Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty Vilexim

Các năm 1998, 1999, 2000: mặt hàng nông sản xuất khẩu của công ty giống nhau. Ngoài các mặt hàng xuất khẩu năm 1997, các mặt hàng cà phê, hạt tiêu, hành, tỏi đã tìm lại được chỗ đứng của mình. Ngoài ra công ty còn xuất khẩu thêm một số mặt hàng khác như gạo, kê, che, lá tre và nâng tổng số mặt hàng xuất khẩu của công ty là 12. Lạc nhân vẫn là mặt hàng được xuất khẩu với số lượng lớn nhất trong 3 năm 1998, 1999, 2000. Tiếp theo đó là hạt tiêu, hạt điều, gạo, cà phê. Tuy nhiên các mặt hàng này có một chút sự thay đổi vị trí xếp hạng trong từng năm. Năm 2001, cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của công ty có sự biến động mạnh so với các năm trước đó. Điển hình là sự tăng đột biến trong xuất khẩu gạo. Mặt hàng gạo từ chỗ đứng vị trí thứ 3 trong kim ngạch xuất khẩu năm 1998, thứ 2 năm 1999 và năm 2000, chiếm tỷ trọng khẩu trên 10% trong tổng kim ngạch xuất hàng nông sản thì đến năm 2001 gạo đã vươn lên đứng vị trí thứ nhất với tỷ trọng trên 40%. Ngoài ra số lượng mặt hàng nông sản đã bị thu hẹp xuống còn 8 với sự biến mất của cà phê, hạt điều, kê, lá tre và sự trở lại của sắn lát, sự xuất hiện của mặt hàng mới (hoa hồi). Nguyên nhân làm cho hai mặt hàng cà phê, hạt điều (các mặt hàng xuất khẩu chủ lực các năm trước của công ty) biến khỏi danh sách hàng nông sản xuất khẩu năm 2001 là: cung các mặt hàng này trên thị trường thế giới tăng nhưng cầu lại giảm mạnh. Do đó hàng của công ty không thể cạnh tranh để tiêu thụ ở thị trường thế giới.

doc82 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1454 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty Vilexim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g lai công ty vẫn rất chú trọng đến việc khai thác tốt thị trường này bởi thị trường này có những yếu tố thuận lợi trên. Thị trường Châu Phi. Đây là thị trường lớn thứ hai tiêu thụ sản phẩm của công ty. Thị trường này có nhu cầu tương đối lớn, chất lượng hàng không quá cao nhưng công ty phải chấp nhận hệ số rủi ro cao do khả năng thanh toán có hạn, bị động bới các nước viện trợ. Tại châu lục này các sản phẩm là nông sản của công ty chủ yếu được xuất khẩu sang các nước ở Tây Phi như Camơrun, Côtđiva. Mới đây, Liên Hợp Quốc đã quyết định thực hiện chính sách chỉ hỗ trợ nhập khẩu lương thực cho những nước có khủng hoảng về chính trị đã làm cho thị trường của công ty ở khu vực này bị thu hẹp trong hiện tại và tương lai. Thị trường Trung Đông. Iran và Irăc là các bạn hàng chủ yếu của công ty ở thị trường này. Tuy nhiên, do chưa hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trường nên kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tới thị trường này chưa cao. Thị trường châu Âu và châu Mỹ. Đâylà hai thị trường chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong quan hệ kinh doanh với công ty. Châu Âu luôn được đánh giá là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng nhưng cũng rất “khó tính”. Tại thị trường này người tiêu dùng chỉ chấp nhận hàng hóa có chất lượng cao mặc dù họ phải trả giá đắt, các tiêu chuẩn về hàng hóa đặc biệt là đối với hàng nông sản được thị trường này đề ra rất ngiêm ngặt. Vì vậy có một thực tế là, mặc dù đã rất cố gắng để nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng công ty vẫn chưa vượt qua được “hàng rào về chất lượng’’. Năm 1995, công ty chưa có quan hệ làm ăn với thị trường này. Đến năm 1996, một tỷ lệ nhỏ hàng nông sản đã được xuất khẩu sang Hà Lan và Đức đánh dấu một bước phát triển mới của công ty ở thị trường Châu Âu. Từ năm 1997 đến nay, luôn có một tỷ lệ nhỏ hàng hóa của công ty được xuất khẩu sang khu vực tuy nhiên tỷ lệ này lại không ổn định mà nó luôn biến động do những biến động về cung trên thị trường. Nghĩa là chỉ khi các quốc gia cung ứng mặt hàng như của công ty gặp phải biến cố về khí hậu, thời tiết, an ninh... thì công ty mới có cơ hội tìm được một số đơn đặt hàng từ thị trường này. Châu Mỹ là một thị trường xa xôi, hiệu quả kinh doanh thấp so với các thị trường khác song vẫn có một số lượng nhỏ hàng nông sản của công ty được xuất khẩu sang thị trường này. Điều đó chứng tỏ công ty luôn tận dụng mọi cơ hội để tăng kim ngạch xuất khẩu. Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty. Một số lượng lớn hàng xuất khẩu của công ty khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng phải qua các trung gian nước ngoài. Với cách thức tiêu thu này công ty ít phải tốn các chi phí để khuyến mại, khuếch trương, xây dựng các kho chứa hàng và bán hàng ở nước ngoài, không phải đầu tư trang thiết bị để bảo quản hàng hóa. Tuy nhiên điều này cũng đồng nghĩa với các hoạt động để đưa hàng hóa của công ty đến tay người tiêu dùng cuối cùng cũng bị thâu tóm bởi các trung gian nước ngoài. Hoạt động của công ty bị động bởi đơn đặt hàng của họ. Công ty không được tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng nên không có được các thông tin phản hồi về giá cả, chất lượng và sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng từ phía họ nên công ty không thỏa mãn được một cách tối ưu yêu cầu về hàng hóa của họ. Thêm vào đó, khi ký hợp đồng với các nhà nhập khẩu nước ngoài, giá mà công ty hay sử dụng là giá FOB tại cảng Việt Nam. Với giá bán này trách nhiệm của công ty với khàch hàng là không nhiều, vốn của công ty được quay vòng nhanh. Tuy nhiên lợi nhuận thu được trên một đồng vốn công ty bỏ ra là không cao. Đây là những nguyên nhân làm hiệu quả hoạt động kinh doanh nông sản của công ty chưa cao trong thời gian qua. Đánh giá chung về hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty. Sự biến động tình hình kinh tế, chính trị, tài chính thế giới trong thời gian qua đã tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty VILEXIM nói riêng. Vượt lên những khó khăn trong thời gian qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn rất nhiều tồn tại mà công ty cần giải quyết. Những ưu điểm trong xuất khẩu nông sản của công ty. Chủng loại hàng xuất khẩu ngày càng phong phú và đa dạng, số lượng xuất khẩu của từng mặt hàng ngày càng tăng. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu và xúc tiến tiêu thụ hàng nhập khẩu đang từng bước cải thiện để thích ứng với môi trường kinh doanh mới. Công ty đã chọn được những khu vực thị trường tối ưu để thu mua từng loại sản phẩm, đã bắt đầu lập nên các cơ quan đại diện ở nước ngoài, đã tích cực tham gia các hội chợ triển lãm... Chất lượng hàng của công ty đang ngày một nâng cao. Từ chỗ hàng của công ty chỉ được xuất khẩu sang thị trường của một số nước trong ASEAN (khu vực thị trường có yêu cầu chưa cao về chất lượng) đến nay hàng xuất khẩu của công ty đã bắt đầu thâm nhập được những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng như thị trường EU, thị trường Nhật Bản. Thị trường tiêu thụ hàng của công ty cũng được mở rộng đáng kể theo hướng đa dạng hơn. Nếu như những năm mới tham gia xuất khẩu, thị trường của công ty chỉ bó hẹp ở Châu á (thị trường tương đồng về thói quen, sở thích tiêu dùng và yêu cầu về chất lượng không cao) thì đến nay hàng xuất khẩu của công ty đã có mặt ở hầu khắp các Châu lục. Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng lên qua các năm, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều cá nhân ở trong và ngoài công ty. Một số tồn tại và nguyên nhân của các tồn tại . Một số tồn tại trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty. Trong thời gian qua, hàng nông sản xuất khẩu của công ty chủ yếu là ở dạng thô hoặc mới qua sơ chế nên hiệu quả xuất khẩu chưa cao, hàng của công ty chưa thâm nhập sâu vào các thị trường khó tính nhưng nhiều tiềm năng như thị trường Mỹ, Châu Âu, Nhật Bả.pn. Công ty thiếu thông tin về sự biến động tình hình cung, cầu, gía cả... trên thị trường. Thông tin là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của một doanh nghiệp. Cũng như các doanh nghiệp nhà nước khác, một vấn đề bức xúc của công ty VILEXIM hiện nay là công ty rất thiếu thông tin về thị trường. Do thiếu thông tin nên công ty chưa phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị trường và chưa chớp được thời cơ kinh doanh. Khi gía thị trường lên cao thì công ty lại không có hàng để xuất. Ngược lại khi giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư thừa, công ty phải xuất khẩu với giá thấp. Đồng thời do thiếu thông tin nên công ty chưa đáp ứng được một cách tối ưu nhu cầu của thị trường. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty cũng còn nhiều bất cập. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty thường bị động. Công ty thu mua hàng chủ yếu dựa vào các đơn đặt hàng của nước ngoài chứ ít có sự chuẩn bị dự trữ sẵn hàng để đáp ứng cho những đơn đặt hàng vào những lúc trái vụ nên nhiều khi công ty đã bỏ lỡ cơ hội ký kết hợp đồng xuất khẩu. Đặc biệt là với kiểu kinh doanh chắc bán, chắc mua như hiện nay công ty dễ bị nhà cung ứng cấu kết ép giá mỗi khi công ty cần lô hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu. Công ty mới chỉ thực hiện được các hoạt động thu mua đơn thuần mà chưa thiết lập được mạng lưới thu mua rộng khắp tại các cơ sở. Công ty chưa có hệ thống chân hàng ổn định và có thể cung cấp hàng hóa đồng bộ có chất lượng cao. Công tác kiểm tra chất lượng khi thu mua được thực hiện rất thô sơ, chủ yếu chỉ dựa vào trực quan của cán bộ thu mua. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng lạc xuất khẩu. Mặt hàng này thường được kiểm tra dựa vào sự quan sát màu sắc của lụa lạc và độ bong của nó. Hoặc có chăng thì nó được kiểm tra bằng một cái máy đo nhỏ, chỉ kiểm tra được với một khối lượng nhỏ. Như vậy có thể thấy với cách kiểm tra này công ty chỉ kiểm tra được với một khối lượng nhỏ chất lượng hàng đã qua kiểm tra cũng mới chỉ ở mức trung bình chứ chưa đáp ứng được yêu cầu cao của những thị trường khó tính. Nguyên nhân của các tồn tại. Trước hết xuất phát từ hoạt động sản xuất hàng nông sản trong nước. Công ty VILEXIM có chức năng kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản song công ty không trực tiếp sản xuất hàng để xuất khẩu. Do vậy chất lượng hàng xuất khẩu của công ty hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động sản xuất hàng nông sản trong nước. Tuy nhiên trong thời gian qua hoạt động sản xuất nông sản trong nước chưa thực sự nhận được sự đầu tư, quan tâm chỉ đạo sắt sao của nhà nước. Hoạt động sản xuất nông sản hầu như mang tính tự phát, tự giác. Nông dân thích gieo trồng loại cây nào, giống nào, thời vụ gieo trồng, kỹ thuật gieo trồng như thế nào là tùy. Do vậy có hiện tượng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học và các thuốc kích thích tăng trưởng được sử dụng một cách bừa bãi; nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều hộ nông dân chạy theo năng suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng chưa cao. Chẳng hạn: Do chưa có sự chỉ đạo của nhà nước nên việc mở rộng quá mức diện tích lúa vụ 3 ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hay việc sử dụng các giống lúa lai cho năng suất cao nhưng chất lượng lại thấp của nông dân các tỉnh phía Bắc đã tác động đến chất lượng gạo xuất khẩu của công ty. Công tác chế biến, bảo quản hàng sau khi mua đã gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty. Trong thời gian qua công ty chưa đầu tư thích đáng vào công tác chế biến hàng xuất khẩu. Hiện tại các cơ sở chế biến hàng nông sản của có trang thiết bị đã lỗi thời, lạc hậu nên năng lực chế biến thấp, chất lượng hàng đã qua chế biến không cao. Do vậy hàng xuất khẩu của công ty chủ yếu là ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, chưa đáp ứng được yêu cầu chung của thị trường thế giới. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng cà phê: Thế giới chuyển sang dùng cà phê hòa tan, bánh kẹo bằng cà phê, cà phê chè được tiêu thụ chủ yếu thì cà phê xuất khẩu của công ty chủ yếu là cà phê thô hoặc mới chỉ qua sơ chế. Đối với mặt hàng chè: 80% tổng lượng tiêu thụ chè của thế giới là chè túi, chè hộp, thì chè xuất khẩu của công ty chủ yếu là chè đen và chè xanh. Thông thường một kho chứa hàng nông sản phải đáp ứng được những tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định như phải vệ sinh, có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp với đặc tính của từng mặt hàng nhằm hạn chế sự biến dạng, biến chất, nấm mốc. Tuy nhiên kho chưa hàng của công ty mới chỉ đơn thuần là nơi chứa hàng chứ chưa đáp ứng được những yêu cầu về kỹ thuật. Do vậy đã gây ảnh hưởng đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty và nhiều khi còn gây thiệt hại cho công ty. VD: Mùa lạc năm 1997-1998 do công ty bảo quản không tốt tại kho Đan Phượng - Hà Tây nên toàn bộ số lạc 50 tấn của công ty đã bị mốc hỏng, tới hạn giao hàng công ty đã không giao đủ số hàng nên đã phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng. Hiện tại, công ty chưa có một bộ phận chuyên trách đảm nhận nhiệm vụ thu thập và xử lý thông tin. Công tác này được thực hiện bởi từng cá nhân ở các phòng xuất nhập khẩu trong công ty nên rất yếu ớt và lẻ tẻ. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho công ty thiếu thông tin về thị trường. Chất lượng nguồn nhân lực cũng là một trong những nhân tố tác động đến hoạt động thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản trong công ty. Hiện tại nếu phân theo độ tuổi thì trong công ty có 24% người ở độ tuổi từ 18 - 25, 64% người ở độ tuổi từ 36 - 50 và 12% người ở độ tuổi trên 50. Nếu phân theo trình độ văn hóa thì hiện tại trong công ty có 7% số người tốt nghiệp phổ thông trung học, 38% tốt nghiệp cao đẳng, 48,7% tốt nghiệp đại học và có 6,7% số người tốt nghiệp trên đại học. Như vậy ta có thể thấy hiện tại vẫn còn một số lượng khá lớn số người trong công ty có trình độ dưới đại học. Hêm vào đó, hiện tại có tới 76% số người trong công ty có độ tuổi trên 35. Đây là độ tuổi mà ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu. Bởi vậy nên mặc dù đã cố gắng rất nhiều song trình độ chuyên môn chọ vẫn còn hạn chế, họ vẫn quen với lề lói làm việc quan liêu và thụ động. Như vậy có thể thấy, hiện tại công ty vẫn còn thiếu một đội ngũ lao động trẻ, vững chyên môn, giỏi ngoại ngữ, xông xáo, giám nghĩ giám làm. Đây là một khó khăn lớn cho quá trình hoạt động của công ty. Vốn hạn hẹp nên công ty chưa thiết lập được mang lưới thu mua rộng khắp tại các cơ sở, không tổ chức liên doanh liên kết được với các cơ sở sản xuất và không có sự trợ giúp cho các hộ gia đình sản xuất nên công ty không tạo được chân hàng ổn định. Đặc biệt do thiếu vốn nên công ty không thể đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây dựng kho bảo quản theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật. Ngoài ra cơ chế chính sách của nhà nước kh ổn định, chưa nhất quán cũng tác động đến hoạt động của công ty. Cơ chế phân bổ hạn ngạch trước đây của nhà nước đã gây tâm lý không ổn định cho công ty. Công ty lo sợ rằng, năm nay mình được cấp hạn ngạch để xuất khẩu mặt hàng này song sang năm lại không được cấp hạn ngạch, năm nay được phép xuất khẩu một số lượng này nhưng sang năm số lượng lại thấp hơn... Do vậy công ty không yên tâm đầu tư lâu dài để thiết lập một hệ thóng chân hàng ổn định và đầu tư cho người sản xuất. Vì vậy nguồn cung cấp hàng của công ty trong những năm qua chưa ổn định. Kết luận chương II Hàng nông sản là một mặt hàng mới được xuất khẩu ở công ty VILEXIM. Tuy nhiên mặt hàng này đã nhanh chóng vươn lên trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực và ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong kim ngạch xuất khẩu của công ty. Mặc dù gặp nhiều khó khăn trong những ngày đầu tham gia xuất khẩu mặt hàng này như: thị trường hàng nông sản thế giới đã được phân chia, cơ sở vật chất vừa yếu lại vừa thiếu, kinh nghiệm và sự hiểu biết của cán bộ công nhân viên trong công ty về hàng nông sản chưa nhiều, cơ chế, chính sách của nhà nước thường xuyên thay đổi... Song vượt lên những khó khăn, kết quả kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty trong thời gian qua thật đáng khích lệ. Chủng loại hàng nông sản phong phú với chất lượng ngày càng cao, thị trường tiêu thụ hàng nông sản của công ty được mở rộng theo hướng đa dạng hơn, công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu, xúc tiến tiêu thụ, trình độ của cán bộ công nhân viên từng bước được cải thiện để thích ứng với môi trường kinh doanh mới, kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của công ty tăng lên qua các năm và đóng góp vào khoản thu ngân sách nhà nước hàng chục tỷ đồng. Tuy đã đạt được những kết quả trên song trong hoạt động xuất khẩu hàng nông sản, công ty còn bộc lộ không ít hạn chế. Đó là khả năng thâm nhập vào thị trường chính ngạch của công ty chưa cao, hàng nông sản xuất khẩu của công ty chủ yếu tồn tại ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế, công tác thu thập thị trường, nước thị trường của công ty hoạt động chưa hiệu quả, công tác thu mua tạo nguồn hàng còn bất cập... Những hạn chế này không những gây ra bởi các nhân tố chủ quan (xuất phát từ phía công ty) mà còn gây ra bởi các nhân tố khách quan (xuất phát từ môi trường kinh doanh quốc tế, từ nhà nước). Chính vì vậy trong thời gian tới, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản cần phải có sự nỗ lực từ phía công ty song công ty cũng cần sự hỗ trợ từ nhà nước. Chương III : Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới . Định hướng phát triển của công ty giai đọan 2002 - 2005. Trong chiến lược phát triển công ty vẫn xem măt hàng nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực bên cạnh những mặt hàng xuất khẩu khác. ở trong nước, công ty tăng cường hoạt động thu mua, khai thác tối đa nguồn lực ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam nhằm đảm bảo hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Công ty sẽ cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm, giành ưu thế trên thị trường. ở nước ngoài công ty sẽ tăng cường các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tìm kiếm khách hàng và mở rộng thị trường. Chiến lược thị trường của công ty trong những năm tới là phải mở rộng địa bàn hoạt động sang khu vực thị trường mà sản phẩm của công ty còn chưa thâm nhập được nhiều như EU, Mỹ... trên cơ sở duy trì các bạn hàng truyền thống như Singapo, Indonexia, Malaixia.... Để làm được như vậy công ty sẽ phải theo dõi sự biến động các mặt hàng công ty kinh doanh ở thị trường trong và ngoài nước nước một cách chặt chẽ. Một số Giải pháp và kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty . Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM đã đạt được một số thành tựu đáng kể tuy nhiên cũng còn không ít tồn tại. Những tồn tại này có thể bị tác động bởi các yếu tố chủ quan xuất phát từ phía công ty mà công ty hoàn toàn có thể điều chỉnh được song cũng có thể nó bị tác động bởi một vài yếu tố khách quan, công ty không thể tự điều chỉnh được nên cần phải có sự trợ giúp của nhà nước. Sau đây em xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp, kiến nghị đối với công ty VILEXIM và đối với nhà nước để góp phần thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản ở công ty . A. Giải pháp đối với công ty. Tổ chức tốt công tác thu thập, xử lý thông tin và xúc tiến thương mại. Theo Kemchiomare - một chuyên gia kinh tế xuất sắc của Nhật Bản thì: “bí quyết đảm bảo sức mạnh kinh doanh của công ty trước hết là thông tin. Thông tin chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và cho thành công của doanh nghiệp”. Cả thị trường trong nước và thị trường thế giới đều tác động trực tiếp đến hoạt động của mỗi công ty. Vì vậy, mỗi công ty cần thu thập và xử lý thông tinvề thị trường trong nước và thị trường thế giới. Các thông tin mà công ty cần thu thập và xử lý là thông tin về tình hình cung, cầu một mặt hàng nào đấy ở thị trường trong nước và thị trường thế giới, thông tin về đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, thông tin về chính sách của nhà nước và của nước ngoài đối với một mặt hàng nào đấy... Ngoài ra hoạt động xúc tiến thương mại cũng rất quan trọng đối với mỗi công ty tham gia xuất khẩu. Bởi công ty sẽ không có được khách hàng nước ngoài nếu như khách hàng nước ngoài không hề biết về công ty và không thích mua sản phẩm của công ty. Đối với công ty VILEXIM, trong thời gian qua công tác thu thập và xử lý thông tin hoạt động chưa hiệu quả, các hoạt động xúc tiến thương mại còn yếu nên công ty đã bỏ lỡ nhiều cơ hội kinh doanh. Chính vì vậy trong thời gian tới công ty cần tăng cường hơn nữa trong công tác thu thập và xử lý thông tin. Các công việc cụ thể mà công ty cần thực hiện trong thời gian tới gồm: Thành lập một bộ phận chuyên trách việc thu thập và xử lý thông tin. Phòng này sẽ có các chức năng như: Điều tra, thăm dò nhu cầu thị trường. Chỉ ra các nhu cầu trên thị trường, các đoạn thị trường mà công ty có thể hướng tới. Thu hồi các thông tin phản hồi từ phía đối tác... Xúc tiến các hoạt động mở văn phòng giao dịch tại những khu vực thị trường trọng điểm của công ty, chọn các kiốt phân phối và tiêu thụ hàng hóa, tăng cường các hoạt động quảng cáo, khuếch trương, và tuyên truyền thế mạnh của công ty thông qua báo chí, phim ảnh,...cải tiến hình thức quảng cáo sản phẩm để phù hợp với từng nước. Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm được tổ chức trong và ngoài nước. Đây là một cơ hội tốt cho công ty nâng cao uy tín, trao đổi thông tin, nắm bắt nhu cầu thị trường, chào hàng và tìm đối tác kinh doanh. Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng cao uy tín hàng nông sản của công ty. Đồng thời đưa hàng nông sản của công ty vào kênh phân phối của họ qua đó nâng cao khả năng xâm nhập thị trường. Liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để đẩy mạnh hoạt động chế biến, xuất khẩu hàng nông sản ra thị trường thế giới. Tạo điều kiện để các cán bộ làm công tác thị trường tiếp xúc với thị trường trong và ngoài nước. Từ đó nâng cao khả năng phân tích, phán đoán, xử lý thông tin và đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm ứng phó trước những biến động của thị trường. Tranh thủ triệt để cơ hội tiếp xúc, thu thập thị trường từ các tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài đến thăm và tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam. Thời gian gần đây, nước ta đã đón rất nhiều tổ chức kinh tế nước ngoài, các thương nhân đến thăm và tìm kiếm cơ hội làm ăn tại Việt Nam. Công ty cần tranh thủ thu thập thông tin, tiếp xúc với các doanh nhân để chọn cho mình hướng kinh doanh thích hợp. Thực tiễn cho thấy các năm qua, qua các cuộc viếng thăm, công ty đã ký kết được những hợp đồng xuất khẩu hàng với khối lượng lớn. Đa dạng hoá mặt hàng, mở rộng thị trường xuất khẩu bên cạnh việc duy trì những mặt hàng xuất khẩu truyền thống tại các thị trường truyền thống. Các nước thuộc ASEAN như: Lào, Philipin, Indonexia, Singapo là những thị trường truyền thống tiêu thụ sản phẩm công ty. Tại những thị trường này công ty thường cung cấp các mặt hàng ổn định cho những bạn hàng ổn định. Vì vậy bạn hàng tại đây đã biết đến sản phẩm và uy tín của công ty. Hơn thế nữa công ty đã có nhiều kinh nghiệm kinh doanh, đã có các cơ sở bảo quản, chế biến hàng phục vụ xuất khẩu tại các thị trường này. Do vậy trong thời gian tới khu vực này vẫn nên được xem là thị trường trọng điểm của công ty. Thị trường này có yêu cầu về chất lượng sản phẩm không cao nhưng một sự thay đổi về giá sẽ có thể tác động đến mức độ tiêu thụ sản phẩm của công ty. Vì vậy trong thời gian tới, để duy trì và thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản tại khu vực này thì việc xây dựng một chính sách giá cả hợp lý phải được công ty đặc biệt quan tâm. Đối với những mặt hàng tương tự với đối thủ cạnh tranh, công ty nên khuyến khích khách hàng mua hàng của công ty thông qua hình thức giảm giá cho những người mua hàng với khối lượng lớn hoặc đối với những người là khách hàng mới của công ty. Còn đối với những mặt hàng được xem là độc đáo của mình thì công ty có thể áp dụng mức giá linh hoạt sao cho vừa đảm bảo được có lãi, vừa tiêu thụ được nhiều sản phẩm. Ngoài ra trong sự biến động mạnh mẽ của tình hình cung cầu một số mặt hàng nông sản trên thế giới như hiện nay, để hạn chế rủi ro và tăng kim ngạch xuất khẩu thì việc đa dạng hoá mặt hàng và mở rộng thị trường xuất khẩu đối với công ty là thực sự cần thiết. Những thị trường mà công ty có thể hướng tới trong tương lai là: thị trường EU, thị trường Nhật Bản, thị trường Mỹ. Đây là những thị trường có nhu cầu tiêu thụ hàng nông sản rất lớn, có khả năng chi trả cao nhưng yêu cầu về chất lượng, mẫu mã bao bì hàng hóa cũng cao. Vì vậy, để thâm nhập vào những thị trường này buộc công ty phải cải tiến mẫu mã bao bì và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tăng cường huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay, vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất hàng hóa, chất lượng hàng hóa, đến công tác thu mua hàng hóa, đến quá trình nghiên cứu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa của bất kỳ một công ty nào. Đối với công ty VILEXIM cũng thế. Chính vì vậy trong thời gian tới để tăng thêm vốn phục vụ cho công tác kinh doanh, ngoài nguồn vốn của mình công ty phải huy động thêm từ các nguồn trong và ngoài nước. Cụ thể công ty có thể huy động từ các nguồn sau: Vốn vay từ các ngân hàng. Hiện nay việc vay vốn tại các ngân hàng đã thuận lợi hơn. Công ty có thể vay vốn ngắn hạn hoặc dài hạn với các mức lãi suất khác nhau. Tuy nhiên công ty cần phải tính toán xem nên vay như thế nào để phục vụ cho công tác kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hoạt động thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty mang tính thời vụ nên công ty nên vay các nguồn vốn ngắn và trung hạn. Tuy nhiên trong thời gian tới, trước những yêu cầu là phải tiến hành đầu tư xây dựng các cơ cở bảo quản, chế biến, liên doanh liên kết để sản xuất hàng hóa thì công ty nên vay vốn dài hạn với lãi suất thấp. Huy động vốn từ cán bộ công nhân viên trong công ty. Hiện nay lượng vốn nhàn rỗi trong lực lượng lao động này là khá lớn. Sử dụng nguồn vốn này công ty có thể phải trả lãi suất cao hơn một chút nhưng lại thu được lợi về nhiều mặt. Thời hạn thanh toán nợ cho các cán bộ công nhân viên không bị khắt khe như tại các ngân hàng, công ty có thể chủ động hơn trong kinh doanh. Hơn thế nữa với hình thức vay vốn này công ty có thể huy động được một cách tối đa năng lực và lòng nhiệt của cán bộ công nhân viên. Huy động vốn từ chính lợi nhuận tích luỹ được của công ty. Đây là nguồn vốn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của công ty. Ngoài việc huy động vốn từ các nguồn trong nước thì vay vốn nước ngoài cũng là giải pháp quan trọng và có hiệu quả mà công ty cần lưu ý. Nguồn vốn có ưu điểm lớn nhưng huy động lại khó vì các chủ hàng nước ngoaì thường đòi hỏi công ty phải có những tài sản đáng tin cậy như tài sản thế chấp, tình hình sản xuất và xuất khẩu của công ty. Công ty có thể huy động vốn nước ngoài thông qua các hình thức sau: Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của công ty: đặc biệt là đối tượng khách hàng có khối lượng mua lớn, đã có quan hệ truyền thống với công ty. Để có được vốn vay này công ty phải đảm bảo được chữ “tín” trong kinh doanh. Có nghĩa là công ty phải thường xuyên chấp hành nghiêm chỉnh các điều khoản về chất lượng, giá cả, thời gian và cách thức giao hàng như đã thỏa thuận trong hợp đồng kinh doanh. Tận dụng nguồn vốn của các bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm hoặc xin ứng trước vốn trước khi xuất hàng. Hình thức này thường chỉ được thực hiện khi công ty xuất hoặc nhập khẩu một số lượng lớn hàng hóa và là bạn hàng quen thuộc của họ. Một điều quan trọng nữa ở phương thức này mà công ty cũng phải thực hiện được là chữ “tín” trong kinh doanh. Tức là công ty phải thanh toán đủ tiền hàng cho nhà xuất khẩu khi đã đến thời hạn thanh toán. Hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết với đối tác nước ngoài: đây cũng là một giải pháp hữu hiệu mà công ty có thể áp dụng trong tình trạng vừa thiếu vốn, vừa thiếu thiết trường hợp công nghệ như hiện nay. Với phương thức này công ty phải dựa trên quan điểm “cả hai bên cùng có lợi’’ có như vậy thì quan hệ của công ty và đối tác liên doanh mới được bền lâu. Khi đã huy động được vốn, vấn đề tiếp theo mà công ty cần quan tâm là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn này một cách có hiệu quả. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, phải có biện pháp quản lý nguồn vốn một cách có hiệu quả. Vốn của công ty phải được tập trung vào những dự án mang tính khả thi cao. Đặc biệt, công ty phải dần dần giảm bớt kinh doanh những mặt hàng thô có khối lượng lớn nhưng trị giá kinh tế không lớn, lợi nhuận thu được không cao để dần chuyển sang kinh doanh mặt hàng tinh có giá trị kinh tế cao và có sức cạnh tranh lớn. Thực hiện tốt hơn công tác thu mua hàng nông sản xuất khẩu. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty hiện còn nhiều bất cập. Công ty chưa thiết lập được một mạng lưới thu mua hàng ổn định ngay tại địa phương, do vậy nguồn hàng cung cấp cho công ty bấp bênh, chất lượng chưa đảm bảo. Công tác kiểm tra chất lượng hàng khi thu mua thực hiện chưa nghiêm túc, bảo quản và sơ chế hàng ngay sau khi thu mua chưa tốt, quá trình vận chuyển hàng về kho chưa được giám sát chặt chẽ. Chính vì vậy trong thời gian tới để cải thiện công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu công ty nên thực hiện một số công việc sau: Công ty cần xây dựng mối quan hệ tốt với các địa phương sản xuất hàng xuất khẩu của công ty. Khi đó, quá trình thu mua của công ty sẽ thuận lợi hơn, khối lượng thu mua được sẽ nhiều hơn. Muốn xây dựng được mối quan hệ tốt này, công ty nên tiến hành các công việc như: Gặp gỡ các đại biểu ở các địa phương ngay từ đầu vụ sản xuất để trao đổi, bàn bạc và ký hợp đồng, hỗ trợ một phần cho sản xuất như hỗ trợ vốn, hỗ trợ phân bón. Đồng thời công ty có thể hỗ trợ địa phương một phần vào việc xây dựng các công trình phúc lợi công cộng như: Bệnh viện, trường học, hệ thống giao thông, thủy lợi. Hiện tại đối với công ty để làm được việc này thì chi phí không phải là nhỏ nhưng đó là một sự đầu tư thích đáng trong chiến lược phát triển lâu dài của công ty, nó tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa công ty và địa phương đồng thời cũng tạo nên sự ràng buộc về kinh tế giữa công ty và địa phương. Công ty cần đưa ra những biện pháp để khuyến khích hoạt động thu mua có hiệu quả như: Quy định một tỷ lệ hoa hồng mà cán bộ thu mua được hưởng nếu khối lượng mua được lớn, chất lượng đảm bảo. Đồng thời xử lý nghiêm túc đối với những trường hợp gian lận, tráo hàng làm giảm chất lượng và uy tín hàng xuất khẩu của công ty. Cải tiến công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua. Hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua sẽ quyết định cơ bản đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty. Hiện tại, hoạt động này được thực hiện ở công ty còn hạn chế. Hầu như chưa có một thiết bị hiện đại nào trợ giúp cho cán bộ thu mua trong công việc này. Chất lượng sản phẩm khi thu mua chủ yếu được kiểm tra bởi kinh nghiệm của cán bộ công thu mua. Với cách thức kiểm tra này, tuy chưa có một vụ khiếu kiện nào về chất lượng hàng hóa chưa đảm bảo từ phía đối tác nước ngoài đối với công ty song điều đó không đồng nghĩa với việc công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm khi thu mua của cán bộ thu mua đã được thực hiện tốt, các cán thu mua đã lựa chọn được những sản phẩm có chất lượng tốt mà điều này là do yêu cầu về chất lượng hàng hóa của các đối tác nước ngoài đối với công ty chưa cao. Chẳng hạn: trong kiểm tra chất lượng Lạc. Các cán bộ công thu mua chủ yếu dựa vào mầu sắc và độ tróc của lụa Lạc để nhận biết độ ẩm của Lạc. Với cách kiểm tra này chỉ một khối lượng nhỏ Lạc được kiểm tra, một số các tiêu thức khác mà những thị trường khó tính thường yêu