Đề tài Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ

Các lý thuyết về tăng trưởng và phát triển kinh tế đều chỉ ra rằng một quốc gia muốn tăng trưởng và phát triển cần có bốn điều kiện sau: Nguồn lực con người - tài nguyên - vốn - kỹ thuật công nghệ. Song hầu hết các quốc gia đang phát triển đều thiếu hai điều kiện là vốn và kỹ thuật công nghệ. CNH - HĐH với bước đi thích hợp là con đường tất yếu để khắc phục tình trạng nghèo nàn, lạc hậu của một quốc gia. Để tiến hành CNH - HĐH đòi hỏi phải có lượng vốn lớn để nhập khẩu máy móc, thiết bị, kỹ thuật tiên tiến, hiện đại. Mà nguồn vốn quan trọng nhất là từ xuất khẩu, xuất khẩu quyết định mọi quy mô, tốc độ phát triển của nhập khẩu, xuất khẩu làm cân đối nền kinh tế, thoả mãn nhu cầu tiêu dùng trong nước cũng như làm tăng trưởng thương mại của từng quốc gia, thúc đẩy chủ yếu vốn quốc tế, cải thiện cán cân thanh toán để ổn định kinh tế vĩ mô.

doc70 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1407 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g hộp Đối với cá tra và cá basa thì Việt Nam phải canh tranh quyết liệt với các nhà sản xuất Mỹ nhưng ta lại có ưu thế là chất lượng thơm ngon không thua gì mặt hàng casfish của Mỹ mà giá lại rẻ, làm cho các nhà nuôi trồng thuỷ sản Mỹ phải lao đao. Năm 2001 giá trung bình mặt hàng này chỉ có 1,3 USD/pound, sang năm 2002 do bị kiện bán phá giá mặt hàng này, bị đánh thuế nhập khẩu rất cao nên giá cá tra, cá basa Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ cũng tăng. Việt Nam được giới kinh doanh thuỷ sản đánh giá là đã thành công bước đầu trong việc xuất khẩu cá tra, cá basa vào thị trường Mỹ. Và sau vụ tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và Mỹ về cá tra và cá basa thì hai loại cá này được nhiều người tiêu dùng Mỹ biết đến. * Mặt hàng nhuyễn thể: Mực khô, mực đông lạnh, bạch tuộc.. Trên thị trường Mỹ, mực của Việt Nam phải cạnh tranh với mực ống của ấn Độ, mực nang của Thái Lan, Trung Quốc... Trong năm 2001, Mỹ nhập 77% mực ống từ Châu á, trong đó trung Quốc chiếm phần lớn thị phần, Việt Nam chỉ chiếm 2,6%. Còn bạch tuộc của Việt Nam phải cạnh tranh với đối thủ rất mạnh là Philipin (chiếm 60%) thị phần của Mỹ, ngoài ra còn có Trung Quốc và Inđônêxia. 2.2.3.4-Hình thức xuất khẩu Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ chủ yếu được thực hiện dưới hình thức xuất khẩu gián tiếp thông qua những trung tâm môi giới hoặc trung tâm tái xuất như Singapo, HồngKông... còn xuất khẩu trực tiếp vào thị trường Mỹ thì không nhiều do các doanh nghiệp Việt Nam gặp một số hạn chế về vốn kinh doanh, mức độ am hiểu về thị trường Mỹ, các doanh nghiệp chưa có đại lý bán hàng tại Mỹ hay các văn phòng đại diện để xúc tiến công tác nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng. Hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam chỉ mới tiếp cận được các nhà nhập khẩu, chưa với tới các nhà bán lẻ và người tiêu thụ. Ngoài ra, các điều kiện kèm theo khi xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ của Việt Nam chưa hấp dẫn, tính cạnh tranh thấp, hàm lượng dịch vụ trong các điều kiện kèm theo không cao. Xuất khẩu chủ yếu theo điều kiện FOB, chưa đủ khả năng bán hàng theo điều kiện CIF. 2.3/ Đánh giá thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 2.3.1- Những thuận lợi và thành công đã đạt được 2.3.1.1-Thuận lợi Trong hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ, Việt Nam có một số thuận lợi sau: Thứ nhất, tiềm năng về thuỷ sản của Việt Nam là rất lớn do có bờ biển dài 3260 km cùng với hàng trăm con sông lớn nhỏ và hàng chục vạn ao hồ, đầm, nhiều đảo và quần đảo ở ngoài biển đông. Bên cạnh đó, khí hậu nhiệt đới rất thuận lợi cho việc nuôi trồng thuỷ sản, tạo ra nguồn nguyên liệu phong phú, dồi dào phục vụ cho hoạt động xuất khẩu. Thứ hai, lực lượng lao động trong ngành thuỷ sản rất lớn và tiền nhân công rẻ. Điều này góp phần giảm giá thành sản phẩm xuất khẩu, tăng sức cạnh tranh về giá trên thị trường quốc tế. Thứ ba, hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực cho phép chúng ta đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ. Do trước đây khi giữa nước ta và Mỹ chưa ký kết hiệp định thương mại thì tất cả hàng hoá nói chung và hàng thuỷ sản nói riêng (trừ mặt hàng tôm) đều phải chịu thuế Non-MFN rất cao, nhất là những mặt hàng đã qua chế biến. Chính vì vậy, việc kí kết hiệp định thương mại đã tạo ra những thời cơ, cơ hội mới, thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá vào Mỹ. Thứ tư, Chính phủ luôn tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản như quan tâm tháo gỡ các khó khăn, tạo ra cơ chế tài chính dưới nhiều hình thức: cho vay với lãi suất ưu đãi, tín dụng ngân hàng, đầu tư hỗ trợ vốn để nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản. 2.3.1.2- Những thành công đã đạt được Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ trong thời gian qua đã thu được những thành công đáng khích lệ: - Xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ tăng nhanh cả về số lượng và kim ngạch xuất khẩu. So với các mặt hàng đang xuất khẩu mạnh như may mặc, giày dép, thủ công mỹ nghệ thì thuỷ sản là mặt hàng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất và trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Đặc biệt, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản trong kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Mỹ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn và có xu hướng tăng lên. Hiện nay, Mỹ đã trở thành nước nhập khẩu thuỷ sản đứng thứ nhất của Việt Nam. - Về cơ cấu xuất khẩu: Việt Nam đã có những cố gắng lớn trong việc đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ, từ chỗ các sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là tôm, thì đến nay đã xuất khẩu nhiều mặt hàng lớn như cá tra, cá basa, mực, bạch tuộc, cá động lạnh...Trong đó mặt hàng cá tra và cá basa được nhiều người tiêu dùng Mỹ ưa chuộng do chất lượng thơm ngon, giá thành thấp. Ngoài ra trong năm 2001, Việt Nam là nước dẫn đầu xuất khẩu cá nước ngọt vào thị trường Mỹ. - Về chất lượng sản phẩm ngày càng được nâng cao và được sản xuất chế biến theo các tiêu chuẩn SQF 2000, SQF 2002 đối với cá tra, cá basa. Theo tiêu chuẩn HACCP đối với các sản phẩm thuỷ sản khác. Hiện tại, Việt Nam đã có hơn 60 doanh ngiệp đủ điều kiện về vệ sinh an toàn thực phẩm HACCP do Mỹ phê duyệt, cho phép xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ qua các công ty nhập khẩu của Mỹ. Ngoài ra, thông qua các hình thức liên doanh và tự đầu tư, nhiều doanh nghiệp kinh doanh và xuất khẩu thuỷ sản, các nhà máy sản xuất chế biến đã được nâng cấp, đáp ứng theo yêu cầu hội nhập quốc tế. Năng lực sản xuất được nâng cao với các khâu khai thác, nuôi trồng, chế biến theo hướng công nghiệp hiện đại. Nhờ vậy, chất lượng sản phẩm và uy tín của các doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Mỹ ngày càng được nhiều người tiêu dùng biết đến như: Seaprodex, Kim Anh, Agafish,... 