LỜI MỞ ĐẦU
Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào, nguyên liệu phục vụ cho quá trình sản xuất phải được ưu tiên hàng đầu. Trong công nghiệp chế biến muốn tồn tại và phát triển phải gắn với vùng nguyên liệu.
Qua 14 năm thu mua và chế biến kể từ năm 1986 đến nay Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã qua bao khó khăn có lúc tưởng chừng như không thể vượt qua. Tình hình thực tế Công ty đứng bên bờ vực phá sản nhưng rồi lại phát triển đi lên đem lại những thành quả tốt đẹp. Tất cả những thăng trầm ấy do nhiều nguyên nhân đem lại, xong suy cho cùng một trong số những nguyên nhân cơ bản quan trọng bậc nhất đó là vấn đề nguyên liệu cho nhà máy sản xuất.
Đủ nguyên liệu nhà máy chạy hết công suất, khai thác được tiềm năng săn có của thiết bị, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, giá thành hạ, đem lại lợi nhuận cao, nộp ngân sách Nhà nước tăng, công nhân có công ăn việc làm, đời sống ổn định và ngày càng được nâng cao, công nhân gắn bó với nhà máy.
Thiếu nguyên liệu nhà máy hoạt động kém hiệu quả, lãng phí thiết bị máy móc, khấu hao trên đầu sản phẩm tăng, sản xuất bị thua lỗ, công nhân không có công ăn việc làm, đời sống ngày càng khó khăn.
Từ những vấn đề trên trong những năm gần đây, đặc biệt là từ khi có chủ trương đường lối đổi mới của Đảng và các chính sách của Nhà nước về giao quyền tự chủ cho sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp. Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã chủ động đầu tư giải quyết tốt vấn đề nguyên liệu cung cấp cho nhà máy sản xuất ổn định và phát triển.
Hiện nay trong xu thế phát triển mở rộng sản xuất kinh doanh, Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn đã mở rộng nâng cao công suất nhà máy lên 6.500 tấn mía cây/ngày. Do đó việc xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu đảm bảo đầy đủ cho nhà máy sản xuất ngày càng trở nên quan trọng và cấp bách hơn.
Từ những vấn đề nêu trên, việc đặt ra những chương trình nghiên cứu về vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn, thực trạng vùng nguyên liệu và quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn trong những năm vừa qua và đề ra những giải pháp nhằm xây dựng, phát triển vùng nguyên liệu để cung cấp đầy đủ và ổn định cho nhà máy sản xuất là việc làm có ý nghĩa thiết thực đối với sự tồn tại và phát triển của Công ty.
Xuất phát từ thực tiễn đó tôi đã chọn đề tài: "Một số giải pháp cơ bản về phát triển vùng Nguyên liệu Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn".
Mục tiêu nghiên cứu đề tài này nhằm giải quyết một số vấn đề sau đây:
- Chọn phương pháp quản lý đầu tư.
- Hạ giá thành sản phẩm để tăng giá mía.
- Nâng cao lợi ích cho người trồng mía.
- Xây dựng mối quan hệ gắn bó giữa Công ty với người trồng mía.
Đề tài này được nghiên cứu trên thực tế của vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn - Thanh Hoá.
Đề tài này gồm 3 chương:
Chương I : Cơ sở lý luận chung liên quan đến nguyên liệu
Chương II : Sự hình thành và phát triển của Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn
Chương III : Một số giải pháp và ý kiến đề xuất
Với thời gian thực tập tại Công ty không được nhiều lắm và khả năng hiểu biết của bản thân còn hạn chế nên trong đề tài này không tránh được những thiếu sót, em rất mong nhận được sự góp ý của thầy giáo Nguyễn Văn Duệ, các cấp lãnh đạo Công ty và các bạn giúp em hoàn thiện hơn nữa đề tài này.
Em xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình của thầy giáo Nguyễn Văn Duệ và Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn.
Luận văn dài 101 trang, chia làm 3 chương
99 trang |
Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1854 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp cơ bản về phát triển vùng nguyên liệu công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
để kiểm tra xem thời gian nào cần thiết cho việc cung tiêu (thời gian đặt mua nguyên vật liệu).
6.2.4. Nguyên nhân của các doanh nghiệp giữ nguyên vật liệu trong kho.
- Giúp cho doanh nghiệp ngăn ngừa được những trục trặc về chất lượng và kinh tế đối với hoạt động cung ứng, đảm bảo chúng đến một cách chính xác nơi nó cần và lúc nó được cần tới.
- Chống lại sự gián đoạn của quá trình cung ứng do các nguyên nhân không mong đời như: thời tiết, tai nạn, đình công...
- Đảm bảo quá trình sản xuất và cung ứng nguyên vật liệu liên tục nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khác hàng, khắc phục được các sai sót trong dự đoán cầu nguyên vật liệu.
- Có thể giảm được một số chi phí trong đặt hàng.
Còn có ý nghĩa về sự đầu cơ.
6.3. Tổ chức cấp pháp nguyên vật liệu.
6.3.1.Phân loại vận chuyển của doanh nghiệp
- Vận chuyển bên ngoài: là hoạt động vận chuyển liên quan khách hàng bao gồm vận chuyển nguyên vật liệu từ địa điểm nhận hàng của người bán đến các kho của doanh nghiệp và vận chuyển nguyên vật liệu từ kho thành phẩm của doanh nghiệp đến địa điểm giao hàng cho khách hàng mua hàng.
- Vận chuyển nội bộ: là vận chuyển nguyên vật liệu giữa các kho của doanh nghiệp với nhau, giữa các kho của doanh nghiệp với các điểm sản xuất, chế biến, giữa các bộ phận sản xuất khác nhau với nhau cũng như giữa các nơi làm việc khác nhau trong từng bộ phận sản xuất. Quan trọng nhất là tổ chức cấp phát nguyên vật liệu.
Cấp phát là hình thức chuyển vật liệu từ kho xuống các bộ phận sản xuất. Cấp phát nguyên vật liệu một cách chính xác, kịp thời cho các bộ phận sx sẽ tạo điều kiện thuận lợi và tận dụng triệt để và có hiệu quả công suất thiết bị, là thời gian lao động, chất lượng sản phẩm, tiết kiện nguyên vật liệu và hạ giá thành sản phẩm. Tổ chức tốt công tác cấp phát nguyên vật liệu còn là điều kiện tốt cho việc thực hiện trả lương theo sản phẩm và chế độ hạch toán kinh tế trong nội bộ doanh nghiệp. Tổ chức cấp phát nguyên vật liệu cho các bộ phận có thể tiến hành theo các hình thức sau:
- Cấp pháp theo yêu cầu của các bộ phận sản xuất.
Hình thức cấp phát này chủ yếu dựa vào yêu cầu của các phân xưởng và của bộ phận sản xuất gửi lên phòng vật tư. Đối chiếu yêu cầu đó với số lượng vật tư có trong kho và căn cứ vào hệ thống định mức và nhiệm vụ được giao, phòng vật tư tổ chức cấp phát cho các bộ phận sản xuất lên kho lĩnh nguyên vật liệu.
- Cấp phát theo hạn mức (theo tiến độ kế hoạch).
Căn cứ vào định mức tiêu dùng nguyên vật liệu, căn cứ vào số lượng và chủng loại đã được xác định trong kế hoạch tiến độ sản xuất.
Trường hợp đã hết nguyên vật liệu mà chưa hoàn thành nhiệm vụ sản xuất thì phải có lệnh của giám đốc kho mới cấp bổ sung để hoàn thành nhiệm vụ. Trường hợp còn thữa nguyên vật liệu coi như thành tích tiết kiệm và được khấu trừ vào định mức của tháng sau.
6.3.2. Phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp và lựa chọn phương tiện vận chuyển.
Bao gồm các phương tiện vận chuyển bên ngoài và phương tiện vận chuyển của doanh nghiệp:
- Đối với phương tiện vận chuyển bên ngoài: không phải chỉ tuỳ thuộc vào đặc điểm về vật tư cần vận chuyển mà trước hết luôn luôn liên quan đến việc xác đinhj nguyên vật liệu của doanh nghiệp do doanh nghiệp tự đảm nhận vận chuyển hay do bên ngoài? nếu nguyên vật liệu đã đặt không được đưa trực tiếp đến doanh nghiệp, vì lượng mua hàng của doanh nghiệp không đủ lớn để người cung cấp có thể đảm nhận việc chuyên chở vì doanh nghiệp tự vận chuyển sẽ có lợi hơn là thuê người cấp hàng đưa đến, thì phải kiểm tra xem xét liệu sử dụng các phương tiện riêng hay giao nhiệm vụ chuyên chở cho doanh nghiệp vận tải (đường sắt, thuỷ...) là có lợi hơn? Để quyết định xem nên tự chuyên chở hay thuê ngoài phải ưu tiên tính toán kinh phí kinh doanh.
