Để tăng cường khả năng hòa nhập của Việt Nam vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới, tạo sự ổn định về kinh tế - xã hội làm cơ sở cho tăng trưởng kinh tế, cần phải có chính sách thích hợp đối với các nước lớn trên thế giới và các nước trong khu vực khi lựa chọn đối tác đầu tư. Tăng cường hợp tác đầu tư với các nước trong khu vực, đặc biệt các nước NICs và ASEAN vì ngoài lợi ích kinh tế còn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, dễ gặp gỡ nhau trên bình diện chính trị - xã hội. Đẩy mạnh việc thu hút vốn của các nước lớn, các trung tâm, phát triển từ đầu tư song phương sang đầu tư đa phương ở những ngành then chốt, tại các vùng xung yếu (trên biển, biên giới), tại các khu công nghiệp lớn. sẽ tạo lên lực kéo nhiều chiều đảm bảo an linh đất nước, tạo nên những đối trọng cần thiết trong quan hệ tranh chấp với quốc gia khác.
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Mở rộng diện đối tác Việt Nam được hợp tác liên doanh với nước ngoài, luật đã cho phép các bệnh viện, trường học, viện nghiên cứu trong lĩnh vực công nghệ, khoa học kỹ thuật, khoa học tự nhiên được hợp tác đầu tư với nước ngoài theo quy định của Chính phủ Việt Nam, không hạn chế trong phạm vi các đối tác Việt nam là các tổ chức kinh tế có tư các pháp nhân như trước đây.
Về miễn thuế cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài:
Trong quá trình thực hiện dự án đầu tư, nếu có thay đổi về điều kiện đầu tư thì việc miễn giảm thuế cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài do Bộ tài chính quyết định. Có ý kiến cho rằng đây là điểm thắt chặt hơn của luật mới và làm giảm tính hấp dẫn của môi trường đầu tư và như vậy, mục tiêu phấn đấu nguyên tắc một cửa trong quản lý đầu tư nước ngoài bị vi phạm. Thực tế không phải như vậy vi trong quá trình thực hiện triển khai dự án có thể xảy ra trường hợp doanh nghiệp không đạt dược các tiêu chuẩn về khuyên khích đầu tư để được hưởng ưu đãi như đã dự kiến trong hồ sơ xin cấp giấy phép ban đầu, ở đây nếu không có điều chỉnh về thuế thì sẽ gây bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp với nhau.
Về giám định giá trị thiết bị, máy móc dùng để góp vốn.
Để khắc phục tình trạng nâng giá không hợp lý như đã xảy ra trong một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, luật mới quy định giá trị thiết bị máy móc dùng để góp vốn phải được tổ chức giám định độc lập cấp chứng chỉ giám định. Trong trường hợp cần thiết,cơ quan quản lý Nhà nước về hợp tác đầu tư với nước ngoài có quyền tổ chức giám định lại giá trị các khoản vốn góp của các bên. Báo cáo nghiệm thu, quyết toán các công trình xây dựng cơ bản các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài các bên tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh cũng phải có sự xác nhận của tổ chức giám định.
Về đấu thầu.
Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên tham gia hợp đồng hợp tác liên doanh phải thực hiện đấu thầu theo quy định cuả pháp luật về đầu thầu.
Về bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp
Để đảm bảo cho các nhà đầu tư nước ngoài yên tâm khi bỏ vốn vào Việt Nam, luật mới quy định nhà nước CHXHCN Việt Nam bảo hộ quyến sở hữu công nghiệp, bảo đảm lợi ích hợp pháp của các nhà đầu tư nước ngoài trong hoạt động chuyển giao công nghệ tại Việt Nam.
b, Những điều sửa đổi so với Luật Đầu tư nước ngoài trước đây.
Để khắc phục những khiếm khuyết xảy ra trong thực tiễn thực hiện cũ, đồng thời xoá dần những bất bình đẳng quá lớn trong việc ưu đãi giữa luật khuyến khích đầu tư trong nước và luật, tạo nên môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế và tạo ra cơ sở pháp lỹ vững chắc hơn cho công tác quản lý Nhà nước, bảo đảm cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài phù hợp với những yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời gian tới, luật Đầu tư nước ngoài mới đã sửa đổi một số điều mới so với luật cũ, đó là:
Về thuế xuất nhập khẩu :
Để thu hẹp khoảng cách giữa luật đầu tư trong nước và luật Đầu tư nước ngoài, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng những sản phẩm mà Việt Nam đã sản xuất được đạt tiêu chuẩn quốc tế, luật mới đã bỏ quy định miễn thuế nhập khẩu cho vật tư, phụ tùng và phương tiện vận tải thông thường do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập vào để xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng hoặc để tái tạo tài sản cố định, trừ trường hợp những dự án đặc biệt cần khuyến khích đầu tư theo quy định của Chính phủ. Luật mới quy định chỉ miễn thuế nhập khẩu cho các thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải chuyên dùng nằm trong dây chuyền công nghệ nhập khẩu vào Việt Nam để tái tạo tài sản cố định thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh, mở rộng quy mô dự án đầu tư và phương tiện vận chuyển nhập khẩu dùng để đưa đón công nhân.
Về hoàn thuế lợi tức
Để khuyến khích tái đầu tư đúng định hướng, luật mới quy định hoàn thuế lợi tức cho phần lợi nhuận tái đầu tư không áp dụng cho mọi dự án như trước đây mà chỉ dành cho các dự án thuộc diện được khuyến khích đầu tư
Tỷ lệ hoàn thuế lợi tức phụ thuộc vào múc độ quan trọng về mục tiêu, địa bàn đầu tư, hình thức và thời hạn tái đầu tư.
Về thời hạn thẩm định hồ sơ
Thời hạn thẩm định cấp giấy phép cho dự án đã được rút ngắn từ 90 ngày xuống còn 60 ngày nhằm giảm bớt thủ tục phiền hà đối với các nhà đầu tư
c, Những quy định cụ thể hơn so với luật cũ.
Các lĩnh vực, địa bàn khuyến khích đầu tư được quy định rõ ràng, chi tiết hơn.
Lĩnh vực khuyến khích đầu tư bao gồm : sản xuất hàng xuất khẩu; nuôi trồng và chế biến nông lâm thuỷ sản; sử dụng công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại; bảo vệ môi trường sinh thái, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; sử dụng nhiều lao động, chế biến nguyên liệu và sử dụng có hiệu quả tài nguyên thiên nhiên ở Việt Nam; xây dựng kết cấu hạ tầng và cơ sở sản xuất công nghiệp quan trọng.
Địa bàn được phép đầu tư bao gồm : Miền núi, vùng sâu, vùng xa; những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn.
Lĩnh vực, địa bàn không được phép đầu tư.
Nhà nước Việt nam không cấp giấy phép đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực và địa bàn gây thiệt hại đến quốc phòng, an ninh quốc gia, di tích lịch sử, văn hoá, thuần phong mỹ tục và môi trường sinh thái.
Về thuế chuyển nhượng vốn.
Trước đây thuế chuyển nhượng vốn chưa được quy định, trong luật, nay luật mới đã quy định trong trường hợp chuyển nhượng vốn có phát sinh lợi nhuận thì bên chuyển nhượng nộp thuế lợi tức với thuế suất là 25% lơi nhuận thu được. Trường hợp chuyển nhượng cho các doanh nghiệp Việt nam thì được miễn hoặc giảm thuế.
Về vấn đề kế toán, kiểm toán.
Theo luật cũ, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được tự do lựa chọn chế độ kế toán thông dụng của quốc tế để áp dụng sau khi đã đăng ký và được Bộ Tài chính chấp thuận. Luật mới quy định cụ thể hơn theo hướng khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh áp dụng chế độ kế toán của Việt Nam chỉ trong những trường hợp cần thiết mới áp dụng kế toán nước ngoài.