2.3.2- Những khó khăn, hạn chế cần giải quyết Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ trong thời gian qua đã có những dấu hiệu khởi sắc, nhất là trong năm 2001. Song thị trường tiềm năng này cũng đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức cần giải quyết. Trước tiên, mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất khẩu sang Mỹ chủ yếu vẫn là ở dạng sơ chế, giá trị chưa cao. Ngay cả tôm là mặt hàng quan trọng nhất thì vẫn có đến 80% xuất khẩu dưới dạng cấp đông, ít qua chế biến. Nguyên nhân là do trình độ công nghệ chế biến thuỷ sản của ta còn lạc hậu nên không thể thực hiện các khâu chế biến cao cấp, tạo ra các sản phẩm giá trị gia tăng cao được. Đồng thời các nhà xuất khẩu của Việt Nam vẫn chưa nắm rõ được nhu cầu thị trường Mỹ nên chưa dám sản xuất các mặt hàng chế biến cụ thể. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam chưa có sự hợp tác chặt chẽ với các nhà đầu tư Mỹ như chúng ta đã làm với các nhà đầu tư Nhật Bản. Thứ hai, hàng thuỷ sản Việt Nam gặp phải sự canh tranh quyết liệt chẳng những về giá cả, chất lượng mà cả phương thức thanh toán đối với nhiều địch thủ trên thị trường Mỹ như Thái Lan, ấn Độ, Mêhicô...So với các nước này thì Việt Nam còn thua kém họ về bề dày kinh nghiệm làm ăn với Mỹ, về thị phần xuất khẩu thuỷ sản trên thị trường Mỹ. Còn các sản phẩm về cá thì Việt Nam gặp phải chính sự cạnh tranh của các doanh nghiệp thuỷ sản Mỹ. Đặc biệt đó là mặt hàng cá tra và cá basa (casfish), hiện chiếm 98% sản lượng các nước ngọt, 56% sản lượng và 52,3% giá trị nuôi trồng thuỷ sản của Mỹ Thứ ba, thị trường Mỹ đòi hỏi sản phẩm thuỷ sản nhập khẩu phải có chất lượng tốt, đảm bảo an toàn về sinh thực phẩm nên họ đặt ra những luật lệ rất nghiêm ngặt về vấn đề này. Do vậy, các doanh nghiệp xuất hàng vào Mỹ phải kiểm tra chất lượng và vệ sinh thuỷ sản theo tiêu chuẩn HACCP. Bên cạnh đó, lấy lý do là bảo vệ thiên nhiên và môi trường thế giới nói chung nên Mỹ còn đưa ra các rào cản kỹ thuật nhằm gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Thí dụ, một số nước như Thái Lan, Ân Độ... muốn xuất khẩu thuỷ sản vào Mỹ thì các doanh nghiệp phải có giấy chứng nhận công nghệ đánh bắt không mang tính huỷ diệt các loại hải sản quý hiếm hoặc quy trình nuôi không gây ô nhiễm môi trường xung quanh. Đây chính là những vấn dề mà Việt Nam phải nghiên cứu vì trước sau Mỹ cũng áp dụng những quy định này đối với các doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam. Trong khi đó, sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam còn nhiều hạn chế về chất lượng do trình độ chế biến bảo quản còn thấp. Thứ tư, trong hơn 100 mặt hàng thuỷ sản thực phẩm nhập khẩu thì Mỹ có nhu cầu rất cao về các hàng cao cấp tinh chế như tôm luộc, tôm bao bột, cá philê...nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam là hàng sơ chế, tỷ lệ sản phẩm giá trị gia tăng cao là thấp. Cụ thể, đối với mặt hàng cá ngừ, Việt Nam mới xuất khẩu phần lớn cá ngừ tươi hoặc đông lạnh vào Mỹ (chiếm 95% giá trị xuất khẩu cá ngừ), trong khi đó hàng cá ngừ đóng hộp được tiêu thụ nhiều thì giá trị xuất khẩu của Việt Nam lại không đáng kể (chiếm 5%). Bên cạnh đó, thị trường Mỹ còn có nhu cầu rất lớn về các loại thuỷ sản phi thực phẩm như thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá, cá cảnh... thì Việt Nam chủ yếu là xuất khẩu thuỷ sản thực phẩm. Qua đây cho thấy là chưa có sự phù hợp cao giữa mặt hàng xuất khẩu Việt Nam với yêu cầu nhập khẩu thuỷ sản của thị trường Mỹ. Thứ năm, sự hiểu biết của các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam về thị trường Mỹ, về luật lệ làm ăn của Mỹ còn quá ít. Các doanh nghiệp Việt Nam còn bị động trong việc tìm kiếm khách hàng xây dựng hợp đồng, xác định giá cả mua bán thuỷ sản... yếu về công tác marketting, xúc tiến thương mại. Cho đến nay chỉ có một số ít doanh nghiệp là tham gia hội chợ thuỷ sản Boston tại Mỹ tổ chức vào tháng 3 hàng năm. Việt Nam có khoảng 120 doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ nhưng hầu như chưa có doanh nghiệp nào mở được văn phòng đại diện tại đó. Hiện tại mới chỉ có hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam (VASEP) là có văn phòng đại diện tại Mỹ. Trong khi đó, các nước xuất khẩu thuỷ sản lớn vào Mỹ đều đã thiết lập nhiều văn phòng ở khắp các thành phố khác nhau trên nước Mỹ để kịp thời nắm bắt thông tin và những biến động của thị trường thuỷ sản Mỹ nhằm cung cấp cho các doanh nghiệp trong nước. Thứ sáu, nguồn nguyên liệu cung cấp cho các cơ sở chế biến thuỷ sản của ta không ổn định và thiếu. Do việc nuôi trồng thuỷ sản của người dân là tự phát, chuyển từ đất trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản mà chưa có những kiến thức nhất định về kỹ thuật nuôi, khâu chọn giống, cách phòng ngừa bệnh... Ngoài ra, việc nuôi trồng sản xuất chưa có tính quy hoạch, chưa dựa trên quan hệ cung cầu thuỷ sản trong nước và thế giới, có những lúc giá thuỷ sản xuất khẩu là rất thấp do cung nhiều hơn cầu, dễ bị các thương nhân ép giá... Mặt khác, ngành thuỷ sản Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều vấn đề cần quan tâm giải quyết như: khai thác cạn kiệt nguồn tài nguyên ven bờ, chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp ồ ạt, thiếu quy hoạch, thiếu giống, thiếu trình độ chuyên môn. Trong chế biến thì vẫn còn 2/3 số doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ chưa đáp ứng được yêu cầu đối với sản xuất và quản lý theo tiêu chuẩn ngành về an toàn về sinh thực phẩm. Chưa có sự liên doanh, liên kết sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản giữa các doanh nghiệp trong nước nên không đáp ứng được các hợp đồng lớn. Thứ bảy, trình độ lao động của ngành thuỷ sản rất thấp. Theo thống kê của bộ thuỷ sản: tổng lao động của ngành là 3,5 triệu người, trong đó có 5-7% là lao động thuộc khu vực kinh tế quốc doanh, hơn 90% thuộc khu vực ngoài kinh tế quốc doanh, trong đó có 10% lao động mù chữ, 2% lao động có trình độ cấp 3, 15% trình độ cấp 2, 70% trình độ cấp 1. Hiện trạng này sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất, chất lượng sản phẩm... Ngoài ra, còn hạn chế về vị trí địa lý của nước ta so với nước Mỹ. Nước Mỹ ở quá xa nên thời gian vận chuyển dài, cước phí vận tải cao dẫn đến tăng giá thành vận chuyển... Trên đây là một số khái quát về thực trạng thương mại thuỷ sản thế giới nói chung và của Việt Nam nói riêng. Trong đó có nói đến xuất khẩu thuỷ sản của nước ta sang Mỹ thời gian qua. Từ đó có thể thấy, mặc dù đã đạt được một số thành công nhưng xuất khẩu của thuỷ sản Việt Nam sang Mỹ vẫn còn những tồn tại mà nếu giải quyết được và có chiến lược đúng đắn thì chắc chắn xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ sẽ tăng trưởng tương xứng với tiềm năng trao đổi thương mại giữa hai nước. Chương 3 một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của việt nam vào thị trường mỹ 3.1/ Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới và thị trường mỹ về ngành hàng thuỷ sản 3.1.1- Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới 3.1.1.1- Cung thuỷ sản Dự kiến sản lượng thuỷ sản thế giới từ năm 2003 cho tới năm 2010 sẽ ở trong khoảng 107 đến 144 triệu tấn.Trong đó khoảng 30 triệu tấn là bột cá và dầu cá không sử dụng làm thực phẩm. Như vậy, ước tính thuỷ sản có thể dùng làm thực phẩm cho con người sẽ ở mức 74 đến 114 triệu tấn. Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng dự kiến sẽ có mức tăng trưởng mạnh mẽ trong những năm tới, trong khi sự đóng góp của thuỷ sản khai thác tự nhiên sẽ phụ thuộc vào các chương trình khai thác bền vững và hiệu quả của các chương trình quản lý và tái tạo nguồn lợi biển. Dự kiến sản lượng khai thác thuỷ sản của Nhật Bản, EU và các nước CIS sẽ giảm sút, trong khi sản lượng của Trung Quốc sẽ tiếp tục tăng. Bảng 3.1: Dự báo sản lượng thuỷ sản thế giới năm 2010 Nguồn sản lượng Mức thấp (triệu tấn) Mức cao (triệu tấn) Sản lượng đánh bắt 80 105 Sản lượng nuôi trồng 27 39 Tổng sản lượng 107 144 Sản lượng không dùng làm thực phẩm 33 30 Sản lượng không dùng làm thực phẩm cho con người 74 114 Nguồn : FAO 3.1.1.2- Cầu thuỷ sản Sự biến động của nền kinh tế thế giới cũng có ảnh hưởng lớn tới xu hướng tiêu dùng và giá cả các mặt hàng thuỷ sản. Bên cạnh đó, do ảnh hưởng của tăng dân số và thu nhập nên trong thời gian tới, tiêu thụ thuỷ sản hàng năm là 4% đến 5% và đến năm 2005, khu vực này sẽ nâng mức tiêu thụ thuỷ sản thực phẩm lên hơn 80 triệu tấn. Trong khi ở khu vực các nước phát triển, dân số tăng không đáng kể, tiêu thụ thuỷ sản theo đầu người đã ở mức rất cao, dự tính tiêu thụ thuỷ sản hàng năm khoảng 1% - 1,5%. Thị hiếu tiêu thụ thuỷ sản của thế giới thời gian tới sẽ thay đổi theo chiều hướng sau:  - Tăng tiêu thụ các loại thuỷ sản tươi sống, đặc biệt là các loài có giá trị cao như: giáp xác, nhuyễn thể, cá ngừ... - Tăng các loại thực phẩm chế biến nhanh chóng và hương vị đặc sắc như thực phẩm được chế biến tại gia. - An toàn thực phẩm cho người tiêu dùng luôn được quan tâm kiểm soát chặt chẽ. Các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào EU và Bắc Mỹ cần phải được nuôi trồng, chế biến đúng quy trình HACCP. 3.1.1.3- Dự báo giá hàng thuỷ sản So với nhiều mặt hàng thực phẩm khác. Trong thập kỷ qua, thuỷ sản có xu hướng tăng giá ổn định và có mức tăng cao hơn dự báo, xu hướng giá hàng thuỷ sản trong thời gian tới sẽ tiếp tục tăng do áp lực trong quan hệ cung- cầu trong giai đoạn dự báo, cụ thể: giai đoạn 2001- 2005 giá thuỷ sản sẽ tăng với nhịp độ bình quân 3,6% năm và giai đoạn 2006- 2010 là 3,7% trên một năm. Dự báo, xuất nhập khẩu thuỷ sản thế giới sẽ có nhịp độ tăng bình quân 2,8% trên một năm trong giai đoạn 2000- 2005, nhưng sau đó áp lực giá làm cho người tiêu dùng chuyển sang dùng sản phẩm thay thế, nhịp độ tăng xuất nhập khẩu thuỷ sản sẽ giảm chút ít và đạt nhịp độ tăng 2,5% trên một năm trong giai đoạn 2006- 2010. Nguồn: Theo dự báo của FAO - Tổ chức lương thực và nông nghiệp của Liên Hiệp Quốc Tóm lại, trong giai đoạn 2000- 2010 thị trường thuỷ sản thế giới biến động theo xu hướng sau: ã Sản lượng thuỷ sản nuôi trồng tăng khá nhanh nhưng sản lượng khai thác tự nhiên sẽ không tăng hoặc giảm sút. Tăng sản lượng thuỷ sản thế giới diễn ra chủ yếu ở những nước đang phát triển, còn sản lượng thuỷ sản của những nước phát triển sẽ giảm sút lớn . ã Cầu về thuỷ sản sẽ tiếp tục tăng do dân số tăng và thu nhập của người dân cao hơn. ã Nuôi trồng thuỷ sản được coi như một giải pháp hữu hiệu để bổ xung nguồn cung cấp thuỷ sản ã Giá mặt hàng thuỷ sản sẽ tăng do giá các mặt hàng khác có liên quan đến nuôi trồng thuỷ sản tăng. ã Xu hướng đưa ra các luật lệ về an toàn vệ sinh hàng thực phẩm đối với sức khỏe người tiêu dùng. Điều này sẽ gây khó khăn cho các nhà xuất khẩu thuộc các nước đang phát triển. 3.1.2- Dự báo thị trường thuỷ sản Mỹ và khả năng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường này. Để hình dung rõ hơn về thị trường thuỷ sản Mỹ trong thời gian tới, điều quan trọng là phải tìm hiểu và nắm bắt được các thông tin dự báo về nền kinh tế Mỹ cũng như những nhu cầu, xu hướng tiêu thụ thuỷ sản của Mỹ. Đây là điều quan tâm không chỉ riêng nước ta mà còn của tất cả các quốc gia xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ, vì như phân tích ở chương 2 - Mỹ là một thị trường thuỷ sản đầy tiềm năng với dân số gần 300 triệu người lại có mức sống cao, hàng năm Mỹ tiêu thụ hàng triệu tấn thuỷ sản các loại. Bên cạnh đó, để bảo tồn nguồn lợi thuỷ sản, Mỹ chủ trương tăng nhập, giảm xuất và xu hướng này sẽ kéo dài cho tới những năm tới đây. Như chúng ta đã biết, nền kinh tế Mỹ đã bắt đầu hồi phục sau thời kỳ suy thoái năm 2001. Theo IMF đánh giá năm 2002 nền kinh tế Mỹ đạt mức tăng trưởng là 2,2%, năm 2003 là 2,6% và bước sang năm 2004, nền kinh tế Mỹ sẽ phục hồi hoàn toàn . Trong thời gian tới, xu hướng tiêu thụ thuỷ sản thực phẩm của người Mỹ còn phụ thuộc rất nhiều vào tình trạng nền kinh tế Mỹ và mức thu nhập của đa số người tiêu dùng Mỹ trong tương lai. Tuy nhiên, xu hướng người tiêu dùng Mỹ chỉ ưa chuộng các “đặc thuỷ sản” và các mặt hàng cao cấp thì có lẽ không thay đổi nhiều. Dự báo trong năm 2003, Mỹ nhập khẩu khoảng 15 tỷ USD (chiếm khoảng 16% nhập khẩu thuỷ sản của thế giới). Triển vọng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường này sẽ tuỳ thuộc khá lớn vào động thái phát triển quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Mặc dù giữa Việt Nam và Hoa Kỳ đã đạt được một số tiến bộ trong việc cải thiện mối quan hệ giữa hai nước và hiệp định thương mại đã được phê chuẩn nhưng những chuyển biến về cục diện kinh tế thế giới gần đây có thể sẽ có ảnh hưởng không nhỏ tới phát triển nhanh quan hệ trao đổi hàng hoá nói chung và thuỷ sản nói riêng giữa Việt Nam và Hoa Kỳ. Trong những năm tới, dự kiến thị trường cá da trơn tại Hoa Kỳ sẽ tăng giá. Do cá nuôi tại bể thấp hơn chi phí sản xuất, những người nuôi cá trê Hoa Kỳ sẽ tiếp tục cắt giảm sản lượng và cuối cùng sẽ khiến cho mức giá tăng, có thể lên 2,65- 2,75 USD/ pound đối với phi lê cá tươi, lột da, lọc xương. Nếu quyết định của Bộ Thương mại Hoa Kỳ trong vụ kiện các doanh nghiệp Việt Nam bán phá giá cá da trơn có lợi cho những người nuôi cá Hoa Kỳ thì giá sẽ tăng nhanh chóng. Giá cá da trơn của Việt Nam sẽ phụ thuộc vào tỷ lệ thuế, nếu tỷ lệ thuế cao thì giá philê cá trê Hoa Kỳ có thể lên tới 3USD/ pound, mức giá mà họ đã đạt được trước khi Việt Nam bắt đầu xuất cá sang Hoa Kỳ. Giá cá da trơn thấp nhất trong năm thường vào mùa hè và mùa thu, thời điểm khối lượng chế biến đạt mức cao nhất. Dự báo, tỷ trọng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang mỹ năm 2005 có thể đạt mức 30%-35% và năm 2010 là 35%- 40% kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản cả nước.