- Đối với trường hợp từ vận chuyển: Doanh nghiệp sẽ xây dựng thêm hoặc mở rộng bộ phận vận tải thì sẽ quyết định thuê vận chuyển hơn. Việc xây dựng hay mở rộng năng lực vận chuyển sẽ làm tăng năng lực vận chuyển trong tương lai và cũng làm tăng chi phí kinh doanh bổ sung trong tương lai và cũng sẽ như thế nếu như trong tương lai giảm sản lượng sản xuất. Ngược lại nếu việc vận chuyển giao cho một doanh nghiệp vận chuyển đảm nhận thì chi phí kinh doanh cho việc vận chuyển sẽ chỉ phụ thuộc vào khối lượng vận chuyển. Cả trong trường hợp chi phí kinh doanh cho tự vận chuyển ở thời điểm quyết định là thấp hơn chút ít so với thuê ngoài, vì nó có thể nhược điểm trước mắt của chi phí kinh doanh về vận chuyển thuê ngoài cao hơn lại trở thành ưu điểm nếu xét về lâu dài, vì nó làm giảm tốc độ mạo hiểm do việc gây ra chi phí kinh doanh cố định cao trong tương lai nếu tự vận chuyển.
Việc lựa chọn phương tiện vận chuyển chuyên dùng nội bộ tuỳ thuộc vào đặc điểm sản xuất, kho tàng, trình độ đồng bộ trong việc trang thiết bị sản xuất và khả năng tài chính của doanh nghiệp. Phương tiện vận chuyển dùng cho khả năng sản xuất và hiệu quả cao đảm bảo cho tốc độ vận chuyển cần thiết cũng như chất lượng của nguyên vật liệu, giảm mức độ lao động năng nhọc của người lao động song cũng đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn.
6.4. Thanh quyết toán nguyên vật liệu.
Thanh quyết toán nguyên vật liệu là bước chuyển giao các bộ phận sử dụng và bộ phận quản lý nguyên vật liệu. Thực chất của việc thanh quyết toán nguyên vật liệu là việc thực hiện hạch toán và đánh giá tình hình sử dụng nguyên vật liệu.
Thanh quyết toán nguyên vật liệu là sự đối chiếu, so sánh lượng nguyên vật liệu các đơn vị nhận về với số lượng sản phẩm giao nộp để biết được kết quả việc sử dụng nguyên vật liệu của các đơn vị sản xuất. Nhờ công tác thanh quyết toán mới đảm bảo được việc sử dụng hợp lý và tiết kiệm nguyên vật liệu, đản bảo việc tính toán đầy đủ, chính xác nguyên vật liệu và giá thành. Khi tiến hành thanh quyết toán phải tính riêng cho từng loại nguyên vật liệu, thời gian tiến hành thanh quyết toán tuỳ thuộc vào độ dài chu kỳ sản xuất, có thể là một tháng hoặc một quý tiến hành một lần. Nội dung của bản thanh quyết toán phải phản ánh được:
- Lượng nguyên vật liệu nhận trong tháng hoặc trong quý.
- Lượng nguyên vật liệu sản xuất ra sản phẩm.
- Lượng nguyên vật liệu làm ra sản phẩm hỏng và kém phẩm chất.
- Lượng nguyên vật liệu còn tồn đọng.
- Lượng nguyên vật liệu mất mát, hao hụt.
- Đánh giá chung tình hình sử dụng nguyên vật liệu.
Sau khi thanh quyết toán cần có chế độ kích thích vật chất thoả đáng.
CHƯƠNG III.
MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN VÀ KIẾN NGHỊ ĐỂ PHÁT TRIỂN VÙNG NGUYÊN LIỆU MÍA ĐƯỜNG LAM SƠN
I. KHÁI QUÁT.
Để giải quyết vấn đề nguyên vật liệu cho Công ty cần phải giải quyết đồng bộ nhiều khía cạnh như tạo mối quan hệ tốt với các nhà cung cấp; đào tạo trình độ quản lý cho cán bộ quản lý trong nguyên vật liệu; xây dựng hệ thống kho tàng thuận tiện cho việc vận chuyển... Trong đó việc hình thành vùng nguyên liệu là quan trọng bởi LASUCO là doanh nghiệp công nghiệp chế biến.
Do khuôn khổ của chuyên đề có hạn nên tôi xin tập trung vào nhữgiao nhận giải pháp để hình thành vùng nguyên vật liệu.
II - NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
A.VỀ PHÍA NHÀ NƯỚC
1. Nhà nước phải có giải pháp về chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp.
1.1 Chính sách cơ cấu vùng:
Do điều kiện địa lý, điều kiện khí hậu của từng vùng Nhà nước có chính sách cho phù hợp. Dựa vào điều kiện cụ thể của từng vùng mà Nhà nước đề ra các chính sách kinh tế để tận dụng tối đa điều kiện tự nhiên của vùng đó. Cụ thể như:
Cây Bông: Hà Giang, Lào Cai, Bắc Cạn, Tuyên Quang, Sơn La.
Cây Sắn: Đà Nẵng, Quảng Nam, Tây Nguyên, đồng bằng sông Cửu Long, Hà Tây, Thanh Hóa...
Cây Ngô: Hưng Yên, Hà Tây, Hà Giang, Nghệ An, Lai Châu...
Cây Lạc: Nghệ An, Thanh Hóa...
Cây Mía: Thanh Hóa, Nghệ An, Long An, Tây Ninh, Khánh Hòa, Quảng Ngãi, Đồng Nai, Sóc Trăng.
Với xu thế chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ cây lương thực sang cây công nghiệp phục vụ chế biến như nghị quyết đại hội TW IV đề ra là hiện nay để tiếp tục phát triển nông nghiệp là phải đẩy mạnh công nghiệp chế biến.
Nhà nước đã đề ra các biện pháp để tận dụng tối đa khả năng trồng cây công nghiệp phục vụ cho sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế như: cây mía
Ví dụ: phía Bắc tỉnh Thanh Hóa do điều kiện tự nhiên tại vùng đó vì lợi ích kinh tế chỉ trồng cây mía là phù hợp với điều kiện ở đây, các cây trồng khác trồng cũng được nhưng hiệu quả kinh tế không cao vì vậy Chính phủ cho xây dựng công nghiệp chế biến đường tại đây. Hiện nay công ty làm ăn có hiệu quả đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách Nhà nước đặc biệt là thay đổi cả một vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh.
1.2 Chính sách cơ cấu công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ.
Nghị quyết hội nghị lần thứ V và lần thứ VIII của BCH TW Đảng (khóa VII) và Nghị quyết đại hội Đảng lần thứ VIII đề ra là xây dựng quan hệ sản xuất, phát triển lực lượng sản xuất, phương thức kết hợp giữa nông nghiệp với công nghiệp, dịch vụ để tiến hành công nghiệp hóa hiện đại hoá công nghiệp và nông thôn vì mục đích “ dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh’’.
Xây dựng hệ thống quan hệ sản xuất mới, phát triển kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp trên các vùng kinh tế nông thôn, miền núi là những vùng có rất nhiều tiềm năng về kinh tế chưa được giải phóng. Muốn thực hiện được vấn đề này là:
Một là: Thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, đa sở hữu, hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ. Mô hình hợp tác xã, nông trường quốc doanh kiểu cũ không còn phù hợp với cơ chế mới.Cơ chế mới là quan hệ sản xuất định hướng theo kinh tế nhiều thành phần, mô hình tổ chức và cơ chế quản lý hợp tác xã mới phải như thế nào ? Hợp tác xã trong nông thôn sẽ ra sao ?
Hai là: Quy mô kinh tế hộ nông dân nước ta còn rất bé, điểm xuất phát kém, công nghiệp sản xuất còn lạc hậu làm sao chuyển nông nghiệp lên nền sản xuất hàng hóa lớn theo hướng công nghiệp hóa hiện đại hóa nông thôn theo nghị quyết hội nghị và đại hội đề ra.
Đổi mới trong nông nghiệp nông thôn đang là yêu cầu cơ bản và cấp bách trong việc chuyển dịch cơ cấu công nông nghiệp, dịch vụ và kinh tế vùng.
Chúng ta phải hợp tác nhiều thành phần kinh tế, nhiều chủ thể tham gia đặc biệt là doanh nghiệp nông nghiệp và hộ nông dân. Mỗi thành phần kinh tế có quy mô kinh tế, hình thức sở hữu khác nhau , năng lực sản xuất và thế mạnh kinh doanh rất khác nhau nhưng đều phải tuân thủ nghị quyết hội nghị và đại hội đề ra. Các đơn vị kinh tế được tự chủ hợp tác lại với nhau. Thành phần kinh tế quốc doanh không chỉ có nông trường quốc doanh làm nông nghiệp khi chuyển chính sách và cơ chế mới thì doanh nghiệp công nghiệp chế biến, doanh nghiệp tín dụng, doanh nghiệp dịch vụ phải vận động đổi mới để liên kết hợp tác với kinh tế hộ nông dân phát triển kinh tế vùng đặc biệt là trung du và miền núi vùng sâu vùng xa.
