- Nghiên cứu tình hình cung cầu của hàng hoá trên thị trường: Doanh nghiệp phải xác định được tổng cung, tổng cầu dự báo của thế giới, của khu vực hay quốc gia, xác định được quy mô, dung lượng của thị trường thị hiếu tiêu dùng sản phẩm, chu kỳ sống của sản phẩm, vấn đề nguyên vật liệu sản xuất sản phẩm . Ngoài ra cần phải xác định xem nhân tố nào có ý nghĩa quan trọng quyết định đến triển vọng bán hàng tại thời điểm nghiên cứu và trong tương lai.
- Nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng: Xem xét các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô (kinh tế, chính trị, văn hoá.) các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô (cạnh tranh, giá cả cung cầu, khả năng tài chính .). Lợi ích thu được từ nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng là giúp cho doanh nghiệp tránh được rủi ro và thua lỗ khi thâm nhập thị trường. Vấn đề giá cả có thể được nghiên cứu kỹ lưỡng hơn vì nó quyết định đến lợi nhuận của doanh nghiệp. ảnh hưởng đến sức tiêu thụ của sản phẩm, đây là vấn đề chiến lược vì nó là điều kiện để đảm bảo hiệu quả kinh tế trong kinh doanh xuất khẩu.
78 trang |
Chia sẻ: DUng Lona | Lượt xem: 1277 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu hàng hoá tại Công ty Intimex, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
được đền đáp qua số lượng kim ngạch xuất khẩu hàng năm ngày càng tăng. Một thực tế khả quan là từ năm 1993 đến nay Công ty đã mở rộng quan hệ với những thị trường lớn giàu tiềm năng như Nhật Bản, Singapore, Thái Lan, Bỉ, Trung Quốc, Hồng Kông, Mỹ, Đài Loan, ả rập, Hàn QuốcKim ngạch xuất khẩu sang các thị trường này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch. Trong tương lai, Công ty tiếp tục duy trì mối quan hệ làm ăn ở các thị trường này và khối lượng hàng xuất khẩu sang khu vực này trong tương lai sẽ còn tăng mạnh.
5.2. Ký kết hợp đồng xuất khẩu.
Sau khi nghiên cứu về thị trường, mặt hàng xuất khẩu, tìm hiểu đối tác và đàm phán để thoả thuận mọi điều kiện có liên quan thì Công ty sẽ tiến hành nghiệp vụ ký kết hợp đồng xuất khẩu. Khi hợp đồng đã được ký, có nghĩa là Công ty và đối tác cùng bị ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định trong hợp đồng. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng với đối tác cùng bị ràng buộc với nhau thông qua các điều khoản quy định trong hợp đồng. Chính vì vậy, khi ký kết hợp đồng với đối tác, Công ty thường dựa vào các căn cứ sau:
- Các định hướng kế hoạch của Nhà nước, các chính sách, chế độ, các chuẩn mực KT - XH hiện hành.
- Khả năng phát triển của sản xuất kinh doanh, chức năng hoạt động kinh tế của mỗi bên.
- Nhu cầu của thị trường, đơn đặt hàng, chào hàng.
- Tính hợp pháp của hợp đồng kinh tế và khả năng đảm bảo về tài sản của mỗi bên khi tham gia ký kết hợp đồng.
5.3. Xin giấy phép xuất khẩu.
Đây là công việc quen thuộc đối với Công ty, đối với các hàng nông sản xuất khẩu cần hạn ngạch của Công ty thì Công ty có thể nhanh chóng đăng ký hải quan, kê khai hải quan để kiểm tra hàng hoá để kiểm tra hàng hoá và nộp thuế hải quan. Một số hàng hoá phải qua kiểm nghiệm, kiểm dịch, sau đó cơ quan hải quan cấp cho Công ty giấy phép xuất khẩu hàng hoá.
5.4. Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu.
Chủ động được nguồn hàng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng của hàng xuất khẩu và tiến độ giao hàng, đến việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu, uy tín và hiệu quả kinh doanh. Phần lớn khối lượng hàng hoá thu mua của Công ty được thực hiện với các bạn hàng truyền thống, đó là các cơ sở sản xuất, Xí nghiệp sản xuất chế biến, doanh nghiệp thu mua gom. Những đơn vị này được Công ty đánh giá là bạn hàng có uy tín trong kinh doanh. Hiện nay Công ty sử dụng các hình thức tạo nguồn sau:
- Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu theo hợp đồng: đây là hình thức thu mua chủ yếu của Công ty, chiếm gần 70% giá trị hàng hoá thu mua. Sau khi Công ty và người bán được những thủan thuận về mặt số lượng, chất lượng, mẫu mã, phương thức thanh toán, điều kiện và cơ sở giao hàngthì hai bên mới tiến hành ký kết hợp đồng kinh tế.
- Phương thức uỷ thác: là phương thức mà Công ty dùng danh nghĩa của mình để giao dịch với khách hàng nước ngoài nhằm thoả thuận với họ về các điều kiện: số lượng, chất lượng, giá cả, điều kiện cơ sở giao hàngvà tổ chức bán hộ hàng cho người uỷ thác. Phương thức thu mua này chiếm tỷ lệ tương đối lớn trong kinh doanh xuất khẩu của Công ty.