(Nguồn: Trung tâm thông tin - Bộ Thuỷ sản) 3.2- Định hướng chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ 3.2.1- Yêu cầu của chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ Hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực đã mở ra nhiều cơ hội cho hàng hoá nói chung và mặt hàng thuỷ sản nói riêng của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Mỹ với mức thuế suất thấp hơn. Điều này đã tạo điều kiện cho kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ tăng nhanh chóng, thu hút được một lực lượng lao động lớn tham gia vào sản xuất, nuôi trồng và chế biến sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, khai thác và phát huy được tiềm năng, thế mạnh của đất nước...Tuy nhiên, hoạt động xuất khẩu còn phát triển theo hướng tự phát, chưa có quy hoạch, định hướng rõ ràng. Sự phát triển của xuất khẩu vẫn còn tiềm ẩn những đe doạ. Hoạt động xuất khẩu đã kéo theo sự đầu tư tràn lan, sự khai thác có tính chất huỷ diệt các nguồn tài nguyên hiện có... Điều này, đòi hỏi phải có định hướng mang tính chiến lược cho xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Mỹ trên cơ sở khai thác các thế mạnh hiện có, khắc phục những điểm yếu cơ bản trong xuất khẩu. Vì vậy, việc xây dựng các định hướng chiến lược cho mở rộng và phát triển thị trường thuỷ sản tại Mỹ cần phải quán triệt những yêu cầu cơ bản sau: - Phải gắn kết giữa định hướng chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ với định hướng chiến lược mở rộng, phát triển thị trường xuất khẩu chung của nước ta. - Xây dựng chiến lược trên cơ sở khai thác và phát huy những lợi thế, tiềm năng của khu vực. - Xây dựng chiến lược xuất khẩu theo hướng chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu, giảm xuất khẩu sản phẩm sơ chế, đẩy mạnh đầu tư và xuất khẩu các sản phẩm chế biến, chế biến sâu, tăng dần tỷ trọng hàng thuỷ sản có giá trị cao. - Xây dựng chiến lược xuất khẩu song song với chiến lược đầu tư, hiện đại hoá cơ sở hạ tầng, thiết bị và công nghệ. - Chú ý đến hiệu quả kinh tế xã hội trong chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu, gắn xuất khẩu với nhập khẩu . Với những yêu cầu trên đây, trên cơ sở thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thời gian qua thì chiến lược chung được đề xuất để phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2010 là: đa dạng hoá các loại hình hoạt động xuất khẩu, chú trọng xây dựng nguồn hàng xuất khẩu chủ lực, khối lượng lớn, giá trị cao, sức cạnh tranh lớn, phù hợp với cơ cấu và hướng phát triển các ngành sản xuất, tăng tỷ trọng các sản phẩm đã qua chế biến, giảm dần các sản phẩm xuất khẩu thô, sơ chế giá trị thấp. Mở rộng các phương thức xuất khẩu, củng cố, ổn định các thị trường lớn và thị trường truyền thống, từng bước mở rộng thị trường mới, phát triển các hoạt động hỗ trợ xuất khẩu . 3.2.2- Những định hướng chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ. Xuất phát từ thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thời gian vừa qua, cần có các định hướng cơ bản cả ở tầm vĩ mô và vi mô nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng thuỷ sản sang thị trường Mỹ trong giai đoạn 2001- 2010. Các định hướng này trước hết phải căn cứ vào các mục tiêu đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản và phải đáp ứng được các yêu cầu nêu trên. Cuối cùng, định hướng cần phải dựa trên các dự báo về thị trường thuỷ sản thế giới, thị trường thuỷ sản Mỹ và xu hướng thay đổi nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Hàng thuỷ sản là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản luôn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam. Mỹ là một trong những thị trường nhập khẩu thuỷ sản lớn nhất của Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường này ngày càng tăng nhưng hiệu quả đem lại chưa thực sự tương xứng với quy mô và tiềm năng của ngành. Do vậy, định hướng chiến lược trong mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ từ năm 2001- 2010 tập trung vào một số vấn đề sau: Nâng cao giá trị và sản lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, phấn đấu đạt kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ là 900 triệu USD - 1000 triệu USD vào năm 2005 và 1,5 tỷ USD - 1,8 tỷ USD vào năm 2010. Mở rộng sản phẩm xuất khẩu, đồng thời thay đổi cơ cấu sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu tại thị trường Mỹ để duy trì khách hàng hiện tại và thu hút thêm nhiều khách hàng mới. Cụ thể: Tăng tỷ trọng sản phẩm thuỷ sản qua chế biến, đóng hộp như cá ngừ hộp, tôm hộp. Tăng tỷ trọng thuỷ sản tươi sống trong cơ cấu hàng thuỷ sản tươi, ướp đông, đông lạnh. Tăng tỷ trọng các loại thuỷ sản phi thực phẩm như thức ăn gia súc, dầu cá, bột cá... Giảm tỷ trọng hàng đông lạnh sơ chế. Gắn chế biến xuất khẩu với sản xuất nguyên liệu, tham gia tạo nguồn nguyên liệu cho chế biến, tạo cơ sở vững chắc cho sản xuất hàng hoá qui mô lớn, tiếp tục đầu tư, đổi mới công nghệ, tăng cường trình độ và năng lực quản lý, cải thiện chất lượng, lấy chế biến làm cơ sở cho việc nâng cao giá trị các sản phẩm thuỷ sản. Huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước để nâng cao các cơ sở chế biến hiện có cả về cơ sở hạ tầng và đổi mới trang thiết bị nhằm đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm do Mỹ đặt ra. Nhanh chóng có những chính sách ưu tiên và hỗ trợ sản xuất, xuất khẩu thuỷ sản, đa dạng hoá các phương thức xuất khẩu để đưa hàng vào Mỹ. Ngoài ra, cần đẩy mạnh xúc tiến hàng thuỷ sản Việt Nam trên thị trường Mỹ, nâng cao vai trò của các tổ chức, các hiệp hội, tìm hiểu thông tin cung cấp cho các doanh nghiệp xuất khẩu trong nước. Đẩy mạnh phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ theo cả chiều rộng và chiều sâu nhằm xuất khẩu ngày càng nhiều mặt hàng thuỷ sản với khối lượng, ngày càng lớn, giá trị gia tăng ngày càng cao. Trong những năm tới, định hướng của ngành thuỷ sản Việt Nam là tăng giá xuất khẩu sang Mỹ ngang bằng hoặc ít ra cũng bằng 80-90% mức giá xuất khẩu các sản phẩm cùng loại của nước khác. Tuy nhiên việc tăng giá không thể tiến hành một cách độc lập mà phải đi kèm với các biện pháp khác như là nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng cường công tác xúc tiến thuỷ sản tại thị trường Mỹ... để nâng cao uy tín và hình ảnh cho sản phẩm thuỷ sản của nước ta. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản như bồi dưỡng, nâng cao trình độ văn hoá, tay nghề cho ngư dân, đào tạo mới, đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật và cán bộ thị trường để có đủ năng lực và thích ứng với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. 3.3- Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ Để khai thác triệt để tiềm năng, tránh nguy cơ tăng trưởng chậm dần, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất và đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ thì Chính phủ, Ngành Thuỷ sản và các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần thực hiện tốt một số giải pháp sau: 3.3.1- Những giải pháp vĩ mô 3.3.1.1- Thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO và tăng cường hợp tác song phương giữa Việt Nam- Hoa Kỳ trong lĩnh vực thương mại hàng thuỷ sản. Để có thể được hưởng quy chế tối huệ quốc vĩnh viễn của Mỹ, Việt Nam cần có những giải pháp để nhanh chóng gia nhập WTO cho phép Việt Nam được hưởng những điều kiện có lợi trong buôn bán quốc tế, nhất là với Mỹ. Không những thế Việt Nam có thể thu hút được một lượng vốn đầu tư lớn để đổi mới công nghệ đánh bắt, chế biến và nuôi trồng thuỷ sản, từ đó tăng khả năng xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Bên cạnh đó, Việt Nam cũng cần tăng cường các quan hệ song phương, hợp tác kinh tế kỹ thuật với Mỹ để hạn chế các tranh chấp thương mại mới có thể xảy ra cũng như học tập các kinh nghiệm trong sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu của Mỹ. 3.3.1.2- Hoàn thiện quy hoạch tổng thể nuôi trồng thuỷ sản. Hiện nay, nguồn tài nguyên ven bờ của chúng ta đã bị cạn kiệt do khai thác quá công suất trong thời gian qua, chỉ còn tiềm năng sản lượng là đánh bắt xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản. Theo Bộ Thuỷ sản, nguồn tài nguyên thuỷ sản xa bờ của nước ta có trữ lượng 1.932.382 tấn, khả năng khai thác là 771.775 tấn. Hiện chúng ta mới khai thác được 13% trữ lượng và 25%- 26% khả năng khai thác cho phép. Đây thực sự là nguồn tiềm năng nguyên liệu lớn, tuy nhiên vấn đề khai thác này lại phụ thuộc vào khả năng quản lý cũng như năng lực và trình độ công nghệ của nghề cá Việt Nam. Vì vậy, Nhà nước cần dựa trên cơ sở đặc điểm sinh thái và tiềm năng của từng vùng địa lý, từng vùng mặt nước đã được quy hoạch để xác định đối tượng nuôi, công nghệ nuôi và quy mô nuôi phù hợp, đẩy mạnh nuôi thâm canh các đối tượng có giá trị xuất khẩu như: tôm sú, tôm hùm, cá tra, cá basa, nhuyễn thể..., phù hợp với nhu cầu thị trường Mỹ. 3.3.1.3- Đầu tư cho phát triển vùng, nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, chế biến xuất khẩu . Để khắc phục khó khăn trong việc thu mua nguyên liệu của các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu, đảm bảo đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ thì việc tạo nguồn nguyên liệu ổn định là hết sức cần thiết. Nhất là tạo nguồn nguyên liệu ổn định sẽ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cung cấp đủ số lượng theo đơn đặt hàng cũng như các cơ sở sản xuất, chế biến có thể hoạt động hết công suất để giảm giá thành sản phẩm. Vì vậy, Nhà nước cần đầu tư cho phát triển vùng nguồn nguyên liệu phục vụ sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu. Cụ thể: + Về con giống: đảm bảo cung cấp đủ số lượng, giống có chất lượng và kịp thời vụ. + Cơ sở chế biến thưc ăn, nguyên liệu: cần đầu tư nâng cấp cơ sở sản xuất thức ăn công nghiệp phuc vụ nuôi trồng thuỷ sản hiện có và đầu tư xây dựng mới một số xí nghiệp. + Khai thac nguồn lợi thuỷ sản: tiếp tục thực hiện chương trình khai thác, đánh bắt xa bờ kết hợp chặt chẽ với việc thực hiện các chương trình nghiên cứu, bảo vệ và phát triển nguồn lợi thuỷ sản . + Cơ sở hạ tầng: tăng cường đầu tư cho cơ sở hạ tầng như: cầu cảng, bến cảng, chỗ neo đậu cho tàu thuyền, thông tin cứu nạn. 3.3.1.4- Vận dụng linh hoạt chính sách tài chính tín dụng, khuyến khích xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ. Thứ nhất, miễn giảm các loại thuế đối với sản xuất và xuất khẩu hàng thuỷ sản. Hàng thuỷ sản thuộc nhóm hàng xuất khẩu truyền thống của Việt Nam nhưng ngày nay lợi thế cạnh tranh đã giảm đi rất nhiều do chi phí tàu thuyền ngày càng cao, giá lao động cũng tăng lên, trong khi máy móc thiết bị cho đánh bắt và chế biếntrong tình trạng quá lạc hậu so vơi trình độ chung. Vậy để tăng sức cạnh tranh cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu sang Mỹ, Nhà nước cần có chính sách thuế thoả đáng như hoàn trả 100% thuế nhập khẩu, khuyến khích đầu tư đổi mới trang thiết bị thông qua các quy định về thuế nhập khẩu hay phương pháp tính khấu hao hợp lý . Thứ hai, Nhà Nước cần có chính sách về tín dụng xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất - xuất khẩu hàng thuỷ sản vào Mỹ. Tín dụng xuất khẩu là một trong những yếu tố quan trọng, quyết định sự thành công của hoạt động xuất khẩu, nhất là đối với các doanh nghiệp sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu thì hình thức tín dụng xuất khẩu sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh do: + Cung cấp vốn cho doanh nghiệp: để đảm bảo đầu vào cho sản xuất, chế biến hàng xuất khẩu . + Cung cấp tín dụng trong khi giao hàng: mỗi doanh nghiệp xuất khẩu muốn ký kết được nhiều hợp đồng thì cần phải chào hàng với những điều kiện hấp dẫn về giá cả thanh toán. Do đó phát sinh nhu cầu tín dụng trong khi giao hàng. + Cung cấp tín dụng sau khi giao hàng: khi nhà xuất khẩu chào hàng với điều kiện thanh toán chậm thì cần phải có tín dụng xuất khẩu cho nhà xuất khẩu tiếp tục hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngoài ra, với chính sách tín dụng hợp lý còn hạn chế các rủi ro trong giao dịch xuất khẩu. 3.3.1.5- Chính sách về công nghệ và chuyển giao công nghệ cho ngành thuỷ sản . Tuyển chọn và ứng dụng những công nghệ khai thác, nuôi trồng, chế biến tiên tiến, phù hợp với điều kiện trong nước. Chú trọng phát triển những công nghệ sản xuất giống chất lượng tốt đối với các loài có giá trị kinh tế cao, công nghệ khai thác cá xa bờ, cá vùng rạn san hô, rạn đá. Nhà nước cần sớm ban hành các chính sách khuyến khích các doanh nghiệp nhập khẩu các công nghệ hiện đại, bí quyết công nghệ, thuê chuyên gia giỏi của nước ngoài và tăng đầu tư nghiên cứu, ứng dụng các công nghệ mới, đa dạng hoá mặt hàmg thuỷ sản xuất khẩu phù hợp với nhu cầu người tiêu dùng Mỹ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải đầu tư các thiết bị thông tin, kiểm soát an