Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010

LỜI MỞ ĐẦU Phát huy truyền thống tương thân, tương ái, “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”. CTXH nói chung và CTĐX xuất nói riêng cho những người chịu thiệt thòi, không may rơi vào hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống luôn được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm. CTĐX được xác định là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm dảm bảo tính cân đối giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội. Là một lĩnh vực của đời sống xã hội, CTĐX mang những đặc trưng cơ bản: tổng hợp chính trị - kinh tế - xã hội - quốc phòng - an ninh; trực tiếp giúp đỡ hàng triệu người và gia đình mỗi khi gặp khó khăn hoạn nạn. Ở một đất nước mà hàng năm luôn phải hứng chịu hậu quả của nhiều đợt thiên tai, bão lũ, hạn hán; hàng triệu người rơi vào hoàn cảnh thiếu đói, mất người thân, mất tài sản, mất nhà ở, mất phương tiện sản xuất thì CTĐX là một hoạt động không thể thiếu được. Để giữ vững ổn định chính trị, kinh tế - xã hội cần đăc biệt có chính sách hỗ trợ nhân dân khắc phục hậu quả thiên tai, cứu đói, giúp nhân dân sớm ổn định đời sống và sản xuất. Giai đoạn 2000 - 2005 là giai đoạn mà mỗi năm trung bình có từ 4 - 6 cơn bão lớn kèm theo mưa, lũ cộng với rất nhiều đợt hạn hán, sạt lở đất làm chết hàng trăm người, cuốn trôi tài sản và nhà ở của hàng nghìn gia đình gây cảnh thiếu đói ở nhiều vùng, địa phương. Trước tình hình đó, công tác CTĐX nhìn chung đã được tổ chức thực hiện tương đối tốt, đạt được nhiều thành tựu to lớn, song vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót cần phải tiếp tục được nghiên cứu và khắc phục trong thời gian tới. Giai đoạn tới, 2006 - 2010 là giai đoạn được dự báo là tình hình thời tiết sẽ có nhiều biến động bất thường, công tác cứu trợ cần phải được tổ chức kịp thời và hiệu quả hơn nữa. Do đó, Đề tài “Một số giải pháp đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010” xin mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, góp phần đẩy mạnh hơn nữa công tác CTĐX ở Việt Nam. Mặc dù đã được sự giúp đỡ, chỉ bảo tận tình của các Thây cô giáo và cán bộ hướng dẫn thực tập nhưng do phạm vi hiểu biết còn hạn chế, đề tài không thể tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy em rất mong nhận được những góp ý của các Thầy cô giáo để đề tài có thể hoàn thiện hơn. Đề tài sử dụng phương pháp duy vật biện chứng phân tích các vấn đề thực trạng của chính sách xã hội, đặc biệt là chính sách CTĐX kết hợp với số liệu và thông tin của ngành Lao động - Thương binh - Xã hội. Đề tài được chia làm 3 chương: Chương I: Vai trò của CTXH đột xuất trong phát triển kinh tế xã hội ở Việt Nam. Chương II: Thực trạng và kết quả công tác CTXH đột xuất trong thời gian qua 2000 – 2005. Chương III: Phương hướng và một số giải pháp đẩy mạnh công tác CTXH đột xuất trong thời gian tới 2006 – 2010. MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 3 I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 3 1. Cứu trợ xã hội 3 2. Cứu trợ đột xuất và công tác cứu trợ đột xuất 5 2.1. Khái niêm 5 2.2. Đối tượng của cứu trợ đột xuất 6 2.3. Nội dung của cứu trợ đột xuất 6 2.4. Nguyên tắc của cứu trợ đột xuất 7 2.5. Nguồn kinh phí và quá trình tổ chức thực hiện. 8 II. VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 9 1. Thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta. 9 2. Phù hợp với truyền thống của người Việt Nam. 9 3. Phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục hậu quả thiên tai 10 4. Góp phần giảm bớt khó khăn trước mắt, chênh lệnh mức sống và xoá đói giảm nghèo. 10 5. Góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội. 11 III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT. 11 1. Giai đoạn 1945 – 1964 13 2. Giai đoạn từ 1965 – 1975 13 3. Giai đoạn từ 1976 – 1985 14 4. Giai đoạn từ 1986 đến nay 14 IV. NHỮNG NHÂN TỔ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT. 16 1. Điều kiện tự nhiên 16 1.1.Đặc điểm về thời tiết khí hậu 16 1.2. Đặc điểm về địa hình 16 2. Các điều kiện về kinh tế - xã hội 17 2.1. Cơ sở hạ tầng 17 2.2. Mặt trái của quá trình đô thị hoá 17 2.3. Phong tục tập quán 19 2.4. Cơ chế, chính sách đầu tư 19 2.5. Chính sách hỗ trợ sản xuất 20 2.6. Kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi và những mặt trái của nó 20 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2000 – 2005 23 I. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT 23 II. KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2000 - 2005. 26 1. Tình hình thiên tai và thiếu đói. 26 1.1. Tình hình thiên tai 26 1.2. Tình hình thiếu đói 28 2. Chính sách cứu trợ đột xuất và công tác chỉ đạo cứu trợ 29 2.1. Chính sách CTĐX hiện hành 29 2.1.1. Về đối tượng 29 2.1.2. Về tiêu chí và chế độ cứu trợ đột xuất 30 2.1.3. Về kinh phí thực hiện cứu trợ đột xuất 33 2.1.4. Về hình thức cứu trợ 34 2.1.5. Về tổ chức thực hiện 34 2.2. Công tác chỉ đạo cứu trợ đột xuất 38 3. Kết quả khắc phục hậu quả thiên tai 40 4. Một số hạn chế và nguyên nhân 42 CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 46 I. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT 1. Quan điểm đẩy mạnh công tác CTĐX. 46 2. Phương hướng đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất 47 3. Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn 2006 – 2010 48 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤTGIAI ĐOẠN 2006 – 2010. 49 1. Hoàn thiện hệ thống chính sách về cứu trợ đột xuất. 49 2. Tăng cường hệ thống dự báo, cảnh báo sẵn sàng đối phó với những biến cố đột xuất có thể xảy ra 50 3. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho những vùng sung yếu, vùng hay xảy ra thiên tai, vùng sâu, vùng xa .51 4. Lập quỹ dự phòng riêng cho CTĐX tại các địa phương do địa phương quản lý. 52 5. Thực hiện chương trình quản lý nguy cơ thiên tai dựa vào cộng đồng và cứu trợ cộng đồng tại chỗ. 54 6. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa CTĐX với các chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. 56 7. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý nguồn cứu trợ .57 8. Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác cứu trợ đột xuất từ trên xuống. 58 III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 58 KẾT LUẬN 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 61

