Các mối quan hệ quốc tế sẽ có tác động cực kỳ mạnh mẽ tới hoạt động thương mại quốc tế của một quốc gia nói chung và tác động tới hoạt động thương mại của doanh nghiệp nói riêng. Hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp là một trong những nội dung quan trọng của hoạt động thương mại quốc tế chính vì vậy nó cũng chịu sự tác động mạnh mẽ của các mối quan hệ này.
Khi hàng hóa của doanh nghiệp xâm nhập được vào thị trường của một quốc gia thì nó sẽ được hưởng chính sách ưu đãi hoặc phải đối mặt với các rào cản thương mại từ quốc gia này như: thuế quan, hạn ngạch nhập khẩu, các tiêu chuẩn kỹ thuật sản phẩm. Mức độ ưu đãi mà doanh nghiệp được hưởng hay các rào cản thương mại mà doanh nghiệp phải đối đầu chặt chẽ hay nới lỏng hoàn toàn phụ thuộc vào mối quan hệ kinh tế song phương giữa quốc gia xuất khẩu và quốc gia nhập khẩu.
Trong xu thế toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới như hiện nay, nhiều hiệp định kinh tế song phương và đa phương đã được ký kết, nhiều liên minh kinh tế đã được hình thành với mục tiêu là giảm bớt thuế quan giữa các nước tham gia, giảm giá cả, thúc đẩy hoạt động thương mại trong khu vực và trên thế giới. Nếu là một thành viên trong liên minh kinh tế hoặc hiệp định thương mại ấy thì quốc gia sẽ có cơ hội thúc đẩy hoạt động xuất khẩu. Nếu không phải, chính các hiệp định thương mại, liên minh kinh tế này sẽ trở thành một rào chắn lớn cho việc xâm nhập và mở rộng thị trường của doanh nghiệp.
88 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 864 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng nông sản của công ty Vilexim, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhập khẩu nói chung và trong kinh doanh nông sản nói riêng, việc tìm kiếm thị trường là vấn đề quan trọng đảm bảo cho hoạt động kinh doanh được diễn ra liên tục và đạt hiệu quả cao. Hiện nay, công ty đã có mối quan hệ với khoảng 30 nước trong hầu hết các khu vực Châu á, Châu Phi, Châu Mỹ, Châu âu và có quan hệ kinh doanh với khoảng 23 nước. Trong đó, thị trường nhập khẩu chính hàng nông sản của công ty là các nước thuộc khu vực châu á.
Bảng 8 : Thị trường nhập khẩu hàng nông sản của công ty gđ 1996-2000.
ĐV: %
Năm
Thị trường
1996
1997
1998
1999
2000
Châu á
81,64
79,71
82,85
85,5
86
Châu Phi
8,45
10,32
9,07
8,00
6,4
Trung Đông
6,25
5,38
5,95
5,00
5,5
Châu âu
2,47
1,97
1,99
0,7
1,1
Châu Mỹ
1,14
2,62
0,47
0,8
1,0
Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty giai đoạn 1996-2000.
Thị trường Châu á.
Đây là thị trường nhập khẩu lớn nhất của công ty trong những năm qua. Thị trường này gồm các nước như Lào, Trung Quốc, Singapo, Nhật Bản, Indonêxia, Malaixia... Các nước này thuộc khu vực khí hậu và điều kiện địa lý tương đối giống Việt Nam nên cũng có một số mặt hàng xuất khẩu giống Việt Nam thế nhưng họ vẫn tiến hành nhập khẩu hàng hóa của công ty vì hầu hết hàng hóa của công ty đều ở dạng thô, chất lượng chưa cao nên họ sẽ mua về chế biến lại để thực hiện tái xuất khẩu. Thuận lợi của công ty khi xâm nhập vào thị trường này là :
Đây là khu vực có vị trí địa lý gần Việt Nam nên chi phí vận chuyển hàng hóa thấp. Đây là một cơ hội để nâng cao sức cạnh tranh về giá sản phẩm của công ty.
Khu vực này có yêu cầu về chất lượng và mẫu mã sản phẩm không cao.
Tuy nhiên công ty cũng gặp phải nhiều khó khăn tại khu vực thị trường này bởi đây là khu vực thường có nhiều biến động về kinh tế, chính trị, tài chính. Đồng thời khả năng chi trả của thị trường này thường không cao.
Trong 3 năm 1997, 1998, 1999 do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực nên lượng hàng xuất khẩu của công ty sang thị trường này bị giảm sút, cơ cấu mặt hàng thay đổi liên tục. Năm 2000, khi nền kinh tế các nước trong khu vực đã hồi phục, tình hình xuất khẩu hàng của công ty sang khu vực này đã được cải thiện hơn. Trong hiện tại và tương lai công ty vẫn rất chú trọng đến việc khai thác tốt thị trường này bởi thị trường này có những yếu tố thuận lợi trên.
Thị trường Châu Phi.
Đây là thị trường lớn thứ hai tiêu thụ sản phẩm của công ty. Thị trường này có nhu cầu tương đối lớn, chất lượng hàng không quá cao nhưng công ty phải chấp nhận hệ số rủi ro cao do khả năng thanh toán có hạn, bị động bới các nước viện trợ. Tại châu lục này các sản phẩm là nông sản của công ty chủ yếu được xuất khẩu sang các nước ở Tây Phi như Camơrun, Côtđiva. Mới đây, Liên Hợp Quốc đã quyết định thực hiện chính sách chỉ hỗ trợ nhập khẩu lương thực cho những nước có khủng hoảng về chính trị đã làm cho thị trường của công ty ở khu vực này bị thu hẹp trong hiện tại và tương lai.
Thị trường Trung Đông.
Iran và Irăc là các bạn hàng chủ yếu của công ty ở thị trường này. Tuy nhiên, do chưa hiểu biết nhiều về bạn hàng và thị trường nên kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tới thị trường này chưa cao.
Thị trường châu Âu và châu Mỹ.
Đâylà hai thị trường chiếm tỷ trọng nhỏ nhất trong quan hệ kinh doanh với công ty.
Châu Âu luôn được đánh giá là một thị trường tiêu thụ đầy tiềm năng nhưng cũng rất “khó tính”. Tại thị trường này người tiêu dùng chỉ chấp nhận hàng hóa có chất lượng cao mặc dù họ phải trả giá đắt, các tiêu chuẩn về hàng hóa đặc biệt là đối với hàng nông sản được thị trường này đề ra rất ngiêm ngặt. Vì vậy có một thực tế là, mặc dù đã rất cố gắng để nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng công ty vẫn chưa vượt qua được “hàng rào về chất lượng’’. Năm 1994, công ty chưa có quan hệ làm ăn với thị trường này. Đến năm 1995, một tỷ lệ nhỏ hàng nông sản đã được xuất khẩu sang Hà lan và Đức đánh dấu một bước phát triển mới của công ty ở thị trường Châu Âu. Từ năm 1996 đến nay, luôn có một tỷ lệ nhỏ hàng hóa của công ty được xuất khẩu sang khu vực tuy nhiên tỷ lệ này lại không ổn định mà nó luôn biến động do những biến động về cung trên thị trường. Nghĩa là chỉ khi các quốc gia cung ứng mặt hàng như của công ty gặp phải biến cố về khí hậu, thời tiết, an ninh... thì công ty mới có cơ hội tìm được một số đơn đặt hàng từ thị trường này.
Châu Mỹ là một thị trường xa xôi, hiệu quả kinh doanh thấp so với các thị trường khác song vẫn có một số lượng nhỏ hàng nông sản của công ty được xuất khẩu sang thị trường này. Điều đó chứng tỏ công ty luôn tận dụng mọi cơ hội để tăng kim ngạch xuất khẩu.
Công tác tiêu thụ sản phẩm của công ty.
