Đề tài Một số giải pháp đầu tư cho quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn

Qua nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, một lần nữa khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của nông nghiệp nông thôn đối với Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là xu hướng tất yếu trong phát triển nông thôn của tất cả các nước trên thế giới và cũng là đòi hỏi cấp bách đối với kinh tế nông nghiệp nước ta bởi những yêu cầu khách quan, những thách đố và khó khăn trong khu vực này. Vì vậy để tiếp tục thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước, của các tổ chức, các thành phần kinh tế., khai thác và sử dụng có hiệu quả khắc phục những vấn đề vưỡng mắc còn tồn tại thì đòi hỏi không ngừng hoàn thiện những chính sách hỗ trợ, luật đầu tư nước ngoài. Đây có thể coi là những biện pháp thiết thực nhất.

doc32 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đầu tư cho quá trình Công nghiệp hóa - Hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phát triển. Đó là con đường tất yếu mà mọi quốc gia không thể bỏ qua để đạt được thành quả phát triển kinh tế xã hội và thoát khỏi nguy cơ tụt hậu. Kinh nghiệm thế giới đã chỉ ra rằng, nếu không phát triển nông thôn thì không một nước nào có thể phát triển ổn định, bền vững với tốc độ cao một cách lâu dài được. Việt Nam với một xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp, 80% dân số và 76.9% lực lượng lao động sống ở nông thôn thì việc thực hiện công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn là một tất yếu trong quá trình CNH - HĐH ở nước ta nhằm: Thúc đẩy quá trình phân công lao động ở nông thôn, từ đó nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho dân cư ở nông thôn, tăng khả năng tích luỹ từ nội bộ nông thôn, nâng cao khả năng đầu tư và tiếp nhận đầu tư vào khu vực nông thôn. Điều này ở chỗ thu nhập giữa các hộ thuần nông và các hộ ngành nghề ở nông thôn nước ta đang có sự chênh lệch ngày càng lớn. Một thực tế là sau khi đưa vào chế biến công nghiệp, giá trị của các sản phẩm nông nghiệp sẽ cao hơn rất nhiều. Mở rộng thị trường, tạo cơ sở phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp và các nghành kinh tế khác ở nông thôn cũng như trên cả nước. Điều này có ý nghĩa đặc biệt quan trọng khi các doanh nghiệp nước ta đang gặp phải sự canh tranh rất gay gắt trên thị trường quốc tế, trong khi đó thị trường trong nước, thị trường nông thôn có tiềm năng lớn nhưng chưa được khai thác tốt. Giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội ở nông thôn, đặc biệt là vấn đề việc làm, khai thác các nguồn lực ở mỗi địa phương, giữa các dân tộc, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Hiện nay nước ta có khoảng 5 triệu người đang cần có việc làm. Riêng ở nông thôn ngoài số lao động thiếu việc làm thường xuyên còn phải giải quyết việc làm tạm thời cho người lao động lúc nông nhàn. Khắc phục tình trạng này là một nhiệm vụ đặt ra cho công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn. ở đây cần khắc phục quan điểm cổ điển xem việc đưa máy móc thiết bị tiến hành công nghiệp hoá nông thôn là làm giảm bớt số lao động ở nông thôn. Bởi lẽ nó sẽ làm giảm số lao động trực tiếp thực hiện công việc trước đây phải làm thủ công song lại tạo ra nhiều chỗ làm việc mới cho các hoạt động khác. Thực hiện đô thị hoá ở nông thôn, giảm bớt sức ép của dòng dân cư từ nông thôn chuyển vào đô thị, tạo điều kiện để các đô thị có thể phát triển thuận lợi. Tuy nhiên, để thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn trước tiên cần hiểu rõ và đúng đắn về nội dung của từng khái niêm đó. 2. Nội dung của CNH -HĐH nông nghiệp - nông thôn Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn bao gồm nhiều nội dung khác nhau nhưng với điều kiện cụ thể ở nước ta thì CNH -HĐH nông nghiệp nông thôn bao gồm 5 nội dung cơ bản sau: a. Phát triển toàn bộ cơ sở hạ tầng nông thôn Cơ sở hạ tầng nông thôn không chỉ bao gồm hệ thống điện, đường giao thông, trường học, trạm xá cần phải có hệ thống thông tin thuỷ lợi, hệ thống cung cấp nước sạch nông thôn và các cơ sở công nghệ và dịch vụ kinh tế xã hội khác cho nông thôn. Các bộ phận này của cơ sở hạ tầng nông thôn có quan hệ khăng khít và hỗ trợ lẫn nhau. Trong điều kiện kinh tế thị trường thông tin đóng vai trò quan trọng cho cả người bán và người mua, cả người sản xuất và người tiêu dùng. Vấn đề thông tin ở các vùng nông thôn hiện nay chưa được chú trọng và cũng là nguyên nhân làm cho thị trường nơi ấy không phát triển. Do không có thông tin hay thông tin không chính xác, người mua phải mua với giá đắt, người bán phải bán với giá rẻ. Vì vậy phải xây dựng được hệ thống cơ sở vật chất kỹ thuật cho mạng lưới thông tin về các vùng nông thôn, góp phần làm cho thị trường phát triển. b. Coi trọng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học vào nông nghiệp. Trước hết là các giống cây, giống con phù hợp với lợi thế so sánh của mỗi địa phương, đảm bảo đáp ứng yêu cầu cơ bản của nhân dân địa phương, nầng cao tỷ suất hàng hoá của dân. Cần áp dụng công nghệ thích hợp vào các khâu từ sản xuất đến chế biến để nâng cao năng suất và phẩm chất sản phẩm. c. Từng bước thực hiện cơ khí hoá, hoá học hoá, hiện đại hoá ở các khâu thích hợp của quá trình sản xuất trong nông thôn. Thực hiện áp dụng có hiệu quả các thành tựu để cơ khí hoá nông nghiệp và nông thôn. Quá trình cơ khí hoá nông nghiệp và nông thôn ở nước ta có những nét khác so với các nước khác. Trong khi các nước khác như Nhật Bản, Hàn Quốc thực hiện cơ khí hoá nhằm giải phóng lao động từ nông nghiệp để cung cấp cho công nghiệp và các ngành kinh tế khác ( Anis và Iyaratul, 1993) thì ở nước ta quan điểm cơ khí hoá lại là phải tạo thêm được việc làm cho cư dân nông thôn. Thông thường, cơ khí hoá được hiểu là đưa tiến bộ về cơ khí vào nông nghiệp và nông thôn để giải phóng lao động. Thế nhưng ở đất nước đất chật người đông như nước ta đặc biệt là ở vùng Đồng bằng sông Hồng và Duyên hải miền Trung thì cơ khí hoá theo quan điểm trên sẽ không phù hợp vì sẽ tạo thêm tình trạng thất nghiệp cho lao động nông thôn. Thí dụ, bình quân 1 ha canh tác ở Đồng bằng sông Hồng cần 300 công lao động cho làm lúa. Nếu cơ giới hoá sẽ chỉ cần đến 50 lao động trên 1 ha. Như vậy giải phóng ra 250 lao động nữa. Vấn đề là sẽ dùng những lao động rút bớt ra vào lĩnh vực kinh tế gì? Vì vậy, tuy chiến lược cơ khí hoá khác nhau giữa các vùng, nhưng quan điểm này cần quán triệt đặc biệt ở các vùng đông dân cư nhất là ở Đồng bằng sông Hồng, Khu bốn cũ, Duyên hải miền Trung. Việc cơ khí hoá vừa tập trung vào các khâu làm đất, chăm