãnh đạo và tâp thể cán bộ công nhân viên Viên Ngiên cứu chính sách và chiến lược công ngiệp, Bộ Công nghiệp để bản luận văn có cơ hội được hoàn thiện hơn. Tài liệu tham khảo GS. PTS. Tô Xuân Dân (chủ biên): Giáo trình Kinh tế học Quốc tế – NXB Thống kê, 2000 Đảng Cộng sản Việt Nam Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII. GS. PTS. Vũ Hữu Tửu (chủ biên): Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương, NXB Ngoại thương, 1998. PTS. Đỗ Đức Bình: Giáo trình Kinh doanh Quốc tế – NXB Giáo dục, 1999. GS. Đinh Xuân Trình: Thanh toán Quốc tế trong ngoại thương, NXB Ngoại thương, 1998. Hồ sơ các mặt hàng chủ yếu của Việt Nam - Nhóm hàng dệt may, 2001. Báo công nghiệp số ra thường kỳ. Tạp chí Dệt may số ra thường kỳ. Thời báo kinh tế Việt nam các số: 35, 67, 83, 97, 103 năm 2000. 10. Báo thương nghiệp và thị trường các số: 3, 12 năm 2001. Báo ngoại thương các số: 22, 24 năm 2001 Thời báo kinh tế Việt Nam & thế giới 2000-2001; 2001-2002 Mục lục Lời nói đầu 2 chương I: những vấn đề chung về hoạt động xuất khẩu 4 I./ khái niệm, vai trò và các hình thức xuất khẩu chủ yếu. 4 1./ Khái niệm. 4 2./ Vai trò. 4 3./ Các hình thức xuất khẩu chủ yếu. 7 3.1. Xuất khẩu trực tiếp. 7 3.2. Xuất khẩu uỷ thác. 7 3.3. Buôn bán đối lưu. 8 3.4. Giao dịch qua trung gian. 8 3.5. Gia công quốc tế. 9 3.6. Tái xuất khẩu. 10 II./ nội dung của hoạt động kinh doanh xuất khẩu. 10 1./ Nghiên cứu thị trường. 10 1.1. Lưa chọn mặt hàng xuất khẩu. 10 1.2. Lựa chọn thị trường xuất khẩu. 10 1.3. Lựa chọn bạn hàng. 11 1.4. Lựa chọn phương thức giao dịch. 11 2./ Đàm phán và ký kết hợp đồng. 11 3./ Thực hiện hợp đồng xuất khẩu, giao hàng và thanh toán. 13 III. / các yếu tố ảnh hưởng tới hoạt động xuất khẩu. 16 1. Yếu tố chính trị. 16 2. Yếu tố kinh tế . 17 3. Yếu tố luật pháp. 17 4. Yếu tố cạnh tranh. 18 5. Yếu tố văn hoá. 19 IV./ Đặc điểm riêng của sản xuất và buôn bán hàng dệt may trên thị trường thế giới. 20 1./ Đặc điểm về sản xuất. 20 2./ Đặc điểm trong buôn bán. 21 chương II: thực trạng xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch trong thời gian qua 23 i./ tình hình sản xuất hàng dệt may của Việt Nam trong thời gian qua. 23 1. Năng lực sản xuất hàng dệt may. 23 2. Thực trạng sản xuất của ngành dệt may. 28 2.1. Tình hình sản xuất một vài sản phẩm chủ yếu. 28 2.2. Cơ cấu sản phẩm. 30 II. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch. 31 1. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may nói chung. 31 2. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào thị trường phi hạn ngạch thời gian qua. 33 2.1. Tỷ trọng xuất khẩu vào thị trường phi hạn ngạch của hàng dệt may 33 2.2. Một số thị trường phi hạn ngạch chủ yếu của hàng dệt may Việt Nam. 36 III. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may vào các thị trường phi hạn ngạch. 52 1. Những kết quả đạt đựơc. 52 2. Những khó khăn và thách thức hiện nay . 53 Chương III: Những giải pháp cơ bản nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch 56 I. Những thuận lợi để phát triển ngành dệt may Việt Nam 56 1. Vị trí địa lý 56 2. Nguồn lao động và giá nhân công 57 3. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài. 57 4. Đổi mới thiết bị công nghệ 57 5.Chính sách của Nhà nước đối với phát triển nghành dệt may 58 II. Định hướng phát triển ngành dệt may Việt Nam từ nay tới năm 2010 60 III. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam vào các thị trường phi hạn ngạch. 63 1. Một số giải pháp từ phía doanh nghiệp 63 1.1. Nâng cao năng lực cạnh tranh sản phẩm may mặc xuất khẩu của doanh nghiệp. 63 1.2. Xây dựng phương án và tổ chức sản xuất kinh doanh. 65 1.3. Tăng cường tìm hiểu thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động của tổ chức xúc tiến xuất khẩu. 66 1.4. Nâng cao hiệu quả gia công xuất khẩu, từng bước tạo tiền đề để chuyển sang xuất khẩu trực tiếp. 67 1.5. Thu hút vốn đầu tư và sử dụng hiệu quả nguồn vốn 67 2. Một số giải pháp từ phía nhà nước 69 2.1. Cải tiến thủ tục xuất nhập khẩu 69 2.2. Chính sách ưu đãi khuyến khích 69 các Doanh nghiệp may. 2.3. Đầu tư phát triển ngành dệt, có sự cân đối giữa ngành dệt và may. 70 Kết luận 72 Tài liệu tham khảo 73

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0430.doc
Tài liệu liên quan