Một số ý kiến cho rằng đây là điểm thu hẹp hay thắt chặt hơn của luật mới so với trước kia. Nhưng về thực chất, các nhà chuyên môn, nhất là các nhà chuyên gia kế toán hàng đầu cuả Việt Nam đánh giá không hoàn toàn là như vậy. Cho tới nay, sau một thời gian dài nghiên cứu và sửa đổi, chế độ kế toán mới của Việt Nam đã được hoàn thiện và đã đạt được các tiêu chuẩn tương đương với chuẩn mực kế toán thông dụng trên thế giới. Do đó, hầu như nó không gây trở ngại cho các nhà đầu tư nước ngoài mà ngược lại giúp các nhà đầu tư nước ngoài thuận tiện hơn trong việc đăng ký chế độ kế toán mới với Bộ Tài chính, dễ dàng tìm kiếm và đào tạo ngay các cán bộ tại Việt nam, tạo ra môi trường đầu tư bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh nghiệp tại Việt nam.
Hơn nữa, luật mới không bắt buộc tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài phải áp dụng chế độ kế toán Việt Nam. Trong trường hợp cần áp dụng chế độ kế toán thông thường khác thì phải được sự chấp thuận của Bộ Tài chính.
3.2.Về trình độ và tiềm năng phát triển của nền kinh tế.
Cho đến nay, chúng ta thừa nhận rằng nền kinh tế Việt Nam đang ở trình độ kém phát triển hơn các nước khác. Tuy vậy khi xem xét những thành quả mà Việt Nam đạt được đã có nhiều ý kiến đánh giá cao tiềm năng phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nếu trước đây thế giới nói tới ASEAN như một khu vực có nền kinh tế năng động với tốc độ tăng trưởng cao, tình hình chính trị ổn định, có môi trường đầu tư tốt, thì hiện nay họ đánh giá Việt nam cũng không thua kém các nước này. Không những thế nhiều người còn đặt quan tâm nhiều đến vị trí thuận lợi của Việt Nam tại Đông Nam á, cũng như tiềm năng lớn về tài nguyên thiên nhiên.
Tóm lại, tuy chưa nhiều, song đã có một số ý kiến đánh giá cao tiềm năng phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới.
3.3. Về thị trường lao động.
Việt Nam là nước có lực lượng lao động rất dồi dào về số lượng, có trình độ học vấn trung bình tương đối cao, có nhiều khả năng tiếp thu các kiến thức tiên tiến. Trong điều kiện trình độ có nền sản xuất (kể cả các cơ sở sản xuất trong nước cũng như các cơ sở có vốn FDI) như hiện nay thì về mặt cơ bản người lao động Việt Nam đáp ứng được yêu cầu và có mặt bằng tiền lương tương đối thấp. Cộng thêm đó, nói chung người lao động Việt Nam đều có ý thức tuân thủ kỷ cương, kỷ luật lao động cao, ít có đình công, bãi công tự do. Chính điều này đang trở thành một trong những yếu tố hấp dẫn các nhà FDI.
3.4. Dung lượng thị trường hàng hoá và dịch vụ.
Việt Nam là một trong những nước có thị trường lớn nhất khu vực mà các nhà đầu tư tính toán rằng : Với vị trí khá thuận lợi của Việt Nam, đầu tư vào đây không những là tiếp cận được nhu cầu của một thị trường hơn 75 triệu dân ở nước sở tại mà còn là địa bàn để cung cấp hàng hoá cho một số thị trường của các nước láng giềng như : Lào, Campuchia, Myanmar và thị trường Tây Nam Trung quốc. Dĩ nhiên khi đánh giá dung lượng thị trường người ta không chỉ dừng lại đánh giá đơn thuần về dân số. Bởi vậy khi phân tích thị trường Việt nam, bên cạnh tiêu chí dân số người ta đã chu ý xem xét đến các yếu tố quyết định tiềm lực của một thị trường : Một mặt thị trường Việt Nam và các nước lân cận đều đang là thị trường chứa đựng những nhu cầu lớn, mặt khác mặc dù hiện nay thu nhập quốc dân bình quân đầu người của các nước này còn thấp nhưng trong tương lai khu vực này sẽ là một thị trường có khả năng thanh toán không nhỏ.
3.5. Điều kiện để tiếp nhận sử dụng vốn, công nghệ.
Để tiếp nhận được và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI, nước sở tại phải có một số điều kiện tối thiểu cần thiết như : có được lượng vốn trong nước ở một mức độ nhất định, có cơ sở hạ tầng tối thiểu đảm nảo cho sự hoạt động của các dự án đầu tư. Từ một nền sản xuất nhỏ vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường, Việt nam đang gặp rất nhiều khó khăn trong việc tạo lập các điều kiện này. Tuy vậy, với đường lối đổi mới đúng đắng của Đảng và Nhà nước, với xu hướng vận động tích cực của nền kinh tế, chúng ta hy vọng Việt Nam sớm có đủ các điều kiện tốt để tiếp nhận các dự án FDI ở quy mô lớn và hiện đại.
ii- Những giải pháp chủ yếu nhằm thu hút có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt nam.
Để đạt được mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI trong thời gian tới cần thực hiện những biện pháp sau.
1. Tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư
Môi trường đầu tư là tổng hòa các yếu tố chính trị, kinh tế, xã hội có liên quan, tác động tới hoạt động đầu tư và khả năng sinh lợi của nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Môi trường đầu tư có vai trò quan trọng hàng đầu trong việc các nhà đầu tư quyết định có nên bỏ vốn vào đầu tư hay không, vì vậy phải hoàn thiện môi trường đầu tư là điều tất yếu để thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
1.1. Giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội.
Giữ vững ổn định chính trị có ý nghĩa quyết định đến việc đầu tư. Đặc biệt là đầu tư nước ngoài. Đây là yếu tố rất quan trọng, bởi lẽ mỗi khi tình hình chính trị bất ổn, nhất là thể chế chính trị không ổn định (cùng với luật thay đổi) cũng có nghĩa là mục tiêu có thể sẽ thay đổi cả phương thức đạ mục tiêu đó phải thay đổi. Có nghĩa là những cái gì đã xây dựng được nước (dưới chế độ Chính phủ) trở thành lạc hậu thậm chí phải phá bỏ. Hiệu quả gây ra sự thiệt hại về lợi ích, mà nhà đầu tư nước ngoài phải gánh chịu một phần và rõ ràng không đạt được mục tiêu lợi nhuận của họ. Sự mất ổn định chính trị thường biểu hiện dưới nhiều góc độ khác nhau và đi liền với nó là những hậu quả phát sinh khác làm thiệt hại đến lợi ích của nhà đầu tư. Ví dụ như xung đột giữa các phe, phái chính trị có thể làm tổn hại đến công trình đầu tư ảnh hưởng đến thị trường giá cả lao động, sự mất an ninh, trật tự xã hội, ảnh hưởng đến tính mạng tài sản của các nhà đầu tư...
Tiêu chí của sự ổn định chính trị mà các nhà đầu tư quan tâm là sự bền vững của Chính phủ, mức độ tranh quyền lực giữa cắc phe phái chính trị, hoạt động của các đảng phái nếu các điều kiện của môi trường đầu tư không đổi thì chính trị càng ổn định và độ tin cậy ngày càng cao, càng hấp dẫn đầu tư tư nhân. Trong điều kiện cạnh tranh diễn ra gay gắt trên thị trường đầu tư, ổn định chính trị có thể xem là một lợi thế so sánh cần phát huy.
Đối với Việt Nam, từ khi thực hiện sự nghiệp đổi mới, sự ổn định chính trị luôn được đảm bảo. Tuy nhiên đứng trước sự nguy cơ diễn biến hoà bình và sự phá hoại cuat các thế lực phản động trong nước cũng như quốc tế, chúng ta phải luôn luôn cảnh giác, đồng thời tiếp tục duy trì và tăng cường sự ổn định hơn nữa.