sóc thu hoạch, vừa góp phần tạo ra nhiều ngành nghề mới. Hoá học hoá cần tập trung tạo ra năng suất và chất lượng nông - lâm - thuỷ sản, góp phần bảo vệ và bồi dưỡng tài nguyên đất, tài nguyên rừng, tài nguyên nước và các tài nguyên sinh học quí hiếm khác. tập trung các khâu làm đất, chăm sóc, thu hoạch góp phần tạo ra nhiều ngành nghề. Hoá học hoá cần tập trung tạo ra năng suất và chất lượng nông lâm thuỷ sản góp phần bảo vệ và bồi dưỡng tài nguyên đất, tài nguyên rừng và các tài nguyên sinh học quý hiếm. d. Xây dựng và hoàn thiện cơ cấu kinh tế nông thôn, chuyển biến từ nền kinh tế lạc hậu độc canh lúa năng suất thấp sang nền kinh tế đa dạng hoá, sản xuất hàng hoá năng suất cao. Nền kinh tế đa dạng hoá ở nông thôn phải bao gồm cả công nghiệp, nông nghiệp nông thôn và dịch vụ. Nông nghiệp phải phát triển bền vững, đảm bảo an ninh quốc gia vùng và từng bộ phận về lương thực thực phẩm. Công nghiệp phải tập trung vào khâu chế biến lâm sản, tận dụng nguyên liệu trong nước, tạo việc làm và tăng giá trị tăng thêm trong lĩnh vực nông thôn. e. Xây dựng các trọng điểm kinh tế ở từng vùng bằng cách đầu tư xây dựng các cơ sở công nghiệp ở các vùng nông thôn như: Các nhà máy đường, nhà máy xi măng, các nhà máy dệt, sản xuất ôtô, xe gắn máy, các nhà máy hoá chất … Các trung tâm công nghiệp này sẽ đóng vai trò là vệ tinh cho sự phát triển của các vùng nông thôn, thu hút lao động và thực hiện công nghiệp hoá các vùng nông thôn. Các nội dung trên có quan hệ chặt chẽ với nhau và làm nền tảng cho nhau, thúc đẩy quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn phát triển. Vì vậy, xem xét tác động của quá trình CNH -HĐH cần phải tính đến tác động cuả các nội dung trên đối với tất cả các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Phần II: Thực trạng đầu tư cho CNH - HĐH Nông nghiệp nông thôn I. Thực trạng về nguồn vốn đầu tư Có thể nói vốn đầu tư là điều kiện tiên quyết có tầm quan trọng đặc biệt đối với quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Những thành tựu to lớn và quan trọng của nông nghiệp và nông thôn những năm qua một mặt do tác động tích cực của cơ chế và chính sách đổi mới của Đảng. Mặt khác có vai trò quyết định là nguồn vốn đầu tư giành cho nông nghiệp - nông thôn ngày càng tăng. Vốn đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn trong 10 năm qua đã có sự gia tăng đáng kể, đóng góp vào sự tăng trưởng của ngành nông nghiệp. Từ năm 1991 đến năm 2000 vốn đầu tư cho nông nghiệp nông thôn ước đạt 65.2 nghìn tỷ đồng (Mặt bằng giá năm 1995) tương đương 5.9 tỷ USD, chiếm khoảng 10.4% tổng vốn đầu tư XH. Trong đó 5 năm 1991-1995 chiếm 8.5% và 5 năm 1996-2000 chiếm 11.4% với tốc độ tăng vốn đầu tư trong 5 năm 1996-2000 lên tới 21.8%. Chúng ta có thể đi vào xem xét cụ thể từng nguồn vốn sau: 1. Nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước Trong nhiều năm qua đầu tư tập trung của ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp nông thôn luôn được quan tâm: tỷ trọng đầu tư cho khu vực nàu bắt đầu gia tăng đáng kể từ năm 1992 với số vốn hàng năm gần 2000 tỷ đồng. Nếu năm1996 đầu tư từ ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp và nông thôn chiếm 10% tổng vốn đầu tư từ ngân sách thì năm1997 là 11.3% và năm 1998 là 15.3%. Nguồn vốn này giành chủ yếu cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là thuỷ lợi, giao thông, điện và cung cấp nước sạch nông thôn. Đây cũng là lĩnh vực cần nhiều vốn mà các thành phần kinh tế chưa đủ khả năng đảm nhiệm hoặc chưa muốn đảm nhiệm. Phải có cơ sở hạ tầng nông thôn luôn vững mạnh thì mới có khả năng thu hút thêm nhiều nguồn vốn đầu tư từ các khu vực, các nước và các tổ chức quốc tế để phục vụ cho sự phát triển. Chính bởi lẽ đó mà từ trước tới nay Nhà nước luôn tập trung vốn đầu tư cho lĩnh vực này. Xem xét vốn đầu tư cơ bản từ ngân sách Nhà nước dành cho nông nghiệp nông thôn: Nếu năm 1990 nguồn vốn này là 402 tỷ đồng (chiếm 17.34% tổng vốn đầu tư toàn xã hội từ ngân sách Nhà nước) thì các năm 1996 đạt 2882.4 tỷ đồng (bằng 10%) và đến năm 1998 số vốn này chiếm 15.3% tổng vốn đầu tư cho toàn xã hội từ ngân sách Nhà nước. Lượng vốn này chủ yếu được dành cho việc xây dựng và nâng cấp các công trình thuỷ lợi để tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng quan trọng nhất phục vụ tưới tiêu nước, phát triển sản xuất nông nghiệp. Trong số 2882.4 tỷ đồng vốn đầu tư xây dựng cơ bản năm 1996 có tới 1737 tỷ đồng dành cho thuỷ lợi (chiếm 60%),439 tỷ đồng dành cho trồng trọt trong đó đầu tư vào trại trạm phục vụ trồng trọt là 143.6 tỷ đồng, chăn nuôi là 213 tỷ đồng (chiếm 17.2%). Năm 1998 vốn đầu tư cho thuỷ lợi đã tăng lên đáng kể ở mức 2800 tỷ đồng, năm 1999 khoảng 4000 tỷ đồng, vào năm 2000 khoảng 3800 tỷ đồng. Xét cả giai đoạn 1991-2000, vốn đầu tư năm 2000 đã tăng gấp 2 lần năm 1997 và gấp hơn 6 lần năm 1991. Trong cơ cấu đầu tư hiện nay (từ ngân sách Nhà nước) đầu tư cho thuỷ lợi chiếm hơn 70% đầu tư cho toàn ngành. Xét trong cả giai đoạn 10 năm 1991-2000 tổng vốn đầu tư cho thuỷ lợi ước tính khoảng gần 20 000 tỷ đồng (khoảng 1.7 tỷ USD). Trong đó thời kỳ 1991-1995 đạt khoảng 5000 tỷ đồng (500 triệu USD) và thời kỳ 1996-2000 ước đạt khoảng 14 900 (1.2 tỷ USD) gấp 2.4 lần số vốn đầu tư thực hiện của thời kỳ 1991-1995. Nhà nước còn đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá nông thôn thông qua hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo và các chính sách hỗ trợ tài chính khác. Năm 1998 Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cho 6 triệu hộ nông dân vay khoangả 22 000 tỷ đồng để phát triển nông nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Tuy nhiên, đầu tư ngân sách cho nông nghiệp và nông thôn vẫn chưa khắc phục được tình trạng dàn trải theo vùng, hiệu quả thấp, thất thoát vốn lớn và đầu tư cho phát triển khoa học công nghệ nhỏ bé. Ngoài nguồn vốn ngân sách Nhà nước nói trên, sau Nghị quyết 10 nông nghiệp nông thôn còn thu hút được vốn đầu tư từ các nguồn khác: vốn đầu tư của dân cư, vốn đầu tư của các doanh nghiệp, vốn tín dụng, vốn đầu tư nước ngoài... 