- Phương thức đầu tư, liên doanh liên kết hàng xuất khẩu: Theo phương thức này Công ty sẽ bỏ vốn ra đầu tư vào các đơn vị sản xuất để chế biến hàng xuất khẩu theo các hợp đồng ngắn hạn, trong đó Công ty chịu trách nhiệm tiêu thụ các sản phẩm được sản xuất ra. Thông thường Công ty chỉ ứng vốn trước cho các cơ sở chứ không tham gia trực tiếp điều hành các hoạt động sản xuất. Hình thức này nhằm tạo ra nguồn hàng ổn định với giá cả hợp lý.
Công tác thu mua tạo nguồn hàng của Công ty được thực hiện theo quy trình sau:
- Nghiên cứu nguồn hàng xuất khẩu: Dựa trên các đơn đặt hàng của khách hàng, của các hợp đồng đã ký kết, Công ty tiến hành nghiên cứu khả năng cung cấp hàng xuất khẩu trên thị trường, khả năng cung cấp hàng đước xác định bởi nguồn hàng thực tế và nguồn hàng tiềm năng. Đối với nguồn hàng thực tế thì Công ty chọn nhà cung cấp có khả năng đáp ứng được yêu cầu của đơn hàng, đối với nguồn hàng tiềm năng thì Công ty tiến hành đầu tư liên doanh liên kết với các nhà sản xuất chế biến hàng xuất khẩu để có được nguồn hàng đáp ứng được yêu cầu của đơn hàng, hợp đồng mà Công ty đã ký kết.
- Tiếp cận và đàm phán với nhà cung cấp, trên cơ sở xác định được nhà cung cấp, Công ty tiếp cận đàm phán về các điều kiện của đơn hàng, thoả thuận và ký kết hợp đồng.
- Tổ chức thực hiện hợp đồng mua bán. Sau khi hoàn tất các thủ tục giấy tờ, Công ty tiến hành tiếp nhận vận chuyển về kho, có thể để tái chế biến hoặc tiếp nhận tại cảng xuất khẩu mà không phải chế biến lại.
5.5. Nghiệp vụ giao hàng xuất khẩu.
Nghiệp vụ này bao gồm các khâu sau:
- Chuẩn bị hàng: Sau khi Công ty đã đưa hàng về kho thì tiến hành các khâu chuẩn bị như đóng gói hàng hoá, kẻ ký mã hiệu để hoàn thiện hàng theo đơn đặt hàng của nước nhập khẩu.
- Ký kết hợp đồng vận chuyển. Công ty ký kết hợp đồng vận chuyển để chuyển hàng hoá ra cảng xuất khẩu, sau đó tiến hành bốc dỡ hàng xuống cảng để Hải quan kiểm định hàng hoá. Công ty thường sử dụng điều kiện cơ sở giao hàng FOB với nước ngoài nên Công ty chỉ chịu trách nhiệm đối với hàng hoá khi hàng hoá vượt qua lan can tàu lại cảng bốc quy định.
- Hoàn thiện thủ tục giấy tờ. Khi làm thủ tục giấy phép xuất khẩu Công ty thường phải chuẩn bị các loại giấy tờ sau:
+ Hợp đồng thương mại (bản chính và bản sao)
+ Bản dịch hợp đồng.
+ Hạn ngạch, quota nếu xuất khẩu hàng hạn ngạch.
+ Giấy chứng nhận xuất xứ.
+ Các giấy tờ Hải quan
- Tổ chức khai báo và giám định Hải quan. Khâu này Công ty có trách nhiệm xuất trình đầy đủ giấy tờ, mở hàng hoá để Hải quan kiểm tra.
- Giao hàng hoá lên tàu. Công ty tổ chức vận chuyển hàng tới cảng xuất khẩu và thuê cẩu hàng hoá lên boong tàu. Khi hàng hoá vượt qua lan can thành tàu, đại diện Công ty phải lấy biên lai thuyền phó và sau đó đổi lấy vận đơn đường biển. Vận đơn cần được chuyển gấp về bộ phận kế toán để lập bộ chứng từ thanh toán.
5.6. Nghiệp vụ thanh toán.
Để đảm bảo an toàn, Công ty thường sử dụng nhiều hình thức thanh toán như thanh toán bằng thư tín dụng (L/C), thanh toán bằng phương thức nhờ thu kèm chứng từ, thanh toán hàng đổi hàng. Trong các phương thức thanh toán trên thì Công ty thường chủ trương tạo điều kiện để bên đối tác mở L/C để giảm rủi ro.
III. Đánh giá từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Công ty.
1. Những thành tựu đã đạt được từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu.
1.1. Kết quả và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu.
Để phân tích được hiệu quả kinh doanh xuất khẩu hàng hoá ở Công ty Intimex, trước hết ta phải nắm được chỉ tiêu kinh tế về xuất khẩu mà Công ty đã thực hiện.