docx65 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1904 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất ở Việt Nam giai đoạn 2006 - 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện: Khi thiên tai xảy ra, trên cở sở chỉ đạo của Chính phủ và báo cáo của các địa phương: 1. Uỷ ban phòng chống lụt bão Trung ương có trách nhiệm phối hợp với UBND các địa phương, lực lượng vũ trang đóng tại địa phương thực hiện công tác cứu hộ (cả về người và tài sản của nhân dân). Đồng thời căn cứ vào nguồn kinh phí mà Chính phủ hỗ trợ, nguồn kinh phí Uỷ ban mặt trận tổ quốc Việt Nam huy động tổ chức đưa tiền, hàng cứu trợ đến tay nhân dân vùng bị thiệt hại. 2. Bộ Tài chính có trách nhiệm đảm bảo kinh phí cứu trợ. 3. UBMTTQ Việt Nam, Hội CTĐ Việt Nam tổ chức huy động (quyên góp) kinh phí (tiền, hàng) từ các cá nhân, tổ chức kinh tế - xã hội trong và ngoài nước phục vụ cho công tác cứu trợ. Nguồn kinh phí sau khi huy động được sẽ được chuyển trực tiếp cho nhân dân vùng bị nạn, chính quyền các địa phương, Uỷ ban phòng chống lụt bão Trung ương, Bộ LĐTBXH tổ chức thực hiện cứu trợ. 4. Bộ LĐTBXH, ngoài việc quản lý chung, Bộ có trách nhiệm phối hợp cùng Uỷ ban Phòng chống lụt bão Trung ương, chính quyền các địa phương tổ chức thực hiện cứu trợ và khắc phục hậu quả thiên tai về mặt dân sinh (bao gồm các hoạt động: cứu đói cho nhân dân, hỗ trợ xây lại, xây mới nhà cửa). 5. Bộ Y tế có trách nhiệm hướng dẫn việc phòng bệnh, khám bệnh chữa bệnh cho nhân dân, các đối tượng đang phải cứu trợ đột xuất. 6. Bộ Giáo dục – Đào tạo có trách nhiệm hướng dẫn việc tổ chức thực hiện học văn hoá; miễn, giảm học phí và các khoản đóng góp khác cho học sinh là người thuộc diện đang phải cứu trợ đột xuất. 7. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn có trách nhiệm phối hợp với Bộ LĐTBXH xác định mức độ hậu quả thiên tai, mất mùa và đói giáp hạt để có biện pháp và hướng dẫn tổ chức thực hiện cứu trợ; hỗ trợ nhân dân khôi phục sản xuất, cung cấp cây con, giống, thuốc trừ sâu để nhân dân tái sản xuất. Đồng thời đối với các cơ quan, ban ngành, đoàn thể ở địa phương có trách nhiệm như sau: * Uỷ ban nhân dân cấp xã có trách nhiệm: Khi thiếu đói, thiên tai xảy ra phải tiến hành lập danh sách đối tượng cần cứu trợ khi thiếu đói, thông qua Hội đồng xét duyệt cấp xã đề nghị hưởng CTXH đột xuất. Riêng đối với những người gặp rủi ro ngoài vùng cư trú bị thương nặng hoặc phải vào bệnh viện điều trị hoặc bị chết, gia đình không biết để chăm sóc hoặc mai táng thì giải quyết như sau: - Đối với người bị thương: Cơ sở y tế trực tiếp điều trị người bị thương, lập danh sách gửi cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội nơi cơ sở y tế đóng để trình cấp có thẩm quyền quyết định mức CTĐX. - Đối với người bị chết: Chính quyền, tổ chức hay cá nhân đứng ra mai táng người chết, lập danh sách gửi cơ quan Lao động – Thương binh và Xã hội nơi chôn cất để trình cấp có thẩm quyền quyết định mức trợ cấp mai táng phí. Thành lập Hội đồng xét duyệt gồm: Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Chủ tịch Hội đồng, thành viên Hội đồng gồm đại diện: Mặt trận tổ quốc, một số ban, ngành và cán bộ làm công tác lao động – thương binh và xã hội là Uỷ viên thường trực. Hội động xét duyệt phải có kết luận bằng biên bản và danh sách kèm theo. Sau khi được hội đồng xét duyệt thông qua, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân xã đề nghi Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp Huyện xem xét quyết định. Kèm theo công văn phải có biên bản của Hội đồng xét duyệt, danh sách trích ngang những người hưởng trợ cấp cứu trợ. Lập sổ tiếp nhận, phân phối tiền, hàng CTĐX. Tổ chức thực hiện CTĐX trực tiếp, kịp thời đến các đối tượng tại địa phương. * Phòng Lao động – Thương binh và Xã hội hoặc phòng tổ chức lao động xã hội cấp huyện có trách nhiệm: Tổng hợp danh sách các đối tượng cứu trợ do Uỷ nhân xã đề nghị; căn cứ khả năng nguồn kinh phí trợ cấp của huyện và hướng dẫn ảu Sở Lao động – Thương binh và Xã hội, báo cáo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định trợ cấp CTXH đột xuất. Hướng dẫn cấp xã tổ chức thực hiện CTXH đột xuất. * Sở Lao động – Thương binh và Xã hội cấp tỉnh có trách nhiệm Hàng năm, căn cứ vào căn cứ vào tình hình thiệt hại xác định số lượng các đối tượng, mức trợ cấp cho từng loại đối tượng lập kế hoạch kinh phí gửi Sở Tài chính vật giá, Sở Kế hoạch và Đầu tư trình Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Tổng hợp danh sách đối tượng thuộc diện CTXH đột xuất do Uỷ ban nhân dân cấp huyện đề nghị. Căn cứ vào nguồn kinh phí cứu trợ của tỉnh, nguồn kinh phí trợ cấp của Trung ương và các nguồn trợ giúp khác, lập phương án CTXH đột xuất gửi Sở Tài chính - vật giá, trình Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh quyết định. Hướng dẫn cấp dưới tổ chức thực hiện CTĐX. Ra quyết định trợ cấp xã hội đột xuất cho các đối tượng là người lang thang xin ăn đang trong thời gian tập trung chờ đưa về nơi cư trú. * Khi thiên tai xảy ra trên diện rộng, Uỷ ban nhân dân các cấp thành lập Ban chỉ đạo tiếp nhận và phân phối tiền hàng cứu trợ do Chủ tịch hoặc Phó Chủ tịch Uỷ ban nhân dân làm Trưởng ban, lãnh đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội là Phó Ban thường trực, lãnh đạo ngành Tài chính - Vật giá, lãnh đạo các Ban ngành có liên quan và Mặt trận Tổ quốc, Hội CTĐ làm thành viên. Ban có trách nhiệm cứu trợ và phân phối tiền, hàng cứu trợ; chỉ đạo thành lập các đội xung kích để thực hiện cứu trợ khẩn cấp, kịp thời cho nhân dân, đặc biệt ở vùng sâu, vùng xa, vùng bị khó khăn, vùng bị cô lập. 2.2. Công tác chỉ đạo cứu trợ đột xuất Trong những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã đặc biệt quan tâm đến công tác cứu trợ đột xuất. Chính phủ đã giao cho Bộ LĐTBXH là đơn vị chủ trì, thực hiện quản lý nhà nước về công tác CTĐX. Để đối phó với hậu quả do thiên tai gây ra, Bộ LĐTBXH đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chỉ đạo ngành Lao động - Thương binh và Xã hội và các ngành có liên quan chủ động nắm tình hình thiếu đói, thiệt hại do thiên tai, lập phương án cứu trợ và tổ chức cứu trợ kịp thời cho những gia đình bị ảnh hưởng có điều kiện ổn định cuộc sống, và tiếp tục phát triển sản xuất; quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí và lương thực cứu trợ đúng mục đích, đúng đối tượng và hiệu quả. Bộ đã trình Chính phủ nghiên cứu và ban hành nhiều văn bản về lĩnh vực CTĐX. Cụ thể là việc ban hành hàng loạt các văn bản như: Pháp lện phòng chống lụt bão, Nghị định 32/CP về việc hướng dẫn phòng chống lụt bão, Quyết định 185/TTg của Thủ tướng Chính phủ về chính sách hỗ trợ đối với vùng phân lũ, chậm lũ thuộc hệ thống Sông Hồng, Nghị định 07/NĐ-CP về chính sách CTXH… Mỗi khi có thiên tai xảy ra, Bộ đều cử các đoàn trực tiếp kiểm tra tình hình thiếu đói và thiệt hại do thiên tai để kịp thời đề xuất Chính phủ giải pháp khắc phục. UBND các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đề có văn bản chỉ đạo các cấp, các ngành, nhất là ngành LĐTBXH xuống tân cơ sở kiểm tra, rà soát tình hình thiệt hại do thiên tai gây ra, trên cơ sở đó xây dựng phương án và trích ngân sách cứu trợ cho các hộ bị ảnh hưởng của thiên tai, gặp khó khăn về kinh tế sớm ổn định cuộc sống, tiếp tục sản xuất. Tuy chính sách thì vẫn còn nhiều bất cập (là một đặc điểm chung của hệ thống chính sách kinh tế - xã hội ở nước ta) nhưng cũng không thể phủ nhận những hiệu quả to lớn của chúng. Nhờ có hệ thống chính sách tương đối hoàn thiện cho nên tới nay hoạt động BTXH nói chung và CTĐX nói riêng đã được nâng cao hơn về chất lượng, nhận thức của các cấp lãnh đạo và cộng đồng có thay đổi tích cực, các hoạt động được mở rộng với nhiều hình thức và các làm phù hợp có ý nghĩa xã hội sâu sắc. 1- Trước đây Nhà nước thường giải quyết bằng các quyết định có tính chất xử lý tình thế. Trách nhiệm của ngành lao động – thương binh và xã hội là nghiên cứu, ban hành chế độ chính sách, hướng dẫn thực hiện kiểm tra, thanh tra việc thực hiện; mỗi khi có biến cố đột xuất xảy ra, nhanh chóng nắm tính hình thiệt hại và đời sống dân sinh trong vùng bị thiên tai, đề xuất với Chính phủ cứu trợ kịp thời. Các nỗ lực CTXH thường do