Chính sách chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp mở đường cho bước chuyển giai đoạn của nông nghiệp và nông thôn nước ta. Bởi vì đặc điểm của các vùng trung du miền núi là trình độ lực lượng sản xuất chưa phát triển điểm xuất phát thấp, năng lực sản xuất của kinh tế hộ còn rất nhỏ bé chỉ có sự liên kết hộ nông dân với nhau và hợp tác xã hay tuyển lao động vào làm thủ công, thuần nông trong nông trường quốc doanh với sự quản lý tập trung, về thực chất chỉ là sự cộng hợp các yếu tố đồng chất lại không thể tạo ra được thế và lực mới. Để phá vỡ vòng luẩn quẩn của kinh tế miền núi năng suất thấp không tích luỹ, không tái sản xuất giản đơn chậm phát triển. Chúng ta phải liên kết hợp tác (nông công nghiệp) cùng tiến đến nông nghiệp hợp tác với công nghiệp, dịch vụ, tài chính tín dụng, kinh tế Nhà nước với kinh tế hộ nông dân để chuyển sang sản xuất hàng hóa, giải phóng sức sản xuất càng mạnh càng đem lại hiệu quả kinh tế rõ nét.
Hợp tác theo phương thức tự nguyện liên kết gắn bó với nhau được pháp luật Nhà nước bảo hộ, dựa trên quy luật kinh tế thị trường. Hợp tác để khai hoang đất trống đồi núi chọc tạo ra vùng kinh tế mới, vùng đất mới theo nguyên tắc giúp đỡ lẫn nhau kinh nghiệm quản lý, cách làm, cùng nhau bảo vệ sản phẩm của mình làm ra từ đó nông dân sẽ tự nguyện liên kết lại với nhau theo quan hệ thân tộc, quan hệ hàng xóm, chọn người quản lý để thành đầu mối liên kết các nông trường quốc doanh, nhà máy với các tổ chức tài chính tín dụng.
Liên kết các tập thể nông dân với nền sản xuất xã hội ở đây là doanh nghiệp công nghiệp chế biến, doanh nghiệp dịch vụ, doanh nghiệp tín dụng ngân hàng. Sử dụng thế mạnh kinh tế của mình để nối các đơn vị kinh tế ngang, các hộ nông dân theo địa bàn hình thành kinh tế dọc, thành vùng kinh tế mới trù phú. Từ đây nền sản xuất nông nghiệp đóng kín trong từng vùng bắt đầu được xã hội hóa và chuyển sang nền sản xuất hàng hóa nhiều thành phần, nhất quán, lâu dài theo chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, xác lập quyền tự chủ của hộ nông dân, quyền tự chủ của các doanh nghiệp Nhà nước.
Chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp sang công nông nghiệp dịch vụ gắn sức mạnh kinh tế Nhà nước với kinh tế hộ nông dân với điều kiện kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo để phát huy sức mạnh nền kinh tế đa thành phần đi lên theo hướng xã hội chủ nghĩa.
2. Chính sách về tài chính.
Trong công cuộc công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn như Nghị quyết đại hội lần thứ V và lần thứ VIII đề ra.
Nhà nước thực hiện chính sách cho vay vốn đầu tư đến hộ cung cấp kỹ thuật mới cho hộ nông dân trồng cây nông nghiệp đặc biệt là nông dân trồng mía. Ngoài ra còn tiêu thụ những cây trồng của ngành trồng trọt như cây mía, ngô, khoai, sắn bằng việc phát triển công nghiệp chế biến với quy mô vừa và nhỏ.
Thực hiện chính sách giao vốn cho doanh nghiệp Nhà nước. Từ đó doanh nghiệp Nhà nước thu hồi vốn, tạo vốn cho các hộ nông dân trồng trọt. Doanh nghiệp Nhà nước mới nắm được khâu then chốt vốn kỹ thuật và công nghệ mới, thị trường để tác động đến kinh tế hộ phát triển. Từ đó doanh nghiệp nông nghiệp tìm được chỗ đứng phù hợp với thế mạnh của nền kinh tế nhiều thành phần xác lập vai trò nòng cốt trong phát triển kinh tế.
Xóa bỏ hàng rào ngăn cách nông nghiệp vốn còn mang nặng dấu ấn tự túc, tự cấp lên nông nghiệp hàng hóa nhiều thành phần kinh tế tham gia. Các kinh tế Nhà nước với kinh tế hộ nông dân gắn công dân với nông dân, gắn kinh tế nông nghiệp với kinh tế công nghiệp, công nghiệp dịch vụ với tài chính tín dụng thông qua ngân hàng là kênh dẫn vốn.
Chuyển đổi các hộ nông lâm trường thành các trung tâm dịch vụ kỹ thuật, dịch vụ cung ứng và thanh toán nhằm mục đích gắn chặt lợi ích người dịch vụ với nông dân trồng trọt để không ngừng nâng cao năng suất, chất lượng cây trồng.
Cho phép các doanh nghiệp nông nghiệp tự tạo ra vốn bằng hình thức huy động vốn nhàn rỗi trong dân theo phương thức Cổ phần hóa doanh nghiệp thúc đẩy kinh tế vùng, kinh tế ngành phát triển theo cơ chế thị trường dưới sự điều tiết của Nhà nước.
Nhà nước cho phép các doanh nghiệp nông nghiệp, công nghiệp làm ăn có hiệu quả được thành lập quỹ phòng chống rủi ro trích từ phần lợi nhuận của công ty, xí nghiệp. Giải pháp này nhằm hạn chế rủi ro, chia sẻ rủi ro khi gặp phải khó khăn để trụ vững trong cơ chế thị trường nhằm mục đích cạnh tranh và phát triển. Lập quỹ phòng chống rủi ro cũng là hình thức bảo hiểm tài chính, trong khi rủi ro không xảy ra quỹ không phải chi trả cho Nhà nước, dựa trên nguyên tắc quỹ được bảo toàn và tăng trưởng được dùng để cho vay, đầu tư phát triển theo pháp lệnh của ngân hàng với lãi suất hợp lý. Đây là giải pháp thúc đẩy ngành trồng trọt phát triển đặc biệt là ngành công nghiệp chế biến đường phát triển trong thời kỳ đổi mới này. Chính sách bảo vệ lợi ích chia sẻ rủi ro góp phần vào quá trình xây dựng chế độ kinh tế hợp tác trên các vùng nông thôn nước ta.
Nhà nước cho phép các doanh nghiệp nông nghiệp, các nhà máy đường được sở hữu riêng về vốn, chọn phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả thông qua việc cung cấp thông tin giới thiệu định hướng và các kế hoạch điều hòa phân phối mà không áp đặt.
Nhà nước cho phép thành lập hợp tác xã tín dụng. Hợp tác xã tín dụng thuộc sở hữu tập thể, được lập bằng vốn đóng góp của nông dân và các xã viên huy động các nguồn vốn của các nông dân, xã viên bằng hình thức vay và cho vay nhằm mục đích xã hội hóa nông nghiệp. Hợp tác xã tín dụng đặt dưới quyền quản trị của hội đồng quản trị và điều hành của chủ nhiệm hợp tác xã tín dụng. Chủ tịch và các thành viên của hội đồng quản trị do đại hội xã viên bầu và bãi miễn, chủ nhiệm hợp tác xã tín dụng do hội đồng quản trị bổ nhiệm, miễn nhiệm.
Nhà nước cho phép xây dựng một số cơ sở hạ tầng thiết yếu ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa vốn được Nhà nước cấp khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư có hiệu quả bằng các chính sách phù hợp.
Chính sách sử dụng vốn và huy động vốn, đa dạng hóa các hình thức huy động và đầu tư như liên doanh, liên kết, phát hành trái phiếu, cổ phiếu, góp quỹ bảo hiểm, các quỹ đầu tư... Từng bước tạo tiền đề vững chắc cho hình thành TTCK. Đẩy mạnh quá trình thị trường hóa các tiềm lực tài chính trong nước, chủ động phát triển thị trường bất động sản có tổ chức. Tiếp tục thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư nước ngoài, hạn chế nguồn vốn ngắn hạn.
3. Chính sách thuế của Nhà nước.
Tiến tới gia nhập tổ chức AFTA, hiệp định ưu đãi thuế quan áp dụng trong các nước ASEAN và cam kết kinh tế khác, cam kết quốc tế khác.
Thực hiện tốt luật thuế giá trị gia tăng, luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Ngoài ra phải đơn giản các sắc thuế, công khai hóa thủ tục hải quan và xuất nhập cảnh.