Bảng số 8: Chỉ tiêu thực hiện về xuất khẩu
ĐVT: Triệu đồng
* Doanh thu XK chỉ tính từ kim ngạch xuất khẩu trực tiếp
* Tỷ giá tính tại thời điểm thanh toán
Chỉ tiêu
Năm 2001
Năm 2002
Năm 2003
1. Tổng doanh thu
266.000
364.000
434.000
2. Tổng vốn kinh doanh
37.617
39.688
46.688
a. Vốn cố định
16.801
18.302,5
19.444
b. Vốn lưu động
20.816
21.385,5
27.244
3. Tổng chi phí
265.245
363.125,5
433.001
4. Lợi nhuận (sau thuế)
572
828
943
Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2001 - 2003.
Hiệu quả hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá ở Công ty Intimex được tính như sau:
* Lợi nhuận thực tế mà Công ty đạt được qua hoạt động xuất khẩu.
LN thực tế = ồ doanh thu - ồ chi phí (cả thuế)
LNx = TRx - TCx
Năm 2001: LNx = 266.000 - 265.428 = 572 (triệu đồng)
Năm 2002: LNx = 364.000 - 363.172 = 828 (triệu đồng)
Năm 2003: LNx = 434.000 - 433057 = 943 (triệu đồng)
* Hiệu quả kinh tế của xuất khẩu
Hx =
Trong đó Tx: Doanh thu bằng nội tệ từ việc xuất khẩu hàng hoá.
Cx: Tổng chi phí của việc sản xuất hàng hoá xuất khẩu (bằng nội tệ)
Năm 2001: Hx = = 1,00284
Năm 2002 Hx = = 1,007959
Năm 2003: Hx = = 1,00230
Như vậy trong 3 năm 2001, 2002, 2003, Hx > 1 nên hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty là rất hiệu quả. Trong những năm tiếp theo Công ty phải có biện pháp tích cực hơn để duy trì và nâng cao hệ số Hx hơn nữa.
* Doanh lợi xuất khẩu.
Dx =
Trong đó: Px: Lợi nhuận từ hoạt động xuất khẩu (tính bằng nội tệ)
Cx: Tổng chi phí cho việc xuất khẩu (tính bằng nội tệ)
Mức doanh lợi của hoạt động xuất khẩu = x 100
Năm 2001: Dx = . 100 = 0,2156%
Chỉ tiêu này cho ta biết một trăm đồng chi phí bỏ ra thu được 0,2156 đồng lợi nhuận năm 2001
Năm 2002: Dx = . 100 = 0,2292%
Chỉ tiêu này cho ta biết một trăm đồng chi phí bỏ ra thu được 0,2292 đồng lợi nhuận năm 2002.
Năm 2003: Dx = = 0,21778%
Chỉ tiêu này cho ta biết một trăm đồng chi phí bỏ ra thu được 0,21778 đồng lợi nhuận năm 2003.
b. Mức doanh lợi của hoạt động xuất khẩu = .100
Năm 2001: Dx = . 100 = 1,52%
Chỉ tiêu này cho thấy một trăm đồng vốn kinh doanh xuất khẩu bỏ ra Công ty thu được 1,52 đồng lợi nhuận năm 2001.
Năm 2002: Dx = . 100 = 2,086%
Chỉ tiêu này cho thấy một trăm đồng vốn kinh doanh xuất khẩu bỏ ra Công ty thu được 2,086 đồng lợi nhuận năm 2002
Năm 2003: Dx = . 100 = 2,0197%
Chỉ tiêu này cho thấy một trăm đồng vốn kinh doanh xuất khẩu bỏ ra Công ty thu được 2,0197% đồng lợi nhuận năm 2001.
c. Mức doanh lợi của hoạt động xuất khẩu = . 100
Năm 2001: Dx = . 100 = 2,1503%
Chỉ tiêu này cho biết một trăm đồng doanh thu thu về sẽ được 0,215 đồng lợi nhuận năm 2001
Năm 2002: Dx = . 100 = 2,27%
Chỉ tiêu này cho biết một trăm đồng doanh thu thu về sẽ được 0,27 đồng lợi nhuận năm 2002.
Năm 2003 Dx = . 100 = 2,17%
Chỉ tiêu này cho ta biết một trăm đồng doanh thu thu về sẽ được 0,17 đồng lợi nhuận năm 2003.
Nhìn chung hiệu quả kinh tế và mức doanh lợi xuất khẩu của Công ty tăng qua các năm, tuy nhiên vẫn còn thấp. Trong những năm qua, do chính sách của Nhà nước thay đổi nên rất nhiều doanh nghiệp nước ngoài làm ăn ở Việt Nam và rất nhiều doanh nghiệp Việt Nam tham gia xuất khẩu. Intimex là một Công ty như vậy. Mặc dù tỷ lệ lợi nhuận tăng lên hàng năm nhưng còn rất thấp so với doanh thu và chi phí. Doanh thu từ xuất khẩu luôn chiếm tỷ trọng lớn và là lĩnh vực đem lại lợi nhuận chủ yếu của Công ty, thời gian tới Công ty cần đẩy mạnh hơn nữa hoạt động xuất khẩu.
1.2. Những thành công đạt được.
- Kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, qui mô xuất khẩu ngày càng lớn, giá trị kim ngạch xuất khẩu liên tục tăng với tốc độ > 10% so với những năm trước. Tỷ trọng xuất khẩu chiếm tới 70% tăng giá trị kim ngạch XNK.