Một số lượng lớn hàng xuất khẩu của công ty khi đến tay người tiêu dùng cuối cùng phải qua các trung gian nước ngoài. Với cách thức tiêu thu này công ty không phải tốn các chi phí để khuyến mại, khuếch trương, xây dựng các kho chứa hàng và bán hàng ở nước ngoài, không phải đầu tư trang thiết bị để bảo quản hàng hóa. Tuy nhiên điều này cũng đồng nghĩa với việc tất cả các hoạt động để đưa hàng hóa của công ty đến tay người tiêu dùng cuối cùng đều bị thâu tóm bởi các trung gian nước ngoài. Hoạt động của công ty hoàn toàn bị động bởi đơn đặt hàng của họ. Công ty không được tiếp xúc trực tiếp với người tiêu dùng cuối cùng nên không có được các thông tin phản hồi về giá cả, chất lượng và sự thay đổi thị hiếu tiêu dùng từ phía họ nên công ty không thỏa mãn được một cách tối ưu yêu cầu về hàng hóa của họ. Thêm vào đó, khi ký hợp đồng với các nhà nhập khẩu nước ngoài, giá mà công ty hay sử dụng là giá FOB tại cảng Việt Nam. Với giá bán này trách nhiệm của công ty với khàch hàng là không cao, vốn của công ty được quay vòng nhanh. Lợi nhuận thu được trên một đồng vốn công ty bỏ ra là không cao. Đây chính là những nguyên nhân làm cho hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty chưa cao.
Đánh giá chung về hoạt động kinh doanh xuất khẩu nông sản của công ty.
Sự biến động tình hình kinh tế, chính trị, tài chính thế giới trong thời gian qua đã tác động trực tiếp đến hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty VILEXIM nói riêng. Vượt lên những khó khăn trong thời gian qua, hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM đã đạt được những thành tựu đáng kể. Tuy nhiên trong quá trình hoạt động vẫn còn rất nhiều tồn tại mà công ty cần giải quyết.
Thành tựu.
Chủng loại hàng xuất khẩu ngày càng phong phú và đa dạng, số lượng xuất khẩu của từng mặt hàng ngày càng tăng. Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu và xúc tiến tiêu thụ hàng nhập khẩu đang từng bước được hoàn thiện để thích ứng với môi trường kinh doanh mới.
Chất lượng hàng của công ty đang ngày một nâng cao. Từ chỗ hàng của công ty chưa xâm nhập được vào các thị trường khó tính như thị trường Nhật Bản, Châu Âu, Châu Mỹ đến nay hàng xuất khẩu của công ty đã có mặt tại các thị trường này.
Thị trường tiêu thụ hàng của công ty cũng được mở rộng đáng kể theo hướng đa dạng hơn. Nếu như những năm mới tham gia xuất khẩu, thị trường của công ty chỉ bó hẹp ở Châu á (thị trường tương đồng về thói quen, sở thích tiêu dùng và yêu cầu về chất lượng không cao) thì đến nay hàng xuất khẩu của công ty đã có mặt trên khoảng 23 nước ở hầu khắp các Châu lục.
Kim ngạch xuất nhập khẩu của công ty tăng lên qua các năm, tạo việc làm và thu nhập ổn định cho nhiều cá nhân ở trong và ngoài công ty.
Tồn tại và nguyên nhân.
Trong thời gian qua, hàng nông sản xuất khẩu của công ty chủ yếu là ở dạng thô hoặc mới qua sơ chế nên chất lượng chưa cao, chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu chung của các thị trường khó tính và nhiều tiềm năng như thị trường Châu Âu, Nhật Bản . Có rất nhiều nguyên nhân làm cho chất lượng hàng xuất khẩu của công ty chưa cao:
Trước hết xuất phát từ hoạt động sản xuất hàng nông sản trong nước. Công ty VILEXIM có chức năng kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản song công ty không trực tiếp sản xuất hàng để xuất khẩu. Do vậy chất lượng hàng xuất khẩu của công ty hoàn toàn phụ thuộc vào hoạt động sản xuất hàng nông sản trong nước. Tuy nhiên trong thời gian qua hoạt động sản xuất nông sản trong nước chưa thực sự nhận được sự đầu tư, quan tâm chỉ đạo sắt sao của nhà nước. Hoạt động sản xuất nông sản hầu như mang tính tự phát, tự giác. Nông dân thích gieo trồng loại cây nào, giống nào, thời vụ gieo trồng, kỹ thuật gieo trồng như thế nào là tùy. Do vậy có hiện tượng thuốc trừ sâu, phân bón hóa học và các thuốc kích thích tăng trưởng được sử dụng một cách bừa bãi; nhiều vùng, nhiều địa phương, nhiều hộ nông dân chạy theo năng suất, số lượng, chưa chú ý đến chất lượng. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho chất lượng hàng nông sản của Việt Nam nói chung và của công ty nói riêng chưa cao. VD: Do chưa có sự chỉ đạo của nhà nước nên việc mở rộng quá mức diện tích lúa vụ 3 ở Đồng Bằng Sông Cửu Long hay việc sử dụng các giống lúa lai cho năng suất cao nhưng chất lượng lại thấp của nông dân các tỉnh phía Bắc.
Ngoài ra, công tác chế biến, bảo quản hàng sau khi mua cũng gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty. Trong thời gian qua công ty chưa đầu tư thích đáng vào công tác chế biến hàng xuất khẩu. Hàng xuất khẩu của công ty chủ yếu là ở dạng thô hoặc mới chỉ qua sơ chế nên hầu như chưa đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới. Chẳng hạn:
Đối với mặt hàng cà phê: Thế giới chuyển sang dùng cà phê hòa tan, bánh kẹo bằng cà phê, cà phê chè được tiêu thụ chủ yếu thì cà phê xuất khẩu của công ty chủ yếu là cà phê thô hoặc mới chỉ qua sơ chế.
Đối với mặt hàng chè: 80% tổng lượng tiêu thụ chè của thế giới là chè túi, chè hộp, thì chè xuất khẩu của công ty chủ yếu là chè đen và chè xanh.
Thông thường một kho chứa hàng nông sản phải đáp ứng được những tiêu chuẩn kỹ thuật nhất định như phải vệ sinh, có nhiệt độ và độ ẩm thích hợp với đặc tính của từng mặt hàng nhằm hạn chế sự biến dạng, biến chất, nấm mốc. Tuy nhiên kho chưa hàng của công ty mới chỉ đơn thuần là nơi chứa hàng chứ chưa đáp ứng được những yêu cầu về kỹ thuật. Do vậy đã gây ảnh hưởng đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty và nhiều khi còn gây thiệt hại cho công ty. VD: Mùa lạc năm 19996-1997 do công ty bảo quản không tốt tại kho Đan Phượng - Hà Tây nên toàn bộ số lạc 50 tấn của công ty đã bị mốc hỏng, tới hạn giao hàng công ty đã không giao đủ số hàng nên đã phải bồi thường thiệt hại cho khách hàng.
Chiến lược kinh doanh của công ty chưa rõ ràng.
Nếu có một chiến lược kinh doanh rõ ràng, công ty sẽ biết được đâu là thị trường trọng điểm và đâu là mặt hàng chủ lực, cách thức thâm nhập vào thị trường trọng điểm như thế nào trong những năm tiếp theo. Khi ấy công ty sẽ có một sự chuẩn bị chu đáo cho các công việc có liên quan sau này. Chẳng hạn: Khi biết được mặt hàng xuất khẩu chủ lực trong những năm tiếp theo công ty sẽ có thu mua dự trữ hoặc tạo nguồn cung cấp ổn định thông qua việc thiết lập mối quan hệ tốt với người sản xuất. Đồng thời công ty sẽ tập trung nguồn lực vào công tác bảo quản và chế biến nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Hoặc khi xác định được thị trường chủ lực, công ty sẽ có các chính sách Marketing thích hợp để thúc đẩy xuất khẩu như: mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài để giới thiệu sản phẩm của công ty và tìm kiếm khách hàng, thu thập thông tin, chuẩn bị để tham gia các cuộc hội chợ triển lãm được tổ chức trong hoặc ngoài nước...