các trung tâm BTXH do Nhà nước quản lý thực hiện. Nay chuyển sang phân cấp hướng tới tính xã hội hoá, tính cộng đồng cao hơn. Đây là xu hướng chung trên thế giới, đồng thời cũng thể hiện cách tiếp cận mới trong công tác CTXH ở nước ta. 2- Mức trợ giúp được nâng lên theo quy định của Chính phủ. 3- Công tác truyền thông, vận động được tổ chức tốt và rộng khắp, thu hút được sự quan tâm của cộng đồng đối với nhân dân vùng bị nạn làm giảm bớt kinh phí cứu trợ từ ngân sách, mặt khác vẫn đảm bảo lượng cứu trợ cho nhân dân. 4- Trong CTĐX tính chủ động đối phó với thiên tai được nâng lên, huy động được nhiều hơn sự hỗ trợ từ cộng đồng, đặc biệt là cơ chế dự trữ và huy động nguồn lực tại chỗ bảo đảm khác phục kịp thời hậu quả từ thiên tai, kịp thời cứu đói và trợ giúp về sản xuất ổn định về đời sống cho nhân dân vùng bị thiệt hại. Sở dĩ, công tác cứu trợ đạt được những thành quả như vậy là do Đảng và Nhà nước đã luôn luôn chủ động và kịp thời có những chính sách hợp lý và thiết thực, phù hợp với nguyện vọng của quẩn chúng nhân dân, đặc biệt là nhân dân vùng bị nạn. 3. Kết quả khắc phục hậu quả thiên tai Khi thiên tai xảy ra, Chính phủ đã trực tiếp chỉ đạo công tác khắc phục hậu quả, quyết định chi ngân sách dự phòng để hỗ trợ khẩn cấp cho đồng bào bị nạn về lương thực, thuốc chữa bệnh, dựng lại nhà ở cho nhân dân, khôi phục trường học, bệnh xá, trụ sở, xử lý ô nhiễm môi trường, giao thông, thuỷ lợi, hỗ trợ giống sản xuất… Nguồn kinh phí huy động được hàng năm cho CTĐX lên đến hàng trăm tỷ đồng. Trong 6 năm 2000 – 2005 đã hỗ trợ khẩn cấp: 2.342,7 tỷ đồng và 357 tấn giống các loại. Trong đó, UBMTTQ Việt Nam đã kêu gọi phát động nhân dân cả nước quyên góp được 151 tỷ đồng ủng hộ đồng bào bão lụt; các cấp Hội của 39 tỉnh thành và Trung ương đã vận động các cá nhân, tổ chức trong và ngoài nước được 592 tỷ đồng (trong đó vận động trong nước được 417 tỷ đồng và quốc tế 175 tỷ đồng) để hỗ trợ cho gần 7 triệu lượt người nghèo bị ảnh hưởng nặng bởi thiên tai((4) Vụ BTXH, Bộ LĐTBXH ) . Tuy nhiên đây cũng chỉ là một phần nhỏ góp phần giảm bớt khó khăn cho nhân dân trong lúc nguy cấp. Ngoài ra, các tổ chức kinh tế - xã hội, cá nhân trong và ngoài nước đã tự nguyện ủng hộ trực tiếp hàng trăm tỷ đồng cho đồng bào bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Nguồn kinh phí huy động (quy tiền) cho CTĐX giai đoạn từ 2000 - 2005 được tổng hợp cụ thể như sau: Biểu 3: Kinh phí sử dụng cho cứu trợ đột xuất qua các năm từ 2000-2005 Như vậy, nguồn kinh phí chi cho CTĐX tuy có sự tăng, giảm thất thường tuỳ theo diễn biến tình hình thiên tai và hậu quả mà nó để lại nhưng có xu hướng tăng lên (từ 738,532 tỷ đồng năm 2000 đến 769,583 tỷ đồng năm 2005) và ngân sách nhà nước vẫn giữ vai trò chủ đạo, trung bình nguồn huy động chỉ chiếm khoảng 30% so với tổng kinh phí cứu trợ. Tỷ lệ cao nhất là năm 2000, nguồn huy động lớn nguồn từ ngân sách nhà nước, tiếp đó là năm 2005 và nhỏ nhất là năm 2002. So với mức độ thiệt hại thì nguồn kinh phí này về cơ bản mới chỉ đáp ứng được khoảng 1/3 tổng mức thiệt hại - một tỷ lệ quá nhỏ. Nguồn kinh phí huy động được chủ yếu dưới dạng tiền mặt, số tiền này được sử dụng chủ yếu để mua gạo, và một số hàng hoá nhu yếu phẩm cần thiết cho nhân dân như: Quần áo, chăn màn, thuốc men. Với nguồn kinh phí huy động được như vậy, tuy không khắc phục được nhiều cho nhân dân vùng bị thiệt hại nhưng cũng đã phần nào giúp nhân dân sớm có điều kiện ổn định về cuộc sống, tinh thần, nhanh chóng khôi phục lại sản xuất. Tính trung bình từ năm 2000 - 2005 mỗi năm có khoảng: - 76% số lượt nhân khâu thiếu đói cần cứu trợ được cứu trợ; - 80% tài sản hư hỏng cần sửa chữa được hỗ trợ sửa chữa; - 89% số công trình công cộng được xây lại, xây mới. Nhận xét: Nhìn chung công tác cứu trợ đột xuất trong những năm qua được thực hiện tốt, hàng triệu người thiếu đói được hỗ trợ lương thực, hàng trăm ngôi nhà được dựng lại, người chết được mai táng, người bị thương được hỗ trợ chăm sóc thuốc men…Mặc dù thiên tai, bão lụt thường xuyên xảy ra trên diện rộng hàng năm, những đã không để xảy ra một trường hợp đáng tiếc nào. Tuy nguồn kinh phí thực hiện cứu trợ còn thấp những một mặt đã góp phần củng cố lòng tin của nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, mặt khác thể hiện vai trò của hệ thống chính sách cứu trợ trong quá trình phát triển kinh tế, giúp đồng bào vùng bị thiên tai sớm ổn định đời sống tái sản xuất trở lại, góp phần ổn định chính trị, kinh tế - xã hội của đất nước. 4. Một số hạn chế và nguyên nhân. * Hạn chế: Thứ nhất, công tác tổ chức triển khai còn chậm, phối hợp chưa nhịp nhàng, lúng túng, bị động, có lúc, có nơi còn chưa kết hợp chặt chẽ đồng bộ với các chương trình, giải pháp khác nên hiệu quả còn có phần hạn chế. Công tác quản lý chính sách và quản lý ngân sách chưa gắn với nhau chặt chẽ. Thứ hai, công tác CTĐX có liên quan tới nhiều ngươi, nhưng hình thức hoạt động nhìn chung còn nghèo nàn, chưa huy động được đông đảo các ngành, các giới, các đoàn thể quần chúng, tổ chức từ thiện, tôn giáo, các nhà hảo tâm tham gia. Chưa làm cho bạn bè ngoài nước hiểu đúng và đầy đủ về tình hình công tác CTĐX của ta để tranh thủ sự giúp đỡ. Khi được giúp đỡ thì việc quản lý còn phân tán, sử dụng có lúc có nơi còn kém hiệu quả. Thứ ba, công tác CTĐX chưa thực hiện nghiêm phương châm 4 tại chỗ: nhanh, kịp thời, đúng đối tượng và đúng chính sách đến tận tay người cần cứu trợ. Một số địa phương có lúc, có nơi còn phân phối bình quân, dàn đều, chưa đúng đối tượng, đúng chính sách. Thứ tư, chưa có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng trong trách nhiệm CTĐX, chưa khai thác được hết sức mạnh của cộng đồng và xã hội trong quá trình huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện. CTXH vẫn được mọi người coi là trách nhiệm, nghĩa vụ của Nhà nước và các cơ quan chức năng. Thứ năm, bộ máy cứu trợ mai một dần, chính sách chậm được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. Nhìn chung, CTĐX còn bị động, nặng về đối phó trước mắt, chưa kết hợp chặt chẽ với các chương trình xoá đói giảm nghèo, giảm nhẹ thiên tai… * Nguyên nhân: Tuy một phần do thời tiết diễn biến phức tạp và tình chất đặc thù của công việc nên không thể tránh khỏi những sai sót nhưng cũng phải thừa nhận một số nguyên nhân chủ quan đã dẫn đến những hạn chế, đó là: - Tình hình diễn biến của thời tiết, khí hậu phức tạp không theo quy luật. Trong những năm gần đây, do những yếu tố biến động của tự nhiên nhất là các hiện tượng ENDINO, ENDINA dẫn đến có sự thay đổi khí hậu, thời tiết toàn cầu, tàn phá môi trường sinh thái (rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ…) đã dẫn đến mật độ và cường độ bão, lụt, hạn hán xảy ra nhiều hơn, mức độ tàn phá nặng nề hơn và không theo quy luật, nên rất kho khăn cho công tác dự báo, chuẩn bị tàu thuyền, lương thực cho công tác cứu hộ và cứu đói… - Nguồn kinh phí cho CTĐX (kể cả kinh phí Chính phủ hỗ trợ từ ngân sách và kinh phí huy động từ cộng đồng) còn quá ít ỏi, các nguồn nhân lực, vật lực, tài lực cho cứu trợ chủ yếu lấy từ ngân sách, phần huy động từ cộng đồng và xã hội còn hạn hẹp và không ổn định trong khi đối tượng cần cứu trợ thường rất lớn và đa dạng. Theo quy định mới của Luật ngân sách nhà nước và Nghị định 87/CP hướng dẫn thực