- Chủng loại hàng hoá xuất khẩu ngày càng phong phú và đa dạng với khối lượng xuất khẩu ngày càng tăng. Chất lượng hàng hoá ngày càng được nâng cao, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Từ chỗ hàng hoá chỉ xuất khẩu sang các nước đang và kém phát triển với yêu cầu không cao về chất lượng nay đã xâm nhập thành công vào các thị trường khó tính như Mỹ và Tây Âu. Những mặt hàng thế mạnh được duy trì phát triển như hàng nông sản và dệt may, đây được coi là mặt hàng chiến lược của Công ty.
- Mở rộng thị trường xuất khẩu: Bên cạnh những thị trường truyền thống chiếm 80% doanh thu xuất khẩu như ASEAN, Đông á, SingaporeCông ty đã từng bước nghiên cứu và mở rộng thị trường mới như các thị trường ở khu vực Nam Mỹ Trung Đông, Ai Cập.
- Về hình thức xuất khẩu trong 3 năm trở lại đây Công ty đã chuyển hướng sang hình thức xuất khẩu trực tiếp nhằm đem lại lợi nhuận cho Công ty nhiều hơn và tăng cường mức độ tự chủ trong tìm kiếm nguồn hàng xuất khẩu.
- Có sự chủ động hơn về vốn: Do định hướng kinh doanh linh hoạt và hợp lý nên 3 năm qua tổng vốn kinh doanh của Công ty không ngừng tăng mạnh, chỉ tính riêng nguồn tự có trong vốn lưu động năm 2002 tăng 27% so với năm 2001, chiếm 97% tổng vốn lưu động. Nhờ đó mà Công ty rất chủ động khi tiến hành các hoạt động xuất khẩu.
- Hoàn thành tốt nghĩa vụ với Nhà nước: Nhờ hoạt động kinh doanh có hiệu quả, Công ty luôn luôn hoàn thành nghĩa vụ về thuế đối với Nhà nước và các chỉ tiêu được Bộ Thương mại giao. Năm 2001 các khoản nộp ngân sách là 74,38 tỷ đồng, các khoản nộp ngân sách Nhà nước là 96,4 tỷ đồng, năm 2003, các khoản nộp ngân sách Nhà nước là 109 tỷ đồng.
- Thực hiện thành công hoạt động liên doanh liên kết: Trong những năm qua Công ty đã thiết lập được các mối quan hệ kinh tế mật thiết với các doanh nghiệp trong và ngoài nước nên hoạt động kinh doanh xuất khẩu của Công ty diễn ra thuận lợi hơn.
2.Hạn chế.
- Công tác thị trường: Việc nghiên cứu thị trường ở các phòng không có nhân viên chuyên trách thực hiện mà do trưởng phó phòng đảm nhận bằng các mối quan hệ cá nhân. Hoạt động thu thập thông tin còn nhiều hạn chế, thông tin chưa cập nhật nên công tác nghiên cứu thị trường chưa chuyên sâu, đã bỏ lỡ mất một số cơ hội xuất khẩu, việc tìm kiếm bạn hàng mang tính manh mún. Công ty chưa duy trì được sự có mặt thường xuyên của các thị trường.
- Hàng hoá xuất khẩu: Hiện tại công tác nghiên cứu hàng hoá còn bị động, việc nghiên cứu tìm các nguồn hàng cung cấp cho Công ty còn nhiều bấp bênh, Công ty bị tình trạng ép giá từ các nhà cung cấp địa phương, chất lượng hàng không ổn định, công tác kiểm tra hàng hoá sau khi thu gom chưa tốt, quá trình vận chuyển hàng hoá xuất khẩu chưa được giám sát chặt chẽ. Kế hoạch triển khai hàng hoá đáp ứng yêu cầu ngày càng lớn của các khách hàng chưa sâu, gây ra tình trạng có thời gian Công ty bị tồn đọng, ế thừa hàng hoá trong khi nhiều khách hàng khác lại có nhu cầu cao gây thiệt hại cho Công ty rất nhiều và làm lợi cho các đối thủ cạnh tranh.
- Về hình thức xuất khẩu: Ngoài hình thức xuất khẩu chính là xuất khẩu trực tiếp, Công ty chưa tiến hành đa dạng hoá các loại hình xuất khẩu. Các hình thức xuất khẩu như xuất khẩu theo nghị định thư, xuất khẩu đối lưu không hiệu quả trong khi đó Công ty chưa áp dụng phương thức nhận gia công xuất khẩu hoặc chưa thâm nhập thị trường nước ngoài như đầu tư trực tiếp ra nước ngoàiđể có được lợi ích kinh tế cao hơn.
- Vấn đề tài chính: Nguồn tài chính hiện có của Công ty không đủ đáp ứng được các yêu cầu về đầu tư chiều sâu, đầu tư lớn, chưa có lợi thế khai thác thế mạnh cơ sở vật chất. Trong hoạt động kinh doanh, Công ty chưa tận dụng được vốn của bạn hàng cung cấp, có hiện tượng 1 số đơn vị đã để khách hàng chiếm dụng vốn của Công ty gây kém hiệu quả trong sử dụng vốn.