Tuy nhiên một thực tế đang tồn tại ở công ty hiện nay đó là chiến lược kinh doanh của công ty còn rất chung chung. Chính vì vậy mà hoạt động xúc tiến thương mại của công ty rất yếu, công ty không tập trung nguồn lực của mình vào bất cứ mặt hàng nào, hoạt động kinh doanh của công ty dàn trải trên tất cả các mặt hàng với cơ cấu mặt hàng thay đổi một cách liên tục. Do đó công ty không thực sự mạnh ở bất cứ một mặt hàng nào. Nguyên nhân là do:
Công ty thiếu thông tin về sự biến động tình hình cung, cầu, gía cả... trên thị trường.
Ngoài ra sự việc này còn bị gây ra bởi yếu tố nhân lực trong công ty. Hiện tại nếu phân theo độ tuổi thì trong công ty có 24% người ở độ tuổi từ 18 - 25, 64% người ở độ tuổi từ 36 - 50 và 12% người ở độ tuổi trên 50. Nếu phân theo trình độ văn hóa thì hiện tại trong công ty có 7% số người tốt nghiệp phổ thông trung học, 38% tốt nghiệp cao đẳng, 48,7% tốt nghiệp đại học và có 6,7% số người tốt nghiệp trên đại học. Như vậy ta có thể thấy hiện tại vẫn còn một số lượng khá lớn số người trong công ty có trình độ dưới đại học. Đây là một khó khăn lớn cho quá trình hoạt động của công ty. Thêm vào đó hiện tại có tới 76% số người trong công ty có độ tuổi trên 35. Đây là độ tuổi mà ít nhiều đã chịu ảnh hưởng của cơ chế tập trung quan liêu. Bởi vậy nên mặc dù đã cố gắng rất nhiều song trình độ chuyên môn chọ vẫn còn hạn chế, họ vẫn quen với lề lói làm việc quan liêu và thụ động.
Qua phân tích tình hình của công ty ta thấy việc đề ra một chiến lược kinh doanh rõ ràng là thực sự cần thiết đối với công ty trong thời gian tới. Một chiến lược kinh doanh rõ ràng phải nêu rõ mục tiêu và công việc công ty cần phải làm để thực hiện mục tiêu đó. Tuy nhiên trước mắt công ty cần phải chỉ ra được đâu là mặt hàng chủ lực và đâu là thị trường trọng điểm và cách thức thâm nhập được vào thị trường đó trong tương lai.
Công tác thu thập thông tin, nghiên cứu và tìm kiếm thị trường của công ty hoạt động thực sự chưa hiệu quả.
Thông tin là một trong những nhân tố quyết định sự thành công của một doanh nghiệp. Cũng như các doanh nghiệp nhà nước, một vấn đề bức xúc của công ty VILEXIM hiện nay là công ty rất thiếu thông tin về thị trường. Do thiếu thông tin nên công ty không phản ứng nhanh nhạy với sự biến động của thị trường và không đáp ứng được nhu cầu của thị trường. Đồng thời do thiếu thông tin nên công ty không chớp được thời cơ kinh doanh. Khi gía thị trường lên cao thì công ty lại không có hàng để xuất. Ngược lại khi giá thị trường xuống thấp thì hàng lại dư thừa, công ty phải xuất khẩu với giá thấp.
Hiện tại, công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường của công ty còn mang nặng tính hình thức, công ty chưa có một bộ phận chuyên trách đảm nhận nhiệm vụ thu thập thị trường, nghiên cứu thị trường. Công tác này được thực hiện bởi từng cá nhân trong công ty nên rất yếu ớt và lẻ tẻ. Thông tin thu thập được thường có độ trễ và độ chính xác không cao.
Nguyên nhân chính của tình trạng này là do công ty chưa có được sự hỗ trợ thích đáng từ phía nhà nước. Ngoài ra do nguồn vốn hoạt động hạn hẹp nên công ty chưa có sự đầu tư tích đáng vào công tác này.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty cũng còn nhiều bất cập.
Do chưa có hệ thống nghiên cứu thị trường (cả thị trường trong và ngoài nước) nên công ty không thể dự báo trước được khả năng cung ứng, sự biến động cầu về hàng hóa tại thị trường trong và ngoài nước. Do vậy, công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty thường rất bị động. Công ty thu mua hàng chủ yếu dựa vào các đơn đặt hàng của nước ngoài chứ ít có sự chuẩn bị dự trữ sẵn hàng để đáp ứng cho những đơn đặt hàng vào những lúc trái vụ nên nhiều khi công ty đà bỏ lỡ cơ hội ký kết hợp đồng xuất khẩu. Đặc biệt là với kiểu kinh doanh chắc bán, chắc mua như hiện nay công ty dễ bị nhà cung ứng cấu kết ép giá mỗi khi công ty cần lô hàng để thực hiện hợp đồng xuất khẩu.
Công ty mới chỉ thực hiện được các hoạt động thu mua đơn thuần mà chưa thiết lập được mạng lưới thu mua rộng khắp tại các cơ sở. Công ty chưa có hệ thống chân hàng ổn định và có thể cung cấp hàng hóa có chất lượng cao. Một trong những nguyên nhân làm nguồn cung cấp hàng của công ty chưa ổn định là sự thay đổi trong cơ chế chính sách của nhà nước . Cơ chế phân bổ hạn ngạch trước đây của nhà nước cũng đã từng tạo ra tâm lý bất ổn định , không muốn đầu tư lâu dài cho sản xuất.
Công tác kiểm tra chất lượng khi thu mua chưa được thực hiện một cách chặt chẽ, công cụ kiểm tra rất thô sơ, chủ yếu dựa vào trực quan của cán bộ thu mua. Chẳng hạn: Đối với mặt hàng lạc xuất khẩu. Mặt hàng này thường được kiểm tra dựa vào sự quan sát màu sắc của lụa lạc và độ bong của nó. Hoặc có chăng thì nó được kiểm tra bằng một cái máy đo nhỏ, chỉ kiểm tra được với một khối lượng nhỏ. Như vậy có thể thấy với cách kiểm tra này công ty chỉ kiểm tra được với một khối lượng nhỏ và độ chính xác của cách kiểm tra này sẽ không cao.
Quá trình vận chuyển hàng xuất khẩu khi đi giao hàng của công ty chưa được giám sát theo một quy trình chặt chẽ. Công ty chỉ kiểm tra chất lượng khi mua hàng chứ chưa kiểm tra, giám sát khi bốc hàng lên phương tiện vận chuyển ra cảng nên xảy ra hiện tượng hàng xuất khẩu khi còn ở trong kho thì có chất lượng tốt nhưng khi ra đến cảng giao hàng thì lại bị dập nhiều và có chất lượng không đảm bảo.
Các nguyên nhân làm cho công tác thu mua của công ty chưa được thực hiện tốt đó là:
Vốn hạn hẹp nên công ty chưa thiết lập được mang lưới thu mua rộng khắp tại các cơ sở, không tổ chức liên doanh liên kết được với các cơ sở sản xuất và không có sự trợ giúp cho các hộ gia đình sản xuất nên công ty không tạo được chân hàng ổn định. Đặc biệt do thiếu vốn nên công ty không thể đầu tư mua sắm trang thiết bị và xây dựng kho bảo quản theo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật.
Cơ chế thưởng phạt cán bộ thu mua chưa phát huy hết tác dụng. Nó chưa khuyến khích người thu mua cống hiến công sức một cách tối đa.
Ngoài ra cơ chế chính sách của nhà nước thường xuyên thay đổi trong thời gian qua cũng là nguyên nhân làm cho công tác thu mua của công ty chưa thực hiện tốt. Chẳng hạn sự thay đổi trong cơ chế phân bổ hạn ngạch của nhà nước gây tâm lý không ổn định cho công ty, công ty không yên tâm đầu tư lâu dài cho sản xuất.
Chương III :
Một số giải pháp chủ yếu nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM trong thời gian tới .
Định hướng phát triển của công ty giai đọan 2001 - 2005.
Trong chiến lược phát triển công ty vẫn xem măt hàng nông sản là mặt hàng xuất khẩu chủ lực bên cạnh những mặt hàng khác.