Giáo dục các doanh nghiệp cá nhân về ý thức thực hiện nghĩa vụ thuế. Có cơ chế thích hợp để kiểm soát được các nguồn thu nhập và các loại tài sản của dân cư, tiếp tục chế độ thu phí, lệ phí thanh tra và xử lý nghiêm mọi trường hợp, mọi hiện tượng lạm quyền, lạm thu của cơ quan đơn vị Nhà nước.
Đối với nông nghiệp đặc biệt là ngành đường miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong nông dân nhằm tăng thu nhập cho người trồng trọt.
Thực hiện quy luật khoán đất đai cho từng vùng, giao đất đến từng hộ gia đình, các hộ nông dân được giao đất phải có trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu quả đất được Nhà nước giao cho. Tránh tình trạng nông dân mất ruộng phải đi làm thuê, làm mướn dẫn đến tình trạng nông dân mất ruộng kéo dài trong lúc công nghiệp hóa nông nghiệp chưa được bao nhiêu ? Nếu nông dân mất ruộng mà chuyển sang ngành nghề khác vẫn phải đi làm thuê, làm mướn trong nông nghiệp tiếp tục bị bóc lột, nghèo khổ thì kinh tế không thể phát triển, xã hội không thể ổn định. Đây là vấn đề bức bách đặt ra cho chúng ta phải giải quyết cho tốt vì vậy chính sách giao đất khoán cho nông dân là phù hợp với quy luật kinh tế khách quan.
4.Về phía Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn
4.1. Thúc đẩy phát triển vùng nguyên liệu
Chính sách xây dựng vùng nguyên liệu
Nghị quyết TW IV đã chỉ rõ “Hiện nay con đường để tiếp tục phát triển nông nghiệp là đẩy mạnh công nghiệp chế biến”. Chương trình mía đường là chương trình trọng điểm đầu tiên về công nghiệp chế biến. Trong quá trình thực hiện còn có thiếu sót nhất là thiếu sót về xây dựng vùng nguyên liệu trong đó có trách nhiệm của Bộ, UBND, Sở NN & PTNT các tỉnh và đặc biệt là các công ty đường. Phát động chiến dịch trồng mía Vụ xuân để các nhà máy đường có đủ nguyên liệu cho sản xuất đường.
Trên cơ sở kinh nghiệm của mô hình hiệp hội mía đường Lam Sơn gắn bó lợi ích nông dân và Nhà nước trong một hiệp hội để cùng phát triển, các nhà máy cần nghiên cứu vận dụng phối hợp chặt chẽ việc xây dựng nhà máy với việc phát triển vùng nguyên liệu để hiệu quả sản xuất ngày càng cao.
Tổ chức ngay việc kiểm tra, soát xét lại quỹ đất dành để trồng mía như: bố trí đủ số lượng theo hướng xây dựng vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh, thâm canh, cự ly vận chuyển ngắn nhất. Phân công phân định phạm vi ranh giới vùng nguyên liệu cho từng nhà máy, quản lý đất sử dụng đúng quy hoạch trồng mía đạt hiệu quả cao.Từng bước tổ chức các hợp tác xã của người trồng mía, tạo thuận lợi cho công tác quản lý và tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất.
Chấn chỉnh công tác thống kê cân đối nguyên liệu trên địa bàn, chủ động có giải pháp điều chỉnh sản xuất để đảm bảo tiêu thụ hết mía của dân với giá hợp lý, đủ nguyên liệu cho chế biến công nghiệp, tránh tình trạng mua ép, cấp ép giá gây thiệt hại cho cả người trồng mía và người đầu tư.
Chủ trương đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng như đường giao thông, hệ thống tưới tiêu, đê bao...
Tổ chức lại lực lượng chế biến thủ công, cơ khí nhỏ của hộ gia đình nhằm khai thác vùng nguyên liệu lẻ ở các nơi chưa có nhà máy, ở vùng xa khó vận chuyển, để tận dụng đất đai lao động, bảo vệ rừng tăng thu cho ngân sách, đáp ứng nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng và làm vệ tinh cho công nghiệp chế biến đường.
Tăng cường chức năng quản lý Nhà nước trong khâu khảo nghiệm giống sử dụng phân bón, thuốc trừ sâu và các tiêu chuẩn định mức kinh tế kỹ thuật.
Chính sách chế biến
Quy hoạch các vùng nguyên liệu để đảm bảo đủ và ổn định nguyên liệu cho các nhà máy chế biến phát huy hết công suất thiết bị, chú trọng xây dựng các vùng nguyên liệu tập trung chuyên canh tạo nhiều sản phẩm hàng hóa để có thể đầu tư xây dựng một số nhà máy có quy mô trung bình trở lên. Đầu tư thâm canh tăng năng suất của cây mía từ khâu giống đến trồng trọt, tưới, thu hoạch, bảo quản để có nguyên liệu tốt cho chế biến. Đầu tư chiều sâu các nhà máy đã có để nâng cao trình độ công nghệ thiết bị đa dạng hóa sản phẩm đáp ứng nhu cầu thị trường. Chú ý bổ sung thêm thiết bị để hoàn chỉnh các dây chuyền sản xuất thay thế khâu thủ công bằng máy móc cụ thể là: chế biến đường bằng ép qua quá trình luyện thành sản phẩm đường.
Đối với các nhà máy cần phải xây dựng nhất thiết phải lựa chọn thiết bị và công nghệ tiên tiến hiện đại. Tăng cường việc nghiên cứu chế tạo thiết bị trong nước để trang bị cho ngành chế biến những thiết bị máy móc có chất lượng tốt giá thành phù hợp.
Chính sách giá mía
Xây dựng phương thức thu mua vận chuyển đầu tư sản xuất hợp lý linh hoạt được đông đảo người trồng mía chấp nhận và thể hiện bằng hợp đồng sản xuất tiêu thụ, đề ra biện pháp khuyến khích người trồng mía, sử dụng giống mới, rải vụ, tăng diện tích thu mua mía nhằm tăng năng suất và chất luợng nguyên liệu kéo dài thời gian ép có hiệu quả hạ giá thành đường, tăng giá thu mua.
Công khai thông báo ngay đến từng hộ nông dân trồng mía giá mua, quy chế thưởng phạt đối với cán bộ theo dõi nguyên liệu, chấn chỉnh lịch đốn chặt có tổ chức, sắp xếp thu mua vận chuyển tạo điều kiện cho nông dân trồng mía thu hoạch. Nông dân trồng mía được tham gia kiểm tra kiểm soát ký kết hợp đồng thu mua mía với công ty thông qua xác nhận của chính quyền địa phương.
Trong thời kỳ khủng hoảng thừa về đường giá đường xuống thấp, nhằm duy trì ngành đường trong thời kỳ khủng hoảng này, Bộ đã có chính sách thu mua mía hài hòa cả 3 lợi ích nông dân, nhà máy và Nhà nước. Bởi vì:
Giá mía bao hàm 3 lợi ích:
- Lợi ích kinh tế của người lao động.
- Lợi ích kinh tế của Công ty và các nhà máy.
- Lợi ích của Nhà nước.
Muốn đạt được cả 3 lợi ích này đòi hỏi chúng ta phải xác định và phản ánh trung thực khách quan từng lợi ích một với mục đích làm sao các bên đều có lợi, từ đó có các chính sách phù hợp với từng đối tượng.
-Lợi ích kinh tế của người lao động: Hiện nay do tình hình đường đang khủng hoảng thừa, giá đường đang từ 6000 đ/kg-7000 đ/kg tụt xuống còn 3000đ-4000 đ/kg từ đó kéo theo giá thành đường của các nhà máy đường giảm dẫn tới giá thu mua mía của các hộ nông dân nông trường, lâm trường giảm, đây là yếu tố khách quan.
Để cho người trồng mía đỡ thiệt thòi vì giá mía giảm xuống, Nhà nước đã có chính sách như sau:
Qua quá trình tính toán và điều chỉnh Nhà nước đã điều chỉnh giá thu mua mía là 160.000 đ/tấn mía – 180.000 đ/tấn mía. Đây là một chính sách mang tính chất kịp thời và đúng đắn hài hoà được cả 3 lợi ích đặc biệt là đối với người trồng mía.
Miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp trong 02 năm cho nông dân để tăng thu nhập cho người trồng mía.
Về quy mô đất trồng mía: Đối với các hộ trồng mía thực hiện theo quy định hiện hành của Luật đất đai, tạo điều kiện cho các địa phương thực hiện quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn và phân công lại lao động theo hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước. Chính quyền địa phương và các doanh nghiệp Nhà nước giao đất có trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu quả đất được Nhà nước giao.
Mấy năm trước giá bán đường cao thì giá thu mua mía do các nhà máy đường thoả thuận với nông dân trồng mía, giá bình quân là 200.000 đ-220.000 đ/tấn mía thì lợi ích kinh tế của người trồng mía được hưởng là:
Mức thu nhập ( gồm thu từ sản xuất, tiền công, tiền lương) trừ các khoản chi phí không kể tiêu dùng cuối cùng bình quân đạt 1.800.000 đ/người.