- Công tác quản lý: Với 11 đơn vị trực thuộc trải dài trên địa bàn rộng cả nước, công tác quản lý trở nên hết sức khó khăn phức tạp. Trong Công ty có hiện tượng phân tán lực lượng, chưa có sự phối hợp công tác giữa các phòng nghiệp vụ, các chi nhánh ở các đơn vị khác nhau. Có sự cạnh tranh không cần thiết trong nội bộ Công ty làm phát sinh các khoản chi phí lớn do ít có sự chia sẻ thông tin trong nội bộ.
- Hoạt động xúc tiến thương mại: Về mặt Marketing xuất khẩu, chiến lược quảng cáo, khuyếch trương, tiếp thị trên thị trường quốc tế được thực hiện chưa tốt. Các hội nghị toạ đàm, tham luận của các chuyên gia nước ngoài còn ít, chưa triệt để. Việc tham gia hội trợ, triển lãm quốc tế chưa được chú trọng.
- Nhiều hợp đồng chưa được thực hiện: do hàng hoá không đủ đáp ứng các tiêu chuẩn của khách hàng dẫn đến tình trạng hàng hoá bị trả lại và hợp đồng bị huỷ bỏ. Công tác thực hiện hợp đồng chưa được thực hiện tốt do nghiệp vụ chưa sâu.
3. Nguyên nhân:
- Nguyên nhân từ phía doanh nghiệp: Là một tổng Công ty lớn với 11 đơn vị trực thuộc nên công tác quản lý rất khó khăn, chưa có sự phối hợp thống nhất giữa các phòng nghiệp vụ, các chi nhánh ở các đơn vị khác nhau nên xảy ra tình trạng tự phát tranh mua, tranh bán. Nhiều đơn vị trong Công ty do yếu kém về kinh nghiệm và vì lợi nhuận trước mắt mà chạy theo những lô hàng rẻ khiến Công ty mất dần đi uy tín với đối tác.
+ Hệ thống kênh phân phối của Công ty vẫn còn đơn điệu. Khi hàng hoá được thu gom từ các doanh nghiệp cung ứng địa phương, Công ty bán lại cho cái trung gian nước ngoài theo hình thức mua đứt bán đoạn. Vì vậy sau khi hàng hoá bán ra lại qua tay một số trung gian và nhà sản xuất chế biến sau đó mới đến được người tiêu dùng cuối cùng.
+ Trình độ của cán bộ bị xuất khẩu chưa cao.
Sự am hiểu của cán bộ thu mua vè từng mặt hàng rất hạn chế, chưa có cán bộ chuyên sâu về từng loại mặt hàng nên việc thu gom, đánh giá kiểm tra hàng hoá chỉ bằng trực quan đôi khi xảy ra tình trạng hàng hoá xuất khẩu có chất lượng không đồng đều.
+ Công ty chưa xây dựng được hệ thống kho hàng và thiết bị chế biến bảo quản nguồn hàng và chất lượng hàng hoá xuất khẩu. Do đó Công ty không dám thu gom hàng tích trữ chờ thời cơ kinh doanh. Trong khi đó có nhiều hàng hoá tồn kho bị chậm tiêu thụ, bị biến chất, giảm chất lượng ảnh hưởng đến uy tín của Công ty.
+ Công ty chưa có sự quan tâm đúng mức, chưa thấy được vai trò quan trọng của công tác nghiên cứu thị trường quốc tế, hoạt động xúc tiến thương mại hầu như không có, đây là một nhược điểm lớn trong hoạt động xuất khẩu với chiến lược Marketing bị động theo cách phản ứng lại thị trường. Khối lượng công việc cần xử lý thực hiện hợp đồng xuất khẩu là khá lớn nên không có thời gian để tổ chức hội thảo với chuyên gia nước ngoài cho nhân viên dẫn đến sự hạn chế trong học hỏi kinh nghiệm.
+ Chưa chú trọng vào sản xuất sản phẩm tinh chế.
Sản phẩm xuất khẩu của Công ty chủ yếu phụ thuộc vào nguồn cung cấp nội địa nên chất lượng chưa cao so với các sản phẩm cùng loại trên thế giới. Công ty chưa có cơ sở sản xuất, chế biến hoặc gia công theo công nghệ tiên tiến hiện đại nên Công ty chưa có được những sản phẩm xuất khẩu sang những thị trường đòi hỏi có hàm lượng kỹ thuật cao.
- Nguyên nhân từ phía Nhà nước.
+ Với chính sách đa dạng hoá các thành phần kinh tế hoạt động theo cơ chế thị trường cơ sự cạnh tranh lành mạnh làm cho các doanh nghiệp quốc doanh chuyên doanh xuất khẩu trong đó có Intimex ứng trước 1 sự cạnh tranh khốc liệt.
+ Các thủ tục hành chính liên quan tới hoạt động xuất khẩu hàng hoá chưa chặt chẽ và thống nhất. Các văn bản về quản lý kinh tế liên tục thay đổi, chưa rõ ràng. Các thủ tục Hải quan rườm rà phải qua nhiều khâu gây khó khăn khi xuất khẩu hàng hoá.
- Nguyên nhân khách quan:
+ Giá cả hàng hoá biến động theo xu hướng thị trường nên gây khó khăn cho Công ty trong công tác lập kế hoạch kinh doanh dự phòng phù hợp do đó làm cho kim ngạch XK của Công ty giảm bớt.