ở trong nước, công ty tăng cường hoạt động thu mua , khai thác tối đa nguồn lực ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam nhằm đảm bảo hàng xuất khẩu năm sau cao hơn năm trước. Công ty sẽ cố gắng nâng cao chất lượng sản phẩm, giành ưu thế trên thị trường.
ở nước ngoài công ty sẽ tăng cường các hoạt động tuyên truyền, quảng cáo, chủ động tìm kiếm khách hàng và mở rộng thị trường. Chiến lược thị trường của công ty trong những năm tới là phải mở rộng địa bàn hoạt động sang khu vực thị trường mà sản phẩm của công ty còn chưa thâm nhập được nhiều như EU, Mỹ... trên cơ sở duy trì các bạn hàng truyền thống như Singapo, Indonexia, Malaixia.... Để làm được như vậy công ty sẽ phải theo dõi sự biến động các mặt hàng công ty kinh doanh ở thị trường trong và ngoài nước nước một cách chặt chẽ.
Giải pháp và kiến nghị.
Trong thời gian qua hoạt động xuất khẩu hàng nông sản của công ty VILEXIM đã đạt được một số thành tựu đáng kể tuy nhiên cũng còn không ít tồn tại. Những tồn tại này có thể bị tác động bởi các yếu tố chủ quan xuất phát từ phía công ty mà công ty có thể điều chỉnh được song cũng có thể nó bị tác động bởi các yếu tố khách quan, công ty không thể tự điều chỉnh được mà cần phải có sự trợ giúp của nhà nước. Sau đây là một số giải pháp, kiến nghị đối với công ty VILEXIM và đối với nhà nước.
A. Giải pháp đối với công ty.
Tổ chức tốt công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại.
Theo Kemchiomare - một chuyên gia kinh tế xuất sắc của Nhật Bản thì: “bí quyết đảm bảo sức mạnh kinh doanh của công ty trước hết là thông tin. Thông tin chính là tiền đề cho sự phát triển, cho khả năng chi phối thị trường và cho thành công của doanh nghiệp”. Cả thị trường trong nước và thị trường thế giới đều tác động trực tiếp đến hoạt động của công ty. Vì vậy, công ty cần thu thập thông tin về thị trường trong nước và thị trường thế giới. Cụ thể hơn, đó chính là thông tin về tình hình cung, cầu một mặt hàng nào đấy ở thị trường trong nước và thị trường thế giới, thông tin về đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp, thông tin về chính sách của nhà nước và của nước ngoài đối với một mặt hàng nào đấy...
Ngoài việc thu thập thông tin của thị trường nước ngoài, việc giới thiệu với khách hàng nước ngoài về công ty cũng rất quan trọng bởi vì công ty sẽ không có được khách hàng nước ngoài nếu như khách hàng nước ngoài không hề biết về công ty.
Như đã phân tích ở phần tồn tại của công ty, trong thời gian qua công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường của công ty thực hiện chưa tốt, hoạt động xúc tiến thương mại rất yếu. Chính vì vậy trong thời gian tới công ty cần tăng cường hơn nữa trong công tác thu thập thông tin, nghiên cứu thị trường và xúc tiến thương mại.
Các công việc mà công ty nên thực hiện là:
Theo dõi và nắm bắt tình hình trong nước và thế giới hàng ngày, hàng giờ thông qua đài phát thanh, đài truyền hình. Có như vậy thông tin mới cập nhật và thường xuyên.
Tích cực tham gia các hội chợ triển lãm được tổ chức trong và ngoài nước. Đây là một cơ hội tốt cho công ty trao đổi thông tin, nắm bắt nhu, chào hàng, tìm đối tác kinh doanh để đến ký kết các hợp đồng kinh tế. Mặt khác đây cũng là một cơ hội tốt để công ty học hỏi và nâng cao nghiệp vụ kinh doanh.
Đầu tư kinh phí để thu thập thông tin từ các nguồn thông tin quan trọng, đáng tin cậy và cập nhật như thông tin của Trung tâm thương mại Quốc tế (ITC), thông tin từ tổ chức thương mại và phát triển của Liên Hợp Quốc (UNCTAD), thông tin của ngân hàng thế giới(WB).
Thành lập ra một bộ phận chuyên trách đảm nhiệm công việc thu thập thông tin và nghiên cứu thị trường.
Tạo điều kiện để các cán bộ làm công tác thị trường tiếp xúc với thị trường trong và ngoài nước từ đó nâng cao khả năng phân tích, phán đoán, xử lý thông tin và đưa ra các giải pháp thích hợp nhằm ứng phó trước những biến động của thị trường.
Xúc tiến các hoạt động mở văn phòng đại diện tại những khu vực thị trường được xem là trọng điểm của công ty nhằm thu thập thông tin về thị trường nước sở tại và giới thiệu với khách hàng nước ngoài về công ty.
Tranh thủ triệt để cơ hội tiếp xúc, thu thập thị trường từ các tổ chức kinh tế, thương nhân nước ngoài đến thăm vầ tìm kiếm cơ hội kinh doanh tại Việt Nam.
Lựa chọn thị trường trọng điểm.
Trong điều kiện vốn và năng lực kinh doanh có hạn công ty không thể cung cấp tất cả các mặt hàng cho tất cả các thị trường nên việc lựa chọn thị trường trọng điểm đối với công ty là rất cần thiết. Công ty cần phải xác định được thị trường trọng điểm từ đó có cách thức xâm nhập thị trường, đầu tư đổi mới công nghệ sản xuất để tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao về giá cả, chất lượng và đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng tại những thị trường đã chọn. Các tiêu chí mà công ty có thể căn cứ đó là:
Quy mô thị trường mặt hàng nông sản cả trong hiện tại và tương lai.
Sự phát triển của nhu cầu thị trường, các yếu tố kinh tế xã hội, chính trị, văn hóa và trào lưu tiêu dùng.
Chí phí kinh doanh phát sinh: Chi phí thuê phương tiện vận tải, thuế nhập khẩu hàng hóa, chi phí phân phối hàng hóa.
Mối quan hệ đối ngoại giữa Việt Nam với các nước đó như thế nào, công ty có được hưởng chính sách ưu đãi nào không.
Ưu thế cạnh tranh của đối thủ cạnh tranh trên thị trường đó: Uy tín, giá cả chất lượng, sản phẩm...
Mức độ rủi ro trên thị trường.
Khả năng đáp ứng của công ty.
Xây dựng chính sách sản phẩm thích hợp.
Sau khi đã lựa chọn được thị trường trọng điểm, công ty cần phải có một chiến lược sản phẩm thích hợp với thị trường này. Chẳng hạn đối với những thị trường có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm công ty cần phải nâng cao chất lượng, cải tiến cách thức phân phối và có chính sách giá cả hợp lý. Cụ thể:
Nâng cao chất lượng sản phẩm.
Theo xu hướng phát triển chung của thị trường thế giới, yêu cầu về sản phẩm có chất lượng cao ngày càng tăng. Chất lượng sản phẩm cao chính là yếu tố giúp cho công ty giữ được thị trường và tranh thủ tình cảm của khách hàng. Do vậy trong chiến lược phát triển lâu dài công ty cần phải tìm cách nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm của công ty bao gồm các công việc sau:
Đối với mặt hàng mà công ty trực tiếp kinh doanh (Sẽ được trình bày cụ thể ở phần sau).
Đối với mặt hàng công ty nhận ủy thác xuất khẩu. Công ty cần:
Giao nhận hàng đúng thời gian và địa điểm.
Bảo quản tốt hàng nhận ủy thác.
Các thủ tục hành chính phải đảm bảo tính pháp lý và bàn giao đúng thời hạn.
Tuy nhiên trước mắt nếu những thị trường trọng điểm của công ty có yêu cầu về chất lượng chưa cao (VD: thị trường Châu Phi hoặc thị trường các nước có khả năng chi trả thấp ở Châu á) thì công ty chưa cần quan tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm, khi đó việc xây dựng một chính sách giá cả hợp lý tại những thị trường nên được công ty quan tâm hơn.