2. Vốn đầu tư của dân cư Vốn đầu tư của dân cư bao gồm vốn đầu tư của nông dân, vốn đầu tư của người dân thành thị và kiều bào nước ngoài. Trong 2 năm 1997-1998 ước tính sơ bộ lượng vốn đầu tư phát triển của dân cư nói chung cho nông nghiệp nông thôn đạt bình quân hàng năm trên 7500 tỷ đồng, năm 1999 đạt 8202 tỷ đồng, năm 2000 ước tính đạt 9439.8 tỷ đồng bằng 115% so với năm 1999. Theo số liệu của Tổng cục thống kê, tỷ lệ tích luỹ trên GDP của khu vực nông thôn nước ta ngày càng tăng: năm 1990 là 5.2% năm 1995 là 10.6%. Theo số liệu của Bộ kế hoạch và đầu tư thì tốc độ trang bị đầu tư máy móc của hộ nông dân tăng lên một cách nhanh chóng. Trong vòng 10 năm (1985 đến 1995) số lượng máy kéo nhỏ đã tăng lên gấp 3 lần, máy kéo lớn tăng 1.4 lần, động cơ điện tăng lên 1.6 lần động cơ xăng chạy điezen tăng 1.4 lần, máy phát điện cỡ nhỏ tăng 12.5 lần, máy bơm nước tăng 2.8 lần, máy tuốt lúa tăng 3.2 lần, máy nghiền thức ăn gia súc tăng 5 lần, ôtô và các loại xe vận tải tăng lên 6 lần. Trang trại với số vốn tự có của dân từ 30 đến 50 triệu đồng (cao nhất là gần 1 tỷ đồng 1 trang trại) đang rất phổ biến. Nhiều địa phương đã xây dựng mới và cải tạo tr bổ được nhiều công trình hạ tầng kinh tế xã hội ở nông thôn, góp phần đáng kể vào việc nâng cao đời sống kinh tế văn hoá xã hội ở nhiều làng xã. Theo thống kê sơ bộ tại 49 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, số vốn mà dân đóng góp cho xây dựng cơ sở hạ tầng của các làng xã đạt trên 5000 tỷ đồng, trong khi tổng vốn hỗ trợ từ các nguồn khác là 4400 tỷ đồng. Vốn đầu tư của dân không chỉ tăng về số lượng mà đã có sự chuyên môn hoá theo cơ cấu đầu tư hợp lý hơn: tập trung vào các vùng chuyên canh sản xuất hàng hoá lớn như lúa gạo ở đồng băng sông Cửu Long, đồng bằng sông Hồng, cà phê ở Tây nguyên, cao su, hạt điều ở Đông Nam Bộ, nuôi trồng thuỷ sản ở các vùng ven biển... Tuy nhiên do thu nhập của người nông dân nhìn chung còn thấp nên việc đầu tư bằng vốn tự có của họ chỉ chiếm tỷ lệ dưới 50% (giai đoạn 1990-1995) còn lại là vốn vay Ngân hàng nông nghiệp theo chỉ thị 202 của Chính phủ (tháng 6/1991). Những năm gần đây, giai đoạn 1996-2000 vốn đầu tư của dần đã có sự tập trung vào mở rộng sản xuất hàng hoá theo mô hình trang trại (trồng cà phê, cao su, hạt điều, vải, nhãn, nuôi trồng thuỷ sản...) chủ yếu tại các tỉnh miền núi phía Bắc, Tây nguyên, đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam Bộ. Ước tính mỗi năm mỗi hộ nông dân đầu tư bình quân 1 triệu đồng thì nguồn vốn này cũng đạt tới 13 000 tỷ đồng. Theo số liệu của Tổng cục thống kê tỷ lệ tích luỹ so với GDP của khu vực thành thị tăng từ 12.9% năm 1990 lên 28.7% năm 1995, lượng vốn nhàn rỗi trong dân thành thị ngày càng lớn. Việc thu hút lượng vốn này rất quan trọng cho việc phát triển khu vực nông nghiệp nông thôn. Cùng với nguồn vốn của dân thành thị trong thời gian qua với trên 2 triệu kiều bào ta ở nước ngoài đã gửi về một lường kiều hối rất lớn. Năm 1998 trở về trước khoảng 800 triệu / năm tương đương khoảng 100 000 tỷ đồng Việt Nam, năm 2000 lượng vốn này khoảng gần2 tỷ USD. Đây là một con số đáng kể, nó đã bổ sung một lượng vốn đầu tư quan trọng cho nguồn vốn của nhân dân để thực hiện quá trình công nghiệp hóa hiện đại hoá nông thôn đất nứơc nói chung và nông nghiệp nông thôn nói riêng. 3. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài Việc huy đồng các nguồn lực từ bên ngoài có ý nghĩa quan trong với việc thúc đẩy quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Đầu tư nước ngoài vào phát triển nông nghiệp và nông thôn có tác dụng tích cực tới việc khai thác lợi thế về tài nguyên sinh học đa dạng, về nhân lực, nâng cao trình độ khoa học công nghệ, mở rộng thị trường. Trong những năm qua, đầu tư nước ngoài (kể cả đầu tư trực tiếp và gián tiếp) tăng lên đáng kể, góp phần nhất định vào việc phát triển nông nghiệp và nông thôn, đặc biệt là sau khi có luật đầu tư nước ngoài (1988). Nếu như năm 1988 có 37 dự án với số vốn là 23.6 triệu USD thì năm 1996 đã có 326 dự án với số vốn đầu tư là 5548 triệu USD. Trong nguồn vốn đầu tư nước ngoài thì đầu tư trực tiếp đã trở thành một bộ phận quan trọng của hoạt động đầu tư toàn xã hội. Riêng trong giai đoạn 1987-1994, FDI vào lĩnh vực nông nghiệp đạt 784 triệu USD (chiếm 8.2% tổng vốn FDI của cả nền kinh tế trong giai đoạn), nhưng tỷ lệ vốn thực hiện còn ở mức rất thấp23.5% do sức hấp dẫn của các dự chưa cao. Tuy nhiên nhờ có chính sách khuyến khích của Nhà nước, dòng vốn này vẫn tiếp tục tăng qua các năm. Nếu năm 1989 cả nước mới chỉ có 5 dự án FDI với 2.8 triệu USD vào nông nghiệp và nông thôn thì đến năm 1998 đã có 225 dự án với số vốn đăng ký lên tới trên 2.4 tỷ USD ( gồm 910 triệu USD cho sản xuất nông nghiệp và khoảng 1.5 tỷ USD cho lĩnh vực chế biến lương thực, thực phẩm nông lâm hải sản) chiếm khoảng 7% tổng số vốn đăng ký cả nước, số vốn đã triển khai đạt 467 triệu USD. Đến tháng 9 năm 1998 thì FDI vào nông nghiệp nông thôn chỉ chiếm 10% về số dự án và 5% về số vốn. Các dự án FDI chủ yếu tập trung vào trồng và chế biến cao su, cà phê, chè, mía, đường, mì chính, gạo, chăn nuôi gia súc, gia cầm theo phương pháp công nghiệp, nuôi trồng, đánh bắt và chế biến nông lâm thuỷ sản nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm theo yêu cầu của thị trường quốc tế. Hiệu quả sử dụng vốn FDI cũng đáng khích lệ, năm 1997 doanh thu của các dự án này là 60 triệu USD lợi nhuận trên 30 triệuUSD, kim ngạch xuất khẩu đạt gần 300 triệu USD, giải quyết việc làm cho trên 20 ngàn lao động trực tiếp và hàng chục ngàn lao đông gián tiếp với mức lương bình quân là60 USD/tháng. Bước sang năm1998 cho đến năm 2000, tình hình thu hút FDI trong nông nghiệp nông thôn có phần "ảm đạm" hơn do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng khu vực Châu á. Theo số liệu tổng hợp của Bộ kế hoạch và đầu tư, vốn đầu tư nước ngoài đăng ký năm 2000 đạt khoảng 2.4 tỷ USD, trong khi lĩnh vực nông lâm ngư nghiệp chỉ có 36 dự án với tổng số vốn đăng ký là 55.4 triệu USD (chiếm khoảng 2.34% tổng vốn FDI đăng ký). Trong những ngay cuối của năm 2000, chúng ta đã cấp giấy phép cho dự án chế biến nông nghiệp với số vốn là150 triệu USD để gối đầu năm 2001 tạo đà tăng trưởng cho toàn ngành. Ngoài các dự án sử dụng vốn FDI, trong các năm qua nguồn vốn vay, viện trợ, hợp tác khoa học kỹ thuật của các quốc gia phát triển và các tổ chức quốc tế (UNDP, FAO, ADB, WB, IMF, UNICEF, OECF ... )trong lĩnh vực nông nghiệp và kinh tế nông thôn tiếp tục gia tăng góp phần đáng kể vào sự phát triển của nông nghiệp nông thôn. Đến nay, lĩnh vực nông nghiệp nông thôn đã thu hút trên 1.5 tỷ USD vốn cam kết hỗ trợ phát triển chính thức. Nguồn vốn này chủ yếu tập trung vào việc nâng cấp cơ sở hạ tầng nông thôn (nhất là miền núi), thuỷ lợi, nước sạch, vệ sinh môi trường, sức khoẻ cộng đồng, đặc biệt là sức khoẻ phụ nữ và trẻ em... Các dự án này đóng góp hàng trăm tỷ đồng mỗi năm, một đóng góp quan trọng để tăng nguồn vốn, nâng cấp cơ sở hạ tầng vật chất phục vụ nông nghiệp và nông thôn. Nhưng nhìn chung, đầu tư nước ngoài vào nông nghiệp và nông thôn còn rất hạn hẹp. So với các lĩnh vực đầu tư khác như công