+ Tỷ giá hối đoái tăng giảm thất thường ảnh hưởng đến giá trị xuất khẩu và doanh thu xuất khẩu của Công ty.
+ So sự biến động của nền kinh tế thế giới, đặc biệt là các nền kinh tế phát triển là Mỹ, Nhật, Châu Âu bị khủng hoảng trong các năm 1999 - 2001 nên hoạt động kinh doanh quốc tế bị giảm sút. Công ty bị mất đi 1 số thị trường và giảm đáng kể số lượng hợp đồng do tình hình bất ổn về chính trị ở các đoạn thị trường này gây ra tâm lý rủi ro khi ký kết hợp đồng.
+ Do nguồn cung cấp hàng không đảm bảo về số lượng và chất lượng khiến Công ty mất dần uy tín và khách hàng.
Trên đây là những thành công của Công ty đã đạt được trong quá trình kinh doanh xuất khẩu. Bên cạnh đó, Công ty cũng không thể tránh khỏi những hạn chế còn tồn tại vì vậy việc đưa ra các biện pháp nhằm giảm bớt những hạn chế tồn tại ấy nhằm hoàn thiện hơn nữa kết quả kinh doanh xuất khẩu của Công ty là vô cùng cần thiết.
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại Công ty Intimex.
I. Định hướng phát triển đối với hoạt động xuất khẩu của Công ty Intimex trong thời gian tới.
- Làn sóng toàn cầu hoá và liên kết kinh tế khu vực đang diễn ra mạnh mẽ, hội nhập và tự do hoá thương mại đang trở thành trào lưu lôi cuốn tất cả các nước trên thế giới do đó việc xuất khẩu hàng hoá của Công ty là tương đối dễ dàng.
Với 11 chi nhánh trực thuộc hoạt động tập trung ở các đầu mối kinh tế như TPHCM, Đà Nẵng Nghệ An, Hải Phòng là những nơi hoạt động xuất khẩu diễn ra ngay gần cảng biển nên hoạt động xuất khẩu của Công ty diễn ra thuận lợi hơn.
- Công ty sẽ chuyển hướng đầu tư vào các mặt hàng có chất lượng thấp ở dạng thô sang mặt hàng có chất lượng cao hơn trên cơ sở nghiên cứu, đầu tư thiết bị, nhà xưởng cho chế biến bảo quản, dự trữ hàng hoá.
- Công ty sẽ thực hiện các công tác Marketing quốc tế, xúc tiến thương mại, củng cố và xây dựng thương hiệu riêng cho sản phẩm của mình, xây dựng quan hệ bạn hàng lâu dài, uy tín. Tiếp tục liên doanh liên kết với các đối tác trong và ngoài nước để tạo ra nguồn hàng, xuất khẩu hiệu quả nhằm giảm thiểu những rủi ro của thị trường.
- Ngoài ra những mặt hàng truyền thống và thị trường truyền thống, Công ty sẽ tiếp tục thực hiện kế hoạch xâm nhập thị trường gạo, một thế mạnh của Việt Nam, trong tương lai đây sẽ là một trong những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Công ty, mở ra một hướng phát triển mới cho cơ cấu mặt hàng xuất khẩu sắp tới.
- Công ty sẽ tiếp tục duy trì hình thức xuất khẩu trực tiếp, giảm thiểu và tiến tới loại bỏ hình thức xuất khẩu uỷ thác. Đa dạng hình thức xuất khẩu trên cơ sở kế hoạch đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, ký kết hợp đồng gia công xuất khẩu.
II. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty.
1. Giải pháp nghiên cứu và mở rộng thị trường.
Xây dựng và mở rộng thị trường có ý nghĩa cực kỳ quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu. Thị trường là yếu tố đầu tiên quan trọng quyết định đến doanh thu xuất khẩu, thị trường gắn liền với khách hàng. Do đó vấn đề nghiên cứu thị trường, xây dựng và mở rộng thị trường phải được thực hiện tốt. Để nắm vững các qui luật vận động của thị trường, xây dựng thị trường thì Công ty phải cần thiết tiến hành các hoạt động nghiên cứu thị trường. Hiện nay việc nghiên cứu thị trường của Công ty mới chỉ dừng lại ởe hoạt động tìm kiếm thông tin một cách gián tiếp qua các phương tiện thông tin đại chúng, qua các nguồn cung từ các tổ chức quốc tế mà chưa trực tiếp tiếp xúc với thị trường để tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, thị hiếu của khách hàng, các kênh phân phối, các chiến lược Marketing tiếp thị, sự cạnh tranh của đối thủ. Vì những lý do đó mà Công ty phải cử chuyên viên về nghiên cứu thị trường đi thực tế tại các thị trường mục tiêu định xâm nhập để thu nhập thông tin, phân tích các thông tin của môi trường kinh doanh sau đó điều tra nhu cầu thực tế của thị trường, chỉ ra các đoạn thị trường Công ty có thể hướng tới, cuối cùng là lập các kế hoạch Marketing kinh doanh cho Công ty. Đây là công việc có vai trò rất quan trọng, vì nó quyết định tới kế hoạch kinh doanh của Công ty. Việc nghiên cứu thị trường có thể sử dụng nhiều biện pháp khác nhau để biết rõ hơn nhu cầu riêng biệt của từng loại thị trường một cách cụ thể, chi tiết và chính xác như: quan sát, điều tra trực tiếp tại các trung tâm thương mại lớn. Tuy nhiên tất cả những hoạt động trên phải hướng tới một mục đích chung và phải trả lời được câu hỏi: xuất khẩu mặt hàng gì? dung lượng của thị trường hàng hoá đó như thế nào? bạn hàng giao dịch là ai? Phương thức thanh toán nào?