Xây dựng chính sách giá cả hợp lý
Giá cả là một yếu tố quan trọng trong kinh doanh nói chung và trong kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản nói riêng. Giá cả hợp lý là mức gía phù hợp với nhu cầu về sản phẩm và mức gía trên thị trường. Giá quá cao sẽ làm cho sản phẩm của công ty khó tiêu thụ và gía quá thấp sẽ gây ra sự thua thiệt và đôi khi cũng đưa khách hàng đến sự ngờ vực sản phẩm của công ty. Chính vì vậy giá cả công ty đưa ra phải dựa trên chi phí cho sản phẩm của công ty cũng như của đối thủ cạnh tranh. Đối với những sản phẩm của công ty tương tự như sản phẩm của đối thủ cạnh tranh thì ngoài việc căn cứ vào chi phí cho sản phẩm để định giá, công ty cần xem xét kỹ lưỡng giá của đối thủ cạnh tranh vì khách hàng thường có tâm lý tham khảo giá trước khi mua hàng. Đối với những mặt hàng được xem là độc đáo riêng của công ty thì công ty có thể tự do áp dụng mức giá linh hoạt sao cho vừa đảm bảo được có lãi và tiêu thụ được nhiều sản phẩm.
Nghiên cứu xác định giá cả đối với công ty là một nhiệm vụ quan trọng và phải được tiến hành một cách thường xuyên, nhất là đối với các sản phẩm đồng nhất với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Trong việc định giá, công ty cần phải thu thập đầy đủ thông tin và cũng cần xác định mục tiêu của chính sách giá đưa ra là tăng lợi nhuận, chiếm lĩnh thị trường hay một mục tiêu nào khác.
Đẩy mạnh xâm nhập thị trường.
Sau khi đã chọn được những thị trường trọng điểm công ty cần phải chọn được phương thức tốt nhất để xâm nhập vào thị trường. Các công việc mà công ty có thể thực hiện là:
Quan hệ với các nhà phân phối lớn, có uy tín để lợi dụng uy tín của họ nâng cao uy tín hàng nông sản của công ty. Đồng thời đưa hàng nông sản của công ty vào kênh phân phối của họ qua đó nâng cao khả năng xâm nhập thị trường.
Liên doanh liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài để đẩy mạnh hoạt động chế biến, xuất khẩu hàng nông sản ra thị trường thế giới.
Lập các văn phòng giao dịch tại các thị trường đã chọn để đẩy mạnh các hoạt động tiếp thị, chọn các kiốt phân phối và tiêu thụ, tăng cường các hoạt động quảng cáo, khuếch trương, tích cực tham dự các hội chợ triển lãm nhằm nâng cao uy tín và nhãn hiệu của sản phẩm.
Huy động các nguồn vốn để phát triển hoạt động sản xuất kinh doanh.
Trong thời buổi hiện nay thì vốn có ảnh hưởng trực tiếp đến quy mô sản xuất hàng hóa, chất lượng hàng hóa, đến công tác thu mua hàng hóa, đến quá trình nghiên cứu và tìm kiếm thị trường tiêu thụ hàng hóa của bất kỳ một công ty nào. Và đối với công ty VILEXIM cũng thế. Chính vì vậy trong thời gian tới để tăng thêm vốn phục vụ cho công tác kinh doanh ngoài nguồn vốn của mình công ty phải huy động thêm từ các nguồn trong và ngoài nước. Cụ thể công ty có thể huy động từ các nguồn sau:
Vốn vay từ các ngân hàng.
Nguồn vốn vay này là có hạn, đến hạn thì công ty phải trả. Chính vì vậy mà công ty cần phải tính toán xem nên vay như thế nào để phục vụ cho công tác kinh doanh một cách có hiệu quả nhất. Hiện nay, hoạt động thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty mang tính thời vụ nên công ty nên vay các nguồn vốn ngắn và trung hạn bởi lãi suất của có thấp hơn vay dài hạn. Tuy nhiên trong thời gian tới trước những yêu cầu chung trong công ty là phải tiến hành đầu tư xây dựng các cơ cở bảo quản hàng hóa, liên doanh liên kết để sản xuất hàng hóa thì công ty nên vay vốn dài hạn.
Huy động vốn từ các cán bộ công nhân viên trong công ty.
Sử dụng nguồn vốn này công ty có thể chủ động hơn trong kinh doanh. Đồng thời công ty không phải chịu sức ép khi đến hạn phải thanh toán. Hơn thế nữa với hình thức vay vốn này công ty có thể huy động được một cách tối đa năng lực và lòng nhiệt của cán bộ công nhân viên trong công ty bởi thu nhập của họ phụ thuộc nhiều vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty.
Vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của công ty.
Muốn sử dụng được nguồn vốn này công ty phải đặc biệt chú ý tới đối tượng khách hàng có khối lượng mua lớn, đã có quan hệ truyền thống với công ty. Để có được vốn vay này công ty phải đảm bảo được chữ “tín” trong kinh doanh. Có nghĩa là công ty phải nghiêm chỉnh chấp hành các điều khoản về chất lượng, giá cả, thời gian và cách thức giao hàng như đã thỏa thuận trong hợp đồng kinh doanh.
Vay từ các nhà xuất khẩu hàng cho công ty.
Công ty có thể vay từ các nhà xuất khẩu hàng cho công ty thông qua hình thức trả chậm. Hình thức này thường chỉ được thực hiện khi công ty nhập khẩu với một số lượng lớn hàng hóa và là khách hàng quen thuộc của họ. Một điều quan trọng nữa ở phương thức này mà công ty cũng phải thực hiện được là chữ “tín” trong kinh doanh. Tức là công ty phải thanh toán đủ tiền hàng cho nhà xuất khẩu khi đã đến thời hạn thanh toán.
Ngoài các phương thức trên, hợp tác đầu tư, liên doanh liên kết với đối tác nước ngoài cũng là một biện pháp hữu hiệu mà công ty cần áp dụng trong tình trạng vừa thiếu vốn, vừa thiếu máy móc thiết bị như hiện nay. Với phương thức này công ty phải dựa trên quan điểm “cả hai bên cùng có lợi’’ có như vậy thì quan hệ của công ty và đối tác liên doanh mới được bền lâu.
Khi đã huy động được vốn, vấn đề tiếp theo mà công ty cần quan tâm là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn này một cách có hiệu quả. Muốn vậy công ty cần phải thực hiện tiết kiệm trong chi tiêu, phải có biện pháp quản lý nguồn vốn một cách có hiệu quả. Vốn của công ty phải được tập trung vào những dự án mang tính khả thi cao. Đặc biệt, công ty phải dần dần giảm bớt kinh doanh những mặt hàng thô có khối lượng lớn nhưng trị giá kinh tế không lớn, lợi nhuận thu được không cao để dần chuyển sang kinh doanh mặt hàng tinh có giá trị kinh tế cao và có sức cạnh tranh lớn.
Tổ chức tốt công tác thu mua hàng xuất khẩu.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu của công ty hiện còn nhiều bất cập. Do vậy nguồn hàng cung cấp cho công ty rất bấp bênh, chất lượng chưa đảm bảo. Chính vì vậy trong thời gian tới để cải thiện công tác thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu công ty nên thực hiện tốt một số công việc sau:
Phải đảm bảo có đủ vốn. Hàng xuất khẩu của công ty hiện chủ yếu là nông sản, đặc điểm của loại hàng hóa này là thu mua mang tính thời vụ. Trong điều kiện ‘’tranh mua, tranh bán‘’ như hiện nay, nếu thiếu vốn trong dịp thu mua thì công ty không thể mua được hàng hoặc nếu có thì quá trình thu mua cũng bị gián đọan. Khi ấy đối thủ cạnh tranh sẽ ngay lập tức thế chỗ công ty. Sau đó kể cả công ty có chuẩn bị đủ tiền thì nhà cung ứng cũng chưa chắc đã muốn bán cho công ty do họ đã quen với đối tác khác. Chính vì vậy việc chuẩn bị đầy đủ vốn cho quá trình thu mua hàng của công ty là rất quan trọng. Nhưng chuẩn bị bao nhiêu cho phù hợp lại cũng là một câu hỏi mà công ty cần đặt ra. Bởi nếu chuẩn bị thiếu vốn thì công ty sẽ gặp phải những khó khăn như đã phân tích ở phần trên còn nếu chuẩn bị quá thừa thì công ty lại phải mất một khoản tiền vô ích để trả lãi suất (trong trường hợp công ty phải vay vốn của ngân hàng). Chính vì vậy mà việc dự đoán lượng tiền cần chuẩn bị phải dựa trên sự dự đoán về biến động của giá cả, sự cung, cầu về hàng hóa trên thị trường. Công việc này cần được đảm nhiệm bởi những người có năng lực và có đầu óc kinh doanh.