Để giữ vững và tăng cường ổn định chính trị cần phải tiếp tục thực hiện đổi mới mạnh mẽ hơn nua cả về kinh tế, chính trị xã hôi, văn hoá tư tưởng, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị thực hiện cải cách nềm hành chính quốc gia. Yếu tố quyết định sự thành công, đó là tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường vai trò của Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh, kịp thời ngăn chặn mọi âm mưu của các thế lực phản động, đảm bảo quốc phòng, an ninh, bảo vệ chủ quyền quốc gia, từng bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
1.2. Chú trọng hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách cho đầu tư nước ngoài.
Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam được đánh giá là một trong những Bộ luật "thông thoáng" và " hấp dẫn" các nhà đầu tư nước ngoài. Nhưng còn nhiều vấn đề quy định trong Bộ luật chưa thực sự phù hợp với thông lệ quốc tế với những điều kiện của một nền kinh tế thị trường và "mở" ra bên ngoài, cụ thể những vấn đề sau:
a- Cho phép thành lập liên doanh hoạt động trong nhiều lĩnh vực thay vì chỉ hoạt động trong một lĩnh vực nhất định.
Cho đến nay, theo quy định của Luật pháp hiện hành ở Việt Nam thì hầu như không cho các nhà đầu tư thành lập các doanh nghiệp đa mục đích hay đa dự án. Chính điều này, hiện đang làm cho các nhà đầu tư gặp những khó khăn. Thứ nhất, nó buộc các chủ đầu tư phải thành lập một thực thể pháp luật đối với mỗi dự án, và như vậy xin phép đầu tư và chi phí thành lập sẽ buộc phải tăng lên rất nhiều. Thứ hai, nó làm chậm trễ các dự án đầu tư, vì các dự án này chỉ có thể được triển khai sau khi có Giấy phép đầu tư. Thậm chí có trường hợp sau khi "chạy" được Giấy phép đầu tư và các thủ tục khác thì chủ đầu tư không còn ý chí để triển khai dự án nữa. Thứ ba, nó không cho phép củng cố các kết quả đã đạt được ở các dự án khác nhau cùng thực thể, bởi vì thực thể này không thể lấy phần lợi nhuận ở một số hoạt động để bù đắp về mặt thuế khóa cho phần lỗ ở các hoạt động khác.
b- Mở rộng thêm điều kiện chuyển nhượng vốn cho các bên tham gia liên doanh
Theo quy định của pháp luật hiện hành, hình thức pháp luật của công ty liên doanh là một công ty trách nhiệm hữu hạn, chứ không phải công ty cổ phần. Do đó, thiếu tự do trong việc chuyển nhượng vốn góp trong các công ty liên doanh có thể gây ảnh hưởng xấu tới tâm lý của nhà đầu tư và kìm hãm đầu tư.
c- Xem xét lại nguyên tắc nhất trí trong hội đồng quản trị của doanh nghiệp liên doanh.
Theo Điều 14 của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam ban hành ngày 12/11/1996 quy định: Hội đồng quả trị cần phải có sự nhất trí của toàn thể thành viên hội đồng mới có thể thông qua những vấn đề liên quan đến ngân sách, vay nợ, thay đổi điều lệ, duyệt quyết toán tài chính hàng năm và quyết toán công trình và bổ nhiệm lãnh đạo.
Trong gần 300 dự án bị rút giấy phép thì một tỷ lệ không nhỏ là do mâu thuẫn nội bộ hội đồng quản trị mà không giải quyết được. Nên chăng nên thay thế bằng nguyên tắc đa số tương đối (1/2) hoặc đa số tuyệt đối (2/3) trong việc thông qua những vấn đề then chốt của liên doanh.
d- Đơn giản hóa thủ tục cấp giấy phép đầu tư.
Trong bộ hồ sơ dự án FDI theo quy định của Nghị định 12/CP, và thông tư 1611 của Bộ Kế hoạch & Đầu tư vẫn có nhiều hồ sơ chồng chéo. Chẳng hạn, giữa Điều lệ và hợp đồng liên doanh có rất nhiều điều khoản giống hệt nhau.
Để đơn giản hóa quy trình xin cấp giấy phép đầu tư, có thể tính đến việc xóa bỏ hợp đồng liên doanh khỏi danh sách các tài liệu mà các bên tham gia liên doanh phải cung cấp và đưa vào Điều lệ công ty liên doanh các thông tin và tài liệu cần thiết nêu ở Điều 12 của Nghị định 12/CP. Đối với luận chứng kinh tế - kỹ thuật cần chú ý nhiều hơn phần giải trình các lợi ích kinh tế - xã hội của dự án mà khi triển khai nó đem lại cho toàn bộ nền kinh tế. Việc đánh giá các chỉ tiêu tài chính chủ yếu là công việc của các nhà đầu tư. Các cơ quan thẩm định không nên coi đó là điều kiện tiên quyết để cấp giấy phép đầu tư hay không.
e- Vấn đề chuyển đổi ngoại tệ.
Theo quy định hiện hành, các công ty có vốn đầu tư nước ngoài chỉ có thể đổi VND ra ngoại tệ khi được phép của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Không phải bất kỳ trường hợp nào Ngân hàng Nhà nướcViệt Nam cũng cho phép chuyển đổi ngoại tệ mà chỉ những dự án sản xuất thay thhe hàng nhập khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng (Thông tư 02/TT - NH7 ngày 28/6/1997). Tình trạng này đã gây ra khó khăn vì doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài cần phải có khả năng đảm bảo việc cung ứng cho xí nghiệp từ nước ngoài và chuyển lợi nhuận về nước cho nhà đầu tư nước ngoài.
Quan điểm của các nhà đầu tư nước ngoài là họ được phép bán sản phẩm, dịch vụ tại thị trường Việt Nam bằng ngoại tệ, hoặc cho phép chung tất cả các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mua ngoại tệ, nếu số ngoại tệ này dùng để nhập khẩu nguyen vật liệu hay để chuyển lợi nhuận về nước.
f- Vấn đề mở tài khoản của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Theo thông tư 02/TT - NH7 các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ được mở một hay nhiều tài khoản tại cùng một Ngân hàng mà thôi.
Quy định như vậy đã tạo nên tình trạng độc quyền, cửa quyền của Ngân hàng và không phù hợp với điều kiện của nền kinh tế thị trường, Cho nên, Nhà nước cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tại nhiều Ngân hàng ở Việt Nam, để buộc các Ngân hàng phải thực sự điều chỉnh theo quy luật cạnh tranh.
1.3. Lành mạnh hóa môi trường kinh tế vĩ mô cho đầu tư.
Sự ổn định phát triển của nền kinh tế luôn là tiền đề cho việc mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư trực tiếp của nước ngoài. Môi trường kinh tế vĩ mô tốt cho đầu tư bao hàm sự lành mạnh về giá cả hàng hóa nguyên vật liệu, về giá trị của đồng tiền và tỷ giá hối đoái, về hoạt động của hệ thống ngân hàng, về thị trường vốn, về thị trường cung ứng và tiêu thụ, về cơ chế tổ chức quản lý nền kinh tế ...
Kinh nghiệm của quốc tế cũng như của Việt Nam những năm qua cho thấy để ổn định kinh tế vĩ mô, trong môi trường phát triển đầy biến động như hiện nay, trước tiên cần phải điều chỉnh các chính sách sao cho chúng luôn có độ phù hợp cao nhất với các điều kiện thường xuyên thay đổi.
Sự ổn định về kinh tế vĩ mô trước hết và chủ yếu là sự ổn định về nền tài chính quốc gia, ổn định tiền tệ, khống chế lạm phát. Đối với vấn đề ổn định tiền tệ không những phải đưa ra được hệ giải pháp đúng đắn cho một thời kỳ xác định mà quan trọng hơn là năng lực điều chỉnh chính sách và hệ công cụ để chúng thích nghi được với những biến động nhanh chóng của tình hình. Không đạt được điều đó chắc chắn không nhà đầu tư nước ngoài nào an tâm với sự ổn định, tuy là có thực nhưng không đảm bảo được tính vững chắc của môi trường vĩ mô khi đưa ra quyết định đầu tư.