hiện Luật Ngân sách nhà nước thì ngân sách cho CTĐX được bố trí chung vào khoản mục “Dự phòng ngân sách địa phương”. Áp dụng cơ chế mới thuận lợi cho các tỉnh có thể chủ động huy động và tổ chức cứu trợ mỗi khi có thiên tai, hoả hoạn xảy ra trên địa bàn. Tuy vậy, cũng gặp một số khó khăn như: + Theo quy định nguồn dự phòng ngân sách từ 3% - 5% tổng chi ngân sách. Như vậy, nguồn dự phòng phụ thuộc vào tổng chi ngân sách của địa phương và chính là phụ thuộc vào khả năng chi ngân sách của địa phương. Bên cạnh đó mức độ thiên tai và độ tàn phá lớn thường tập trung vào một số tỉnh ở khu vực miền Trung, Tây Nguyên và miền núi phía Bắc. Khối lượng thiệt hại thường vượt quá khả năng chi của địa phương và như vậy đối với các tỉnh này thường xuyên phải để xuất với Trung ương hỗ trợ. Để có sự hỗ trợ của Trung ương thì nguồn dự phòng của các tỉnh phải chi hết hoặc có kế hoạch chi hết và như vậy đã dẫn đến khó khăn cho các tỉnh thực hiện cứu trợ. Chi ngân sách phụ thuộc hoàn toàn vào khả năng thu ngân sách của địa phương và với tỉnh nghèo thì Chính phủ lại thường xuyên phải tăng tiến độ cấp ngân sách và bổ sung thêm ngân sách cho cứu trợ. + Sự tách biệt quản lý tài chính với tổ chức thựchiện chính sách cũng là những khó khăn trong việc hỗ trợ cho các địa phương khi bị thiên tai. Ngành LĐTBXH chịu trách nhiệm quản lý nhà nước về công tác CTXH. Nhưng nguồn lực tài chính lại được quyết định do bởi ngành Tài chính. Đối với nguồn huy động ngoài ngân sách do Hội CTĐ và UBMTTQ Việt Nam vận động, huy động, quản lý và phân phối chưa có sự phối hợp chặt chẽ với cơ quan quản lý nhà nước, dẫn đến phân bổ kinh phí cứu trợ đôi khi không hợp lý. + Chưa thiết lập được quy dự phòng riêng ở cấp quốc gia, khu vực hay xảy ra thiên tai nên khi có tình huống diễn ra không thể tránh khỏi bị động. Mỗi khi tình thế xảy ra lại phải xử lý trình Chính phủ và sẽ bị chậm. Chính vì vậy mà công tác tổ chức triển khai cứu trợ bị chậm trễ, lúng túng, bị động. - Công tác CTĐX còn chưa được coi trọng đúng mức, các chính sách, chế độ về cứu trợ còn mang tính bị động, chắp vá, thiếu hệ thống và toàn diện; chính sách chậm được bổ sung, sửa đổi cho phù hợp. - Nắm bắt tình hình còn chủ quan, bị động. Chính do nguyên nhân này mà tất cả các hoạt động của công tác CTĐX bị chậm lại và bị động. - Công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện còn chưa sát sao; một số tổ chức hiệp hội, đoàn thể hoặc cá nhân tích cực tham gia nhưng còn thiếu phương hướng, mục tiêu và nội dung cụ thể, có trường hợp mang tính chất hình thức và phô trương. Nhiều tổ chức chính phủ, phi chính phủ, tổ chức từ thiện quốc tế muốn giúp đỡ Việt Nam nhưng nhiều lúc gặp khó khăn, trắc trở vì thiếu đầu mối quan hệ, hướng dẫn và phải qua nhiều thủ tục phức tạp, rắc rối. - Chưa có sự phân công, phân nhiệm rõ ràng trong trách nhiệm CTĐX. Đối với nước ta CTĐX dường như vẫn chỉ là trách nhiệm của Chính phủ mà cơ quan chịu trách nhiệm trực tiếp là Bộ LĐTBXH cho nên trước một công việc có đối tượng và phạm vi rộng lớn thì việc bỏ sót đối tượng, không đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ là điều dễ hiểu và tất yếu không thể tránh khỏi. - Đội ngũ cán bộ làm công tác CTĐX chưa chuyên nghiệp, kiêm nhiệm nhiều công việc. Do vậy, trong thời gian tới để có thể khắc phục những hạn chế này cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, từ khâu nghiên cứu xây dựng chính sách đến quá trình tổ chức thực hiện. Đồng thời tiến hành lồng ghép với các chương trình, dự án có liên quan tới CTĐX…. CHƯƠNG III PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI TRONG THỜI GIAN TỚI (GIAI ĐOẠN 2006 - 2010) I. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT. 1. Quan điểm đẩy mạnh công tác CTĐX. Những năm tới tình hình thời tiết còn có thể diễn biến phức tạp, mức độ nghiêm trọng ngày càng có chiều hướng gia tăng. Vì vậy, cùng với công tác phòng chống giảm nhẹ thiên tai, công tác cứu trợ đảm bảo đời sống dân sinh cũng phải được tăng cường và chú trọng đặc biệt. Phải chuẩn bị chu đáo ngay từ đầu năm, phải có kế hoặc chủ động từng cấp và phối hợp chặt chẽ giữa các ngành trong việc phòng chống thiên tai, khắc phục hậu quả đảm bảo ổn định đời sống dân sinh nhanh nhất. Để công tác cứu trợ xã hội đáp ứng được yêu cầu trong thời gian tới, công tác CTĐX cần thấu suốt các quan điểm sau đây: Thứ nhất, CTXH là trách nhiệm của cả 3 phía: Nhà nước, cộng đồng và bản thân người được cứu trợ. Bất cứ lúc nào, ở đâu cũng phải quán triệt “thế kiềng ba chân” trong công tác CTĐX. CTĐX là trách nhiệm của Đảng và Nhà nước đồng thời là mối quan tâm, lo lắng của toàn dân, toàn xã hội. Hoạt động cứu trợ không phải là việc riêng của tổ chức và cá nhân nào. Mọi tổ chức và cá nhân đều có quyền và có thể tham gia đóng góp vào hoạt động CTĐX. Phải phát huy vai trò, sức mạng cộng đồng. CTĐX là hoạt động diễn ra ngay tại cộng đồng nên phải dựa vào cộng đồng và giải quyết ngay tại cộng đồng. Coi cứu trợ tại cộng đồng là chính, Nhà nước chỉ hỗ trợ khi sự giúp đỡ từ cộng đồng không không đủ mạnh để đưa các đối tượng phải cứu trợ vượt qua khó khăn. Đồng thời, phải động viên sự vươn lên tự khắc phục của bản thân đối tượng, tránh ỷ lại vào Nhà nước và xã hội. Thứ hai, CTĐX phải coi trọng cả hai mặt: trước mắt và lâu dài, cứu trợ “đột xuất” không phải chỉ là cứu có ý nghĩa trước mắt mà phải coi trọng dự phòng nhằm ổn định đời sống lâu dài cho đối tượng. Làm sao để tuy là cứu đột xuất nhưng lại có ý nghĩa không chỉ đột xuất mà còn là lâu dài. Thứ ba, CTXH nói chung và CTĐX nói riêng là hoạt động mang tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc, kết hợp những giá trị của nền văn minh nhân loại với truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta. CTĐX cần phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc - truyền thống “lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều”, “một miếng khi đói bằng một gói khi no” với nhiều hình thức hoạt động phong phú, khuyến khích các tổ chức quần chúng, từ thiện, tôn giáo, nhà hảo tâm…làm việc thiện. Đây là một sức mạnh rất to lớn và tiềm tàng có ảnh hưởng lớn tới kết quả của công tác CTĐX và tiến tới thực hiện xã hội hoá công tác CTĐX. Thứ tư, coi trọng kế hoạch hoá công tác CTĐX, hàng năm ở các địa phương, ngành LĐTBXH phải xây dựng được kế hoạch cứu trợ nêu ra việc phải làm của CTĐX. Kế hoạch được cân đối trong kế hoạch chung của địa phương. Thứ năm, kiện toàn và ổn định hệ thống tổ chức làm công tác CTĐX từ Trung ương đến địa phương. Đào tạo và xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên sâu làm công tác CTĐX nhất là ở xã, phường, cơ sở. Tăng cường cơ sở vật chất để công tác CTĐX có thể đảm đương được nhiệm vụ. Những người bị thiên tai, đói giáp hạt…được hỗ trợ kịp thời, phục hồi sinh hoạt, ổn định đời sống. 2. Phương hướng đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất. - Cải tiến hệ thống chính sách về BTXH nói chung và cứu trợ đột xuất nói riêng. Hoàn thiện hệ thống trợ cấp xã hội. Đây là một vấn đề rộng lớn, liên quan đến nhiều lĩnh vực. Nhưng có hoàn thiện hệ thống trợ cấp xã hội thì công tác cứu trợ đột xuất mới có khuôn khổ, hành lang hoạt động vững chắc. Phải hoàn thiện hệ thống trợ cấp xã hội vì bản chất của cứu trợ đột xuất là một hình thức trợ cấp, trợ giúp