nghiệp nhẹ, dầu khí, du lịch và dịch vụ, thì nông nghiệp nông thôn là khu vực kém hấp dẫn hơn do độ rủi ro cao hơn, mức độ sinh lời thấp hơn. Bởi vậy để thu hút đầu tư nước ngoài cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn cần phải tạo ra môi trường đầu tư hấp dẫn, thích hợp với từng loại hình thức đầu tư. 4. Nguồn vốn tín dụng Rõ ràng vốn đầu tư từ các nguồn trên không thể đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư của xã hội cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, trên thực tế chỉ đáp ứng đước trên dưới 50%. Chính vì vậy mà vai trò của nguồn vốn tín dụng là không thể thiếu. Hiện nay có nhiều tổ chức tín dụng khác nhau cùng đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng cho nông nghiệp nông thôn. Hệ thống tín dụng phục vụ nông nghiệp nông thôn đã từng bước khôi phục và phát triển góp phần không nhỏ vào việc giải quyết nhu cầu vốn cho sản xuất của nông dân. Cụ thể là hệ thống các Ngân hàng Thương mại quốc doanh, một số Ngân hàng cổ phần, hệ thống các quĩ tín dụng nhân dân, Ngân hàng người nghèo và các quĩ cho vay theo chương trình 120,327,773... các ngân hàng nước ngoài có số dư tín dụng khá cao nhưng số đầu tư vào khu vực nông nghiệp nông thôn không lớn lắm. Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn giữ vai trò chính, là chủ thể cung cấp tín dụng chủ yếu cho đầu tư vào nông nghiệp nông thôn: Năm 1991 dư nợ là2847 tỷ đồng đến năm 1995 con số này đã lên tới 16 000 tỷ đồng Việt Nam. Tính đến hết quí I năm 1998 nguồn vốn kinh doanh của hệ thống Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã lên tới 27 000 tỷ đồng. Cùng với các chính sách huy động, các cơ chế và chính sách cho vay cũng thường xuyên được cải tiến nên tổng mức dư nợ cũng tăng nhanh. Vào quí I năm 1998 tổng mức dư nợ đã lên đến 24 000 tỷ đồng. Tuy nhiên trong tổng số dư nợ tính đến hết quí I năm 1998 thì có khoảng gần 7000 tỷ đồng chiếm 28% là dư nợ trung và dài hạn. Đến tháng 8 năm 2000 dư nợ tín dụng cho khu vực nông thôn đã tăng 10 339 tỷ đồng. Trong thời gian tới việc khuyến khích đầu tư ngày càng được cởi mở, thông thoáng thì nhu cầu vay vốn để trong khu vực nông nghiệp nông thôn sẽ tăng lên. Điều đó cũng có nghĩa là nhu cầu vay vốn trung và dài hạn cũng sẽ tăng lên. Mức dư nợ tín dụng trung và dài hạn như hiện nay còn cách khá xa so với nhu cầu vay vốn. Vì vậy cần có những điều chỉnh cho phù hợp để tạo vốn tín dụng cung cấp đủ cho quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. II- Tình đầu tư cho công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 1. Đầu tư cho xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Phát triển cơ sở hạ tầng bao gồm hệ thống thuỷ lợi, điện, đường giao thông, trường học, trạm xá, bệnh viện. Nhìn chung trong những năm qua sự đầu tư vào nông nông thôn chủ yếu là tập trung cho sự phát triển nông nghiệp. Gần như 80% số vốn Chính phủ đầu tư để hiện đại hoá nền nông nghiệp là tập trung cho thuỷ lợi và một phần xây dựng hệ thốg điện trong nông thôn. Riêng năm 1996 Nhà nước đã đầu tư 1737 tỷ đồng để đầu tư cho thuỷ lợi đưa tổng số các công trình thuỷ lợi lên 20 644 công trình (lớn và nhỏ). Trong đó có 20 502 công trình thuỷ nông (6272 hồ chứa nước tưới, 5899 cống, 2363 trạm bơm điện, 671 trạm bơm dầu, 4842 công trình phụ thuộc, 162 trạm thuỷ điện vừa tưới nước vừa cung cấp điện. Các công trình này bảo đảm tưới gần 53% diện tích gieo trồng, tiêu trên 2 triệu ha, ngăn mặn 0.7 triệu ha, chống lũ cho 2 triệu ha. Tuy nhiên việc đầu tư cho thuỷ lợi còn có sự chênh lệch lớn giữa các vùng. Con số về diện tích được tưới chứng tỏ điều này. Mấy chục năm qua đầu tư cho thuỷ lợi được tập trung ở các tỉnh đồng bằng, tiện lợi cho phát triển sản xuất nông nghiệp, chủ yếu tập trung đầu tư các công trình thuỷ lợi quy mô lớn và vừa. Vấn đề đầu tư thuỷ lợi ở các vùng sâu vùng xa và phát triển thuỷ lợi nhỏ đang đặt ra những thách thức mới. Tình trạng khô hạn ở miền Trung, Tây nguyên, miền núi phía Bắc, tình trạng lũ lụt ở các tỉnh Nam bộ đòi hỏi phải định hướng lại đầu tư cho thuỷ lợi. Nội dung quan trọng khác của phát triển cơ sở hạ tầng là phát triển hệ thống điện nông thôn. Cho đến nay, cả nước có 60.4% số xã, 49.6% số thôn bản, và53.2% số hộ đã có điện dùng. Tuy nhiên tỷ lệ này có sự chênh lệch lớn giữa các vùng. Nguyên nhân chủ yếu lá do Chính phủ không đủ kinh phí đầu tư hoàn chỉnh hệ thống điện như ở thành thị. Việc xây dựng hệ thống điện phụ thuộc vào sự đóng góp của nông dân địa phương mà nông dân ở các vùng xa vùng sâu nghèo không đủ kinh phí đóng góp. Về hệ thống đường giao thông ở nông thôn cũng chưa được quan tâm đầu tư, chủ yếu là do dân tự làm. Hiện nay cả nước có 150 000 km đường bộ. Trong đó quốc lộ chiếm 8%, tỉnh lộ chiếm 11%, huyện lộ chiếm21% và đường xã chiếm 60%.Tuy chiếm 81% chiều dài trong hệ thống đường của cả nước nhưng cac tuyến đường từ huyện trở xuống chất lượng rất kém, phần lớn là đường đất tự nhiên và đường cấp phối. Cả nước có 271 xã chưa có đường ôtô tới trung tâm, trong đó 48% ở các tỉnh miền núi và trung du Bắc Bộ, 23% miền Trung, 24% ở Tây nguyên. Để có thể thực hiện thành công công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn thì vấn đề đầu tư xây dựng hệ thống đường giao thông nông thôn trở nên hết sức quan trọng. Hệ thống trường học cũng là một trong những nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá. Cho đến nay, 94.7% dân số Việt Nam biết chữ. Đó là kết quả của việc đẫu xây dựng cơ sỏ vất chất của các trường cùng với việc phát triển lực lượng giáo viên. Cả nước bình quân có 2.53 trường phổ thông cho một vạn dân. Các vùng như Đồng bằng sông Hồng, Khu bốn cũ, Đông Nam Bộ có số trường học tương đối nhiều gần 2.8 trường trên 1 vạn dân. Tuy nhiên số trường học cho 1 vạn dân ở Đồng bằng sông Cửu Long là 1.28, Tây nguyên là1.84, ở miền núi phía Bắc là 1.7. Chứng tỏ việc đầu tư xây dựng trương học ở các vùng này còn quá ít và manh mún. Nhiều tỉnh ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa do qúa nghèo, chất lượng cơ sở vật chất kỹ thuật của trường không đảm bảo điều kiện tối thiểu cho việc dạy và học. Cùng với hệ thống đường, điện và trường học, hệ thống bệnh viện, trạm y tế để chăm sóc sức khoẻ cho nhân dân đã được quan tâm đầu tư xây dựng. Việc xây dựng các trạm y tế ở các thôn xã là điều kiện quan trọng để nhân dân tiếp cận các dịch rụ khám bệnh. Tuy nhiên mức độ đầu tư xây dựng các giương bệnh rất chênh lệch giữa các vùng. Số giường bệnh cho một vạn dân ở Duyên Hải miền Trung là12.1, ĐBSCL là12.7, miền núi phía Bắc là13.9 thấp hơn rất nhiều so với bình quân của cả nước là 23. Sự khác nhau về