Trong quan hệ trực tiếp với hoạt động đầu tư, cần tạo ra môi trường tài chính bảo đảm cho sự vận động của vốn nói chung và vốn nước ngoài nói riêng. Có thể nêu ra một số yếu tố chính cấu thành môi trường này là: lãi suất, tỷ giá hối đoái và thị trường tài chính. Thực chất của việc tạo lập môi trường tài chính là bảo đảm sự vận động theo đúng qui tắc thị trường nhưng trong sự ổn định. Do đó điều cần được quan tâm giải quyết ở đây là:
Có quan điểm rõ ràng về vấn đề tỷ giá hối đoái, thực hiện một chính sách tỷ giá sao cho vừa đảm bảo tăng trưởng xuất khẩu, vừa không gây ra sự xáo động trong hệ thống lưu thông tiền tệ, tức là phải giữ tỷ giá ổn định trong trạng thái động. Bản chất vấn đề ở đây là sự quan niệm về tỷ giá hối đoái, tỷ giá hối đoái chỉ là một loại giá trong hệ thống giá thị trường thống nhất, do đó sự vận động của nó phải tuân theo qui luật cung cầu. Dĩ nhiên nói như vậy không có nghĩa là thả nổi tỷ giá mà không có điều tiết. Với tư cách là một bộ phận quan trọng của chính sách tiền tệ, vấn đề tỷ giá phải được xử lý trên cơ sở tín hiệu của thị trường với những điều chỉnh sao cho nó không phá vỡ các cân bằng trên thị trường tiền tệ, đồng thời phải kích thích tăng trưởng, đặc biệt là tăng trưởng xuất khẩu.
Ngoài ra còn phải đảm bảo một cơ chế tín dụng cởi mở và tương quan hợp lý của các loại lãi suất với những hình thức tín dụng khác nhau. ở đây, nhiệm vụ ổn định giá trị đồng tiền có một ý nghĩa căn bản lâu dài, bởi vì chỉ trên cơ sở đó, khung lãi suất thu hút vốn qua các kênh tín dụng mới được mở rộng.
Cơ chế tín dụng cởi mở sẽ đem lại cho các ngân hàng thương mại khả năng thu hút nhiều vốn hơn nữa để phục vụ cho các đối tượng có nhu cầu vay vốn, kể cả các đối tác nước ngoài. Nếu không đáp ứng được nhu cầu này, tiến độ đầu tư và vận hành của các xí nghiệp sẽ bị hãm lại. Trong trường hợp đó sự sụt giảm hiệu quả toàn bộ sẽ đến từ hai phía. Một phía là từ khu vực đầu tư kinh doanh sản xuất ngoài ngân hàng, phía khác là từ chính sách ngân hàng.
Để đáp ứng nhu cầu tạo vốn trung, dài hạn và định hướng đầu tư cần chuẩn bị xây dựng thị trường chứng khoán. Sự thiếu vắng thị trường này chứng tỏ tính không hoàn hảo của hệ thống thị trường tài chính. Không có thị trường chứng khoán cũng có nghĩa là thiếu một khâu then chốt của quá trình huy động các nguồn vốn trong, ngoài nước và thiếu một trung tâm điều tiết hoạt động đầu tư theo các tín hiệu thị trường. Đương nhiên, tạo dựng thị trường chứng khoán là cả một quá trình. Song, trong khuôn khổ mục tiêu tăng trưởng nhanh, cần có sự nỗ lực cho nó một cách thực tiễn càng sớm càng tốt.
2. Thực hiện đồng bộ chính sách khuyến khích đầu tư, phối hợp tối ưu giữa đầu tư trong nước với FDI, giữa ODA và FDI.
2.1. Hoàn thiện các chính sách khuyến khích đầu tư thông qua biện pháp thuế
Hiện nay vẫn còn một số quan điểm trái ngược nhau về tác động của thuế đối với FDI. Một quan điểm cho rằng thuế ít tác động đến FDI vì nhiều nhà đầu tư nước ngoài đến Việt Nam họ thường quan tâm đến mức độ an toàn vốn và sau đó mới nhìn đến thuế. Nhưng trong thời gian hiện nay vấn đề an toàn vốn không còn là sự quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư khi quyết định bỏ vốn vào Việt Nam. Do đó, thuế có tác động lớn đến FDI.
Thứ nhất, thuế ảnh hưởng đến quyết định đầu tư. Khi một nhà đầu tư dự định đầu tư vào một dự án nào đó, họ sẽ quan tâm đến trước tiên là lợi nhuận.
Thuế sẽ tác động đến lợi nhuận và do đó có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư.
Thuế đóng vai trò bảo vệ sản xuất trong nước (thuế quan nhập khẩu) sẽ kích thích đầu tư nước ngoài vào trong nền kinh tế nội địa. Thông thường, khi một mặt hàng nào đó đánh thuế nhập khẩu cao (như ô tô du lịch, xe máy, điện tử...) thì các nhà đầu tư sẽ nghĩ ngay đến việc đầu tư sản xuất tại Việt Nam để tránh hàng rào thuế quan.
Thông qua việc tác động đến giá cả hàng hóa và sức mua của người tiêu dùng, thuế sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu có hiệu lực, tức là ảnh hưởng tới dung lượng thị trường. Như vậy suy cho cùng, thế sẽ ảnh hưởng tới quyết định đầu tư.
Thứ hai, thuế ảnh hưởng tới môi trường đầu tư. Thuế là một trong những yếu tố quan trọng tạo ra môi trường đầu tư và điều này được thể hiện:
Là nguồn thu chủ yếu của ngân sách nhà nước, thuế có ảnh hưởng quyết định đến việc chi tiêu ngân sách.
Nguồn vốn ngày càng tăng tạo điều kiện vật chất cho nhà nước đầu tư vào lĩnh vực có tỷ suất lợi nhuận thấp, thời gian thu hồi vốn dài như: cơ sở hạ tầng, y tế, giáo dục... và do đó tạo môi truờng cần thiết để hấp dẫn FDI.
Thứ ba, thuế là biện pháp quan trọng trong chính sách ưu đãi đầu tư, hướng đầu tư vào các dự án thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Việc cải tiến hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài theo hướng:
Dễ tính toán, đơn giản các mức thuế.
Đảm bảo lợi ích quốc gia.
Có tác dụng khuyến khích đầu tư.
Phù hợp với thông lệ quốc tế.
2.2. Nguồn vốn FDI trong quy hoạch đầu tư phối hợp tối ưu với các nguồn vốn khác.
Nguồn vốn bên ngoài trong bàn cơ cấu vốn thời kỳ 1996 - 2000 đạt khoảng 20 - 25 tỷ USD để đáp ứng 50% nhu cầu còn lại, bao gồm:
Hỗ trợ phát triển chính thức - ODA khoảng 8-10 tỷ USD.
Đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI khoảng 10-12 tỷ USD.
Phát hành trái phiếu trên thị trường vốn quốc tế khoảng 2-4 tỷ USD.
Ngoài ra, tín dụng thương mại là một nguồn vốn chủ yếu nhằm hỗ trợ cho các hoạt động thương mại, xuất nhập khẩu và xét theo một nghĩa nào đó cũng là hỗ trợ cho đầu tư.
Các nguồn vốn vay này phải có một mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau và theo một tỷ lệ hợp lý, tối ưu.
Nếu chúng ta không vay được vốn ODA đủ mức cần thiết để hiện đại hóa cơ sở hạ tầng - xã hội thì khó có thể thu hút và hấp thụ một cách có hiệu quả nguồn vốn FDI. Ngược lại, nếu chỉ tập trung tìm kiếm các nguồn ODA, mà không thu hút các nguồn vốn FDI thì sẽ không đủ thu nhập để chính phủ trả nợ ODA.