Trong quá trình thu mua công ty cần phải kiểm tra chất lượng sản phẩm môt cách nghiêm túc bởi đây là yếu tố quyết định cơ bản đến chất lượng hàng xuất khẩu của công ty. Với mỗi loại sản phẩm khác nhau công ty sẽ phải đề ra những tiêu chuẩn để kiểm tra khác nhau và có những cách kiểm tra khác nhau. Chẳng hạn đối với mặt hàng lạc xuất khẩu, công tác kiểm tra chất lượng sẽ phải dựa vào một số chỉ tiêu sau:
Kiểm tra về mối mọt: trong thời gian qua công ty đã tiến hành kiểm tra chỉ tiêu này nhưng chưa chặt chẽ. Hơn nữa đây là một chỉ tiệu mà khách hàng của công ty rất quan tâm nên công ty nhất thiết phải kiểm tra thật kỹ khi thu mua. Cụ thể khi kiểm tra cần phải tách đôi vỏ lạc ra vì ở giai đọan đầu của quá trình mốc thì lạc chỉ bị mốc ở bên trong do bị mốc ở hai lá mầm ( mầm có 40% là chất béo nên nấm mốc phát triển tốt còn ở bên ngoài rất bình thường nên mắt thường không thể nhìn thấy được).
Độ ẩm của lạc: Đây là một chỉ tiêu để xác định chế độ bảo quản. Khi độ ẩm của lạc từ 7% trở xuống thì có thể bảo quản ở kho bình thường từ một đến hai tháng vẫn không bị mốc. Tuy nhiên khi độ ẩm của lạc trên 7% thì cần thiết phải tiến hành sấy khô lạc ngay bằng hơi nóng và đảo trộn ( không được phơi nắng vì làm như vậy lạc sẽ bị chảy dầu).
Kiểm tra về mức các tạp chất có trong lạc như vụn than, cành lá và các loại tạp chất khác. Cần đặc biệt chú ý đến các loại vi sinh vật cũng như sâu mọt có trong lạc khi bao gói.
Kiểm tra về tiêu chuẩn lạc: với hàm lượng hạt/100g xem có bao nhiêu hật đủ tiêu chuẩn.
Công ty cần xây dựng mối quan hệ tốt với các địa phương sản xuất hàng xuất khẩu của công ty. Khi đó, quá trình thu mua của công ty sẽ thuận lợi hơn, khối lượng thu mua được sẽ nhiều hơn. Muốn xây dựng được mối quan hệ tốt này, công ty nên tiến hành các công việc như: Gặp gỡ các đại biểu ở các địa phương ngay từ đầu vụ sản xuất để trao đổi, bàn bạc và ký hợp đồng, hỗ trợ một phần cho sản xuất như hỗ trợ vốn, hỗ trợ phân bón. Đồng thời công ty có thể hỗ trợ địa phương một phần vào việc xây dựng các công trình phúc lợi công cộng như: Bệnh viện, trường học, hệ thống giao thông, thủy lợi. Các chi phí này thuộc vào chi phí mua hàng cho công ty. Hiện tại đối với công ty chi phí này không phải là nhỏ nhưng nó là một sự đầu tư thích đáng trong chiến lược phát triển lâu dài của công ty, nó tạo ra mối quan hệ thân thiết giữa công ty và địa phương đồng thời cũng tạo nên sự ràng buộc về kinh tế giữa công ty và địa phương.
Công ty cần đưa ra những biện pháp để khuyến khích hoạt động thu mua có hiệu quả như: Quy định một tỷ lệ hoa hồng mà cán bộ thu mua được hưởng nếu khối lượng mua được lớn, chất lượng đảm bảo. Đồng thời xử lý nghiêm túc đối với những trường hợp gian lận, tráo hàng làm giảm chất lượng và uy tín hàng xuất khẩu của công ty.
Công ty nên giám sát chặt chẽ quá trình vận chuyển và giao nhận hàng hóa.
Quá trình vận chuyển và giao nhận hàng hóa cần được giám sát một cách chặt chẽ để tránh trường hợp hàng bị thiếu hụt, mất phẩm cấp khi vận chuyển, giao nhận. Giám sát hàng khi bốc lên phương tiện vận tải để giao cho khách hàng nước ngoài cần:
Xem khối lượng từng bao có hao hụt gì so với trước khi xếp hàng vào kho không.
Xem có còn đúng chất lượng như ban đầu không.
Trong quá trình này nếu thấy có sai sót gì thì cần sữa chữa lại ngay để tránh các khiếu kiện sau này.
Ngoài ra công ty cần phải kiểm tra độ thông gío, độ sạch sẽ của phương tiện vận tải, cần phải giám sát công nhân chặt chẽ lúc bốc hàng lên phương tiện vận tải, nhắc họ không được quăng, quật, giẫm đạp lên hàng để tránh dập, vỡ hàng và hư hỏng bao bì.
Đầu tư vào công tác chế biến, bảo quản.
Chất lượng hàng nông sản xuất khẩu của công ty phụ thuộc rất nhiều vào công tác chế biến và bảo quản. Hiện tại công ty đang xuất khẩu mặt hàng thô là chủ yếu nên trị giá xuất khẩu thường không cao. Chính vì vậy trong thời gian tới để nâng cao chất lượng, đẩy mạnh hơn nữa hoạt động kinh doanh công ty cần phải xây dựng những cơ sở sản xuất chế biến. Ngoài ra, công ty cần xây dựng hệ thống nhà xưởng, trang thiết bị, máy móc phù hợp với trình độ người lao động nhằm nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu .
Nâng cao chất lượng người lao động.
Bất kỳ một công ty nào dù có vốn lớn, có trang thiết bị hiện đại, mà nguồn nhân lực không đảm bảo cho yêu cầu sản xuất, quản lý, kinh doanh thì công ty đó cũng không thể phát triển được bởi con người là chủ thể quyết định sự thanh công hay thất bại của công ty. Do vậy, để tồn tại và phát triển thì buộc mỗi công ty phải chăm lo đào tạo và phát triển nguồn nhân lực một cách thường xuyên, liên tục.
Đối với công ty VILEXIM, vấn đề nguồn nhân lực là một vấn đề nan giải và khó giải quyết trong thời gian ngắn. Tuy nhiên nâng cao trình độ nghiệp vụ của cán bộ công nhân viên cần phải được công ty đặc biệt chú trọng. Sau đây là một số giải pháp:
Thường xuyên gửi các cán bộ kinh doanh trẻ có triển vọng tới các trung tâm đào tạo KDQT ở trong hoặc ngoài nước.
Tạo điều kiện để các nhân viên còn yếu và thiếu về nghiệp vụ đi học các lớp đào tạo bổ sung hoặc đào tạo tại chức.
Thành lập và đào tạo đội ngũ nhân viên kỹ thuật làm nhiệm vụ giám định hàng hóa.
Có được đội ngũ lao động tốt là điều kiện cần đối với bất kỳ một công ty nào. Tuy nhiên để đội ngũ lao động này làm việc một cách có hiệu qủa, trung thành với công ty thì công ty cần phải có chế độ khen thưởng hợp lý, xử phạt nghiêm minh đối với những trường hợp làm tổn hại đến toàn công ty. Ngoài ra công ty cần cất nhắc những cá nhân làm việc có hiệu quả lên những vị trí cao nhằm nêu gương, tạo động lực cho những cá nhân khác.