hệ thống điện, đường và chiến lược đầu tư là nguyên nhân cơ bản của sự khác nhau về hệ thống chăm sóc sức khoẻ cho dân ở các vùng nông thôn. 2. Đầu tư cho nghiên cứu và áp dụng tiến bộ kỹ thuật và công nghệ sinh học vào nông nghiệp và nông thôn Cùng với việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, nông nghiệp và nông thôn còn được công nghiệp hoá hiện đại hoá thông qua việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật, công nghệ sinh học vào nông nghiệp. Trước hết là giống cây, giông con cho phù hợp với mỗi địa phương. Năm 1999, chỉ riêng Ngân sách đầu tư cho chương trình con giống đã lên tới 28 tỷ đồng. Năm 2000 kinh phí cho nghiên cứu và xây dựng cơ sở giống tăng lên đến 70 tỷ đồng. Như theo kế hoạch của Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn đưa ra 22 dự án, với tổng số vốn đầu tư 320 tỷ đồng thì mức đầu tư trên còn thấp. Mục tiêu của chương trình giống nhằm đẩy mạnh nghiên cứu và sản xuất giống (cây lương thực, cây ăn quả, cây lâu năm, giống gia súc, gia cầm) trong nước vươn kịp trình độ các nước trong khu vực. Đồng thời chọn lựa để nhập giống có năng suất cao mà ta chưa sản xuất được, đảm bảo giống tốt cho nông dân trồng trọt và chăn nuôi đạt hiệu quả. Bộ khoa học công nghệ cho biết từ tháng 8/1998 đến tháng 5/2001 đã có 172 dự án thuộc chương trình 132 đã và đang được triển khai tại tất cả 6 tỉnh thành trong cả nước. Trong đó có 72 dự án ở các xã miền núi và hải đảo (gồm 49 dự án cho vùng đồng bào dân tộc và các xã thuộc diện nghèo và đặc biệt khó khăn, 23 dự án ở các xã vùng sâu vùng xa), 100 dự án ở các xã đồng bằng và trung du. Những dự án này được phân bổ theo các mục tiêu và nội dung cụ thể là: 88 dự án cải thiện các loại giống cây, con, nâng cao trình độ canh tác, tăng năng suất cây trồng vật nuôi, tăng sản lượng. Hiệu quả trên mỗi đơn vị canh tác góp phần xoá đói giảm nghèo. Việc đầu tư cho công nghệ sau thu hoạch và công nghệ chế biến nhằm đẩy mạnh hơn nữa nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá. Lĩnh vực chế biến nông sản thực phẩm thu hút được nhiều dự án đầu tư nước ngoài và có qui mô đầu tư lớn với 68 dự án đăng ký1,679 tỷ USD. Nhà máy bột ngọt VEDAN đầu tư 322 triệu USD là một trong những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả. Riêng lĩnh vực công nghiệp mía đường có 10 dự án tổng vốn đăng ký 487 triệu USD, hiện có 6 nhà máy đi vào hoạt động nhưng mới đạt 30% công suất thiết kế. Ngoài ra còn một số dự án chế biến gạo xuất khẩu, bột mỳ, cà phê. Trong lĩnh vực chế biến thức ăn gia súc có 32 dự án với số vốn đầu tư là 419 triệu USD. Nhưng cho đến nay mới có 16 dự án hoạt động. Trong đó 11 dự án đạt hiệu quả cao như Proconco công suất 650 000 tấn/năm, doanh thu hàng năm của công ty đạt khoảng 134 triệu USD . Công nghệ sinh học đã góp phần làm cho sản xuất nông nghiệp phù hợp hơn với môi trường, nhất là vùng nghèo tài nguyên. Đi liền với giống mới, chúng ta đã áp dụng công nghệ hoá học như phân khoáng, thuốc bảo vệ thực vật. Ơ Việt Nam 90% lượng phân đạm dùng vẫn phải nhập khẩu. Công nghiệp phân đạm trong nước chưa được chú ý đầu tư chiều sâu đúng mức nên chất lượng thấp, giá thành còn cao. Điều đó nói lên công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp chưa thực sự được đầu tư chiều sâu. 3. Đầu tư cho cơ giới hoá nông nghiệp và nông thôn Cơ giới hoá là khâu rất căn bản của quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn. Đến năm 1997 cả nước có hơn 115 000 máy kéo được sử dụng trong nông thôn với số vốn đầu tư tăng gấp 1.5 lần so với năm 1985. Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư thì tốc độ trang bị đầu tư máy móc trong nông nghiệp tăng lên một cách nhanh chóng. Ơ Tây nguyên nơi có nhiều cao su, chè, cà phê số máy nông nghiệp năm 1997 tăng 6.2 lần so với năm 1992. Số máy kéo dùng ở Đồng bằng sông Cửu Long năm 1997 tăng gấp 2 lần so với năm 1992. Thực hiện cơ khí hoá, hiện đại hoá ở các khâu thích hợp của quá trình sản xuất trong nông thôn như cày, bừa, bơm nước, vận chuyển... Bên cạnh các máy kéo nhỏ và vừa các máy công tác như bơm nước, nghiền thức ăn gia súc, tuốt lúa cũng tăng. Nhờ vậy phần lớn các công việc nặng nhọc đã được cơ giới hoá. Tỷ lệ làm đất bằng máy tăng từ 21% năm 1990 đến 27% năm 1997 và chủ yếu ở các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long. Vùng Đồng bằng sông Cửu Long do thiếu lao động hơn so với các vùng khác nên tốc độ cơ giới hoá cao hơn. Cơ giới hoá còn được hướng vào ở khâu vận chuyển. Đến năm 1997 cả nước có 22.000 ôtô các loại (không kể máy kéo và máy công nông) trong đó hơn 150.000 xe tải, gấp 2 lần so với năm 1990. Tuy nhiên cũng cần thấy rằng mức độ cơ giới hoá rất khác nhau giữa các vùng. Số máy kéo tăng nhiều ở Đồng bằng sông Cửu Long, Tây nguyên và Đông Nam Bộ. Điều này là do mối quan hệ giữa việc làm, giá tiền công lao động và thuê máy qui định. Có xu hướng là những vùng thiếu lao động có tốc độ cơ giới hoá cao hơn so với những vùng đất chật người đông. Một vấn đề đặt ra cho quá trình cơ giới hoá ở nước ta là ruộng đất qui mô nhỏ, manh mún, lao động nông thôn dư thừa nhiều. Trong khi đó hướng cơ giới hoáphần lớn ở các năm vừa qua là đầu tư mua sắm máy móc, công cụ có công suất lớn nhằm giải phóng sức lao động khỏi nông nghiệp. Quá trình cơ giới hoá cần phải góp phần tạo ra việc làm cho nông dân. 4. Đầu tư xây dựng các trọng điểm kinh tế Xây dựng các trọng điển kinh tế ở từng vùng bằng cách đầu tư xây dựng các trung tâm công nghiệp, thu hút lao động nông thôn và thực hiên công nghiệp hóa các vùng nông thôn. Theo các tác giả Quý Hào và Đức Long (1998) ở Việt Nam hiện có 57 khu công nghiệp được hình thành từ sau năm 1991. Các khu công nghiệp này đã thu hút được 5.5 tỷ USD vốn đăng ký, 10 vạn lao động và đóng góp 11% giá trị xuất khẩu của cả nước. Có hai loại khu công nghiệp được hình thành trên cơ sở đã có một số doanh nghiệp đang hoạt động trên đó hay di dời một số doanh nghiệp công nghiệp ra các vùng nông thôn. Những khu công nghiệp này thường có quy mô nhỏ, ở Đồng bằng sông Hồng, các tỉnh miền trung, đồng bằng sông Cửu long phục vụ chế biến nông sản. Hai là các khu công nghiệp mới thành lập phân bố khá rộng trên các vùng đất nước. Tuy nhiên sự phân bố của các khu công nghiệp này không đồng đều giữa các vùng, chỉ tập trung chủ yếu ở Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai vung đông nam bộ và Hà Nội thuộc đồng bằng sông Hồng. Trong khi đó các vùng Tây Nguyên, khu bỗn cũ, Miền núi và trung du bắc bộ hầu như không có khu công nghiệp nào. Tình trạng này tạo ra sự khác biệt trong tăng trưởng kinh tế và phát triển kinh tế giữa các vùng. III. Đánh giá chung về kết quả đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. 