Hiện nay khó có thể đưa ra một tỷ lệ hợp lý, chính xác giữa các nguồn vốn, nhưng có một dấu hiệu cho thấy tỷ lệ hợp lý đó là nhịp độ tăng vốn FDI vào nước ta. Sự mất cân đối giữa các nguồn vốn là nguyên nhân quan trọng làm giảm dòng chảy FDI vào Việt Nam. Tuy nhiên, đến một giai đoạn nhất định nguồn ODA và FDI sẽ giảm, nhường vị trí cho vốn trong nước.
Biện pháp tích cực nhằm bảo đảm tỷ lệ hợp lý giữa các nguồn vốn cho phát triển kinh tế ở Việt Nam hiện nay là:
Đa dạng hóa các phương thức thu hút vốn nước ngoài từ các nguồn vốn khác nhau.
Tạo niềm tin cho nhà đầu tư (chính sách đổi mới của Việt Nam tiếp tục sẽ phát triển cao; hệ thống pháp luật sẽ tạo một hành lang pháp lý an toàn cho vốn đầu tư của họ và tạo một sân chơi bằng phẳng cho mọi nhà đầu tư; một hệ thống cơ sở hạ tầng về tài chính tạo thuận lợi cho họ sẵn sàng chuyển dịch vốn đầu tư).
Giá cả của quyền vốn phải do các lực lượng cung - cầu vốn quyết định. Giá cả của các quyền vốn chính là lãi suất. Đã đến lúc cần phải tính đến việc thả nổi lãi xuất theo tình hình cung - cầu vốn từng thời điểm.
Phát triển thị trường vốn đi vào đời sống xã hội. Chỉ có như vậy quá trình huy động vốn đầu tư không chỉ mang lại sự tăng trưởng cho nền kinh tế mà còn mang lại sự phát triển đời sống của người dân với ý nghĩa thực sự của thuật ngữ phát triển.
Hấp thụ và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư. Mục tiêu chiến lược của Nhà nước ta không phải là thu hút bao nhiêu dự án FDI, với tổng số vốn đầu tư là bao nhiêu, mà là làm thế nào để hấp thụ sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đó.
Các định chế tài chính Việt Nam (cấp trung gian) phải vươn lên đóng vai trò là người mở đường, thâm nhập và khảo sát cơ hội đầu tư và sẽ là người thiết lập các dự án đầu tư, người tư vấn đầu tư, người vận động, thu hút các nguồn vốn và sau cùng là người tài trợ, cấp vốn và tham gia hùn vốn trở thành những cổ đông chủ chốt của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Tham gia vào hoạt động hiện nay ở Việt Nam đã có 3 Ngân hàng liên doanh, 11 chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và 55 văn phòng đại diện Ngân hàng Nhà nước của hơn 40 quốc gia.
Thành lập thị trường chứng khoán ở Việt Nam (TTCK).
Mặc dù gần đây ở Việt Nam đã có các loại chứng khoán dưới các hình thức trái phiếu doanh nghiệp Nhà nước, trái phiếu và cổ phần công ty, song cho đến nay Việt Nam mới chỉ có thị trường phát hành (thị trường sơ cấp) mà chưa có thị trường mua - bán trái phiếu và cổ phiếu giữa các nhà đầu tư (thị trường thứ cấp).
Việc thành lập thị trường chứng khoán sẽ tác động tích cực trước hết là làm cho FDI có thêm hình thức mới, có thêm kênh mới thu hút nguồn vốn này. Mặt khác thị trường chứng khoán sẽ có tác động làm chuyển dịch tích cực nguồn vốn đã đầu tư trực tiếp ở các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài hoặc doanh nghiệp liên doanh có điều kiện đổi mới cơ cấu vốn của mình, phân tán rủi ro và tranh thủ hình thành cơ cấu vốn theo mục tiêu tối ưu hóa hiệu quả đồng vốn của mình.
3. Lập chương trình, quy hoạch thu hút FDI.
3.1. Nguồn vốn FDI phải được bố trí trên bàn cờ chiến lược chung của các nguồn vốn.
Về mặt chiến lược và lâu dài, nguồn vốn trong nước là quyết định và là điều kiện để tiếp thụ nguồn vốn nước ngoài, nhưng trong những năm trước mắt, nguồn vốn bên ngoài là đặc biệt quan trọng đối với việc phát triển kinh tế đất nước. Trong nguồn vốn bên ngoài, vốn FDI có nhiều lợi thế hơn vốn vay vì đây là nguồn vốn tư nhân đầu tư vào Việt Nam trên cơ sở hai bên cùng có lợi, chủ đầu tư phải quan tâm đến hiệu quả kinh tế đồng thời chính phủ không phải lo trả nợ và ít chịu ảnh hưởng của các quan hệ chính trị. Ngoài ra về lâu dài, các công trình FDI sẽ thuộc nước chủ nhà.
Muốn tăng cường thu hút vốn FDI phải tạo ra nguồn vốn đối tượng trong nuớc để cải thiện cơ sở hạ tầng, mở rộng thị trường nội địa, phát triển nguồn nhân lực... Như vậy nguồn vốn đầu tư của chính phủ, nguồn vốn ODA là điều kiện để mở rộng nguồn vốn FDI. Mặt khác, ngay chính các công trình FDI cũng cần có nguồn vốn đóng góp từ các thành phần kinh tế trong nước. Cho nên, Chính phủ đã chủ trương khuyến khích huy động mọi nguồn vốn các thành phần kinh tế nhằm tăng cường đầu tư phat triển.
3.2. Hướng nguồn vốn FDI phục vụ thiết thực quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Định hướng chiến lược thu hút vốn FDI tập trung vào các lĩnh vực sau:
Xây dựng những công trình then chốt trong ngành công nghiệp như dầu khí, điện, xi măng, sắt thép, hóa chất,... nhằm cải thiện hạ tầng cơ sở của sản xuất, thực hiện một phần thay thế nhập khẩu, ổn định sản xuất, giảm giá đầu vào...
Ưu tiên các ngành công nghiệp mũi nhọn trong công nghệ và kỹ thuật như điện, vi điện tử, tin học, công nghệ sinh học, công nghệ vâth liệu mới.
Khuyến khích các dự án đầu tư phát triển sản xuất và chế biến hàng xuất khẩu trong các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp thực phẩm gần với vùng nguyên liệu.
Chú trọng đến các dự án thuộc các ngành công nghiệp dịch vụ có tỷ xuất sinh lời cao như du lịch, khách sạn, sửa chữa tầu biển, dịch vụ sân bay, cảng khẩu, kinh doanh bất động sản...
Quan tâm tới các dự án sử dụng nhiều lao động và nguyên liệu, tài nguyên sẵn có của Việt Nam. Việc thu hút vồn FDI cần hướng vào một số vùng, địa phương, đặc biệt là các vùng, địa bàn trọng điểm quốc gia có điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư để tạo cơ hội phát triển kinh tế có sức tác động lan tỏa và lôi kéo các vùng khác cùng đi lê. Cần có chính sách ưu tiên đặc biệt để thu hút vốn FDI vào những vùng nông thôn miền núi có kfó khăn về hạ tầng cơ sở để khai thác tiềm năng, thế mạnh của các vùng này (Điều 3 Luật đầu tư).
Để tăng cường khả năng hòa nhập của Việt Nam vào các tổ chức kinh tế trong khu vực và thế giới, tạo sự ổn định về kinh tế - xã hội làm cơ sở cho tăng trưởng kinh tế, cần phải có chính sách thích hợp đối với các nước lớn trên thế giới và các nước trong khu vực khi lựa chọn đối tác đầu tư. Tăng cường hợp tác đầu tư với các nước trong khu vực, đặc biệt các nước NICs và ASEAN vì ngoài lợi ích kinh tế còn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau, dễ gặp gỡ nhau trên bình diện chính trị - xã hội. Đẩy mạnh việc thu hút vốn của các nước lớn, các trung tâm, phát triển từ đầu tư song phương sang đầu tư đa phương ở những ngành then chốt, tại các vùng xung yếu (trên biển, biên giới), tại các khu công nghiệp lớn... sẽ tạo lên lực kéo nhiều chiều đảm bảo an linh đất nước, tạo nên những đối trọng cần thiết trong quan hệ tranh chấp với quốc gia khác.