Các chuyên viên nghiên cứu thị trường phải phân tích các đối tượng cạnh tranh một cách cụ thể, xem xét năng lực tranh cạnh của họ và khả năng thực tế của Công ty nhằm phát huy mặt mạnh, hạn chế mặt yếu của Công ty trong quá trình xuất khẩu. Cùng với đó là phân chia khách hàng thì những nhóm khác nhau để phân tích có hệ thống biến đổi về nhu cầu và thị hiếu.
Về mặt dung lượng của thị trường, đó là khối lượng loại mặt hàng có thể tiêu thụ được ở đoạn thị trường mục tiêu ấy, có thể xem xét ở thời điểm hiện tại và khả năng tiêu thụ ở tương lai, vấn đề này liên quan đến chu kỳ sống quốc tế của sản phẩm xuất khẩu. Nếu sản phẩm mà ở giai đoạn xuâm nhập và phát triển thì dung lượng của thị trường lớn, có điều kiện để khai thác. Ngoài ra có thể xác định lượng dự trữ, xu hướng biến động của từng vùng từng lĩnh vực sản xuất, bên cạnh đó là xem xét đặc điểm, tính chất, khả năng của hàng hoá thay thế, khả năng lựa chọn mua bán.
Kết hợp với nghiên cứu dung lượng thị trường, Công ty cũng phải xét đến yếu tố tỷ giá ngoại tệ của các mặt hàng, tình hình kinh doanh của từng mặt hàng trên thị trường, các điều kiện về chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán quốc tế của từng khu vực để hội nhập với thị trường một cách nhanh chóng và có hiệu quả, tránh khỏi được những rủi ro khong mong muốn.
2. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại.
Mục đích của hoạt động xúc tiến thương mại là nhằm tăng khối lượng bán ra của hàng hoá xuất khẩu trên cơ sở thực hiện tất cả ccá hoạt động Marketing để thu hút chú ý của khách hàng tới sản phẩm làm cho nó hấp dẫn hơn ở nơi bán và nơi tiêu thụ. Các chính sách về quảng cáo và xúc tiến bán hàng có vai trò như các chất xúc tác, nếu thực hiện tốt chúng sẽ đem lại hiệuq quả cao trong kinh doanh xuất khẩu, tăng kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay, ngân sách của Công ty cho hoạt động khuyếch trương, quảng cáo, xúc tiến thương mại vẫn cồn hạn chế, không thể thực hiện được các chương trình quảng cáo với các biện pháp có thể thực hiện là: tham gia các hội trợ, triển lãm quốc tế hoặc trực tiếp tiếp thị tới từng đối tác thông qua catalogue.
Hoặc có thể dùng hình thức gửi hàng mẫu tới tận tay khách hàng để họ nhận biết cụ thể về các đặc tính công dụng của sản phẩm thông qua đường bưu điện. Công ty nên tiếp tục mở các văn phòng đại diện ở nước ngoài, ứng với mỗi thị trường nên đặt một văn phòng đại diện để có cơ hội tìm kiếm thêm khách hàng, tăng cường hoạt động tuyên truyền về Công ty với bạn hàng. Cùng với việc mở các văn phòng đại diện là phát triển một mạng lưới phân phối rộng khắp và hợp lý. Đây là nhân tố thúc đẩy tiêu thụ. Hiện nay, hạn chế của Công ty là các kênh phân phối của Công ty mới chỉ dừng lại ở các nhà bán buôn nước ngoài. Các kênh phân phối này khiến Công ty bị phụ thuộc vào đối tác, khó chủ động trong việc dự đoán những thay đổi của thị trường. Công ty có thể xây dựng các kênh phân phối bằng nhiều hướng hoặc qua các đối tác nước ngoài, hoặc các văn phòng đại diện của Công ty.
Một vấn đề quan trọng nữa là nhất thiết phải đăng ký nhãn hiệu bản quyền với những sản phẩm do Công ty sản xuất khi xuất khẩu tránh tình trạng bị ăn cắp bản quyền nhãn hiệu làm giảm uy tín của Công ty.
Việc Việt Nam mở cửa thị trường, tham gia hội nhập kinh tế khu vực và chuẩn bị gia nhập tổ chức WTO tạo ra cơ hội tiếp tục, thu thông thông tin từ các tổ chức quốc tế, thương nhân nước ngoài đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội kinh doanh. Đây chính là cơ hội để Công ty quảng bá tên tuổi của mình và giới thiệu sản phẩm của mình cho các bạn hàng quốc tế thông qua các kỳ hội chợ, triển lãm quốc tế được tổ chức tại Việt Nam và ở nước ngoài.
3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ xuất khẩu.