1. Những thành tựu đã đạt được: Có thể nói sau 10 năm đổi mới nông nghiệp và nông thôn đã đạt được những thành tựu vượt bậc, thể hiện trên một số mặt sau: Sản xuất nông nghiệp đã phát triển toàn diện, liên tục tăng trưởng cao (đạt tối thiểu bình quân 4.3%/năm). Năm 1997 so với năm 1987 sản lượng lương thực tăng 1.8 lần, bình quân mỗi năm tăng từ 1 - 1.2 triệu tấn, sản lượng cà phê tăng 20 lần, cao su tăng 3.5 lần. chè tăng 1.8 lần. Năm 1998 mặc dù bị hạn hán, lũ lụt nặng nề ở nhiều nơi nhưng sản lượng lương thực vẫn đạt 31.8 triệu tấn tăng 1.2 triệu tấn so với năm 1997. Cơ cấu giá trị sản lượng nông, lâm, thuỷ sản cả nước giai đoạn 1990-2000 Đơn vị: % 1990 1995 1998 2000 Nông nghiệp 83.7 80.2 81.1 74 Trồng trọt 77.1 81.6 81.4 70 Chăn nuôi 22.9 18.4 18.6 30 Lâm nghiệp 7.8 5.4 4.6 3.5 Thuỷ sản 8.5 14.4 14.3 22.5 - Cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng của công nghiệp và dịch vụ (Chiếm khoảng 30% GDP nông thôn), cây công nghiệp rau, quả (khoảng 18%). Xuất khẩu nông, lâm sản tăng 20%/năm, năm 1998 đạt 2.9 tỷ USD chiếm 31% tổng kim nghạch xuất khẩu của cả nước. Đã có một số mặt hàng có giá trị xuất khẩu lớn như: Gạo, cao su, cà phê, hạt điều … Cơ cấu kinh tế nông thôn (%) 1996 1997 1998 Nông nghiệp 71.0 70.8 70.3 Công nghiệp 14.7 15.5 15.9 Dịch vụ 13.8 13.7 13.8 - Cơ sở hạ tầng nông thôn được cải thiện nhất là về thuỷ lợi, tới nay đã có 84% diện tích gieo trồng lúa cả năm được tưới. Chương trình ngọt hoá đồng bằng sông cửu long, chương trình thuỷ lợi hoá ở miền trung và Tây nguyên đã tạo điều kiện quan trọng để khai hoang, tăng vụ mở rộng diện tích gieo trồng lúa (Thêm 1.2 triệu ha), cây công nghiệp và một số loại cây trồng khác. Tới nay trên toàn quốc đã có 93% xã có đường ôtô tới khu trung tâm, gần 70% xã có điện, 40% dân cư có nước sạch để sinh hoạt. - Đời sống dân cư được cải thiện rõ rệt, ước tính thu nhập bình quân đầu người tăng lên khoảng 1.5 lần. Điều kiện ăn, ở, đi lại, học tập và chữa bệnh được cải thiện rõ rệt. Cả nước có khoảng 1.5 triệu hộ nông dân đạt tiêu chuẩn hộ nông dân sản xuất kinh doanh giỏi và trên 11 vạn hộ phát triển kinh tế trang trại. 2. Hạn chế: Quá trình đầu tư cho CNH - HĐH nông thôn mặc dù đã đạt được những thành tựu vượt bậc tuy nhiên những khó khăn, tồn tại vẫn còn không ít, đó là: Chuyển dịch cơ cấu kinh tế chậm chạp ngành nghề kém phát triển. Kinh tế nông thôn vẫn nặng nông nghiệp (70%), trong nông nghiệp nghành nông nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng áp đảo (78%), ngành chăn nuôi mới chỉ chiếm trên 20%, nghành nghề công nghiệp chế biến và dịch vụ chuyển biến chậm chạp. Lao động ttong nông thôn mới chỉ sử dụng 73% quỹ thời gian, trong khi vẫn còn 10 triệu ha đất hoang hóa và gần 1.4 triệu ha mặt nước có thể nuôi trồng thuỷ sản nhưng chưa được khai thác sử dụng. Sản xuất phân tán, manh mún, trình độ công nghệ trong nhiều lĩnh vực nông, lâm nghiệp lạc hậu, công nghiệp chế biến kém phát triển, khả năng cạnh tranh của nông sản hàng hoá thấp, tiêu thụ sản phẩm là mối lo thường xuyên của đại bộ phận nông dân. Công nghiệp mới chỉ chế biến được khoảng 60% sản lượng chè, 40% sản lượng mía, 1% sản lượng thịt các loại … Cơ sở hạ tầng nông thôn thấp kém chậm đổi mới, không đáp ứng được yêu cầu của sản xuất hàng hoá phát triển quy mô lớn. Thuỷ lợi được đầu tư lớn nhưng hiệu suất sử dụng bình quân thấp (Khoảng 60% năng lực thực tế), tỷ lệ diện tích cây hàng năm được tưới tiêu bằng công trình thuỷ lợi còn thấp, nhất là ở Duyên hải miền trung, trung du miền núi phía bắc, đông nam bộ và tây nguyên. Hệ thống đê điều không được tu bổ kịp thời, mức độ đảm bảo an toàn thấp. Điều kiện giao thông rất chậm phát triển, vẫn còn khoảng 60 xã (7%) chưa có đường tới khu trung tâm, 50% đường cấp xã, 30% đường cấp huyện ôtô không đi lại được vào mùa mưa lũ … Quan hệ sản xuất ở nông thôn chậm đổi mới, có nhiều biểu hiện trì trệ. Tuy đã có gần 50% trong số khoảng 10.000 hợp tác xã nông nghiệp đã tiến hành chuyển đổi theo luật HTX và điều lệ mẫu HTX nông nghiệp nhưng nhiều HTX hoặc là đã chuyển đổi hình thức, hoặc là có “chuyển” nhưng chưa “đổi” hoạt động kém hiệu quả. Đặc biệt các doanh nghiệp quốc doanh hiện đang là khu vực cần tiếp tục đổi mới nhiều hơn nữa. Mặc dù đã có nhiều đóng góp tích cực góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển, giúp đỡ nhân dân trong vùng nhưng nhìn chung hiệu quả hoạt động chưa tương xứng với nguồn lực vốn có về đất đai, lao động và công nghệ đầu tư và các ưu đãi khác so với các thành phần kinh tế khác. Chênh lệch giữa thu nhập giữa thành thị và nông thôn ngày càng nghiêm trọng có xu hướng doãng ra, tình trạng nghèo đói ở nông thông vẫn xảy ra nghiêm trọng, nhất là miền núi và các vùng sâu, vùng xa. Thu nhập trung bình ở thành thị hiện cao gấp 5 lần ở nông thôn. Thu nhập ở trong nước (GDP) bình quân đầu người ở nông thôn mới chỉ đạt 2 triệu đồng/năm. CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn là hướng đi tất yếu của một nước nông nghiệp. Những tồn tại trên cần sớm có những giải pháp khắc phục, trước mắt cần tập trung đầu tư vào những vùng trọng điểm, đổi mới căn bản công nghệ, từng bước hiện đại hoá một số lĩnh vực mũi nhọn, sớm tiếp cận trình độ chung của khu vực và thế giới, tạo ra bước phá về năng suất và chất lượng sản phẩm có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường thế giới. Phần III: Một số giải pháp đầu tư cho quá trình CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn. Xuất phát từ thực trạng khó khăn và đi tìm định hướng tháo gỡ chung cho nông nghiệp - nông thôn, mổi quan tâm chính ở đây là cần phải đổi mới căn bản việc tổ chức huy động và đầu tư vốn phục vụ công nghiệp hoá - hiện đại hoá nông nghiệp - nông thôn. Chỉ có huy động tập trung ngày càng nhiều và bố trí sử dụng hiệu quả theo cơ cấu hợp lý các nguồn vốn đầu tư vào nông nghiệp nông thôn mới tạo ra động lực thúc đẩy khu vực này khỏi trạng thái trì trệ hiện nay để phát triển bình diện mới. Chính vì vậy, định hướng mới phải bao quát từ chủ trương chính sách đầu tư đến hoàn thiện mô hình, tổ chức cơ chế, phương thức, hình thức huy động và bố trí vốn đầu tư trong nông nghiệp. Cần phải có sự tập trung thống nhất quản lý về mặt Nhà nước mọi nguồn vốn đầu tư trong nông nghiệp, xoá bỏ nhiều đầu mối, nhiều tầng nấc trung gian, gây cản trở, làm méo mó, chệch hướng các dòng chảy vốn đến với sản xuất kinh doanh nông nghiệp. I. Giải pháp về huy động vốn đầu tư 1. Xây dựng chính sách huy động vốn đầu tư theo mô hình tổng hợp nguồn lực, gồm tất cả mọi nguồn