toàn trong khai thác, đánh bắt xa bờ, cũng như xây dựng các công trình cầu cảng, bến cảng... phục vụ cho hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao 3.3.1.6- Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ. Qua thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ có thể thấy hoạt động xúc tiến thuỷ sản hoàn toàn tự phát, chưa có tổ chức thường xuyên và chặt chẽ. Do đó, Việt Nam cần có một cơ quan Nhà nước có thẩm quyền trong việc xúc tiến thương mại để quản lý, chỉ đạo và hướng dẫn thực hiện xúc tiến xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ. Cơ quan này có thể cung cấp các dịch vụ Marketing cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam rồi thu lệ phí. Tiếp đó, tiến hành nghiên cứu thị trường thuỷ sản Mỹ và thế giới, đề xuất viêc tham gia các hội chợ, tổ chức các chiến dịch quảng cáo hàng thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ hay trợ giúp và đào tạo kĩ thuật cho cán bộ thị trường của các doanh nghiệp sản xuất và chế biến hàng thuỷ sản xuất khẩu. 3.3.1.7- Thực hiện các biện pháp bảo hộ, chống bán phá giá Để bảo vệ quyền lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nhằm đối phó với những vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa và mới đây là vụ kiện bán phá giá tôm... đang có xu hướng ngày càng tăng lên trên thị trường Mỹ thì Chính phủ cần nghiên cứu thực hiện các biện pháp bảo hộ, chống bán phá giá như: + Tích cực triển khai việc đàm phán song phương, đa phương để tranh thủ nhiều nước thừa nhận Việt Nam là nước có nền kinh tế thị trường . + áp dụng nhiều biện pháp để hỗ trợ và trợ giúp các doanh nghiệp khi bị kiện bán phá giá như thành lập các quỹ trợ giúp theo đổi các vụ kiện, tăng cường cung cấp thông tin cho doanh nghiệp, chuẩn bị cho họ những hành trang kiến thức cần thiết... + Phát huy vai trò của các hiệp hội chuyên ngành hoặc của các tổ chức nhóm sản phẩm thuỷ sản, tăng cường sự phối hợp với các doanh nghiệp để làm mạnh thêm năng lực kháng kiện của các doanh nghiệp. Cụ thể như trong vụ kiện bán phá giá cá tra, cá basa Việt Nam vào thị trường Mỹ,hiệp hội chế biến và xuất khẩu thuỷ sản VASEP đã tập hợp được 14 doanh nghiệp chế biến xuất khẩu cá tra, cá basa cùng nhau chia sẻ chi phí , kiên quuyết theo đuổi vụ kiện đến cùng. Nếu không có vai trò của hiệp hội thì một doanh nghiệp riêng rẽ sẽ khó có đủ điều kiện để theo đuổi vụ kiện. + Phổ biến kiến thức về tổ chức thương mại thế giới WTO và hiệp định thương mại Việt- Mỹ, bồi dưỡng đội ngũ chuyên gia giỏi, hình thành các tổ chức chuyên phục vụ, ứng phó với những tranh chấp về ngoại thương, có khả năng tư vấn cho các doanh nghiệp và hỗ trợ chính phủ khi xảy ra các vụ kiện. + Cần đẩy mạnh tiến trình đàm phán ra nhập WTO, sử dụng quy tắc của WTO để đối phó với nước ngoài thực hiện biện pháp chống bán phá giá. Bên cạnh đó, sự hợp tác, liên kết và học tập kinh nghiệm xử lý của các nước bị kiện như Việt Nam là rất quan trọng. 3.3.1.8- Phát triển nguồn nhân lực cho nghành thuỷ sản. Đây là một vấn đề bức xúc không chỉ riêng ngành thuỷ sản mà còn của nhiều ngành khác. Như đã phân tích ở chương 2, trình độ nguồn nhân lực của ngành thuỷ sản Việt Nam còn rất nhiều hạn chế trong khi yếu tố quan trọng nhất vẫn là yếu tố con người. Do vậy, Nhà nước cần có những giải pháp, các chính sách trong phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản, thông qua việc nâng cao trình độ văn hoá và tay nghề của ngư dân, đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ quản lý, cán bộ kỹ thuật. Ngoài ra, đi đôi với việc xây dựng các trung tâm đào tạo, Nhà nước nên thuê các chuyên gia nước ngoài có khả năng chuyên môn để đào tạo nguồn lao động. Trên đây là một số giải pháp vĩ mô nhằm tạo cơ sở và hỗ trợ cho việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường Mỹ. Tuy nhiên, để tận dụng được mọi sự ưu đãi của chính phủ làm cho sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường Mỹ thì lại phụ thuộc vào các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu . 3.3.2- Những giải pháp vi mô. 3.3.2.1- Chiến lược kinh doanh, tiếp thị và xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp . Để hoạt động xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ đạt hiệu quả kinh tế cao thì mỗi doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một chiến lược kinh doanh hợp lý, trong đó có tiếp cận các phương thức kinh doanh mới. Đẩy mạnh hoạt động tiếp thị và xúc tiến thương mại thuỷ sản . Vai trò của tiếp thị là hết sức quan trọng, nhất là đối với một thị trường rộng lớn, đa dạng và luật lệ làm ăn nghiêm ngặt như Mỹ. Ngoài sự hỗ trợ của Nhà nước ở tầm vĩ mô, các doanh nghiệp thuỷ sản cần làm tốt công tác tiếp thị ở tầm vi mô như lập bộ phận nghiên cứu thị trường, tiếp thị qua hội chợ, triển lãm, tiếp thị qua mạng internet, gửi thư giới thiệu những mặt hàng mới ... Đặc biệt, cần nắm vững luật pháp, hiểu biết về lực lượng kinh tế, chính trị tác động đến thị trường này. Mỗi doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp lớn cần xây dựng bộ phận đại diện thương mại của mình ở thị trường Mỹ, tiếp cận các siêu thị và các hãng kinh doanh siêu thị để giới thiệu sản phẩm thuỷ sản Việt Nam. Từng bước xây dựng và củng cố thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường quốc tế. 3.3.2.2- Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Để giữ vững thị phần và vị trí trên thị trường Mỹ thì các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần phải quan tâm đến vấn đề chất lượng sản phẩm. Trên thị trường Mỹ, các đối thủ cạnh tranh của Việt Nam rất mạnh. Dovậy, sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam muốn cạnh tranh được, ngoài việc giảm giá thành, công tác tiếp thị tốt ... thì việc nâng cao chất lượng sản phẩm là hết sức cần thiết. Đây là yếu tố quan trọng có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh ngày càng khắt khe của thị trường Mỹ. Cụ thể, tại thị trường này tất cả các vấn đề liên quan đến chất lượng đều được quy định trong viêc thực hiện các tiêu chuẩn HACCP. Vì vậy, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần có trong tay giấy chứng nhận tiêu chuẩn HACCP. Đây là điều kiện bắt buộc để giao dịch với khách hàng chính yếu trên thị trường Mỹ. Nếu có được giấy “thông hành HACCP ” doanh nghiệp sẽ có được lòng tin của người tiêu dùng, tránh được nhiều rắc rối khi xuất hàng, giảm chi phí, nâng cao khả năng xâm nhập thị trường, tạo điều kiện cho việc thu hút khách hàng mới. Muốn thế, doanh nghiệp cần đáp ứng được những yêu cầu nhất định về cơ sở hạ tầng (kết cấu nhà xưởng, mặt bằng, hệ thống cấp thoát nước ...). Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải chuyển sang quản lý chất lượng ngay từ những khâu đầu tiên để dễ dàng phát hiện những sai xót nhỏ, tránh gây ra những lây lan lớn. Tiếp đó, doanh nghiệp cần kiểm soát chặt chẽ dư lượng kháng sinh có trong sản phẩm thuỷ sản để tránh tình trạng hàng bị huỷ khi sang tới Mỹ. 3.3.2.3 - Đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào Mỹ Như phân tích ở chương 2, sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ của nước ta còn chưa đa dạng, chủ yếu mới qua sơ chế và giá trị gia tăng thấp. Do vậy, các doanh nghiệp bên cạnh việc nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu cần đa dạng hoá sản phẩm xuất khẩu theo hướng chế biến sâu và tăng tỷ trọng các mặt hàng thuỷ sản phi thực phẩm, phải tìm hiểu thị trường Mỹ để nắm bắt được nhu cầu từng loại sản phẩm, đồng thời cần hợp tác với các nhà đâu tư Mỹ và các nhà đầu tư nước ngoài khác để sản xuất ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của thị trường Mỹ như thành công chúng ta đã làm được với các nhà đầu tư Nhật trong những năm qua. 3.3.2.4 - Xây dựng và phát triển thương hiệu. Để có thể đứng vững và khẳng định mình trên thị trường Mỹ cũng như để người tiêu dùng Mỹ biết đến sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam thì mỗi doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản cần phải xây dựng cho mình một thương hiệu, việc xây dựng thương hiệu tốt và chất lượng ổn định sẽ cải thiện khả năng tiếp thị và tác dụng của quảng cáo, bán được giá ngày càng cao hơn, thí dụ: sau vụ tranh chấp thương mại giữa Việt Nam và Mỹ về thương hiệu cá tra và cá basa thì sản phẩm này đã được rất nhiều người tiêu dùng Mỹ biết đến và bán được nhiều hơn do chất lượng thơm ngon không thua cá do Mỹ nuôi mà giá cả rẻ hơn. Vậy, để phát huy sức mạnh của thương hiệu, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam cần phải có nhận thức đúng và đủ về thương hiệu, có chiến lược thương hiệu nằm trong chiến lược marketing tổng thể, cần đăng ký bảo hộ nhãn hiệu sản phẩm. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển mạng lưới bán hàng. Ngoài ra, để xây dựng thương hiệu thành công cần chú ý: + Xây dựng logo cho sản phẩm cần tạo được sự khác biệt, dễ nhận biết mà làm cho người xem liên tưởng đến sản phẩm của doanh nghiệp . + Hình tượng của nhãn hiệu: tuỳ vào sản phẩm thuỷ sản và nhu cầu, sở thích của người tiêu dùng Mỹ. + Bao bì: cần được thiết kế từ màu sắc đến kiểu dáng sao cho nổi bật và cải tiến liên tục để đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường Mỹ. 3.3.2.5- Thực hiện liên doanh, liên kết với các công ty quốc tế, công ty Mỹ, kiều bào Việt Nam trong xây dựng hệ thống bán lẻ tại thị trường Mỹ. Hiện nay, các doanh nghiệp xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam gặp một số khó khăn và hạn chế chủ yếu là thiếu vốn kinh doanh nên chưa đầu tư, xây dựng được hệ thống các kho lạnh bảo quản hàng thuỷ sản tại Mỹ để bán lẻ mà chủ yếu là xuất khẩu gián tiếp qua các trung gian, các trung tâm tái xuất. Vậy, để tiếp cận được với người tiêu dùng Mỹ thì các doanh nghiệp thuỷ sản nên liên kết với các công ty quốc tế, các công ty Mỹ để đặt các hệ thống bán lẻ thuỷ sản tại thị trường Mỹ nhằm đạt hiệu quả cao hơn trong xuất khẩu. Bên cạnh đó, có thể học tập kinh nghiệm của Trung Quốc là sử dụng kiều bào Việt Nam làm đại diện, làm marketing,làm nhà phân phối...cho doanh nghiệp Việt Nam tại Mỹ vì họ đang sinh sống và làm việc tại đó nên có thể cập nhật thông tin một cách nhanh chóng và chính xác hơn các doanh nghiệp trong nước. 3.3.2.6- Sử dụng thương mại điện tử trong giao dịch, buôn bán và tiếp cận thị trường Mỹ. Trong thời đại khoa học công nghệ thông tin phát triển mạnh như vũ bão thì việc ứng dụng thương mại điện tử trong giao dịch, buôn bán là hết sức cần thiết và tiện lợi, giúp cho doanh nghiệp giảm thiểu các chi phí phát sinh trong quá trình giao dịch, đàm phán, ký kết hợp đồng. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản có thể tìm kiếm các thông tin để đưa hàng thuỷ sản vào thị trường Mỹ ngay trên Internet. Trang Web đầu tiên mà họ cần tìm là trang Web chứa đựng mọi biểu thuế suất trong hệ thống GSP (trang www.Customs.Ustreas.Gov ). Trang tiếp theo là www.tdc.Com.hk và www.alibaba.com của Hồng Kông để bán sản phẩm hoặc tham khảo xem các doanh nghiệp trên thế giới mua bán sản phẩm của họ như thế nào?. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp nên xây dựng một trang Web riêng để quảng cáo sản phẩm của mình còn nếu chưa có điều kiện thì các doanh nghiệp có thể quảng cáo sản phẩm thuỷ sản trên trang Web của Bộ Thuỷ sản (www.fistenet.com.vn ), trang Web của VASEP (www.vasep.com.vn ) hay trang Web www.brom.com . 3.3.2.7- Bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản . Mỗi doanh nghiệp cần tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất khẩu có đủ năng lực để nắm bắt một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu thị trường quốc tế, thị trường Mỹ. Đây là nhân tố vô cùng quan trọng, quyết định sự thành bại của doanh nghiệp, nhất là trong điều kiện thị trường thuỷ sản thế giới nói chung và thị trường thuỷ sản Mỹ nói riêng thường xuyên biến động theo chiều hướng bất lợi cho các nhà sản xuất và doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam . Để có đội ngũ cán bộ kinh doanh xuất nhập khẩu giỏi thì trước tiên họ phải được đào tạo một cách có hệ thống, bộ máy điều hành và các nhân viên hỗ trợ phải nắm được các kiến thức cơ bản của kinh doanh thương mại quốc tế. Ngoài việc giỏi về chuyên môn, họ phải đạt được trình độ ngoại ngữ, có khả năng dự báo và kiến thức tiếp thị, marketing, có khả năng nghiên cứu phân tích các thông tin liên quan đến sản phẩm, đến thị trường của doanh nghiệp, đến giá cả mặt hàng doanh nghiệp kinh doanh. Đồng thời, phải nắm được kỹ năng sử dụng các phương tiện phân tích thông tin, truyền tin hiện đại để nâng cao khả năng phân tích thông tin nhanh chóng, chính xác, kịp thời. Ngoài ra, mỗi doanh nghiệp cần phải có kế hoạch thường xuyên chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ của đội ngũ chuyên viên đủ sức đối phó với các vụ kiện, sớm nắm bắt dược các thông tin để tư vấn cho doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp có thể điều chỉnh kịp thời trước những biến động của thị trường. Tóm lại, để ổn định và không ngừng tăng nguồn hàng xuất khẩu vào thị trường thế giới, đặc biệt là thị trường Mỹ, giải pháp chung cho toàn ngành thuỷ sản Việt Nam vẫn là tiếp tục thực hiện ba chương trình lớn đã được Chính Phủ phê duyệt, đó là chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình phát triển nuôi trồng thuỷ sản thời kỳ 2000 - 2010 và chương trình phát triển xuất khẩu thuỷ sản đến năm 2005, đưa ngành thuỷ sản nước ta từng bước chuyển sang một ngành sản xuất có hiệu quả