Bình quân của các hộ trồng mía đạt 10.000.000 đồng/vụ.
Lợi nhuận cây mía bình quân là 7 –8 triệu đồng/ha/vụ.
Nhờ thu nhập này mà người nông dân tăng diện tích trồng mía phấn đấu gần đạt kế hoạch Nhà nước đề ra. Cụ thể là: 1.000.000 tấn đường/năm. Năm 2000 đạt được 825. 000 tấn đường/năm đạt 82.5% so với kế hoạch.
- Lợi ích của công ty: Để đảm bảo việc tiêu thụ đường trong tình hình hiện nay Nhà nươc đã có các biện pháp giúp Công ty giảm giá thành sản xuất đường bằng các chính sách như sau:
Giảm giá thu mua mía 160.000 đ-180.000 đ/tấn mía
Giảm thuế VAT từ 10% xuống 5%.
Dãn nợ, khấu hao, giảm lãi suất ngân hàng cho vay với giá ưu đãi.
- Lợi ích kinh tế của Nhà nước. Duy trì ngành đường trong thời kỳ khủng hoảng, tương lai giá đường sẽ khác, nghành đường sẽ phát triển.
d) Về năng suất và chất lượng mía.
Bộ giao cho các nhà máy phải quan tâm giúp đỡ nông dân chuyển giao kỹ thuật thâm canh mía cho người nông dân, hộ trồng mía. Coi đó là việc của mình chứ không phải là của ngành nông nghiệp của Tỉnh và của Huyện. Tránh tình trạng năng suất mía thấp, người nông dân cảm thấy trồng mía bị thiệt thòi hơn trồng cây khác.
Bộ giao cho ngành đường phải có chính sách gia tăng năng suất và chất lượng mía để nông dân đỡ thiệt thòi và giá thành sản xuất ra sản phẩm đường giảm xuống.
Cụ thể về chất lượng mía có các giải pháp như sau:
- Luôn cung cấp sản phẩm và dịch vụ thoả mãn yêu cầu của khách hàng.
- Luôn tìm hiểu kỹ khách hàng để đảm bảo sản phẩm và dịch vụ cung ứng và đáp ứng nhu cầu của họ.
- Thường xuyên giao dục cho mọi nhân viên phải đối xử công bằng, bình đẳng, trân trọng, giao tiếp lịch sự văn minh với mọi khách hàng, mọi CBCNV trong doanh nghiệp phải thực hiện phương châm xử thế “ Khách hàng luôn luôn đúng”; đặc biệt là khách hàng trồng mía và khách hàng tiêu thụ sản phẩm coi đây là thước đo phẩm chất đạo đức và ý thức trách nhiệm với công ty.
- Luôn luôn giáo dục các nhân viên để mọi người hiểu rằng mình vừa là người cung ứng vừa là khách hàng của các đơn vị khác trong cùng công ty. Như vậy chất lượng không ngừng cải tiến tăng lên về mọi mặt.
- Xây dựng và tổ chức thực hiện chiến lược giao dục và đào tạo cho mọi nhân viên để họ không ngừng nâng cao năng lực của mình.
- Xây dựng và thực hiện chiến lược đầu tư đổi mới khoa học, công nghệ và thiết bị, công tác quản lý để không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và hiệu quả.
- Xây dựng và duy trì hệ thống quản lý chất lượng một cách có hiệu quả trên cơ sở có sự tham gia của tất cả mọi người và nền tảng của ISO 9002.
e) Chính sách về giao thông vận tải.
Giao thông là huyết mạch của việc vận chuyển mía từ nơi trồng mía đến các nhà máy. Nhiều nhà máy mới xây dựng nên đường xá còn rất kém, vì vậy Bộ NN & PTNT đã có hội nghị với Bộ GTVT có chính sách phát triển giao thông. Còn đối với các nhà máy xây dựng từ trước thì phải kết hợp với các nghành khác để nâng cấp và mở rộng đường sá nhằm cung cấp đầy đủ nguyên liệu cho nhà máy hoạt động hết công suất. Vấn đề này Bộ trình với Chính phủ giao cho Bộ giao thông vận tải giải quyết.
4.2. Chính sách hỗ trợ về tài chính
Bộ đồng ý với các nhà máy về nguyên tắc mở rộng quy chế tài chính, xây dựng công ty cổ phần, tiếp tục đổi mới các nông trường quốc doanh và nông dân trồng mía. Kết hợp với hệ thống ngân hàng (Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn) làm kênh dẫn vốn cho các hộ trồng mía.
Miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiêp trong 02 năm cho nông trường viên nông dân để tăng thu nhập cho người trồng mía.
Miễn 50% thuế giá trị gia tăng cho các nhà máy đường nhằm mục đích giảm giá thành đường, tăng giá thu mua mía cho nông dân trồng mía.
Bộ đồng ý phương án của các nhà máy giãn khấu hao máy móc thiết bị của các nhà máy để giá thành hạ xuống.
Giảm lãi suất tiền vay ngân hàng, cho các nhà máy vay với với lãi suất ưu đãi trong giai đoạn khủng hoảng thừa về đường này.
Bộ sẽ làm việc với Bộ tài chính để trình Chính phbủ giải quyết vốn lưu động cho các doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả như: Lam Sơn, Quảng Ngãi, Biên Hòa... bằng vốn ADB và trong nước (soát xét nơi nào khó khăn thì cho giãn nợ) vốn cơ khí cho các nhà máy.
Bộ có chính sách đối với đầu tư phát triển mía giống và nguyên liệu cho tỉnh Thanh Hóa (QĐ số 2480 ngày 19 tháng 11 năm 1997, TB số 357 ngày 10 tháng 3 năm 1998, công văn số 1149 ngày 26 tháng 6 năm 1998, công văn 1173 ngày 27 tháng 6 năm 1998 và công văn 1556 ngày 15 tháng 8 năm 1998...) đó là những chính sách ưu đãi chung cho vùng mía phía Bắc và tây Nam của tỉnh Thanh Hóa ngoài ra còn yêu cầu các ngành các cấp và đơn vị của tỉnh có biện pháp tổ chức thực hiện tốt hơn.
Bộ đồng ý tạo điều kiện cho ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam giúp các công ty đường vay vốn để thực hiện việc mua giống, trồng và chăm sóc mía theo kế hoạch được giao. Nên cho vay tập trung theo giai đoạn sản xuất mía và thanh toán hợp đồng vay phù hợp với điều kiện từng vùng, từng đơn vị hoặc chủ hộ để phát huy hiệu quả tiền vay vốn.
4.3. Chính sách về đào tạo công tác cán bộ
Nguyên liệu là công việc khó khăn phức tạp, gắn với quyền lợi của nông dân vì vậy phải cần triển khai đào tạo bồi dưỡng cán bộ nông vụ cũng như bồi dưỡng cán bộ kỹ thuật một cách có hệ thống. Đối với cán bộ nông vụ nhất thiết phải hiểu biết về cây mía. Cần có cơ chế khen thưởng động viên các trường, trung tâm, viện đào tạo cán bộ kỹ sư nông nghiệp như công nghiệp như: củng cố và tăng cường bộ phận nông vụ thực sự trở thành đội ngũ cán bộ có năng lực, có trách nhiệm, trung thực bám sát sản xuất và gắn bó với nhân dân, với nhà má. Trong chiến dịch trồng mía Vụ xuân phải giao nhiệm vụ địa bàn cụ thể, phải có hình thức khoán, thưởng phạt hợp lý và huy động mọi lực lượng tổ chức trong nhà máy tham gia xây dựng vùng nguyên liệu. Cải tiến quản lý sản xuất, đào tạo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề đáp ứng yêu cầu công tác từng bước phát triển sản xuất tổng hợp lợi dụng, nhằm đa dạng hóa sản phẩm hạ giá thành tăng tích luỹ tái đầu tư.
Thực hiện chính sách công tác nghiên cứu: Nâng cao năng lực nghiên cứu khoa học và cán bộ làm công tác khoa học cho các Viện mía, các công ty, nhà máy đường. Các công ty nhà máy đường cũng cần phải tiến hành công tác nghiên cứu mía tổ chức khảo nghiệm , thực nghiệm các giống mía mới nghiên cứu phương thức canh tác phù hợp.
Phát triển cơ khí chế tạo như hình thành nên một suy nghĩ là nước ta hoàn toàn có năng lực xây dựng ngành cơ khí mía đường, lực lượng cơ khí chế tạo và đội ngũ cán bộ thiết kế hiện nay sắp đảm nhận được việc chế tạo trong nước. Gửi những cán bộ giỏi sang các nước tiên tiến về ngành đường học tập kinh nghiệm tiến tới không phải mua thiết bị của nước ngoài.