xã hội cho những đối tượng gặp hoàn cảnh khó khăn trong cuộc sống. - Đẩy mạnh xã hội hoá công tác CTĐX trong tất cả các hoạt động đặc biệt trong quá trình huy động nguồn lực và tổ chức thực hiện cứu trợ. - Hình thành quỹ riêng cho CTĐX, đây là một hướng để cho công tác cứu trợ đột xuất được chủ động và kịp thời hơn. - Phấn đấu nâng cao mức cứu trợ đột xuất, phải nâng cao mức cứu trợ vì 2 lý do: Thứ nhất là vì trong những năm qua nguồn kinh phí cho thực hiện cứu trợ hàng năm còn rất ít ỏi, mức cứu trợ đối với từng loại đối tượng còn rất thấp nếu không muốn nói là qua loa, hình thức, trong khí đó nguồn lực có thể huy động được từ cộng đồng còn rất lớn. Có thể tăng mức CTĐX cho các đối tượng bằng cách huy động thêm kinh phí từ cộng đồng. Thứ hai là vì đời sống của nhân dân nói chung, nhu cầu (tối thiểu) của con người ngày càng tăng lên, do đó chúng ta không thể cứ giữ mãi mức cứu trợ như cũ được. Như vậy, việc phải nâng cao mức cứu trợ đột xuất là hoàn toàn hợp lý và cần thiết. - Cứu trợ đột xuất cần kết hợp chặt chẽ với các chương trình phát triển kinh tế - xã hội, công tác phòng chống thiên tai, làm tốt việc dự phòng, dự báo vì số đối tượng phải cứu trợ đột xuất nhiều hay ít phụ thuộc rất lớn và hậu quả của thiên tai, mà hậu quả của thiên tai lớn hay nhỏ lại phụ thuộc vào vào công tác phòng chống thiên tai. Đây chính là một phương hướng có ý nghĩa lâu dài của công tác CTĐX. 3. Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn 2006 - 2010 a. Về chính sách cứu trợ, trước mắt cần thực hiện tốt những quy định về chính sách CTĐX hiện hành. Nếu có thể cần nâng mức hỗ trợ (hộ có người chết, bị thương, nhà đổ, sập, trôi, hư hại, người thiếu đói) cho phù hợp với tình hình thực tế. b. Kiểm tra, nắm chăc tình hình thiệt hại của nhân dân để báo cáo đề xuất cấp trên giải quyết kịp thời những vấn đề thiết yếu về ăn, ở của nhân dân. Trong đó, đề nghị UBND các tỉnh chỉ đạo ngành LĐTBXH và các ngành có liên quan chủ động nắm tình hình thiếu đói, thiệt hại do thiên tai, lập phương án trình UBND tỉnh cứu đói cho những gia đình có hoàn cảnh khó khăn trong dịp giáp hạt và thiên tai để họ có điều kiện ổn định cuộc sống và tiếp tục phát triển sản xuất. Trích một khoản kinh phí cấp cho các xã vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn làm quỹ CTXH dự phòng giao cho UBND xã quản lý để kịp thời cứu trợ cho những người bị hậu quả thiên tai trong khi nguồn cứu trợ của tỉnh và Chính phủ chưa kịp chuyển về. c. Chuẩn bị nguồn lực để ứng phó với thiên tai bao gồm về phương tiện cứu hộ, lương thực, thuốc men dự trữ trong dân; nguồn lực dự trữ của các cấp, các ngành chức năng. d. Có phương án di dời dân ở những vùng có nhiều nguy cơ sạt lở, ngập sâu về nơi an toàn trước mùa mưa lũ; phương án cần phải cụ thể hoá ở cả đầu dân di dời và đầu dân đến. e. Kiện toàn hệ thống thông tin báo cáo tình hình kịp thời, chính xác phục vụ cho sự chỉ đạo của Trung ương, địa phương và các cấp. e. Tổ chức cứu trợ: + Ban tiếp nhận hàng, tiền cứu trợ của nhân dân, xã hội. + Điều phối tiền hàng cứu trợ của nhân dân và tổ chức xã hội quyên góp ủng hộ. + Tổ chức lực lượng xung kích vận chuyển hàng hoá, lương thực đến vùng dân vùng dân cư bị chia cắt để đảm bảo cuộc sống. + Tổ chức lực lượng hỗ trợ nhân dân (những hộ nhà bị đổ, sập, trôi) ổn định nơi ăn, ở, đường xá, môi trường. II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2006 – 2010. 1. Hoàn thiện hệ thống chính sách về cứu trợ đột xuất. Chính sách cứu trợ đột xuất là một trong những chính sách đối với con người. Trong điều kiện cơ chế thị trường phát triển mạnh mẽ quá trình phân tầng xã hội, phân hoá giàu nghèo ngày càng gay gắt và sâu sắc chính sách cứu trợ đột xuất càng phải được mở rộng, nâng cao và hoàn thiện. Thực hiện tốt công tác cứu trợ đột xuất góp phần đảm bảo công bằng xã hội, ổn định chính trị và góp phần phát triển kinh tế. Mặt khác đối với nước ta, điều kiện tự nhiên cũng như các yếu tố kinh tế - xã hội luôn luôn thay đổi, có yếu tố thay đổi theo hướng tích cực, có yếu tố thay đổi theo hướng tiêu cực, bất lợi nên chính sách cho các đối tượng CTĐX cũng phải thay đổi cho phù hợp. Có thế công tác CTĐX mới có hành lang pháp lý rõ ràng khi triển khai công việc. Trong giai đoạn tới hướng thay đổi chính sách là: chính sách CTĐX kết hợp với các chinh sách khác như Bảo hiểm xã hội, xoá đói giảm nghèo, chăm sóc các đối tượng có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn… tạo thành hệ thống chính sách ASXH hoàn thiện. Chính sách cứu trợ đột xuất phải vừa có ý nghĩa trước mắt vừa có ý nghĩa lâu dài. Chính sách cứu trợ đột xuất phải góp phần làm cho các đối tượng vượt qua được khó khăn trước mắt, có cuộc sống an toàn hơn và góp phần xoá đói giảm nghèo 2. Tăng cường hệ thống dự báo, cảnh báo sẵn sàng đối phó với những biến cố đột xuất có thể xảy ra Để công tác CTĐX được thuận lợi, vững chắc và có hiệu quả công tác cảnh báo phòng ngừa phải được nâng lên ở mức độ cao hơn. Kinh nghiệm thực tế cho thấy thiên tai xảy ra gây thiệt hại cho đời sống dân sinh lớn thì một trong những nguyên nhân là thông báo chậm, không đủ thời gian để nhân dân di dời và phòng chống. Như đã trình bày ở Chương I của Chuyên đề, do nước ta nằm trong khu vực có địa hình và điều kiện tự nhiên rất phức tạp, điều này không những gây khó khăn cho hoạt động phát triển kinh tế nói chung mà còn gây cả khó khăn cho hoạt động cứu trợ khi có thiên tai, địch hoạ xảy ra. Do đó, có thể giảm bớt những khó khăn này thì cần có sự dự báo trước những diễn biến xấu có thể xảy ra, để kịp thời phòng tránh và khắc phục. Dự báo khí tượng thuỷ văn là công việc vô cùng ý nghĩa đối với công tác CTĐX. Nó có thể gây khó khăn hoặc thuận lợi cho công tác CTĐX. Nếu công tác dự báo, cảnh báo khí tượng thuỷ văn có những dự báo sớm, chính xác về những biến cố đột xuất (diễn biến tình hình thời tiết, thiên tai, hoả hoạn, hạn hán, lũ lụt….) có thể xảy ra thì nó sẽ góp phần làm cho hoạt động CTĐX được thực hiện kịp thời, hạn chế đến mức thấp nhất thiệt hại do những biến cố này gây ra. Ngược lại, nếu hoạt động dự báo khí tượng, thuỷ văn mà hoạt động không tốt, những thông tinh đưa ra thiếu chính xác thì hoạt động CTĐX, đối phó với với thiên tai sẽ trở lên bị động, hậu quả khó lường. Bởi vậy trong giai đoạn tới, Nhà nước cần phải đẩu tư hơn nữa vào hoạt động dự báo khí tượng thuỷ văn để trước hết là nhân dân có thể tự phòng tránh và sẵn sàng đối phó với những diễn biến xấu của tình hình thời tiết, và sau đó là nếu thiên tai, hoả hoạn có xảy ra thì hoạt động cứu trợ sẽ được tiến hành kịp thời, nhanh chóng. 3. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho những vùng sung yếu, vùng hay xảy ra thiên tai, vùng sâu, vùng xa. Cơ sở hạ tầng yếu kém được xác định là yếu tố gây trở ngại lớn cho công tác CTĐX. Yêu cầu của CTĐX là phải nhanh và kịp thời nhưng những yêu cầu này lại bị giới hạn bởi những khó khăn của cơ sở hạ tầng. Cơ sở hạ tầng có tốt thì hoạt động cứu trợ và đối phó với thiên tai sẽ mới tốt. Cơ sở hạ tầng tốt thì công tác di dời, đối phó với thiên tai sẽ nhanh chóng và kịp thời hơn. Đồng thời, cơ sở hạ tầng được cải thiện không những giúp cho công tác CTĐX mà còn giúp cho cả quá trình phát triển kinh tế - xã hội và đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo. Tăng cường cơ sở hạ tầng cho những vùng này cần phải được thực hiện lồng ghép với các chương trình xoá đói giảm nghèo, phòng chống và giảm nhẹ thiên tai theo một quy hoạch hợp lý và vững chắc, có tính lâu dài. 4. Lập quỹ dự phòng riêng cho CTĐX tại các địa phương do địa phương quản lý. Kết quả của CTĐX phụ thuộc rất lớn vào nguồn kinh phí, có kinh phí thì mới có thể cứu trợ (kinh phí ở đây có thể là tiền mặt hoặc hàng hoá). Trong giai đoạn 2000 – 2005, nước ta vẫn chưa có quỹ dự phòng riêng cho CTĐX ở cấp quốc gia cũng như ở từng địa phương do đó mà công tác CTĐX thời giam vừa qua rất bị động vì phụ thuộc vào nguồn kinh phí từ trên đưa xuống. Hiện nay việc lập quỹ dự phòng CTĐX đã được thí điểm lập ở một số xã, bước đầu phát huy rất tốt vai trò của nó, như ở Tây nguyên mặc dù còn nghèo, nhưng đều bố trí một khoản kinh phí cho các xã khoảng 10 - 20 triệu đồng làm quỹ cứu trợ dự phòng nên công tác cứu đói và cứu trợ thiên tai được chủ động kịp thời hơn, vai trò của UBND xã được nâng lên, trợ cấp cứu trợ đúng đối tượng, thực hiện dân chủ công khai, góp phần ổn định an ninh, chính trị, xã hội. Điển hình là các tỉnh Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, tuy kinh tế còn nhiều khó khăn nhưng từ 2 năm nay, các tỉnh đã bố trí mỗi xã từ 10 đến 15 triệu đồng làm quỹ cứu trợ xã hội dự phòng (riêng các xã biên giới 20 triệu đồng). Như vậy việc nhân rộng lập quỹ dự cứu trợ xã hội dự phòng tại các địa phương, các xã hay xảy ra thiên tai là rất đúng đắn và có ý nghĩa. Do đó trong giai đoạn tới, theo đề nghị của các tỉnh, Chính phủ nên nghiên cứu xem xét tiếp tục trợ giúp cứu trợ đột xuất bằng tiền để các địa phương chủ động, tránh tổn thất vận chuyển và hao phí lúc phân phối. Đồng thời nên chỉ đạo lập quỹ cứu trợ xã hội dự phòng tại cấp xã để chủ động cứu trợ kịp thời. Những tỉnh chưa có quỹ cứu trợ dự phòng tại xã, khi thiên xảy ra thường lúng túng bị động, trông chờ nguồn hỗ trợ từ tỉnh, huyện. Mặt khác, mặc dù Quỹ phòng chống lụt bão đã được Chính phủ thành lập ở tất cả các địa phương trong cả nước. Theo quy chế sử dụng quỹ này, chúng ta đề nghị quỹ phòng chống lụt bão chi một phần thích đáng cho CTĐX. Song, Quỹ phòng chống lụt bão không chi cho cứu đói giáp hạt (vốn là hậu quả của thiên tai làm mất mùa) và chiếm phân lớn kinh phí cứu trợ hàng năm, và vẫn nên xây dựng Quỹ dự phòng, đặc biệt là ở một số tỉnh thường xuyên xảy ra thiếu đói những vùng miền núi phía Bắc, vùng ven biển khu 4 (cũ) và Tây nguyên. Về nguồn hình thành quỹ, không nên chỉ dựa vào số đóng góp của toàn dân như quỹ phòng chống lụt bão. - Ở Trung ương: hàng năm nhà nước tính một tỷ lệ ngân sách cho Quỹ này cùng các nguồn viện trợ nếu có. Việc có Quỹ dự phòng là cần thiết và hợp lý vì không năm nào chúng ta không phải chi hàng chục tỷ đồng cho CTĐX và phải nhiều năm nữa mới có thể giảm được đáng kể khi mà hệ thống cảnh báo và công tác phòng chống, giảm nhẹ thiên tai được cải thiện tốt hơn. Nếu có Quỹ dự phòng chúng ta có thể xử lý được một cách chủ động kịp thời, hiệu quả, đó là yếu tố số 1 của CTĐX. - Ở địa phương: quỹ của tỉnh, huyện, xã được trích từ ngân sách, có thể bao gồm cả sự đóng góp của các tổ chức Nhà nước và tư nhân, các nhà hảo tâm, các nguồn viện trợ trực tiếp của nước ngoài, các khoản thu hồi nợ nhân dân vay Nhà nước từ những năm trước. Vấn đề đặt ra là: Cần có quy chế chặt chẽ trong phân cấp xử lý cứu trợ, chấm dứt tình trạng đùn đẩy nhau và ỷ lại vào Nhà nước; mặt khác phải xây dựng được phương thức sử dụng bảo tồn quỹ thật tốt hạn thất thoát, tiêu cực. - Tiền Nhà nước cần được gửi vào Ngân hàng có lãi để phát triển Quỹ. - Ngoài việc cho vay giải quyết cứu trợ, căn cứ vào khả năng Quỹ, có thể cho hộ nghèo vay vốn đầu tư, phát triển kinh tế gia đình thoát ra khỏi đói nghèo. Đây là biện pháp phòng tránh từ xa làm giảm số đối tượng CTĐX. - Khoản cho nhân dân vay lâu nay vốn khó thu hồi, có lý do là chưa cơ quan nào được giao đầy đủ quyền hạn để chủ trì và đốc thúc việc thu hồi. Thời gian tới giao cho một cơ quan chịu trách nhiệm kết hợp với một số ngành khác thu hồi nợ khi người vay có điều kiện trả. 5. Thực hiện chương trình quản lý nguy cơ thiên tai dựa vào cộng đồng và cứu trợ cộng đồng tại chỗ. Để có thể hiểu được Chương trình - giải pháp này, trước tiên chúng ta cần thống nhất một số khái niệm: Cộng đồng: là một nhóm người sống trong cùng một khu vực địa lý, cùng chống chịu các loại thiên tai chung do đặc điểm nơi ở của họ. Họ có thể cùng chung kinh nghiệm trong việc ứng phó với các hiểm hoạ và thiên tai. Tuy nhiên họ có thể có những quan niệm và chịu ảnh hưởng khác nhau đối với rủi ro Hiểm hoạ: là mộtmối đe doạ tiềm tàng đối với con người và tài sản của họ. Hiểm hoạ có thể là hiểm hoạ tự nhiên hoặc do con người gây ra. Thảm hoạ: là bất kỳ tình huống nào khi có một mối đe doạ khác thường và ngày càng lan rộng đối với tính mạng, sức khoẻ hoặc sự sống căn bản của người dân mà nằm ngoài khả năng đối phó của cá nhân và cộng đồng. Rủi ro thiên tai: là khả năng xảy ra một hiểm hoạ cụ thể và gây ảnh hưởng có hại đến tính mạng và tài sản của cộng đồng. Quản lý rủi ro thiên tai: việc ứng dụng có hệ thống các chính sách, các thủ tục, các hoạt động nhằm xác định, phân tích, đánh giá ban đầy, giám sát và xác định/giảm thiểu và đánh giá rủi ro. Việc này liên quan đến quá trình quyết định thông qua việc xem xét những rủi ro đó, bao gồm xem xét các hiểm hoạ, tình trạng dễ bị tổn thương, và năng lực của hộ gia đình, cộng đồng và các ban ngành. Quản lý rủi ro thiên tai có sự tham gia của cộng đồng: là một quá trình quản lý rủi ro thiên tai trong đó cộng đồng tham gia vào việc xác định, phân tích, xử lý, giám sát và đánh giá rủi ro thiên tai nhằm giảm nhẹ tình trạng dễ bị tổn thương của họ và nâng cao năng lực. Người dân là trọng tâm của các quyết định và việc thực hiện các hoạt động quản ý rủi ro thiên tai. Sự tham gia của những người dễ bị tổn thương nhất và sự hỗ trợ cho họ có ý nghĩa quyết định, và việc hỗ trợ cho những người ít bị tổn thương hơn là cần thiết. Chính quyền cấp Trung ương và địa phương cần tham gia và hỗ trợ. Thực hiện quản lý rủi ro thiên tai có sự tham gia của cộng đồng, xây dựng phong trào cứu trợ cộng đồng tại chỗ là biện pháp nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của số đông người, của cả cộng đồng xã hội để giúp đỡ những người bị thiệt do hại thiên tai, mất mùa. Thời gian qua, một số địa phương đã có phong trào này, nhưng do chưa coi trọng đúng mức nên hình thức còn nghèo nàn, kết quả còn hạn hẹp. Trong thời gian tới tổ chức và thực hiện phong trào cứu trợ cộng đồng phải là trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành, các tổ chức và cá nhân. Cần kiên trì, bền bị phát động, duy trì mọi hình thức, khuyến khích trân trọng các nhân tố, biện pháp mới. Nếu biết khơi dậy tinh thần tương thân, tương ái vốn sẵn có của đồng bào ta thì ngoài sự giúp đỡ của gia đình, họ hàng…mỗi khi gặp khó khăn, người khá có thể giúp người nghèo, nơi này có thể giúp nơi kia, thậm chí người nghèo ở mức độ khác nhau vẫn có thể giúp đỡ được cho nhau. Việc giúp đỡ không nhất thiết là cho không mà có thể bằng nhiều hình thức khác nhau như: - Tổ chức quyên góp, ủng hộ rộng rãi trong nhân dân. - Vận động các cơ quan Nhà nước, các cơ sở sản xuất tư nhân, các