và phát triển bền vững, xứng đáng là ngành kinh tế mũi nhọn với mục tiêu 3 tỷ USD kim ngạch xuất khẩu vào năm 2005, mà trước mắt năm 2003 phải đạt hơn 2 tỷ USD, trong đó vào thị trường Mỹ phải đạt từ 600 -700 triệu USD. Kết luận Những năm qua, ngành thuỷ sản đã đạt được những thành tựu rất lớn và trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn của Việt Nam, đóng góp tích cực vào công cuộc ổn định và phát triển kinh tế xã hội cuả đất nước. Tuy nhiên, để xây dựng và phát triển ngành thuỷ sản, chúng ta cần phải đa dạng hoá, mở rộng thị trường xuất khẩu và Mỹ được coi là một trong những thị trường rất có triển vọng. Việc đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ không những thực hiện đa dạng hoá thị trường xuất khẩu mà còn tạo cơ hội tăng kim ngạch xuất khẩu và giảm bớt sức ép từ thị trường truyền thống. Từ thực trạng xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ trong nhưng năm qua và triển vọng cũng như những cơ hội mới cho ngành thuỷ sản sau khi hiệp định thương mại Việt- Mỹ có hiệu lực, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang thị trường Mỹ với mong muốn đây sẽ là những giải pháp hữu hiệu đối với ngành thuỷ sản và các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản trong việc tìm ra con đường tốt nhất để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ và đứng vững trên con đường này. Mục lục Lời mở đầu 1 Chương 1: Cơ sở lý luận về hoạt động xuất khẩu 3 1.1. Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu 3 1.1.1. Khái niệm và sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu 3 1.1.2. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu 4 1.1.2.1. Xuất khẩu trực tiếp 5 1.1.2.2. Xuất khẩu uỷ thác 5 1.1.2.3. Gia công quốc tế 6 1.1.2.4. Buôn bán đối lưu 6 1.1.2.5. Tạm nhập tái xuất 6 1.1.2.6. Xuất khẩu tại chỗ 7 1.1.3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân 7 1.1.3.1. Xuất khẩu tạo vốn cho nhập khẩu 8 1.1.3.2. Xuất khẩu góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, định hướng sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế 8 1.1.3.3. Xuất khẩu góp phần giải quyết việc làm cho người lao động, tạo thu nhập, tăng mức sống và thoả mãn nhu cầu của người dân 9 1.1.3.4. Xuất khẩu là điều kiện thúc đẩy và mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại 9 1.2. Vị trí, vai trò và các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu thủy sản của Việt Nam 9 1.2.1. Vị trí và vai trò của xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 9 1.2.2. Những nhân tố ảnh hưởng tới xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 11 1.2.2.1. Môi trường tự nhiên và sự hình thành phát triển các vùng nuôi trồng, sản xuất, chế biến thuỷ sản xuất khẩu 11 1.2.2.2. Chất lượng và đa dạng hoá mặt hàng chế biến thuỷ sản xuất khẩu 12 1.2.2.4. Thị trường tiêu thụ và môi trường cạnh tranh 13 1.2.2.5. Giá cả 14 1.2.2.6. Chính sách của Nhà nước về hoạt động xuất khẩu thuỷ sản 15 1.3. Kinh nghiệm về xuất khẩu thuỷ sản sang Mỹ của một số quốc gia và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam 16 1.3.1. Thái Lan 16 1.3.2. Trung Quốc 17 Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Mỹ thời gian qua 19 2.1. Khái quát thực trạng thương mại hàng thuỷ sản của thế giới 19 2.1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu 19 2.1.2. Cơ cấu mặt hàng xuất nhập khẩu 21 2.2. Thực trạng xuất khẩu hàng thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 24 2.2.1. Khái quát sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt Nam 24 2.2.2. Kết quả xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam nói chung 25 2.2.2.1. Kim ngạch xuất khẩu 25 2.2.2.2. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu của Việt Nam 26 2.2.2.3. Thị trường xuất khẩu 27 2.2.2.4. Giá cả xuất khẩu 30 2.2.3. Hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 31 2.2.3.1. Khái quát về thị trường thuỷ sản Mỹ 31 2.2.3.2. Kết quả hoạt động xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ thời gian qua 37 2.2.3.3. Tình hình cạnh tranh của ngành hàng thủy sản Việt Nam trên thị trường Mỹ 43 2.2.3.4. Hình thức xuất khẩu 44 2.3. Đánh giá thực trạng xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang thị trường Mỹ 45 2.3.1. Những thuận lợi và thành công đã đạt được 45 2.3.2. Những khó khăn, hạn chế cần giải quyết 47 Chương 3: Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam vào thị trường Mỹ 50 3.1. Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới và thị trường Mỹ về ngành hàng thuỷ sản 50 3.1.1. Dự báo thị trường thuỷ sản thế giới 50 3.1.1.1. Cung thuỷ sản 50 3.1.1.2. Cầu thuỷ sản 50 3.1.1.3. Dự báo giá hàng thuỷ sản 51 3.1.2. Dự báo thị trường thuỷ sản Mỹ và khả năng xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang thị trường Mỹ 52 3.2. Định hướng chiến lược mở rộng thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ 54 3.2.1. Yêu cầu của chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam tại Mỹ 54 3.2.2. Định hướng chiến lược mở rộng và phát triển thị trường xuất khẩu thuỷ sản tại Mỹ 55 3.3. Một số giải pháp cơ bản nhằm đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản sang thị trường Mỹ 57 3.3.1. Những giải pháp vĩ mô 57 3.3.1.1. Thúc đẩy nhanh quá trình đàm phán gia nhập WTO và tăng cường hợp tác song phương giữa Việt Nam - Hoa Kỳ trong lĩnh vực thương mại hàng thuỷ sản 57 3.3.1.2. Hoàn thiện quy hoạch tổng thể nuôi trồng thuỷ sản 57 3.3.1.3. Đầu tư cho phát triển vùng, nguồn nguyên liệu phục vụ cho sản xuất, chế biến xuất khẩu 58 3.3.1.4. Vận dụng linh hoạt chính sách tài chính tín dụng, khuyến khích xuất khẩu hàng thuỷ sản sang Mỹ 59 3.3.1.5. Chính sách về công nghệ và chuyển giao công nghệ cho ngành thuỷ sản 59 3.3.1.6. Đẩy mạnh hoạt động xúc tiến bán hàng thuỷ sản trên thị trường Mỹ 60 3.3.1.7. Thực hiện các biện pháp bảo hộ, chống bán phá giá 60 3.3.1.8. Phát triển nguồn nhân lực cho ngành thuỷ sản 61 3.3.2. Những giải pháp vĩ mô 62 3.3.2.1. Chiến lược kinh doanh, tiếp thị và xúc tiến xuất khẩu của doanh nghiệp 62 3.3.2.2. Không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào thị trường Mỹ 62 3.3.2.3. Đa dạng hoá sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu vào Mỹ 63 3.3.2.4. Xây dựng và phát triển thương hiệu 63 3.3.2.5. Thực hiện liên doanh, liên kết với các công ty quốc tế, công ty Mỹ, kiều bào Việt Nam trong xây dựng hệ thống bán lẻ tại thị trường Mỹ 64 3.3.2.6. Sử dụng thương mại điện tử trong giao dịch, buôn bán và tiếp cận thị trường Mỹ 65 3.3.2.7. Bồi dưỡng, nâng cao trình độ đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh xuất khẩu thuỷ sản 65 Kết luận 67

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc4615.doc
Tài liệu liên quan