B - GIẢI PHÁP CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN MÍA ĐƯỜNG LAM SƠN ĐỐI VỚI PHÁT TRIỂN VÙNG NGUYÊN LIỆU (VI MÔ)
I . CHÍNH SÁCH VỀ PHÁT TRIỂN VÙNG NGUYÊN LIỆU.
1. Chuyển giới cây trồng
Năm 1997 luận chứng kinh tế kỹ thuật về giá trị thu nhập của các cây trồng chủ yếu của ngành trồng trọt tại vùng phía Bắc tỉnh Thanh Hóa như sau:
GIÁ TRỊ THU NHẬP CỦA CÁC CÂY KHÁC NHAU TRÊN 1 HA ĐẤT TRONG NĂM
Cây
Sản lượng
(tấn)
đơn giá
(đ/tấn)
Thành tiền
(đồng)
Mía
60
240.000
14.400.000
Lạc
2.5
4.000.000
12.000.000
Sắn khô
6
140.000
8.400.000
Nhìn vào bảng biểu này chúng ta thấy chỉ trồng cây mía là thích hợp nhất. Trước kia chưa có công nghiệp chế biến đường vùng này là nơi hẻo lánh, khi chuyển đổi giống cây trồng từ ngô, khoai, sắn sang cây mía thì nơi đây chở thành vùng công nghiệp chế biến trù phú , làm sống lại vùng đát trống , đồi núi trọc trung du miền núi góp phần xây dựng nông thôn mới, đời sống nông dân trồng mía được nâng lên một cách rõ rệt. Vậy chính sách phát triển công nghiệp chế biến là đúng hướng của Đảng và Nhà nước.
2. Thu mua Mía.
Trong những năm qua Công ty đã có nhiều đổi mới trong việc tổ chức hợp đồng đầu tư và thu mua mía. Song trong quan hệ giữa Công ty và người trồng mía vẫn còn nhiều bức bách bởi những khâu trung gian. Công ty đã thành lập một lực lượng mạnh để lo phần này, nhưng trong quá trình tổ chức thực hiện vẫn còn nhiều tồn tại khuyết điểm, một bộ phần cán bộ công nhân viên chưa nêu cao được tinh thần trách nhiệm, nhiều trường hợp gây phiền hà, sách nhiễu tiêu cực đối với người trồng mía. Do đó việc củng cố lại bộ máy thu mua, đổi mới phương thức đầu tư là công việc phải thường xuyên được quan tâm, để xây dựng tốt mối quan hệ giữa nhà máy với người trồng mía.công ty có những giải pháp sau đây
Xây dựng phương thức thu mua hợp lý , linh hoạt, được các hộ nông dân trồng Mía đồng ý chấp nhận và thể hiện bằng hợp đồng kinh tế. Với nhiều hình thức thiết thực và công khai thông báo ngay mức giá mua , phương pháp xác định chất lượng , tạp chất , địa điểm giao nhận và lịch đốn chặt ... đến từng hộ nông dân trồng Mía , cung ứng đủ vốn cho các hộ khó khăn về vốn với định mức hợp lý , thủ tục thuận tiện , có tiến độ giải ngân phù hợp , tạo điều kiện gắn kết người trồng mía với ngân hàng.
Hành năm công ty còn ký kết hợp đồng mua Mía cây , trong hợp đồng có ghi rõ số lượng , chất lượng , giá cả Mía cây vào thời gian thu mua .
Khi mua Mía công ty còn hổ trợ vận chuyển , đảm bảo cân đúng , lấy mẩu khách quan , đảm bảo quá trình một cách nhanh chóng, gọn gàng.
3. Hỗ trợ nông dân hiện đại hoá nghề trồng mía, thâm canh, tăng năng suất, tăng chất lượng từ đó dẫn đến tăng thu nhập.
Bằng mọi cách phải giúp đỡ nông dân:
- Đưa năng suất mía từ 60 tấn/ha bình quân hiện nay lên 70 tấn/ha vào năm 1998; 80 tấn năm 1999 và 100 tấn/ha vào năm 2000.
- Chất lượng mía từ 9CCS lên 10, 11, 12 và trên 12CCS.
- Đưa mức thu nhập 1ha mía từ 15 triệu, lên 20 triệu, 25 triệu và 30 triệu đồng. Sau đây là những phép tính để chứng minh:
+ 100 tấn mía x 13 độ đường x 240.000đ = 31.000.000đ
+ 80 tấn x 13 độ đường x 240.000đ = 26.000.000đ
Những biện pháp hỗ trợ:
- Từ cơ giới hoá làm đất tiến tới cơ giới hoá chăm sóc và thu hoạch một phần.
- Thuỷ lợi hoá từng bước.
- Hoá học hoá phun thuốc trừ sâu, trừ cỏ bảo vệ mía.
- Xây dựng cơ cấu giống mía chín sớm - muộn - trung bình phù hợp với từng loại đất đai.
- Rải vụ trồng để nâng cao chất lượng mía, kéo dài thời gian chế biến.
- Sử dụng tổng hợp các biện pháp tổng hợp thâm canh: chế độ canh tác, kỹ thuật trồng chăm sóc, bón phân, thời vụ.v.v...
4. Vấn đề rải vụ chế biến.
Mía là cây thu hoạch theo mùa vụ, nếu thu hoạch đúng thời vụ, mía chín thì hiệu quả đem lại trong chế biến rất cao, nếu thu hoạch trước thì mía non, thu hoạch muộn thì chất lượng mía giảm. Trong khi đó công suất của nhà máy có hạn không thể thu hoạch chế biến hết lượng mía lớn trong một thời gian ngắn. Mặt khác cũng không thể xây dựng một nhà máy công suất lớn để sản xuất trong một thời gian ngắn, sau đó để cho máy nghỉ, làm như vậy quá tốn kém và chi kinh tế. Do đó vấn đề ở đây là phải tìm ra các biện pháp kỹ thuật canh tác, kỹ thuật giống, điều chỉnh thời vụ để rải vụ chế biến của nhà máy.
II. ĐA DẠNG HOÁ SẢN PHẨM, TẬN DỤNG PHỤ PHẨM ĐỂ NÂNG CAO GIÁ TRỊ CỦA CÂY MÍA, TỪ ĐÓ TĂNG THÊM THU NHẬP CHO NÔNG DÂN.
- Hiện đại hoá dây truyền sản xuất .
- Duy trì và phát triển hệ thống đảm bảo chất lượng ISO 9002 , đảm bảo kiểm soát quá trình sản xuất , kiểm soát các bên cung cấp.
- Đầu tư xây dựng Xí nghiệp sản xuất ván ép
- Sản xuất thức ăn gia súc từ mật rỉ, bã mía, ngọn mía.
- Sản xuất cồn rượu
- Sản xuất phân bón từ bùn mía. Phân Komic, Pitohoocmon và phân tổng hợp sinh học cho Mía, cây ăn quả.
III. TIỀN LƯƠNG TIỀN THƯỞNG
Đảm bảo tiền lương so với mặt bằng chung. Tiền lương của cán bộ công nhân viên chức mức bình quân đạt 1.700.000 đ/người.
Công ty đề ra biện pháp cải tiến nâng cao mức độ thỏa mãn của cán bộ công nhân viên, hoàn thiện môi trường làm việc, đảm bảo an toàn sức khỏe cho cán bộ công nhân viên như:
Hỗ trợ tài chính cho các cuộc nghỉ sau Vụ, đi thăm quan học tập của cán bộ công nhân viên.
Khuyến khích và đỡ đầu kinh phí phong trào văn nghệ thể thao của Công ty và trong vùng.
Hỗ trợ tài chính cho những người gặp ốm đau lâu ngày, tai nạn rủi ro, nghỉ hưu.
Tổ chức trạm y tế khám và điều trị cho cán bộ công nhân viên, kiểm tra sức khoẻ định kỳ cho cán bộ công nhân viên và nhân dân.
Hàng năm Công ty dành nguồn kinh phí phù hợp cho các gia đình cán bộ công nhân viên vay làm nhà, mua sắm phương tiện vận tải... và trả dần bằng thu nhập.
Số tiền thưởng cán bộ công nhân viên có sáng kiến trong 11 năm là: 701.650.000 đồng.
Các sáng kiến cải tiến kỹ thuật hợp lý hóa sản xuất trong 11 năm là 40.747.000 đồng.
IV. ĐÀO TẠO BỒI DƯỠNG CÁN BỘ
Công ty ký kết hợp đồng với các trường dạy nghề trung cấp tỉnh Thanh Hóa và của Bộ để đào tạo công nhân mới tuyển dụng, công nhân chưa có tay nghề kỹ thuật.
Hợp đồng với các trường quản lý chính trị để nâng cao và phổ cập lý luận trung cấp cho cán bộ Đảng viên.