4. Tăng cường hoạt động xúc tiến vận động đầu tư kết hợp với lựa chọn thẩm tra đối tác nước ngoài.
Khi mà hoạt động đầu tư nước ngoài ở Việt Nam ở giai đoạn đầu, các chủ đầu tư nước ngoài còn đang tiếp cận, thăm dò và lựa chọn thì hoạt động xúc tiến đầu tư như chiếc cầu nối lôi cuốn các công ty nước ngoài đến Việt Nam, như bà mối giúp các chủ đầu tư nước ngoài và trong nước rút ngắn thời gian tìm hiểu, tạo điều kiện để họ nhanh chóng đi đến làm ăn với nhau. Khi hoạt động đầu tư đạt đến đỉnh cao bão hòa thì lúc đó vai trò xúc tiến đầu tư sẽ giảm đi, bởi vì, khi đó môi trường đầu tư trở nên quá quen thuộc đối với các chủ đầu tư, hoạt động xúc tiến đầu tư chuyển sang môt trạng thái khác.
Có thể nói xúc tiến đầu tư tác động trực tiếp tới FDI, là công cụ để chuyển những yếu tố thuận lợi của môi trường đầu tư thông qua các cơ chế hữu hiệu của hệ thống các khuyến khích tác động đến các nhà đầu tư tiềm tàng ở nước ngoài. Đồng thời cần phải xúc tiến đầu tư vì có quá nhiều cơ hội đầu tư mới trên thế giới, sự lựa chọn của các nhà đầu tư là phải trên lượng thông tin kịp thời và chính xác trên cơ sở so sánh mức độ sinh lời và rủi ro. Cạnh tranh thu hút FDI cũng là cạnh tranh trong lĩnh vực xúc tiến, vận động đầu tư.
Hệ thống xúc tiến manh mún, thiếu đồng bộ, thiếu thống nhất và đã đến lúc phải tổ chức lại theo hướng:
Hoạch định một chiến lược xúc tiến đầu tư nhằm đáp ứng được nhu cầu của mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội.
Củng cố bộ phận xúc tiên đầu tư đủ mạnh về đội ngũ, mạnh về trình độ năng lực, theo hướng tập trung hóa cao độ chứ không phân tán, manh mún như hiện nay.
Tăng cường và có kế hoạch đưa các Bộ, Viện, Trường và các cơ quan làm công tác đối ngoại tham gia vào hoạt động xúc tiến đầu tư, phối hợp các chương trình nghiên cứu nhằm tạo thế chủ động trong giao tiếp và sử lý các quan hệ với bên ngoài.
Thiết lập quan hệ với các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư của một số nước để trao đổi thông tin, kinh nghiệm. Đẩy mạnh quan hệ với các công ty tư vấn pháp luật, dịch vụ đầu tư Quốc tế để có nguồn thông tin và có sự trợ giúp trong công tác xây dựng luật, vận động đầu tư.
Tổ chức mạnh mạng lưới xúc tiến đầu tư ở một số nước, khu vực trọng yếu. Tranh thủ sự giúp đỡ của các tổ chức Quốc tế như UNDP, UNIDO... và Việt kiều ở nước ngoài để giới thiệu môi trường đầu tư ở Việt Nam.
Sắp xếp lại các công ty, các trung tâm dịch vụ, tư vấn đầu tư, kiên quyết bãi bỏ và sử lý nghiêm khắc với các tổ chức yếu kém đang làm xấu môi trường đầu tư ở Việt Nam. Xem lại các công ty tư nhân, TNHH làm chức năng tư vấn trong lĩnh vực đầu tư. Mặc dù hiện nay Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cấp 38 Giấy phép dịch vụ tư vấn đầu tư cho một số công ty tư nhân, nhưng cần thiết phải thu hồi Giấy phép nếu các công ty này hoạt động không có hiệu quả.
Hoạt động tư vấn đầu tư phải giúp các chủ đầu tư có cơ hội chọn đúng đối tác. Đặc biệt là công tác lựa chọn thẩm tra chính xác đối tác đầu tư nước ngoài.
Đã đến lúc không phải bất cứ loại đối tác nào chúng ta cũng hoan nghênh như mấy năm đầu thực hiện đầu tư.
Lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài cần chú ý tới các tiêu chuẩn sau:
Thiện chí làm ăn lâu dài với Việt Nam, kiên quyết phat hiện và loại trừ các đối tác có tư tưởng làm ăn chộp dật, mánh mung và thậm chí lừa đảo. Có những đối tác Việt Nam không phải là bạn mà sử dụng các tiểu xảo trong giao tiếp, tranh thủ tình cảm trong giao tiếp, tình cảm của bạn hàng bằng những lời hoa mỹ, bằng quà kỷ niệm hoặc bằng những chuyến đi thăm quan nước ngoài để đạt được những ý đồ của họ.
Có năng lực cần thiết về tài chính đủ để thực hiện dự án đầu tư.
Có khả năng, kinh nghiệm trong lĩnh vực sản xuất - kinh doanh cụ thể. Sẵn sàng chuyển giao công nghệ cần thiết vào Việt Nam.
Cần sớm phát hiện và có biện pháp sử lý hữu hiệu với một số đối tác vào Việt Nam với mục tiêu phi kinh tế. Để làm được việc này cần có sự tham gia của các cơ quan chức năng của Nhà nước. Trong quá trình thực hiện chiến lược thu hút FDI chúng ta phải tự đặt mục tiêu "Hiệu quả kinh tế - xã hội" lên hàng đầu.
Để đạt được mục tiêu đó, Việt Nam đã rất mong muốn được là bạn với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị, xã hội.
5. Tăng cường quản lý các dự án FDI trong quá trình thẩm định triển khai dự án.
5.1. Định rõ mục tiêu của công tác quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Dành được càng sớm càng tốt những cái ta đang thiếu và rất cần: vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý có chọn lọc của bên ngoài, vị trí trong phân công lao động quốc tế.
Góp phần khai thác có hiệu quả mọi tiềm năng của đất nước như: lao động, tài nguyên. Thực hiện việc kết hợp tối ưu các lợi thế bên ngoài với lợi thế bên trong.
Góp phần tăng tích lũy và cải thiện đời sống của nhân dân, từng bước công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế quốc dân.
Điều tiết lợi ích kinh tế của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, bảo hộ sở hữu, bảo vệ lợi ích hợp pháp và chính đáng của người chủ đầu tư
Đảm bảo hoạt động của FDI theo hướng phát triển của toàn bộ nền kinh tế - xã hội nước ta (cơ cấu ngành, lãnh thổ, thành phần kinh tế, kinh tế trong nước, kinh tế đối ngoại).
5.2. Làm rõ nội dung quản lý Nhà nước đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Trên cơ sở chiến lược, định hướng phát triển kinh tế - xã hội của toàn bộ nền kinh tế, xác định cơ cấu FDI theo ngành, theo lãnh thổ, theo thành phần kinh tế và theo thị trường (thay thế nhập khẩu hay hướng vào xuất khẩu)
Quản lý chặt chẽ việc nhập thiết bị, chuyển giao công nghệ, tránh để nhập thiết bị, công nghệ đã hoặc sẽ nhanh lạc hậu. Nhìn chung có hai ý kiến trái ngược nhau:
Loại ý kiến thứ nhất ( trường phái cứng rắn) cho rằng: "Các nhà đầu tư nước ngoài một khi đã có tiềm lực vốn, thì không có lý do gì lại cho phép họ góp vốn vào liên doanh bằng thiết bị cũ".
Còn loại ý kiến thứ hai quan niệm "Việc không cho phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài nhập thiết bị đã qua sử dụng là không hợp lý, không phù hợp với điều kiện trước mắt của Việt Nam".