vốn trong và ngoài nước, trong đó nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn tại chỗ là cơ bản, nguồn bên ngoài (từ nước ngoài, từ địa phương khác) là rất quan trọng. Nguồn vốn ngân sách là nguồn vốn “dẫn đường, dọn đường, nền tảng” của mọi công cuộc đầu tư vào nông nghiệp nông thôn. Do đó phải tiết kiệm, bảo toàn, nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội của nguồn vốn này. Tập trung đầu tư, cải tạo, xây dựng, nâng cấp cơ sở hạ tầng nông nghiệp nông thôn từ nguồn vốn ngân sách, nguồn vốn ODA và các nguồn tài trợ ưu đãi khác. Xây dựng những dự án đầu tư tổng thể vào nông nghiệp để cứ một đồng vốn ngân sách đầu tư phải kéo theo, thu hút hàng trăm, ngàn lần vốn của mọi thành phần kinh tế khác. Riêng đối với đầu tư nước ngoài, cần phải giải quyết các vấn đề cụ thể tương ứng và thích hợp với từng hình thức đầu tư. Với đầu tư trực tiếp nước ngoài, những vấn đề cần giải quyết là: Đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến đầu tư trên cơ sở chủ động xây dựng các dự án để kêu gọi đầu tư. Nghĩa là thực hiện thu hút đầu tư một cách chủ động, không thụ động ngồi chờ các nhà đầu tư nước ngoài vào tìm hiểu cơ hội và lĩnh vực đầu tư. Cải thiện môi trường đầu tư, tăng khả năng cạnh tranh trong thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài, tăng độ hấp dẫn đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn bằng những ưu đãi tạo động lực thực sự mạnh mẽ hơn. Giải quyết thoả đáng mối quan hệ giữa an ninh và quốc phòng trong việc thu hút đầu tư vào nông nghiệp nông thôn đặc biệt là đầu tư vào vùng sâu và vùng xa, vùng dân tộc, miền núi. Lựa chọn hình thức đầu tư thích hợp với điều kiện nông nghiệp và nông thôn Với các nguồn vốn ODA: So với các mục tiêu đầu tư khác, mục tiêu đầu tư cho CNH - HĐH nông nghiệp nông thôn có thể thuận lợi hơn vì nằm trong mục tiêu ưu tiên của các nhà tài trợ. Các vấn đề sau đây được coi là quan trọng nhất để thu hút nguồn tài trợ này: Nâng cao năng lực lập và quản lý dự án, hình thành các dự án có tính khả thi cao trong những lĩnh vực bức xúc của nông nghiệp và nông thôn Việt nam và sự quan tâm của các nhà tài trợ. Chuẩn bị tốt nguồn vốn đối ứng và các điều kiện triển khai dự án. Đó là điều thiết yếu bảo đảm giải ngân đúng kỳ hạn các nguồn tài trợ. Chú trọng công tác quản lý triển khai dự án, bảo đảm cho nguồn vốn được sử dụng theo đúng mục tiêu của dự án và theo đúng những gì đã cam kết. 2. Xây dựng chính sách đầu tư tín dụng cho nông nghiệp vừa thích ứng với cơ chế thị trường vừa tuân thủ sự điều tiết quản lý vĩ mô của Nhà nước. Tuân thủ nguyên tắc tín dụng trong sự kết hợp hài hoà với đầu tư cho CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn theo quy hoạch kế hoạch có trọng tâm, trọng điểm, coi trọng hiệu quả kinh tế xã hội về lâu dài, khắc phục tư tưởng chạy theo lợi ích cục bộ, kinh doanh đơn thuần trước mắt. Từng bước tiến tới xoá bỏ mọi bao cấp qua con đường tín dụng, lấy tín dụng là phương thức đầu tư chủ yếu mọi nguồn vốn, phân biệt rành rõi tài trợ chính sách xã hội với đầu tư tín dụng kinh doanh. 3. Phát huy vai trò đòn bẩy lãi xuất tín dụng một cách hợp lý và linh hoạt, giảm nhẹ gánh nặng lãi suất cho nông nghiệp, nông dân. Cải thiện nâng lãi suất tiền gửi VNĐ cao chút ít để thu hút nguồn nội lực trong nước hơn việc chú trọng vay nợ nước ngoài đưa đến gánh nặng nợ ngoại tệ chồng chất. Kiện toàn cơ chế tín dụng và từng bước áp sát lãi suất thị trường, sử dụng đồng tiền tín dụng định hướng sản xuất kinh doanh, đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu vốn của nông dân, hạn chế những đồng tín dụng “Phát chẩn” ít ỏi, rải mành, thủ tục tiếp nhận vốn nhiều khâu, lãi suất thực bị tăng do phụ phí lớn. 4. Nhà nước cần có chính sách ưu đãi tích cực hoạt động tín dụng dài hạn trong nông nghiệp, chuyển dần từ bù lỗ do “bao cấp” lãi suất sang trợ giá lâu dài một số mặt hàng nông sản chiến lược, miễn giảm hoặc giãn thuế cho hệ thống các tổ chức tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp - nông thôn; thậm chí có chính sách ưu đãi rõ ràng đối với bất kỳ chương trình đầu tư nào của mọi tổ chức kinh tế doanh nghiệp, tư nhân trong và ngoài nước vào nông nghiệp, phục vụ xuất khẩu, tự cân đối ngoại tệ tạo nguồn thu hút ngoại tệ lớn. 5. Kết hợp nguyên tắc tín dụng với công cụ tài chính khác (Như nới lỏng thuế, phí, bù lỗ lãi suất, trợ gía hàng nông sản, cấp đủ vốn lưu động, linh hoạt tỷ giá hối đoái …) để giảm rủi ro, bảo toàn vốn tín dụng ngân hàng. Tăng cường thanh tra, giám sát việc đầu tư vốn trong nông nghiệp, đảm bảo chất lượng mọi quy trình thẩm định, xét duyệt, phân bổ, sử dụng vốn đầu tư … Cải tiến, đa dạng hoá phương thức cho vay và thanh toán nhằm vửa rút ngắn quãng đường vận đồng của đồng vốn đến đúng các địa chỉ đầu tư, vừa tiết kiệm đồng vốn, giảm chi phí tín dụng; phòng ngừa tốt rủi ro bằng cách phát huy tín dụng đồng tài trợ theo dự án, tín dụng khép kín, hoàn chỉnh theo quy trình tăng trưởng cây trồng, vật nuôi; quy trình vật tư - sản xuất - thu mua - chế biến - tiêu thụ - xuất khẩu nông sản hàng hoá; tín dụng tập thể, hỗ trợ đến từng HTX, tổ, đội, đoàn thể … 6. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống tổ chức đầu tư vốn trong nông nghiệp, nông thôn thu hút sự tham gia của mọi thành phần kinh tế, mọi nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong đó kinh tế đầu tư vốn ngân sách, vốn tín dụng tập trung (Nhà nước thống nhất quản lý) đóng vai trò chủ đạo. Thống nhất các loại hình tổ chức tín dụng nông thôn theo một số định chế thích hợp hoàn cảnh, địa bàn cụ thể: Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, ngân hàng cấp tín dụng dài hạn (chủ yếu phát hành trái phiếu dài hạn), ngân hàng người nghèo, ngân hàng (quỹ) tài trợ xuất khẩu nông sản, quỹ tín dụng nhân dân và một số quỹ đầu tư tín dụng khác … Tập trung quản lý các nguồn vốn đầu tư thông qua phát triển thị trường vốn nông thôn có sự tham gia cạnh tranh lành mạnh và bình đẳng của mọi thành viên. Kiện toàn hành lang pháp lý cho tổ chức và hoạt động đầu tư tín dụng nông thôn. Xây dựng cơ chế đầu tư thích hợp với tính chất nguồn vốn đầu tư. II. Về sử dụng vốn đầu tư 1. Tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn tạo điều kiện tiến lên CNH - HĐH như đường giao thông, điện, thuỷ lợi, trường học ... chú ý các vùng cao, vùng sâu, vùng xa. Thự hiện tốt các công trình mục tiêu quốc gia liên quan đến nông nghiệp, nông thôn như chương trình xoá đói, giảm nghèo, chương trình giải quyết việc làm, chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Sử dụng nguồn vốn của các chương trình có hiệu quả cao nhất, thúc