Hợp đồng với các trường đại học Bách Khoa nghiên cứu nâng cao hiệu suất và chất lượng sản xuất cồn, CO2 và bảo trì thiết bị tự động hóa... ngoài ra còn nhiều hợp đồng khác.
Hàng năm định kỳ vào Vụ ép công ty tổ chức cho toàn bộ công nhân kỹ thuật học lại quy trình công nghệ tại công ty để kiểm tra trước khi vào vụ.
Đến nay công ty tổ chức cho đi đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ chuyên ngành thực phẩm , tự động hóa được 1 tiến sĩ nôngnghiệp, 4 thạc sĩ nông nghiệp đang theo học, 2 thạc sĩ công nghệ thực phẩm. Hàng năm công ty đưa được trung bình 40 – 60 cán bộ đi học các lớp quản lý kinh doanh, năng suất chất lượng, quản lý mạng vi tính, quản lý dự án tại trung tâm đào tạo Tổng cục đo lường chất lượng, trường quản lý nông nghiệp của Bộ nông nghiệp, đại học Bách Khoa, đại học KTQD.
V. TĂNG CƯỜNG HƠN NỮA MỐI QUAN HỆ CÔNG NGHIỆP - NÔNG NGHIỆP - DỊCH VỤ.
Công ty đường Lam Sơn phải phát huy hơn nữa vai trò chủ đạo của mình, nắm các khâu then chốt nhất là vốn, công nghệ và thị trường tiêu thụ để hỗ trợ đầu tư giúp đỡ cho nông dân trong vùng các điều kiện cần và đủ để chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ sản xuất tự cung, tự cấp sang sản xuất hàng hoá có hiệu quả hơn. Đối với người sản xuất phải hiểu được những gì phải làm, phải học tập nghiên cứu áp dụng những tiến bộ kỹ thuật gì và sử dụng vốn đầu tư như thế nào để đáp ứng nhu cầu của thị trường để đạt mức lợi nhuận cao hơn.
VI. NÂNG CAO CÔNG SUẤT CỦA NHÀ MÁY ĐƯỜNG, TĂNG HIỆU QUẢ KINH TẾ TỪNG BƯỚC TĂNG GIÁ MÍA CHO NÔNG DÂN.
Đối với ngành sản xuất chế biến đường nếu có đủ nguyên liệu, công suất nhà máy lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao. Theo đánh giá ở phần trên thì vùng nguyên liệu hiện nay đang trong tình trạng dư thừa cho công suất hiện tại của nhà máy, mặt khác trồng mía có lợi hơn so với cây màu khác trong vùng nên nhu cầu mở rộng diện tích hiện nay đang có xu hướng tăng. Do đó việc nâng cao công suất chế biến của nhà máy là cần thiết, nông dân phấn khởi yên tâm trồng mía vì có thị trường tiêu thụ ổn định.
VII. CÙNG VỚI VIỆC MỞ RỘNG CÔNG SUẤT NHÀ MÁY PHẢI HIỆN ĐẠI HOÁ CÔNG NGHIỆP CHẾ BIẾN ĐỂ TĂNG THÊM TỔNG THU HỒI, ĐỂ TRÍCH PHẦN LỢI NHUẬN THU ĐƯỢC TĂNG THÊM VÀO GIÁ MÍA, ĐẦU TƯ CHO VÙNG NGUYÊN LIỆU.
VIII. MỞ RỘNG VÙNG NGUYÊN LIỆU ĐỂ ĐÁP ỨNG CÔNG SUẤT NHÀ MÁY 6.500 TẤN MÍA/NGÀY.
Như đã phân tích các phần trên nguyên liệu là vấn đề quyết định cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, do vậy muốn có nguyên liệu điều trước tiên là phải có diện tích để trồng mía.
Căn cứ vào mục tiêu đề ra từ nay đến năm 2000 diện tích định hình 15.000ha sản lượng 1.000.000 tấn mía, chúng ta có thể xây dựng tiến độ phát triển như sau:
- 1998 diện tích 7.000ha, sản lượng 500.000 tấn.
- 1999 diện tích 9.000ha, sản lượng 700.000 tấn
- 2000 diện tích 12.000ha, sản lượng 900.000 tấn
- 2001 diện tích 15.000ha, sản lượng 1.000.000 tấn
Muốn thực hiện được tiến độ mở rộng diện tích thì phải thực hiện tốt một số phương châm sau:
- Ưu tiên số 1 cho các vùng gần nhà máy cự ly dưới 25km. Đây là vùng có hiệu quả kinh tế cao nhất, cần phải có chính sách khuyến khích thích hợp và tập trung chỉ đạo để khai thác triệt để các loại đất để chuyển sang trồng mía, các loại đất có khả năng cải tạo sẽ tiến hành đầu tư cải tạo, tiếp tục thực hiện chính sách đầu tư cơ sở vật chất, kỹ thuật để thâm canh cao nhằm không ngừng nâng cao năng suất và chất lượng mía ở khu vực này.
- Tận dụng những vùng đất có đường giao thông tốt và sẵn có.
Những nơi có đường giao thông tốt có thể mở rộng cự ly đến 50km, với công suất 6.500 tấn/ngày. Với địa hình chia cắt, có nhiều đồi núi bắt buộc chúng ta phải mở rộng cự ly vùng nguyên liệu, nếu vừa chi phí vận chuyển xa vừa phải chi phí làm đường giao thông thì giá thành không chịu nổi. Do đó các xã muốn mở rộng diện tích trồng mía thì giao thông phải hết sức thuận lợi.
- Phương châm là nơi dễ, nơi gần, làm trước, làm đến đâu phải thâm canh, rải vụ bảo đảm cơ cấu giống hợp lý, chỉ có thâm canh mới mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân thì cây mía mới đứng vững được.
IX. XÂY DỰNG CƠ SỞ VẬT CHẤTT PHỤC VỤ CHO KẾ HOẠCH, PHÁT TRIỂN VÙNG NGUYÊN LIỆU.
a) Máy móc làm đất khai hoang phục hoá: Trong 3 năm từ nay đến năm 2000 chúng ta phải mở rộng thêm khoảng 8.000ha mía đứng. Như vậy đòi hỏi một số lượng máy kéo và máy nông nghiệp phải tăng thêm nhiều hơn. Ngoài việc làm đất thông thường như các năm vừa qua còn phải tiến hành khai hoang phục hoá cho một số vùng mới.
b) Đầu tư thêm phương tiện vận chuyển mía và ngọn giống và phân bón.
c) Đường xá giao thông.
Đi đôi với việc mở rộng diện tích mía là việc mở rộng hệ thống giao thông tương ứng để vận chuyển giống và mía.
Đây là một công việc rất lớn và rất quan trọng đòi hỏi nhiều công sức và tiền của cần phải có quy hoạch khảo sát, thiết kế và lập dự toán một cách cụ thể và chi tiết hơn.
X. Thành lập tập đoàn sản xuất để liên kết các thành viên.
- Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn
- Ngân hàng cổ phần
- Xí nghiệp phân bón
- Xí nghiệp thức ăn gia súc
- Xí nghiệp bánh kẹo
- Xí nghiệp ván ép
- Xí nghiệp cồn rượu - bia nước giải khát
- Xí nghiệp hoá chất
Thành một tập đoàn kinh tế mạnh, thể hiện mối quan hệ công nghiệp - nông nghiệp - dịch vụ. Trên các khía cạnh khác nhau, tạo nên sự thống nhất về tổ chức quản lý, toàn bộ quá trình sản xuất, chế biến và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn lãnh thổ, tạo ra thế chủ động trong quá trình sản xuất kinh doanh và có đủ sức mạnh trên thị trường cạnh tranh.
C - Ý KIẾN ĐỀ XUẤT.
Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn là một vùng kinh tế lớn, mang lại hiệu quả kinh tế cao, trong những năm qua đã làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội của một vùng trung du đồi núi.
Ngày nay nó đang từng bước hoà nhập và xác định thế đứng của mình trong nền kinh tế thị trường có nhiều biến động. Do vậy, gặp phải không ít khó khăn như tiêu thụ sản phẩm, nguồn vốn cho sản xuất - kinh doanh.v.v.... để tạo điều kiện cho vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn phát triển và khai thác hết tiềm năng sẵn có trong vùng, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn, chúng tôi có một số kiến nghị.
1- Để thống nhất một đầu mối quản lý đầu tư và phát triển sản xuất kinh doanh ngành đường trong cả nước, đảm bảo cân đối nhu cầu tiêu dùng và xuất nhập khẩu đường. Đề nghị Nhà nước và Bộ sáp nhập hai tổng Công ty mía đường thành một Tổng Công ty mía đường Việt Nam.
2- Thanh Hoá là một trong những trọng điểm về mía đường ở phía Bắc. Đề nghị Nhà nước xem xét đầu tư xây dựng một viện nghiên cứu mía đường phía Bắc để nghiên cứu các lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp chế biến đường, công nghệ chế biến các sản phẩm sau đường.... đồng thời là nơi đào tạo cán bộ khoa học kỹ thuật công nghệ ngành để từng bước thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành mía đường.