Trước tình hình như vậy, Nhà nước cần có những quy định rất cụ thể những lĩnh vực nào nhất thiết phải nhập thiết bị và công nghệ mới và những lĩnh vực nào có thể cho phép những công nghệ đã qua sử dụng, nhưng phải quy định rõ năm sản xuất chế tạo, chất lượng còn lại... để tránh nhập khẩu tràn lan các thiết bị quá cũ.
Quản lý về tỷ lệ góp vốn của các bên tham gia liên doanh và chủ đầu tư nước ngoài đối với doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài.
- Đối với liên doanh, nói chung là tỷ lệ góp vốn của phía Việt Nam càng cao càng tốt, nhất là đối với các dự án qua trọng, tỷ suất lợi nhuận cao và thời gian thu hồi vốn nhanh.
- Hiện nay do hạn chế của ta về vốn nên tỷ lệ góp vốn của bên Việt Nam trong vốn pháp định khoảng 25 - 30%. ở đây chúng ta cần chú ý một số vấn đề liên quan:
Thứ nhất, Nhà nước cần quy định tỷ lệ góp vốn của Bên Việt Nam tối thiểu là 50% vốn pháp định. Nếu các dự án quy mô quá lớn (như dự án xây dựng khu phức hợp đa năng có tên "Quảng trường Sài Gòn hạnh phúc" có tổng vốn đầu tư 486.427.000 USD) có thể cho phép tỷ lệ vốn pháp định bằng 25% tổng vốn đầu tư.
Thứ hai, khuyến khích các công ty Việt Nam cùng góp vốn chung để có được cổ phần lớn trong các liên doanh.
Thứ ba, Nhà nước cần có chính sách cụ thể trong việc huy động vốn trong nước cho những lĩnh vực thu lợi nhuận nhanh và lôi kéo các Ngân hàng của Việt Nam vào cuộc (thực sự góp vốn cùng đầu tư).
Thứ tư, cần có biện pháp tính toán, kiểm soát chặt chẽ về giá cả máy móc, thiết bị công nghệ phía nước ngoài góp để tránh trường hợp họ nâng giá một cách vô lối gây thiệt thòi không chỉ Bên Việt Nam mà cho cả lợi ích Nhà nước Việt Nam.
Thứ năm, việc nâng giá thiết bị nhập khẩu thuộc phần góp vốn của Bên nước ngoài gây thiệt hại trước hết cho Nhà nước Việt Nam, vì khi chi phí sản xuất được nâng lên thì lợi nhuận của Bên liên doanh giảm xuống và kéo theo sự giảm sút khoản thuế lợi tức phải nộp cho Nhà nước.
Xét về lợi ích đối tác tham gia liên doanh, việc nâng giá gây thiệt hại cho Bên Việt Nam vì thông thường Bên nước ngoài góp vốn bằng thiết bị hoặc được liên doanh ủy quyền nhập khẩu máy móc thiết bị. Giá máy móc thiết bị bên nước ngoài khai vống lên kéo theo sự gia tăng giả tạo tỷ lệ góp vốn của Bên Việt Nam và đương nhiên lợi nhuận chia cũng giảm đi.
Quản lý việc nhập khẩu máy móc, thiết bị, công nghệ của doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài không đòi hỏi phải chặt chẽ như đối với doanh nghiệp lên doanh. Nhưng cần có quy định các chỉ tiêu tối thiểu mà các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài phải thỏa mãn (chất lượng thiết bị, giá cả...).
Quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp cóa vốn đầu tư nước ngoài.
- Hiện nay mới có khoảng 12 vạn lao động trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Theo dự báo đến năm 2000 sẽ có hàng chục vạn người trực tiếp làm việc trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Cho nên vấn đề quản lý lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp FDI có ý nghĩa quan trọng.
- Để quản lý có hiệu quả lao động tiền lương đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, Nhà nước cần có những biện pháp tình thế và những biện pháp lâu dài.
Biện pháp tình thế gồm:
Nghiên cứu và đưa ra được những phương thức hoạt động hữu hiệu của các tổ chức Đảng, Công đoàn... cho phù hợp với điều kiện hoạt động và đặc thù của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Bồi dưỡng nâng cao năng lực và bố trí hợp lý các cán bộ Việt Nam tham gia Hội đông quản trị và các chức vụ chủ chốt trong doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ban hành các quy định chức năng cung ứng lao động đối với các đơn vị cung ứng lao động và chủ những đơn vị nào có đủ điều kiện và được Bộ Lao động Thương binh và Xã hội cấp chứng chỉ hành nghề thì mới được hoạt động cung ứng lao động cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Biện pháp dài hạn (chiến lược) gồm:
Nhà nước ban hành quy chế đảm bảo cho thị trường lao động Việt Nam tồn tại và phát triển một cách đầy đủ và đúng quy luật. Có như vậy mới đảm bảo sự cạnh tranh bình đẳng của các loại doanh nghiệp trên thị trường lao động và quyền lợi của người lao động.
Nhà nước cần quy định và bắt buộc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chấp hành nghiêm chỉnh những chính sách chế độ về tuyển dụng lao động như chế độ làm việc, nghỉ ngơi, an toàn lao động, tiền công, tiền thưởng, bảo hiểm xã hội, bồi dưỡng nâng cao tay nghề và các quyền lợi chính đáng khác của người lao động.
5.3. Quản lý dự án FDI sau khi được cấp giấy phép đầu tư.
Việc cải cách công tác thẩm định dự án FDI hiện nay theo hướng các cơ quan nhà nước, khi thẩm định không thể và không nên can thiệp quá sâu vào những tính toán kinh doanh của các chủ đầu tư mà cần trở lại đúng chức năng của mình là đảm bảo lợi ích Nhà nước trong khuôn khổ pháp luật.
Việc theo dõi các chủ đầu tư hoạt động có đúng quy định của giấy phép đầu tư hay không là vấn đề cấp bách và phức tạp nhất hiện nay. Công tác quản lý nhà nước dự án sau khi được cấp Giấy phép đầu tư và trong toàn bộ quá trình triển khai có tác động trực tiếp tới hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động hợp tác đầu tư. Đó là sự tham gia của dự án FDI vào việc tạo ra lực lượng sản xuất mới, tạo thêm ngành nghề mới và sản phẩm mới, áp dụng công nghệ tiên tiến và kiến thức quản lý kinh doanh hiện đại, mở rộng thị trường nội địa và thị trường thế giới, tạo thêm việc làm và đảm bảo lợi ích chính đáng của người lao động, tăng nguồn thu cho ngân sách.
Quản lý hàng chục tỷ USD với hàng ngàn doanh nghiệp trải rộng trên phạm vi cả nước với nhiều vụ việc thường xuyên phát sinh, đòi hỏi phải xây dựng một bộ máy Nhà nước thực sự vững mạnh, ổn định lâu dài vừa đủ sức quản lý FDI, vừa tạo niềm tin đối với các chủ đầu tư nước ngoài.
6. Một số biện pháp cụ thể để mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư nước ngoài trong thời gian tới.
Nhanh chóng xây dựng và hoàn chỉnh quy hoạch đầu tư phát triển chi tiết theo ngành nghề, địa bàn, đối tác, yêu cầu kỹ thuật, công nghệ,... theo hướng tập trung thành các cụm, khu công nghiệp và tập trung vào những ngành, nghề, đối tác có công nghệ tiên tiến, sản phẩm có tỷ lệ xuất khẩu cao và tập trung vào các Công ty, tập đoàn mạnh, có uy tín quốc tế để đảm bảo tính khả thi và ổn định trong quá trình triển khai dự án.
Công bố công khai các danh mục dự án thu hút đầu tư nước ngoài, vùng, địa điểm cụ thể, yêu cầu quy hoạch, kiến trúc và khung giá cho thuê đất và các ưu đãi đầu tư để các doanh nghiệp trong và ngoài nước chủ động trong thu hút đầu tư và rút ngắn thời gian lập hồ sơ, xin Giấy phép đầu tư.