đẩy nhanh năng lực sản xuất nông lâm ngư nghiệp và kinh tế nông thôn. Tăng vốn đầu tư để nâng cấp, đồng thời tăng cường công tác quản lý để nâng cao hiệu quả khai thác các công trình hiện có, tập trung vốn hoàn thành các công trình xây dựng dở dang để sớm đI vào sử dụng, bố trí vốn đầu tư dứt điểm đối với công trình mới thật sự cấp bách và có hiệu quả cao. Việc bố trí vốn đủ liều lượng phảI gắn liền với việc tăng cường các biện pháp quản lý vốn. 2. Chú trọng đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, gắn phát triển sản xuất nông nghiệp với phát triển công nghiệp chế biến. Đầu tư nâng cấp các khu bảo quản chế biến, vận chuyển nông phẩm đến nơI tiêu thụ để giảm tổn thất, hư hao, lãng phí nguyên vật liệu, nâng cao chất lượng, tạo thêm giá trị gia tăng, hoà nhập và mở rộng thị phần nông phẩm Việt Nam trên thị trường khu vực và quốc tế. Nhu cầu thị trường thế giới đang rất cần nhiều loại hàng hoá nông sản chế biến của ta. Đây cũng chính là con đường ngắn nhất, trực tiếp nhất đưa tiến bộ kỹ thuật công nghệ vào phục vụ sản xuất hàng hoá nông nghiệp, là nền tảng cho sự hình thành nhanh chóng thêm nhiều nghành nghề phụ, dịch vụ nông nghiệp - nông thôn góp phần tích cực chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu trong nông nghiệp nông thôn, giảI quyết việc làm, nâng cao thu nhập của dân cư nông thôn. 3. Tập trung vốn cho ngành mũi nhọn để thúc đẩy nông nghiệp và kinh tế nông thôn (như:Thuỷ lợi, công nghệ sinh học hiện đại về giống, bảo đảm cây trồng vật nuôI có năng suất cao nhất, chất lượng tốt nhất … ) phát triển công nghệ chế biến gắn với phát triển vùng nguyên liệu đặc biệt chú ý giữa cung và câù, khả năng cung cấp nguồn nguyên liệu và công suất các nhà máy chế biến, tránh sự chồng chéo lãng phí, đồng thời đẩy mạnh công tác xuất khẩu nông sản. 4. Tổ chức tốt thị trường tiêu thụ nông phẩm trong và ngoài nước căn bản dựa vào việc đầu tư nâng cao chất lượng, mẫu mã sản phẩm theo tiêu chuẩn quốc tế và khu vực nhưng chứa đựng bản sắc Việt Nam. Xây dựng hệ thống cung ứng dịch vụ vật tư hợp lý, tổ chức tốt công tác nghiên cứu, tiếp thị, xúc tiến thương mại … Có như vậy mới giải quyết được “đầu ra” đang rất khó khăn, bị lép vế và thua thiệt của hàng nông sản Việt Nam, đặc biệt là thị trường ngoài nước. 5. Tăng cường đầu tư cho đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực nông thôn mà khâu then chốt là cán bộ huyện, xã gồm cả quản lý hành chính lẫn kinh tế và kỹ thuật. Đây là lực lượng nòng cốt mà thông qua đó các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, nông thôn của Đảng, Nhà nước mới đến được với nông dân, phục vụ lợi ích của cộng đồng nông thôn. Sự tác động của cơ chế thị trường, sự sống còn và phát triển của một số nghành, nghề phụ truyền thống, thậm chí từng loại cây trồng vật nuôi, sản vật đánh bắt (thuỷ, hải sản) trong nông nghiệp đang đòi hỏi sự phát huy tinh thần tự chủ, năng động và sáng tạo của các cấp địa phương, trong đó đơn vị xã là hạt nhân. 6. Tăng cường quản lý nhà nước về các nguồn vốn đầu tư trong nông nghiệp, phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước cùng với kinh tế hợp tác xã trở thành nền tảng, khuyến khích các thành phần kinh tế khác phát triển sản xuất kinh doanh nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ ở nông thôn, khuyến khích mọi người có vốn, kinh nghiệm quản lý, đầu tư hoặc liên kết kinh doanh tạo các hình thức kinh tế hỗn hợp có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, chế biến nông, lâm thuỷ sản và dịch vụ ở nông thôn. Kết luận Qua nghiên cứu về mặt lý luận và thực tiễn, một lần nữa khẳng định vai trò to lớn và quan trọng của nông nghiệp nông thôn đối với Việt Nam, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay. CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn là xu hướng tất yếu trong phát triển nông thôn của tất cả các nước trên thế giới và cũng là đòi hỏi cấp bách đối với kinh tế nông nghiệp nước ta bởi những yêu cầu khách quan, những thách đố và khó khăn trong khu vực này. Vì vậy để tiếp tục thu hút các nguồn vốn trong và ngoài nước, của các tổ chức, các thành phần kinh tế..., khai thác và sử dụng có hiệu quả khắc phục những vấn đề vưỡng mắc còn tồn tại thì đòi hỏi không ngừng hoàn thiện những chính sách hỗ trợ, luật đầu tư nước ngoài... Đây có thể coi là những biện pháp thiết thực nhất. Chúng ta hy vong rằng trong những thập kỷ tới, nền nông nghiệp Việt Nam sẽ thực hiện tốt chiến lược phát triển do Nghị quýết của Đảng đặt ra và gặt hái được nhiều những thành công mới. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Kinh tế đầu tư - Trường ĐH Kinh tế Quốc dân – Nhà xuất bản thống kê- 2000. Giáo trình Lập và quản lý dự án đầu tư - Trường ĐH Kinh tế Quốc dân – Nhà xuất bản thống kê- 2000. Đỗ Kim Chung – CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn ở các vùng kinh tế lãnh thổ của Việt Nam – Nghiên cứu kinh tế – Số 253 tháng 6/1999. Bùi Huy Nhượng – Thu hút và sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức vào phát triển nông nghiệp nông thôn Việt Nam – Tạp chí Kinh tế và Phát triển – Số 46/2001. Lê bá Thăng – Phát triển nông thôn tổng hợp với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn – Thông tin lý luận – Số 2/ 2000 Nguyễn Kế Tuấn – Vấn đề Tài chính cho CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn – Nghiên cứu và trao đổi – Số 21/1999. Nguyễn Tiến Mạnh – Thúc đẩy CNH, HĐH nông nghiệp và phát triển nông thôn – Tạp chí Tài chính – Số 7/1998. Phạm thị Khanh – Vấn đề Vốn đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn ở nươc ta hiện nay – Nghiên cứu lý luận- Số 5/ 1999. Tào Hữu Phùng – Vốn đầu tư và nâng cao hiêu quả vốn đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn – Nghien cứu và trao đổi – Số 1/1999. Tạ Thị Lê Yên – Nhận thức CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn với nhiệm vụ đầu tư vốn – Thị trường tài chính tiền tệ – Số 3/1998. Trần Kim Cúc – Một số luận điểm của C.Mác, Ph.Ăngghen và V.I.Lê-nin về CNH,HĐH nông nghiệp nông thôn. Vũ Bá Định - Đầu tư cho nông nghiệp nông thôn – Tài chính- Số 6/2000 Nguyễn Sinh Cúc - Đầu tư cho nông nghiệp, Thực trạng và triển vọng – VC28400-28404. Hồng Minh – CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn. Một số vấn đề và thực tiễn.- VC23826-23860. Cao Sỹ Kiêm – Thực trạng nông nghiẹp, nông thôn và một số giải pháp đầu tư vốn phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn Việt Nam hiện nay – Phấn đấu thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng – Số 15/1998. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35193.doc
Tài liệu liên quan