cầu như độ mối mọt, số lượng hạt Lạc/100g ... công ty không thể kiểm soát được. Do vậy trong thời gian tới, muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng nông sản, đưa mặt hàng thâm nhập sâu vào những thị trường khó tính thì việc cải tiến công tác kiểm tra chất lượng sản phẩm ngay từ khâu thu mua đối với công ty là thực sự cần thiết. Đối với mỗi loại sản phẩm khác nhau công ty sẽ phải đề ra những tiêu chuẩn để kiểm tra khác nhau đồng thời sử dụng các loại máy kiểm tra chất lượng tiên tiến để trợ giúp cho cán bộ thu mua. Chẳng hạn đối với mặt hàng Lạc xuất khẩu, công tác kiểm tra chất lượng sẽ phải dựa vào một số chỉ tiêu sau: Kiểm tra về mối mọt: Đây là một chỉ tiệu mà khách hàng nước ngoài thường hay quan tâm nên công ty nhất thiết phải kiểm tra thật kỹ khi thu mua. Độ ẩm Lạc: Đây là một chỉ tiêu để xác định chế độ bảo quản. Khi độ ẩm của lạc từ 7% trở xuống thì có thể bảo quản ở kho bình thường từ một đến hai tháng vẫn không bị mốc. Tuy nhiên khi độ ẩm của lạc trên 7% thì cần thiết phải tiến hành sấy khô lạc ngay bằng hơi nóng và đảo trộn ( không được phơi nắng vì làm như vậy lạc sẽ bị chảy dầu). Kiểm tra về mức các tạp chất có trong Lạc như vụn than, cành lá và các loại tạp chất khác. Cần đặc biệt chú ý đến các loại vi sinh vật cũng như sâu mọt có trong lạc khi bao gói. Kiểm tra về tiêu chuẩn Lạc: với hàm lượng hạt/100g xem có bao nhiêu hat đủ tiêu chuẩn. Ngoài các công việc trên, việc chuẩn bị đủ vốn cho quá trình thu mua cũng phải được công ty quan tâm. Hàng xuất khẩu của công ty hiện chủ yếu là nông sản, đặc điểm của loại hàng hóa này là thu mua mang tính thời vụ. Trong điều kiện ‘’tranh mua, tranh bán‘’ như hiện nay, nếu thiếu vốn trong dịp thu mua thì công ty không thể mua được hàng hoặc nếu có thì quá trình thu mua cũng bị gián đọan. Khi ấy đối thủ cạnh tranh sẽ ngay lập tức thế chỗ công ty. Sau đó kể cả công ty có chuẩn bị đủ tiền thì nhà cung ứng cũng chưa chắc đã muốn bán cho công ty do họ đã quen với đối tác khác. Chính vì vậy việc chuẩn bị đầy đủ vốn cho quá trình thu mua hàng của công ty là rất quan trọng. Nhưng chuẩn bị bao nhiêu cho phù hợp lại cũng là một câu hỏi mà công ty cần đặt ra. Bởi nếu chuẩn bị thiếu vốn thì công ty sẽ gặp phải khó khăn còn nếu chuẩn bị quá thừa thì công ty lại phải mất một khoản tiền vô ích để trả lãi suất (trong trường hợp công ty phải vay vốn của ngân hàng). Chính vì vậy mà việc dự đoán lượng tiền cần chuẩn bị phải dựa trên sự dự đoán về biến động của giá cả, sự cung, cầu về hàng hóa trên thị trường. Công việc này cần được đảm nhiệm bởi những người có năng lực và có đầu óc kinh doanh. Tăng cường đầu tư vào công tác chế biến, bảo quản. Hàng nông sản là một mặt hàng chịu ảnh hưởng nhiều của các yếu tố khí hậu, thời tiết. Đặc biệt với khí hậu nóng, ẩm như của Việt Nam sẽ là một điều kiện thuận lợi cho các loại nấm mốc, sâu bệnh trong hàng nông sản phát triển. Ngoài ra, trong sự phát triển chung của nền kinh tế thế giới, người tiêu dùng có xu hướng giảm tiêu dùng các loại nông sản có chất lượng thấp và tăng tiêu dùng các loại nông sản có chất lượng cao, các yêu cầu về vệ sinh, an toàn thực phẩm và về hình thức sản phẩm cũng ngày càng cao. Vì vậy việc đầu tư cho công tác chế biến, bảo quản hàng sau thu mua đối với mỗi công ty tham gia xuất khẩu nông sản là thực sự cần thiết. Hiện tại công ty VILEXIM đã có một số cơ sở để bảo quản và chế biến hàng hóa như: cơ sở chế biến ở Hà Nội, Quảng Trị, Thành phố Hồ Chí Minh. Tuy nhiên máy móc, thiết bị hiện đang sử dụng tại các cơ sở này đã lỗi thời, lạc hậu nên có năng suất chế biến không lớn và chất lượng hàng đã qua chế biến không cao. Chính vì vậy, trong thời gian tới công ty cần phải nâng cấp và xây dựng thêm những cơ sở sản xuất chế biến có trang thiết bị phù hợp nhằm đẩy mạnh hơn nữa hoạt động chế biến, bảo quản hàng nông sản. Nâng cao trình độ chuyên môn cho CBCNV. Bất kỳ một công ty nào dù có vốn lớn, có trang thiết bị hiện đại, mà nguồn nhân lực không đảm bảo cho yêu cầu sản xuất, quản lý, kinh doanh thì công ty đó cũng không thể phát triển được bởi con người là chủ thể quyết định sự thanh công hay thất bại của công ty. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì buộc mỗi công ty phải chăm lo đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách thường xuyên, liên tục. Đối với công ty VILEXIM, vấn đề nguồn nhân lực là một vấn đề nan giải và khó giải quyết trong thời gian ngắn. Hiện tại, nếu phân theo trình độ văn hoá thì có tới 45% số người trong công ty có trình độ dưới đại học, nếu phân theo độ tuổi thì có 78% số người có độ tuổi trên 35. Đây là độ tuổi ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung bao cấp nên mặc dù đã cố gắng rất nhiều song họ vẫn thiếu tính năng động, sáng tạo, không giám mạo hiểm và gặp khó khăn khi phải thích nghi với sự thay đổi của môi trường. Những hạn chế về nguồn nhân lực như trên đã ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động xuất khẩu của công ty. Vì vậy, trong thời gian tới việc nâng cao trình độ của cán bộ công nhân viên cần phải được công ty đặc biệt chú trọng. Sau đây là một số giải pháp: Thường xuyên gửi các cán bộ kinh doanh trẻ có triển vọng tới các trung tâm đào tạo KDQT ở trong hoặc ngoài nước. Tạo điều kiện để các nhân viên còn yếu và thiếu về nghiệp vụ đi học các lớp đào tạo bổ sung hoặc đào tạo tại chức. Đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm vụ giám định hàng hóa. Bố trí để các nhân viên trẻ, có năng lực, năng động nhưng còn thiếu kinh nghiệm trong công ty cùng làm việc với những nhân viên lớn tuổi và có nhiều kinh nghiệm thực tiễn để các nhân viên trẻ học hỏi thêm kinh nghiệm. Có được đội ngũ lao động tốt là điều kiện cần đối với bất kỳ một công ty nào. Tuy nhiên để đội ngũ lao động này làm việc một cách có hiệu qủa, trung thành với công ty thì công ty cần phải có chế độ khen thưởng hợp lý, xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp làm tổn hại đến toàn công ty. Ngoài ra công ty cần cất nhắc những cá nhân làm việc có hiệu quả lên những vị trí cao nhằm nêu gương, tạo động lực cho những cá nhân khác. B. Kiến nghị với nhà nước. Tăng cường hỗ trợ các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản. Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Trong thời gian qua, nhà nước đã có quan tâm đến các hoạt động sản xuất và chế biến hàng nông sản nhưng chưa nhiều nên chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty VILEXIM nói riêng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu cao của những thị trường khó tính nhưng có khả năng chi trả lớn. Do vậy hiệu quả từ hoạt động xuất khẩu hàng nông sản vẫn chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới, nhà nước cần tăng cường hỗ trợ cho các hoạt động sản xuất và chế hàng nông sản để tạo ra các sản phẩm có hàm lượng giá trị cao, từ đó nâng cao hiệu quả hoạt động xuất khẩu. Các biện pháp tiến hành bao gồm: Hỗ trợ vốn ban đầu cho nông dân. Đây là một việc làm ban đầu hết sức cần thiết vì để thay đổi những cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học và quản lý vào trong sản xuất đòi hỏi những chi phí không nhỏ mà nhiều khi người nông dân không thể tự trang trải nổi. Trong thời gian qua các chương trình trợ giúp vốn cho nông dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn hạn chế, người nông dân vay vốn lãi suất diễn ra dàn trải, thiếu tập trung, thời gian hoàn vốn ngắn điều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay được một vài trăm ngàn đồng, không đủ đầu tư cho sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay lới lãi suất tín dụng thông thường thì lai gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp trong khi đấy các ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới nhà nước cần đưa ra chính sách ưu đãi đối với những ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản để họ cung cấp vốn cho nông dân nhiều hơn, hiệu quả hơn. Hỗ trợ về giống, phổ biến kiến thức cho người nông dân. Hiện tại, nhiều nông dân Việt Nam chưa hiểu biết đầy đủ về các kiến thức về nông nghiệp như: Giống cây trồng nào phù hợp với loại đất nào, được trồng ở khu vực có điều kiện khí hậu nào và mức độ sử dụng các loại phân bón, thuốc trừ sâu ra sao... để cho ra các loại sản phẩm có chất lượng cao. Vì vậy, có hiện tượng nông dân gieo các loại giống cây trồng cho năng suất cao nhưng chất lượng không đảm bảo, hoặc quá lạm dụng các loại thuốc trừ sâu, phân bón phân bón hoá học. Chính vì vậy nhà nước nên hỗ trợ nông dân các loại giống tốt, cho năng cao, chất lượng đồng bộ. Hiện tại ngân sách của nhà nước còn hạn hẹp do vậy nhà nước không thể cung cấp miễn phí giống cho mọi nông dân. Vì vậy, nhà nước có thể sử dụng hình thức bán giống tốt cho nông dân với giá ưu đãi hoặc bán chịu hoặc nông dân, cuối vụ thu hoạch nhà nước sẽ nhận tiền... .Đồng thời nhà nước cũng cần có các chương trình phổ biến kiến thức cho nông dân. Tổ chức tốt công tác thu mua nông sản cho nông dân. Hoạt động thu hoạch của nông dân mang tính mùa vụ nên quá trình thu hoạch diễn ra một cách dồn dập trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên đối với nông dân khả năng về vốn có hạn, các điều kiện về kho hàng cất giữ sản phẩm hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch. Trong khi đấy nhà nước lại chưa sẵn sàng mua nông sản cho nông dân, điều này dẫn đến tình trạng nông dân bị tư thương ép phải bán hàng với giá thấp và thực sự không khuyến khích nông dân sản xuất. Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định nguồn hàng xuất khẩu của công ty. Do vậy trong thời gian tới nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho chứa, mạng lưới thu mua hàng cho nông dân... để hạn chế bớt sự ép giá của tư thương đối với nông dân vào những lúc chính vụ. Có như vậy mới khuyến khích được nông dân sản xuất, cung cấp hàng ổn định và có chất lượng cao cho công ty tham gia xuất khẩu. Tăng cường đầu tư tạo ra các vùng nguyên liệu tập trung. Vùng nguyên liệu tập trung là một vùng mà ở đó tập trung trồng các loại cây phù hợp với điều kiện khí hậu, đất đai, điều kiện kinh tế, xã hội của vùng. Ví dụ: Một vùng nguyên liệu trồng mía phải được đặt ở những nơi có loại đất, khí hậu phù hợp với cây mía, có cơ sở hạ tầng thuận để vận chuyển mía từ nơi thu hoạch đến các kho chưa đã và các cơ sở chế biến. Với nguồn lực hạn chế như Việt Nam hiện nay thì đây có thể là một biện pháp hữu hiệu nhằm nâng cao chất lượng và đồng bộ hoá sản phẩm nông nghiệp. Tuy nhiên, vấn đề là phải xác định được đâu là vùng ưu tiên cho từng mặt hàng. Đầu tư mạnh cho phát triển công nghiệp chế biến hàng nông sản. Đầu tư cho công tác chế biến sản phẩm đôi khi là quá sức đối với các công ty tham gia xuất khẩu mặt hàng này bởi công việc này đòi hỏi công ty phải bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu các loại trang thiết bị, máy móc hiện đại. Chính vì vậy nhà nước nên đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến hàng nông sản. Chẳng hạn nhà nước sẽ đầu tư lắp đặt các dây chuyền đánh bóng gạo hay dây chuyền tinh chế cà phê thành sản phẩm cuối cùng để sản phẩm xuất khẩu của của công ty có thể đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Bên cạnh đó nhà nước nên khuyến khích các công ty xuất khẩu hàng nông sản đã qua chế biến thông qua các chính sách như: giảm thuế xuất khẩu, ưu tiên hạn ngạch xuất khẩu... để thúc đẩy hoạt động chế biến trong nước phát triển. Trợ giúp cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản. Trợ giúp vốn. Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi các công ty phải có lượng vố đủ lớn để thu mua hàng trong vụ thu hoạch và dự trữ cho xuất khẩu trong cả năm. Hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam đều gặp khó khăn do thiếu vốn nên bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy, do thiếu vốn nên các công ty gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Chính vì vậy thời gian tới nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để công ty có thể nâng cao hoạt động chế biến và thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo điều kiện cho các công ty vay vốn với lãi suất thấp, thời gian hợp lý và đặc biệt thủ tục hành chính cần phải được cải tiến. Nhà nước cung cấp đầy đủ thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại đối với mỗi công ty. Thị trường hàng nông sản là một thị trường thường có sự biến động khá phức tạp nhưng các công ty xuất khẩu hàng nông sản Việt Nam thường rất thiếu thông tin về tình hình cung cầu hàng nông sản, về sự biến động giá cả, về các đối thủ cạnh tranh....Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cũng như các Bộ nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo sự biến động của thị trường thế giới. Đồng thời nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước cho các các công ty hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu nông sản. Nhà nước cần lập qũy bảo hiểm xuất khẩu. Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài nhiều công ty thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận công ty thu được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy nhiên công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Do vậy nhà nước cần lập nên một qũy bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro. Nhà nước cần lập qũy bình ổn giá cả. Nhà nước cần xem xét bằng qũy bình ổn giá cả để bớt đi một phần gánh nặng lãi suất tín dụng cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thu mua hàng nông sản trong nước tăng cao gây thua lỗ cho các công ty. Nhà nước nên áp dụng thuế suất ưu đãi và mở rộng hơn nữa đối với số lượng mặt hàng được miễn giảm thuế. Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu nông sản theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường . Những quy định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Chẳng hạn: Đồng bộ hệ thống văn bản pháp lý. Hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty chuyên doanh xuất khẩu, tránh tình trạng “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”, khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đấy nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các công ty làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Chẳng hạn: Hiện nay nhà nước đã có những chính sách ưu tiên đối với người sản xuất và những đơn vị tham gia xuất khẩu hàng nông sản nhưng lại chưa quan tâm thích đáng tới các đơn vị cung cấp máy móc, thiết bị, phân bón phục vụ cho nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần phải xem xét và có các chính sách ưu đãi đối với các đon vị này. Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của công ty. Để nạp thuế VAT, công ty phải đi vay tiền của ngân hàng với lãi xuất cao. Tuy nhiên, quá trình hoàn thuế VAT của nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều này làm cho công ty đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn. trong thời gian tới, nhà nước cần xem xét lại chính sách này nhằm tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu . Đơn giản cơ chế quản lý xuất khẩu. Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của nhà nước còn nhiều bất cập. Thủ tục xuất khẩu rườm rà phức tạp, gây lãng phí thời gian và công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều khi tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian tới nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho công ty cũng như cho nhà nước. Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu. Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. ở chính sách này, để tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, các nhà hoạch định chính sách thường phá giá đồng bản tệ. Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho goại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không “suy sụp“ trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này việc chọn thời điểm phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng. Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngày 7/8/1999, ngân hàng nhà nước đã quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống ± 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức 11.800VNĐ/USD lên 12.998 VNĐ/USD đã làm cho sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sau một năm tăng 75%, Cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%... Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giắt giảm lỗ cho những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ, một số mặt hàng xuất khẩu đang bị đã chuyển thành lãi. Thực tiễn này cho thấy, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở các doanh nghiệp trong nước (nói chung) và ở công ty VILEXIM nói riêng, nhà nước nên thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu, chế độ tỷ giá này phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác của nhà nước. Kết luận: Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.Thông qua đó, các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xã hội, hoà nhập với nền kinh tế thế giới. Với tầm quan trọng như vậy, ở nước ta xuất khẩu được đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự cố gắng của Đảng, nhà nước, tất cả các Bộ, ngành và đặc biệt là sự thực hiện của các công ty hiện đang tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Trước yêu cầu đó, công ty VILEXIM đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, đẩy mạnh xuất khẩu phục vụ các chương trình kinh tế của Đảng và nhà nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân. Luận vă tốt nghiệp này đã trình bày nội dung, thực tiễn và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản ở công ty VILEXIM. Em hy vọng những kiến thức thực tế thu nhận tại công ty trong thời gian thực tập sẽ góp phần bổ xung cho kiến thức được trang bị ở trường. Tài liệu tham khảo Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty VILEXIM các năm 1997-2001. Giáo trình “ Kinh doanh quốc tế ”: chủ biên PTS Đỗ Đức Bình, NXB Giáo dục, 1998. Giáo trình “ Marketing quốc tế ”: biên soạn PTS Nguyễn Cao Văn, NXB Thống kê, 2000. Giáo trình “ Kinh tế học quốc tế ”: chủ biên GS -PTS Tô Xuân Dân, NXB Giáo dục, 1996. Sách: “Mấy vấn đề kinh doanh lương thực ở Việt Nam ”. Tác giả : Sách: “Lương thực Việt Nam - đổi mới hướng xuất khẩu ” Tác giả : Nguyễn Trung Văn, NXB Chính trị Quốc gia, 1998. Tạp chí Thương mại số 12-2001. Bài “ Một số vấn đề đặt ra với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế” . Tạp chí Phát triển kinh tế : Số 105-2000. Bài “ Tìm thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam” Tác giả : TS Lê Khoa . Số 107-2000. Bài “ Một số giải pháp cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” Tác giả : Th.S Nguyễn Thị Minh Tâm . Số 124-2002. Bài “Xuất khẩu Việt Nam năm 2001 - nhìn lại cơ cấu mặt hàng” Tác giả : Tạp chí Kinh tế và phát triển. Số 38-2001. Bài “10 năm xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam từ 1991-2001”. Tác giả : TS Đỗ Đức Hạnh - Trần Mai Phương. Tạp chí Kinh tế và dự báo. Số 9-2000. Bài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới”. Tác giả : Nguyễn Văn Nam . Số1-2001. Bài “Thành tựu 10 năm nông nghiệp nước ta”. Tác giả : Bùi Văn Can.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0411.doc
Tài liệu liên quan