Chủ động trong việc xúc tiến đầu tư, không chờ đợi; mở rộng quan hệ trực tiếp với các công ty, tập đoàn lớn đã đầu tư ở Việt Nam hoặc các công ty lớn đang có nhu cầu đầu tư vào Việt Nam. Đẩy mạnh việc vận động, tạo điều kiện để các công ty, tập đoàn lớn đã có dự án đầu tư ở Việt Nam mở rộng quy mô, lĩnh vực hoạt động, tăng cường tái đầu tư.
Chuẩn bị tốt mọi lực lượng, bộ máy, quy trình kỹ thuật cho việc xét duyệt cấp Giấy phép đầu tư khi được phân cấp. Đảm bảo việc cấp Giấy phép được tiến hành nhanh, thuận tiện, đúng thủ tục. Xây dựng và ban hành quy chế phối hợp giữa các ban, ngành có liên quan đến hoạt động thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước theo cơ chế “một đầu mối”, tập trung vào Bộ và các Sở Kế hoạch & Đầu tư.
Huy động mọi nguồn vốn trong và ngoài nước dưới nhiều hình thức để cải tạo, nâng cấp, mở rộng, nâng cao chất lượng hệ thống kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội; đô thị theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tập trung cao độ cho các dự án cải tạo, nâng cấp các cảng biển, sân bay, hệ thống đường giao thông, hệ thống cấp điện, cấp nước, ....
Từng bước hình thành các tổ chức tư vấn, dịch vụ để cung cấp thông tin, dịch vụ cần thiết cho các nhà đầu tư trong quá trình xúc tiến, lập hồ sơ xin Giấy phép đầu tư cũng như trong quá trình triển khai dự án theo phương thức “dịch vụ một cửa”.
Có chính sách, chế độ khuyến khích, khen thưởng vật chất, tinh thần đối với các tổ chức, cá nhân có thành tích trong hoạt động thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài.
Tăng cường công tác quản lý dự án sau khi được cấp Giấy phép nhằm giải quyết nhanh, kịp thời những tồn tại, vướng mắc trong quá trình triển khai dự án. Đẩy mạnh việc kiểm tra định kỳ, thường xuyên việc chấp hành pháp luật, thực hiện Giấy phép đầu tư, nghĩa vụ tài chính với các dự án đã hoạt động nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của hoạt động đầu tư nước ngoài. Kiên quyết xử lý đối với các trường hợp vi phạm luật pháp, không thực hiện đúng quy định trong Giấy phép đầu tư, dây dưa kéo dài; kể cả biện pháp thu hồi Giấy phép. Tăng cường vai trò của các tổ chức chi bộ, công đoàn, thanh niên trong các tổ chức có vốn đầu tư nước ngoài.
Khẩn trương khảo sát, xây dựng kế hoạch và tiến hành đào tạo cho cán bộ, công nhân viên chuẩn bị đủ điều kiện khi tham gia trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; đào tạo bổ xung, đào tạo lại; tổ chức câu lạc bộ giám đốc các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để trao đổi, rút kinh nghiệm, nâng cao trình độ cho bộ phận lãnh đạo các doanh nghiệp và cơ quan quản lý. Có chương trình đào tạo đầy đủ, lâu dài với lực lượng trẻ để tiếp tục, kế cận cho các giai đoạn sau.
Rà soát lại và hoàn chỉnh pháp nhân cho một số đối tác Việt Nam để tham gia liên doanh nhằm tăng cường sức mạnh, trách nhiệm và vai trò của đối tác Việt Nam trong quá trình triển khai dự án. Tạo các điều kiện cần thiết để từng bước tăng dần tỷ trọng góp vốn của phía Việt Nam trong các doanh nghiệp liên doanh.
Chủ động chuẩn bị các đối tác Việt Nam và cán bộ Việt Nam có đủ năng lực tham gia các dự án hợp tác đầu tư với nước ngoài.
Kết luận
Hiện nay, việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang trở thành một bộ phận chủ yếu trong quan hệ kinh tế thế giới và là nhân tố quan trọng hàng đầu có nhiều nước, nhằm hỗ trợ và phát huy lợi thế của mỗi quốc gia để phát triển. Nhu cầu đầu tư ngày càng cao trở nên bức thiết trong điều kiện của xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, của cuộc cách mạng khoa học. Công nghệ và phân công lao động quốc tế ngày càng tăng. Đối với các nước đang phát triển đầu tư của nước ngoài là một trong những nhân tố chủ yếu cho sự tăng trưởng kinh tế và một trong những chỉ số cơ bản đánh giá khả năng phát triển.
Việt Nam xây dựng chủ nghĩa xã hội từ điểm xuất phát thấp về các điều kiện kinh tế, kỹ thuật... Đảng và Nhà nước ta đã đề ra mục tiêu tổng quát đến năm 2000 là “ra khỏi khủng hoảng, ổn định tình hình kinh tế - xã hội, phấn đấu vượt tình trạng nước nghèo và kém phát triển, cải thiện đời sống nhân dân, củng cố quốc phòng và an ninh, tạo điều kiện cho đất nước phát triển nhanh hơn vào đầu thế kỷ XXI”.
Để đạt được mục tiêu nói trên phải thực hiện tổng hợp các biện pháp trong đó việc đẩy mạnh thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài có tầm quan trọng hàng đầu, và đây cũng là vấn đề mới mẻ đối với nước ta, nó vừa được triển khai trong bối cảnh cạnh tranh công khai quyết liệt trên thị trường đầu tư giữa các nước trên thế giới và khu vực.
Thực tế cho thấy rằng đầu tư nước ngoài mà chủ yếu đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) là điều kiện cần thiết để bổ sung nguồn vốn phát triển kinh tế quốc dân. Bất cứ nơi nào, bất kỳ nơi nào, bất kỳ ngành nào cũng cần vốn đầu tư để phát triển. Vì vậy cần phải có các giải pháp nhằm thu hút nhiều hơn vốn đầu tư nước ngoài nói chung và vốn FDI nói riêng sao cho có hiệu quả. Vần đề đặt ra nữa là tiếp nhận vốn đã khó song sử dụng vốn để có được hiệu quả lại càng khó hơn và chỉ khi nào sử dụng có hiệu quả thì việc thu hút đầu tư mới có ý nghĩa thiết thực.
Tài liệu tham khảo
1. Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam.
2. Nghị định 12/CP, Nghị định 10/CP - Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
3. Giáo trình Kinh tế học quốc tế - Chủ biên: GS.PTS. Tô Xuân Dân. NXB Giáo dục, 1995.
4. Giáo trình Quản trị dự án đầu tư quốc tế và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - Chủ biên: GS.PTS. Tô Xuân Dân. NXB Thống kê, 1998.
5. Giáo trình Kinh doanh quốc tế - Chủ biên: PTS. Đỗ Đức Bình. NXB Giáo dục - 1997.
6. Giáo trình Đầu tư nước ngoài - Đại học Ngoại thương. Hà Nội.
7. Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật đầu tư nước ngoài - Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
8. Báo cáo "Tình hình và phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam" - Bộ Kế hoạch & Đầu tư.
9. Kinh tế các nước Đông Nam á - NXB Giáo dục. Hà Nội /1997.
10. Đầu tư nước ngoài vào Việt Nam - Nguyễn Anh Tuấn - Phan Hữu Thắng - Hoàng Văn Huấn - Nhà xuất bản Thế giới 1994.
11. Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam - 1996. Viện nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương.
12. Đề tài khoa học "Tác động của đầu tư trực tiếp nước ngoài đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam" - PTS. Nguyễn Phúc Khanh; PTS. Vũ Chí Lộc.
13. Báo cáo đầu tư thế giới 1996 và Số liệu DRS Ngân hàng thế giới.
14. Thời báo Kinh tế Việt Nam.
15. Báo Việt Nam - Đầu tư nước ngoài.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0018.doc