tổ chức xã hội và từ thiện, các nhà hảo tâm…trực tiếp giúp đỡ người khó khăn bằng tiền, hiện vật, công sức, cho vay không lấy lãi hoặc đóng góp vào các Hội, các quỹ CTĐX. - Xây dựng và tạo điều kiện để các Hội, và Quỹ cứu trợ hoạt động tốt. Các hình thức này tuy đã và đang được thực hiện rồi nhưng chúng ta vẫn cần phải nhắc ở đây vì bản thân những hình thức này chưa khác thác được hết nguồn lực từ đối tượng của nó - nguồn lực mà cộng đồng và xã hội có thể ủng hộ, đóng góp còn rất lớn và đa dạng. Như đã trình bày ở những Chương trước, công tác CTĐX là công tác mà hoạt động của nó phụ thuộc rất lớn vào kết quả của công tác phòng chống và giảm nhẹ thiên tai. Hậu quả của thiên tai càng nhỏ thì công tác cứu trợ càng bớt gành nặng. Ngược lại hậu quả thiên tai càng lớn thì gánh nặng của CTĐX nói riêng và bản thân xã hội nói chung càng lớn. Hơn nữa do đặc điểm sinh sống tập trung của dân cư nước ta, nên khi có thiên tai hay bất kỳ biến cố đột xuất nào đó xảy ra thì dân cư, làng xóm ở khu vực xảy ra biến cố đó là những người ở gần các đối tượng bị ảnh hưởng nhất. Do đó chỉ có họ mới đảm bảo được yêu cầu cứu trợ kịp thời nhất cho những người bị nạn bằng tình làng nghĩa xóm. Mặt khác, bất kỳ một hoạt động nào nói chung và hoạt động CTĐX nói riêng, khi có sự tham gia rộng rãi của cộng đồng thì bao giờ cũng đảm bảo được tính dân chủ và hạn chế được đến mức thấp nhất phần thất thoát vô lý. Do vậy, quản lý rủi ro thiên tai có sự tham gia của cộng đồng, thực hiện cứu trợ cộng đồng tại chỗ là một chủ trương đúng đắn và cần thiết. Với mục tiêu chung đến năm 2010: tăng cường năng lực cộng đồng về phòng ngừa và ứng phó thảm hoạ nhằm giảm thiểu thiệt hại về người và tài sản của đối tượng dễ bị tổn thương tại các vùng trọng điểm thiên tai. Đây là một chương trình mà khi thực hiện nó, trước tiên cộng đồng có thể tự phòng tránh và giảm nhẹ thiên tai, giảm nhẹ những thiệt hại cả về người và tài sản cho chính bản thân mình. Sau đó nếu thiệt hại có xảy ra mà cần phải cứu trợ đột xuất thì công tác CTĐX cũng sẽ được tiến hành một cách rất thuận lợi bởi nó sẽ nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của cộng đồng dân cư, các tổ chức kinh tế - xã hội mà trước hết là sự ủng hộ của chính cộng đồng dân cư, các tổ chức kinh tế xã hội sở tại - đây chính là những người gần các đối tượng đang cần cứu trợ nhất. Chính điều này sẽ đảm bảo yêu cầu kịp thời cho công tác CTĐX. 6. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa cứu trợ đột xuất với các chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. Do phần lớn số người thiếu đói phải CTĐX hàng năm là những người thiếu đói do giáp hạt, là những hộ nghèo nên cần gắn công tác CTĐX, giảm nhẹ thiên tai với xóa đói giảm nghèo và quản lý môi trường bền vững. Xoá được hộ đói, giảm được hộ nghèo sẽ giảm bớt số đối tượng dễ bị tổn thương. Mặt khác, đầu tư vào xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội cũng sẽ làm hoạt động cứu trợ được thuận lợi do cơ sở hạ tầng và các yếu tố văn hoá – xã hội được cải thiện và phát triển. CTĐX sẽ nằm trong chương trình xoá đói giảm nghèo và một bộ phận của chương trình này. Đây là biện pháp cơ bản, lâu dài nhằm nâng cao mức sông nhân dân, từ đó giảm số người thiếu đói giáp hạt mỗi năm. CTĐX phải nằm trong chương trình xoá đói giảm nghèo hay nói cách khác CTĐX là một bộ phận của chương trình này. Nhân dân những vùng thường bị thiên tai mất mùa, những vùng khó khăn về điều kiện canh tác, những vùng khí hậu khắc nghiệt được ưu tiên các dự án việc làm, được vay vốn với lãi suất thấp. Được thực hiện các dự án về kinh tế mới, xây dựng các công trình thuỷ lợi, cơ sở hạ tầng (đường sá, cầu cống, trạm y tế, nhà văn hoá,…). Như vậy trong thời gian tới cần thiết phải xây dựng, củng cố và tiếp tục lồng ghép công tác CTĐX với các chương trình xoá đói giảm nghèo và phát triển kinh tế xã hội, bằng cơ chế giúp nhân dân nâng cao mức sống, có dự trữ để khi có thiên tai, mất mùa đều có thể tự cứu hoặc giúp đỡ nhau ngay tại cộng đồng hướng tới mục tiêu xoá đói giảm nghèo bền vững. 7. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý nguồn cứu trợ. Để công tác cứu trợ được thuận lợi hơn thì nguồn cứu trợ cần quản lý một cách chặt chẽ, thuận tiện, công bằng khi phân bổ. Việc quản lý các nguồn cứu trợ cần có các cơ quan chuyên trách, chuyên làm nhiệm vụ quản lý và giám sát, từ việc huy động nguồn lực đến phân bổ chúng. Có như vậy không những công tác cứu trợ đột xuất được thuận tiện hơn mà cả lòng tin của cộng đồng - những người ủng hộ vào nguồn cứu trợ cũng được tăng lên, vì họ yên tâm rằng đồng tiền mà mình bỏ ra ủng hộ sẽ được sử dụng đúng mục đích. Cụ thể, trước khi thực hiện cứu trợ, cơ quan quản lý nguồn cứu trợ công bố công khai tình hình nguồn quỹ hiện có và khả năng huy động từ nguồn ngân sách nhà nước (kể cả ngân sách Trung ương và ngân sách địa phương) để từ đó các cơ quan như UBMTTQ, Hội CTĐ… nắm được tình hình và có biện pháp huy động đáp ứng yêu cầu cứu trợ. Sau khi thực hiện cứu trợ xong cơ quan thực hiện cứu trợ báo cáo tình hình chi cứu trợ, kết quả cứu trợ để cơ quan quản lý quỹ tổng hợp và thông báo rộng khắp cho các cơ quan, ban ngành đoàn thể liên quan và toàn thể quần chúng nhân dân được biết. Đây chính là cách quản lý công khai nguồn quỹ. Đồng thời bằng cách này thông qua việc cơ quan quản lý quỹ thông báo tình hình huy động và sử dụng nguồn quỹ, quần chúng nhân dân có sự đối chiếu, so sánh xem những số liệu đó có đúng với thực tế không. Như vậy sẽ góp phần giảm bớt những tiêu cực trong việc quản lý và sử dụng nguồn cứu trợ. 8. Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác CTĐX từ trên xuống. Ở nước ta hiện nay về cơ bản chưa có đội ngũ làm công tác CTĐX chuyên nghiệp, có thì cũng mới chỉ là cơ quan cùng một lúc làm nhiều công việc kiêm nhiệm, hiệu quả không cao. Trong những năm tới để ứng phó được với tình hình thực tế thì cần thiết phải thưòng xuyên tập huấn, đào tạo đội ngũ cán bộ (có tính chuyên nghiệp) làm công tác này theo hệ thống từ Trung ương tới các cơ sở xã, phường. Ngoài đào tạo cán bộ, đối với những vùng hay xảy ra thiên tai có thế mở rộng bồi dưỡng kiến thức, cung cấp thông tin cho cả quần chúng nhân dân để họ tự phòng tránh từ xa. Đó là những yếu tố quan trọng đảm bảo thành công cho CTĐX. III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ Với những chính sách giải pháp như trên, để công tác CTĐX hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, một số khuyến nghị được nêu ra là: 1. Tăng cường sự phối hợp giữa các bộ, ngành và địa phương trong quá trình thực hiện CTĐX. Cần có những biện pháp tuyên truyền và những chính sách để mọi người đều hiểu CTĐX không phải là trách nhiệm của riêng Đảng và Nhà nước mà đó là trách nhiệm chung của cả cộng đồng và xã hội. 2. Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ làm công tác CTĐX. Đồng thời có các biện pháp tăng khả năng phòng tránh thiên tai, địch hoạ, tự hạn chế đến mức thấp nhất những thiệt hại về người và tài sản cho cộng đồng, đặc biệt là các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương. 3. Tăng cường công tác kiêm tra, giám sát thực hiện, đặc biệt là quá trình quản lý và sử dụng nguồn cứu trợ. 4. Tiếp tục thực hiện việc lồng ghép các mục tiêu, nhiệm vụ của công tác CTĐX với các mục tiêu, nhiệm vụ của Chương trình mục tiêu quốc gia về tăng trưởng, xoá đói giảm nghèo và giải quyết việc làm. 5. Tăng cường sự tham gia của cộng đồng trong công tác CTĐX (từ khâu xây dựng chính sách đến quá trình thực thi chính sách và huy động, quản lý nguồn lực) để mọi người đều hiểu sự tham gia của cộng đồng chính là yếu tố tạo nên tính bền vững cả trước và sau cứu trợ. KẾT LUẬN Ở một quốc gia mà hàng năm luôn phải chịu ảnh hưởng rất nặng nề của thiên tai, hạn hán, lũ lụt…; số đối tượng cần cứu trợ lên tới hàng triệu người mỗi năm. Trong giai đoạn vừa qua (2000 – 2005) công tác CTĐX nhìn chung đã làm được nhiều việc to lớn, cứu giúp và bù đắp mất mát cho hàng vạn gia đình. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng chính sách và tổ chức thực hiện vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chế, yếu kém, kết quả đạt được còn chưa đáp ứng được yêu cầu và hoàn cảnh mới. Trong thời gian tới (giai đoạn 2006 – 2010) được dự báo là giai đoạn mà diễn biến của tình hình thời tiết khí hậu còn có nhiều diễn biến khó lường. Do đó để đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, đồng thời thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta - chế độ xã hội mà nhà nước là của dân, do dân, vì dân, mọi lợi ích thuộc về nhân dân; con người là chủ thể duy nhất của xã hội… Bởi vậy, cần thiết phải đẩy mạnh công tác CTĐX, CTĐX phải đúng như tên gọi của nó, đó phải là trở thành một nhiệm vụ cấp bách và CTĐX quan trọng nhất phải là khâu nắm tình hình. Để đẩy mạnh công tác CTĐX cần thực hiện đồng bộ các chính sách, giải pháp. Đồng thời phải có sự nỗ lực, chung tay của cả cộng đồng, xã hội, đặc biệt là chính bản thân của các đối tượng yếu thế, dễ bị tổn thương. Đẩy mạnh công tác CTĐX chính là một hoạt động nhằm phát huy truyền thống quý báu của dân tộc ta, tăng cường tính đoàn kết, góp phần ổn định kinh tế và chính trị, an ninh - quốc phòng./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Giáo trình Kinh tế phát triển, Trường Đại học KTQD Hà Nội. Nxb Lao động - xã hội, 2005. 2. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI, VII, VIII, IX. Nxb Chính trị quốc gia. 3. Một số vấn đề về chính sách bảo đảm xã hội ở nước ta hiện nay. Viện Khoa học lao động và các vấn đề xã hội, Bộ LĐTBXH. 4.Tài liệu tập huấn chính sách CTXH, Bộ LĐTBXH, 2002. 5. Báo cáo hệ thống ASXH ở Việt Nam. Nhóm chuyên gia Bộ LĐTBXH, 9/1999. 6. Quản lý Nhà nước về đô thị. Học viện Hành chính quốc gia. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 7. Toạ đàm lần thứ nhất về vai trò của cộng đồng trong quản lý nguy cơ thiên tai, Hà nội, 25/6/2004. 8. Số liệu hệ thống AHXH Việt Nam. Nxb Lao động - Xã hội, 1999. 9. Hệ thống văn bản về Bảo trợ xã hội và xoá đói giảm nghèo. Nxb Lao động - Xã hội, 2004 10. Các quy định pháp luật về Ngân sách nhà nước. Nxb Lao động - xã hội, 2004 11. Số liệu Bảo trợ xã hội các năm 2000 : 2005. Vụ BTXH, Bộ LĐTBXH. 12. 55 năm xây dựng và phát triển ngành Lao động - Thương binh và Xã hội. Nxb Lao động – Xã hội, tháng 8/2000. 13. Tạp chí Xã hội học Số 3&4 (67&68), 1999. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT ASXH An sinh xã hội BTXH Bảo trợ xã hội CNH, HĐH Công nghiệp hoá, hiện đại hoá CTĐX Cứu trợ đột xuất CTĐ Chữ thập đỏ CTXH Cứu trợ xã hội ĐBSCL Đồng bằng Sông Cửu Long LĐTBXH Lao động – thương binh và xã hội UBTƯMTTQ Uỷ ban Trung ương Mặt trận tổ quốc Việt Nam CTTX Cứu trợ thường xuyên MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I: VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 3 I. MỘT SỐ KHÁI NIỆM 3 1. Cứu trợ xã hội 3 2. Cứu trợ đột xuất và công tác cứu trợ đột xuất 5 2.1. Khái niêm 5 2.2. Đối tượng của cứu trợ đột xuất 6 2.3. Nội dung của cứu trợ đột xuất 6 2.4. Nguyên tắc của cứu trợ đột xuất 7 2.5. Nguồn kinh phí và quá trình tổ chức thực hiện. 8 II. VAI TRÒ CỦA CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT TRONG PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI Ở VIỆT NAM 9 1. Thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội ta. 9 2. Phù hợp với truyền thống của người Việt Nam. 9 3. Phòng ngừa, giảm thiểu và khắc phục hậu quả thiên tai 10 4. Góp phần giảm bớt khó khăn trước mắt, chênh lệnh mức sống và xoá đói giảm nghèo. 10 5. Góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội. 11 III. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT. 11 1. Giai đoạn 1945 – 1964 13 2. Giai đoạn từ 1965 – 1975 13 3. Giai đoạn từ 1976 – 1985 14 4. Giai đoạn từ 1986 đến nay 14 IV. NHỮNG NHÂN TỔ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT. 16 1. Điều kiện tự nhiên 16 1.1.Đặc điểm về thời tiết khí hậu 16 1.2. Đặc điểm về địa hình 16 2. Các điều kiện về kinh tế - xã hội 17 2.1. Cơ sở hạ tầng 17 2.2. Mặt trái của quá trình đô thị hoá 17 2.3. Phong tục tập quán 19 2.4. Cơ chế, chính sách đầu tư 19 2.5. Chính sách hỗ trợ sản xuất 20 2.6. Kinh tế thị trường đang trong giai đoạn chuyển đổi và những mặt trái của nó 20 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG VÀ KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2000 – 2005 23 I. QUAN ĐIỂM, CHỦ TRƯƠNG CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VỀ CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT 23 II. KẾT QUẢ CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2000 - 2005. 26 1. Tình hình thiên tai và thiếu đói. 26 1.1. Tình hình thiên tai 26 1.2. Tình hình thiếu đói 28 2. Chính sách cứu trợ đột xuất và công tác chỉ đạo cứu trợ 29 2.1. Chính sách CTĐX hiện hành 29 2.1.1. Về đối tượng 29 2.1.2. Về tiêu chí và chế độ cứu trợ đột xuất 30 2.1.3. Về kinh phí thực hiện cứu trợ đột xuất 33 2.1.4. Về hình thức cứu trợ 34 2.1.5. Về tổ chức thực hiện 34 2.2. Công tác chỉ đạo cứu trợ đột xuất 38 3. Kết quả khắc phục hậu quả thiên tai 40 4. Một số hạn chế và nguyên nhân 42 CHƯƠNG III: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ XÃ HỘI ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2006 – 2010 46 I. PHƯƠNG HƯỚNG ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT 1. Quan điểm đẩy mạnh công tác CTĐX. 46 2. Phương hướng đẩy mạnh công tác cứu trợ đột xuất 47 3. Một số nhiệm vụ cần thực hiện trong giai đoạn 2006 – 2010 48 II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH CÔNG TÁC CỨU TRỢ ĐỘT XUẤT GIAI ĐOẠN 2006 – 2010. 49 1. Hoàn thiện hệ thống chính sách về cứu trợ đột xuất. 49 2. Tăng cường hệ thống dự báo, cảnh báo sẵn sàng đối phó với những biến cố đột xuất có thể xảy ra 50 3. Tăng cường đầu tư cơ sở hạ tầng cho những vùng sung yếu, vùng hay xảy ra thiên tai, vùng sâu, vùng xa .51 4. Lập quỹ dự phòng riêng cho CTĐX tại các địa phương do địa phương quản lý. 52 5. Thực hiện chương trình quản lý nguy cơ thiên tai dựa vào cộng đồng và cứu trợ cộng đồng tại chỗ. 54 6. Xây dựng mối quan hệ chặt chẽ giữa CTĐX với các chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế - xã hội. 56 7. Tăng cường kiểm tra, giám sát và quản lý nguồn cứu trợ .57 8. Kiện toàn tổ chức và nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác cứu trợ đột xuất từ trên xuống. 58 III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ 58 KẾT LUẬN 60 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 61

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxKH01.docx
Tài liệu liên quan