3- Khả năng sản xuất đường trong nước của ta rất lớn chất lượng đường không thua kém đường ngoại, khả năng đáp ứng nhu cầu đường trong nước. Để tạo điều kiện cho các nhà máy đường sản xuất kinh doanh ổn định và bảo hộ cho sự phát triển nông nghiệp nông thôn. Đề nghị Nhà nước kiểm soát chặt chẽ hạn ngạch nhập khẩu đường hàng năm, đồng thời việc xuất nhập khẩu đường nên giao cho Tổng Công ty đường Việt Nam cân đối.
4- Vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn là vùng Trung du, đồi núi hệ thống giao thông phục vụ cho vận chuyển và đi lại của nhân dân rất khó khăn. Đề nghị với Nhà nước đầu tư xây dựng các tuyến giao thông quốc lộ, tỉnh lộ, các tuyến liên huyện, các tuyến giao thông nội bộ vùng mía. Đề nghị Bộ Tài chính cho phép trích 5% giá mía đưa vào giá thành sản xuất để đầu tư tu sửa đường giao thông.
5- Các chi hội phải được củng cố lại, nên kết nạp thêm hội viên ở các xã để đủ điều kiện mỗi xã thành lập được một chi hội cho tiện việc điều hành, giao dịch, hội họp, trao đổi giúp đỡ nhau.
6- Tuỳ theo số hộ, số diện tích trồng mía từng xã để quyết định thành lập hợp tác xã hoặc tổ hợp trồng mía.
Nếu vậy, mỗi xã chỉ nên thành lập một hợp tác xã có tư cách pháp nhân là người chủ hợp đồng có đủ năng lực, có đủ tư cách pháp nhân, có uy tín để điều hành công việc.
7- Trong vùng kinh tế của Thọ Xuân và vùng dân tộc, kinh tế của nhân dân còn rất thấp, trong sản xuất người nông dân rát cần vốn, do đó đề nghị Công ty cần giúp đỡ cho nông dân vay vốn nhiều hơn nữa, bằng cả hai hình thức: vay vật tư và vay thêm tiền mặt.
- Nên thành lập Xí nghiệp phân bón có công suất, công nghệ cao hơn nữa, vừa đáp ứng nhu cầu phân bón cho cây mía, vừa có số lượng bán ra ngoài cho nông dân phục vụ các cây trồng khác.
- Khi Nhà nước đã có chủ trương đóng cửa rừng, thì Công ty nên nhanh chóng mở Nhà máy ván ép bằng bã mía phục vụ nhân dân.
- Mở Xí nghiệp thức ăn gia súc, gia cầm vừa để tiêu thụ sản phẩm cho dân, đồng thời phục vụ trở lại thức ăn gia súc, gia cầm đã chế biến để nhân dân chuyển sang sang chăn nuôi công nghiệp.
8- Nguyên liệu là vấn đề quan trọng bậc nhất, có ý nghĩa sống còn của các nhà máy. Hiện nay Nhà nước đang có chủ trương xây dựng một loạt các nhà máy đường, do đó trước khi xây dựng nhà máy phải quan tâm đến việc xây dựng vùng nguyên liệu.
KẾT LUẬN
Xây dựng và phát triển vùng nguyên liệu là một nội dung quan trọng có tính quyết định đến sự tồn tại và phát triển của một nhà máy chế biến nông sản thực phẩm nói chung và đối với nhà máy chế biến đường nói riêng.
Từ năm 1990 đến nay trong qúa trình sản xuất kinh doanh Công ty đường Lam Sơn đã đạt được nhiều kết quả. Vùng nguyên liệu ngày càng được mở rộng hiện nay đã và đang trở thành một vùng sản xuất mía đường lớn của cả nước, đó là những thành quả bước đầu rất quý báu.
Trong giai đoạn phát triển từ nay đến năm 2010, vùng nguyên liệu mía đường Lam Sơn sẽ được quy hoạch mở rộng lên 15.000ha, để hàng năm cung cấp cho nhà máy từ 900 - 1 triệu tấn mía, chắc chắn sẽ không ít gặp phải khó khăn thử thác. Xong với những kinh nghiệm sẵn có cùng với sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Đảng, Nhà nước; của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn, UBND tỉnh Thanh Hoá của các cấp các ngành từ Trung ương đến tỉnh huyện xã và bà con trồng mía trong vùng nhất định những giải pháp trên sẽ được thực hiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển đời sống kinh tế - xã hội của cả một vùng nông thôn rộng lớn trên địa bàn tỉnh, từng bước góp phần thực hiện mục tiêu dân giầu nước mạn - xã hội công bằng và văn minh.
Trong quá trình thực hiện đề tài thực tập tốt nghiệp, chúng tôi đã được sự quan tâm giúp đỡ của thầy Nguyễn Văn Duệ - Phó Tiến sĩ - giáo viên trường Kinh tế quốc dân cũng như sự giúp đỡ của các thầy, cô giáo trong trường cùng các bạn và sự chỉ đạo của Ban chấp hành Đảng uỷ - Ban Giám đốc Công ty Cổ phần mía đường Lam Sơn. Chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn về sự giúp đỡ quý báu đó và mong muốn được sự ủng hộ để đề tài được thực thi có hiệu quả.
******** biểu 1*************** 44
Biểu 2
DIỆN TÍCH - NĂNG SUẤT - SẢN LƯỢNG MÍA - SẢN LƯỢNG ĐƯỜNG
Vụ
Diện tích mía (ha)
Năng suất (tấn/ha)
Sản lượng mía (tấn)
Sản lượng đường (tấn)
1986 - 1987
430
22,1
9.636
362
1987 - 1988
1.260
18,1
23.686
1.400
1988 - 1989
1.520
23,7
36.000
2.500
1989 - 1990
960
260
25.000
1.900
1990 - 1991
1.360
37,5
51.000
4.120
1991 - 1992
2.560
38,3
93.000
9.252
1992 - 1993
3.060
43,5
133.300
13.260
1993 - 1994
3.188
50,1
147.000
14.500
1994 - 1995
3.700
53,1
195.000
17.800
1995 - 1996
5.500
57,6
316.800
31.000
1996 - 1997
6.420
60
365.000
36.500
1997-1998
7.440
53,44
397.635
43.700
1998-1999
9.376
93,90
505.377
55.600
1999-2000
16.440
59,06
970.944
110.100
2000-2001
15.170
54,30
850.000
97.500
*********biểu 3**********
*********biểu 4**********
Biểu 5
GIÁ TRỊ THU NHẬP CỦA CÁC CÂY KHÁC NHAU TRÊN 1HA ĐẤT TRONG NĂM
Cây
Sản lượng
(Tấn)
Đơn giá
(đ/tấn)
Thành tiền
(đồng)
Mía60
60
240.000
14.400.000
Vụ lạc
2,5
4.000.000
12.000.000
Sắn khô
6
140.000
8.400.000
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Văn kiện đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ III, IV, V, VI, VII, VIII.
2. Văn kiện đại hội Đảng bộ tỉnh Thanh Hoá lần thứ VIII, NXB Thanh Hoá 1994
3. Giáo trình Kinh tế chính trị, Khoa kinh tế chính trị Kinh tế quốc dân.
4. Giáo trình Quảnlý kinh tế, Khoa Quản lý kinh tế Kinh tế quốc dân.
5. Giáo trình Kinh tế phát triển, Khoa kinh tế phát triển Kinh tế quốc dân.
6. Các tạp chí Cộng sản trong năm 1996, 1997.
7. Tạp chí Giáo dục lý luận Phân viện Hà Nội năm 1996, 1997.
8. Báo cáo Tổng kết tình hình sản xuất kinh doanh 5 năm 1995 - 2000 của Công ty đường Lam Sơn.
9. Báo cáo Tổng kết hoạt động của hiệp hội mía đường Lam Sơn, từ 10/1992 - 12/1995.
10. Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng bộ Công ty đường Lam Sơn lần thứ 6.
11. Dự án phát triển mở rộng vùng sản xuất mía đường Lam Sơn năm 1996.
12. Báo cáo quá trình hoạt động của Đảng bộ Công ty đường Lam Sơn 1981 - 1997.
13. Báo cáo tổng kết mô hình hiệp hội mía đường Lam Sơn trình Thủ tướng Chính phủ tháng 4/1999.
14. Thời báo kinh tế - Báo diễn đàn doanh nghiệp trong năm 1995, 1996, 1997.
15. Giải thưởng chất lượng quốc tế Châu Á - Thái Bình Dương 2000.
16. Hiệp hội mía đường Lam Sơn - "Mô hình hợp tác kinh tế mới" 2000.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- tm038_6681.doc