B. Kiến nghị với nhà nước.
Đẩy mạnh hoạt động sản xuất chế biến hàng nông sản.
Hoạt động sản xuất và chế biến các mặt hàng nông sản chính là khâu tạo ra hàng cho xuất khẩu. Nó có ảnh hưởng đến quy mô và cơ cấu và chất lượng hàng xuất khẩu. Vì vậy để nâng cao hoạt động xuất khẩu hàng nông sản thì bên cạnh hoạt động tiếp tục mở rộng diện tích gieo trồng, nhà nước cần đầu tư mạnh vào phát triển sản xuất hàng nông sản theo chiều sâu, từng bước nâng cao chất lượng hàng nông sản. Để đẩy mạnh hoạt động sản xuất, chế biến hàng nông sản nhà nước cần thực hiện các biện pháp sau:
Tạo nguồn vốn ban đầu cho nông dân.
Đây là một việc làm ban đầu hết sức cần thiết. Vì để thay đổi những cơ cấu giống cây trồng, áp dụng những tiến bộ khoa học và quản lý vào trong sản xuất đòi hỏi những chi phí không nhỏ mà nhiều khi người nông dân không thể tự trang trải nổi. Trong thời gian qua các chương trình trợ giúp vốn cho nông dân đã được thực hiện song kết quả thu được còn hạn chế, người nông dân vay vốn lãi suất diễn ra dàn trải, thiếu tập trung điều đó dẫn tới mỗi hộ nông dân chỉ có thể vay được một vài trăm ngàn đồng, không đủ cho đầu tư sản xuất. Các hộ nông dân năng động muốn làm ăn lớn đã chấp nhận đi vay lới lãi suất tín dụng thông thường thì lai gặp khó khăn trong vấn đề tài sản thế chấp trong khi đấy ngân hàng lại có hiện tượng ứ đọng tiền mặt. Để khắc phục tình trạng này trong thời gian tới nhà nước cần đưa ra chính sách ưu đãi đối với ngân hàng phục vụ người sản xuất hàng nông sản để họ tạo cung cấp vốn cho nông dân nhiều hơn nữa.
Nhà nước nên tập trung nghiên cứu ra các loại giống tốt cho năng suất cao và cung cấp cho nông dân để sản phẩm nông dân sản xuất ra có chất lượng đồng bộ dễ xuất khẩu.(Tránh tình trạng nhà nước thả nổi, nông dân thích trồng giống gì thì trồng, chất lượng không đồng bộ).
Nhà nước nên đầu tư vào công tác chế biến.
Đầu tư cho công tác chế biến sản phẩm đôi khi là quá sức đối với doanh nghiệp bởi công việc này đòi hỏi doanh nghiệp phải bỏ ra một lượng vốn tương đối lớn để nhập khẩu các loại trang thiết bị, máy móc hiện đại. Chính vì vậy nhà nước nên đầu tư xây dựng các cơ sở chế biến hàng nông sản. Chẳng hạn nhà nước sẽ đầu tư lắp đặt các dây chuyền đánh bóng gạo hay dây chuyền tinh chế cà phê thành sản phẩm cuối cùng để sản phẩm xuất khẩu của của công ty có thể đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Ngoài ra nhà nước có thể hỗ trợ công ty thông qua đẩy mạnh áp dụng công nghệ chế biến mẫu mã, bao bì để tạo ra sản phẩm có hàm lượng giá trị kỹ thuật cao.
Nhà nước nên tổ chức tốt công tác thu mua nông sản cho nông dân.
Hoạt động thu hoạch của nông dân mang tính mùa vụ nên quá trình thu hoạch diễn ra một cách dồn dập trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên đối với nông dân khả năng về vốn có hạn, các điều kiện về kho hàng cất giữ sản phẩm hạn chế nên người nông dân phải bán nông sản ngay sau khi thu hoạch. Trong khi đấy nhà nước lại chưa sẵn sàng mua nông sản cho nông dân, điều này dẫn đến tình trạng nông dân bị tư thương ép phải bán hàng với giá thấp và thực sự không khuyến khích nông dân sản xuất. Đây cũng là một trong những nhân tố ảnh hưởng đến sự ổn định nguồn hàng xuất khẩu của công ty. Do vậy trong thời gian tới nhà nước cần chuẩn bị kỹ lưỡng về vốn, kho chứa, mạng lưới thu mua hàng cho nông dân... để hạn chế bớt lượng cung hàng của nông dân trên thị trường vào những lúc chính vụ, đặc biệt là vào những năm được mùa nhằm hạn chế sự ép giá của tư thương đối với nông dân. Có như vậy mới khuyến khích được nông dân sản xuất, cung cấp hàng ổn định và có chất lượng cao cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu.
Trợ giúp cho công ty xuất khẩu hàng nông sản.
Trợ giúp vốn.
Hàng nông sản là mặt hàng mang tính thời vụ nên đòi hỏi các công ty phải có lượng vố đủ lớn để thu mua hàng trong vụ thu hoạch và dự trữ cho xuất khẩu trong cả năm. Hiện nay hầu hết các công ty Việt Nam đều gặp khó khăn do thiếu vốn nên bỏ lỡ cơ hội kinh doanh. Thêm vào đấy, do thiếu vốn nên các công ty gặp khó khăn trong công tác đầu tư chế biến nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu. Chính vì vậy thời gian tới nhà nước cần đưa ra các biện pháp khuyến khích các ngân hàng cho vay vốn để công ty có thể nâng cao hoạt động chế biến và thu mua hàng xuất khẩu. Nhà nước nên thông qua các ngân hàng tạo điều kiện cho các công ty vay vốn với lãi suất thấp, thời gian hợp lý và đặc biệt thủ tục hành chính cần phải được cải tiến.
Nhà nước nên áp dụng thuế suất ưu đãi. Nhà nước nên áp dụng thuế suất ưu đãi hơn nữa đối với hàng nông sản xuất khẩu, mở rộng hơn nữa đối với số lượng mặt hàng được miễn giảm thuế.
Nhà nước cần đẩy mạnh hoạt động xúc tiến thương mại và cung cấp thông tin về thị trường nông sản thế giới cho các công ty hoạt động trong lĩnh vực này.
Thông tin chiếm một vị trí quan trọng trong thành công hay thất bại của công ty. Thị trường hàng nông sản là một thị trường thường có sự biến động khá phức tạp nhưng ở Việt Nam thông tin thường thiếu, có độ chính xác chưa cao. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cũng như các Bộ nên chú trọng tới công tác nghiên cứu, khảo sát, dự báo sự biến động của thị trường thế giới. Đồng thời nhà nước cần xây dựng một trung tâm cung cấp thông tin chuyên ngành về thị trường nông sản trong và ngoài nước.
Nhà nước cần lập qũy bảo hiểm xuất khẩu.
Để chiếm lĩnh được thị trường nước ngoài nhiều công ty thực hiện hình thức bán chịu hàng cho khách hoặc cho khách áp dụng hình thức mua trả chậm. Việc bán hàng theo cách này giúp công ty tiêu thụ được hàng hóa và lợi nhuận công ty thu được có thể cao hơn so với cách bán hàng trả tiền ngay. Tuy nhiên công ty cũng dễ gặp phải nhiều rủi ro, dễ bị mất vốn. Do vậy nhà nước cần lập nên một qũy bảo hiểm xuất khẩu để khuyến khích công ty xuất khẩu hàng hóa của mình đồng thời giúp công ty bảo toàn vốn khi gặp rủi ro.
Nhà nước cần lập qũy bình ổn giá cả.
Nhà nước cần xem xét bằng qũy bình ổn giá cả để bớt đi một phần gánh nặng lãi suất tín dụng cho các công ty xuất khẩu hàng nông sản trong trường hợp giá hàng nông sản trên thị trường thế giới xuống thấp hoặc giá thu mua hàng nông sản trong nước tăng cao gây thua lỗ cho các công ty.
Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý xuất khẩu theo hướng đơn giản, thông thoáng và phù hợp với cơ chế thị trường .
Những quy định về xuất khẩu, các hàng rào thương mại trong nước là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu. Để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu, hệ thống các chính sách và quy định xuất khẩu của nhà nước cần được đổi mới và hoàn thiện hơn nữa. Chẳng hạn:
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp lý.
Hệ thống văn bản pháp lý phải đảm bảo tính đồng bộ, nhất quán trong việc khuyến khích tất cả các thành phần kinh tế tham gia sản xuất hàng xuất khẩu để tạo nguồn hàng ổn định, lâu dài cho các công ty chuyên doanh xuất khẩu, tránh tình trạng trống đánh xuôi, kèn thổi ngược, khuyến khích xuất khẩu một mặt hàng nào đấy nhưng lại không khuyến khích sản xuất mặt hàng đó. Việc khuyến khích sản xuất trực tiếp và khuyến khích đầu tư xuất khẩu ở nước ta hiện nay chỉ mới quan tâm đến các cơ sở trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu và các công ty kinh doanh xuất khẩu chứ chưa quan tâm đến các công ty làm nhiệm vụ cung ứng nguyên vật liệu đầu vào. Vì vậy trong thời gian tới nhà nước cần phải xem xét và có các chính sách đối với các công ty này.
Chính sách thuế VAT như hiện nay đang cản trở đến hợp đồng xuất khẩu của công ty. Để nạp thuế VAT, công ty phải đi vay tiền của ngân hàng với lãi xuất cao. Tuy nhiên, quá trình hoàn thuế VAT của nhà nước lại diễn ra quá chậm chạp. Điều này làm cho công ty đã thiếu vốn kinh doanh lại càng thiếu hơn. trong thời gian tới, nhà nước cần xem xét lại chính sách này nhằm tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu .
Hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu.
Hiện nay công tác quản lý xuất khẩu của nhà nước còn nhiều bất cập. Thủ tục xuất khẩu rườm rà phức tạp, gây lãng phí thời gian và công sức cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhiều khi tỏ ra quan liêu cửa quyền gây khó dễ cho các doanh nghiệp. Chính vì vậy trong thời gian tới nhà nước phải tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý xuất khẩu cho phù hợp với tình hình mới. Ngoài ra nhà nước cũng cần giám sát chặt chẽ, phối hợp hoạt động giữa các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu nông sản để tránh tình trạng tranh giành khách hàng bằng cách hạ giá một cách bất hợp lý, gây tổn hại cho công ty cũng như cho nhà nước.
Thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu.
Đây là một chính sách có tính chất hỗ trợ, tăng khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu nói chung. Chính sách này cần phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác, tuỳ theo từng thời kỳ, tạo tỷ giá hối đoái có lợi và không chênh lệch quá lớn so với giá thực tế trên thị trường. ở chính sách này, để tạo thuận lợi cho các nhà xuất khẩu, các nhà hoạch định chính sách thường phá giá đồng bản tệ. Về mặt lý thuyết, việc phá giá tiền tệ làm giảm nhập khẩu và khuyến khích xuất khẩu. Khó khăn chủ yếu ở đây là phải xác định một tỷ giá vừa đủ nhưng cũng phải vừa ngắn để thu được một hiệu ứng có lợi cho goại thương và bảo toàn được đội ngũ bạn hàng. Thành công của chính sách này đòi hỏi một loạt các chính sách khác đi kèm để giữ cho nền kinh tế không “suy sụp“ trong điều kiện lạm phát. Từ quan điểm này việc chọn thời điểm phá giá tiền tệ là hết sức quan trọng.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy sự điều chỉnh tỷ giá hối đoái đã có tác động mạnh mẽ tới hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Ngày 7/8/1998, ngân hàng nhà nước đã quyết định thu hẹp biên độ giao dịch ngoại tệ xuống ± 7%, đồng thời nâng tỷ giá chính thức 11.800VNĐ/USD lên 12.998 VNĐ/USD đã làm cho sản lượng gạo xuất khẩu của Việt Nam sau một năm tăng 75%, Cà phê tăng 49%, Chè tăng 20%... Ngoài ra, điều chỉnh tỷ giá còn giắt giảm lỗ cho những mặt hàng xuất khẩu bị lỗ, một số mặt hàng xuất khẩu đang bị đã chuyển thành lãi. Thực tiễn này cho thấy, để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu hàng hóa ở các doanh nghiệp trong nước (nói chung) và ở công ty VILEXIM nói riêng, nhà nước nên thiết lập một chế độ tỷ giá hối đoái thuận lợi cho xuất khẩu, chế độ tỷ giá này phải được phối hợp một cách nhịp nhàng với các chính sách khác của nhà nước.
Kết luận:
Xuất khẩu là lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế quốc dân.Thông qua đó, các quốc gia có được nguồn ngoại tệ để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, duy trì và mở rộng tái sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ của thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế, xã hội, hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Với tầm quan trọng như vậy, ở nước ta xuất khẩu được đặt vào vị trí trung tâm, làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Đẩy mạnh xuất khẩu đã trở thành nhiệm vụ chiến lược của quốc gia trong suốt thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ đòi hỏi sự cố gắng của Đảng, nhà nước, tất cả các Bộ, ngành và đặc biệt là sự thực hiện của các công ty hiện đang tham gia vào hoạt động xuất khẩu. Trước yêu cầu đó, công ty VILEXIM đã tìm cho mình một hướng đi đúng đắn, đẩy mạnh xuất khẩu phục vụ các chương trình kinh tế của Đảng và nhà nước, góp phần nâng cao đời sống nhân dân.
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp này đã trình bày nội dung, thực tiễn và đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng nông sản ở công ty VILEXIM. Em hy vọng những kiến thức thực tế thu nhận tại công ty trong thời gian thực tập sẽ góp phần bổ xung cho kiến thức được trang bị ở trường.
Tài liệu tham khảo
Báo cáo hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty VILEXIM các năm 1996-2000.
Giáo trình “ Kinh doanh quốc tế ”: chủ biên PTS Đỗ Đức Bình, NXB Giáo dục, 1997.
Giáo trình “ Marketing quốc tế ”: biên soạn PTS Nguyễn Cao Văn, NXB Thống kê, 1999.
Giáo trình “ Kinh tế học quốc tế ”: chủ biên GS -PTS Tô Xuân Dân, NXB Giáo dục,1995.
Sách: “Mấy vấn đề kinh doanh lương thực ở Việt Nam ”. Tác giả :
Sách: “Lương thực Việt Nam - đổi mới hướng xuất khẩu ” Tác giả : Nguyễn Trung Văn, NXB Chính trị Quốc gia,1997.
Tạp chí Thương mại số 12-2000. Bài “ Một số vấn đề đặt ra với hàng nông sản xuất khẩu Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế” .
Tạp chí Phát triển kinh tế :
Số 105-1999. Bài “ Tìm thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp Việt Nam” Tác giả : TS Lê Khoa .
Số 107-1999. Bài “ Một số giải pháp cho vấn đề tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp” Tác giả : Th.S Nguyễn Thị Minh Tâm .
Số 124-2001. Bài “Xuất khẩu Việt Nam năm 2000 - nhìn lại cơ cấu mặt hàng” Tác giả :
Tạp chí Kinh tế và phát triển. Số 38-2000. Bài “10 năm xuất khẩu hàng nông sản ở Việt Nam từ 1991-2000”. Tác giả : TS Đỗ Đức Hạnh - Trần Mai Phương.
Tạp chí Kinh tế và dự báo.
Số 9-1999. Bài “Nâng cao khả năng cạnh tranh của gạo Việt Nam trên thị trường thế giới”. Tác giả : Nguyễn Văn Nam .
Số1-2000.Bài “Thành tựu 10 năm nông nghiệp nước ta”.Tác giả:BùiVăn Can.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6812.doc