Là một doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu có qui mô vừa và số lao động hơn 400 người nên vấn đề trình độ nghiệp vụ được Công ty quan tâm hàng đầu. Nhân tố con người là nhân tố quan trọng quyết định đến sự thành công hoặc thất bại của doanh nghiệp trong hoạt động xuất khẩu do đó yêu cầu đặt ra là cán bộ xuất khẩu phải có trình độ nghiệp vụ ngoại thương giỏi, năng động, sáng tạo trong kinh doanh và giao tiếp tiếng Anh tốt. Hiện nay vấn đề lao động của Công ty có đôi điều bất cập, đó là tỷ lệ lao động có tuổi và dưới trình độ Đại học tương đối lớn, đây là thế hệ cán bộ chịu ít nhiều ảnh hưởng của chế độ cũ do đó họ thiếu tính năng động và sáng tạo. Vì vậy Công ty nên có chủ trương trẻ hoá lực lượng lao động, việc làm này nên từ từ có chọn lọc sẽ có tác dụng kết hợp được kinh nghiệm của lớp cán bộ đi trước với óc sáng tạo, mạnh dạn của tuổi trẻ. Do quá trình CNH - HĐH nền kinh tế, vấn đề tuyển dụng các cán bộ có chuyên môn sâu về kỹ thuật máy móc, công nghệ vào làm việc tại các xí nghiệp của Công ty là cần thiết. Để nâng cao hiệu quả trong hoạt động xuất khẩu, Công ty phải thường xuyên gửi các cán bộ đi học các lớp ngắn hạn về kỹ thuật nghiệp vụ xuất nhập khẩu tại các trung tâm đào tạo kinh doanh quốc tế có uy tín trong và ngoài nước. Tạo điều kiện cho các cán bộ non yếu về trình độ nghiệp vụ đi học, đi đào tạo để nâng cao chuyên môn, thường xuyên tổ chức các buổi toạ đàm, trao đổi, hội thảo với các nhà kinh doanh, các giảng viên, các chuyên gia nổi tiếng trong nước và quốc tế để tiếp thu những kinh nghiệm trong các lĩnh vực còn yếu kém. Công ty có thể trích một phần lợi nhuận để lập quỹ đào tạo, chi cho các cán bộ đi học nước ngoài, khuyến khích cán bộ đi học ngoại ngữ thông qua các khoản trợ cấp, bồi dưỡng thành lập các câu lạc bộ ngoại ngữ. Công ty có thể thuê chuyên gia nước ngoài tư vấn và truyền đạt các phương thức kinh doanh mới nhất của thế giới, tiếp thu kinh nghiệm trong làm ăn của họ. Công tác tuyển dụng phải được tiến hành nghiêm túc. Tuyển đúng người đúng trình độ, tránh bỏ sót người tài, cán bộ tuyển dụng phải giỏi về nghiệp vụ chuyên môn, có kinh nghiệm lâu năm, tránh tình trạng tiêu cực. Công tác bố trí sau tuyển dụng phải dựa theo trình độ, các nhân viên trẻ có năng lực làm việc với các nhân viên lớn tuổi có kinh nghiệm theo nguyên tắc bổ sung xen kẽ. Công ty nên tổ chức định kỳ các cuộc thi nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên đ phát hiện những cán bộ thiếu năng lực trình độ chuyên môn, phát hiện nhân tài để có kế hoạch đào tạo lại, cho thôi việc hoặc phát huy khả năng của người có tài.
4. Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu.
Để mở rộng thêm các mối quan hệ kinh tế và có các cơ hội trong kinh doanh xuất khẩu, ngoài việc sử dụng hình thức xuất khẩu trực tiếp là chủ yếu Công ty nên xem xét thêm các hình thức xuất khẩu sau:
Phương thức thương mại điện tử: Đây là phương thức hiện đại và mới mẻ do ứng dụng công nghệ thông tin vào kinh doanh. Phương thức này hiện nay được các Công ty nước ngoài sử dụng phổ biến. Thương mại điện tử cho phép các doanh nghiệp sử dụng nó trong lĩnh vực xuất khẩu các thông tin cập nhật được chính xác, nhanh và rất hiệu quả. Thương mại điện tử mở ra rất nhiều cơ hội kinh doanh và các quan hệ kinh tế có lợi ích to lớn, do đó Công ty nên dần dần sử dụng phương thức này như phương thức truyền thống trong hoạt động kinh doanh của mình.
Ngoài ra Công ty có thể sử dụng phương thức buôn bán đối lưu và phương thức gửi bán. Nhưng ở phương thức buôn bán đối lưu, cần xem xét vấn đề đầu ra cho sản phẩm nhập về tránh tình trạng nhập những hàng hoá đặc chủng khó tiêu thụ.
5. Đa dạng hoá các mặt hàng, ngành hàng, đầu tư cho các sản phẩm tinh chế.
- Đa dạng hoá mặt hàng là việc mà doanh nghiệp sẽ tiến hành xuất khẩu nhiều chủng loại hàng hoá ra thị trường nước ngoài. Mục đích của việc đa dạng hoá mặt hàng xuất khẩu là để Công ty có thể tìm kiếm được cơ hội kinh doanh mặt hàng mới và giảm bớt rủi ro chung cho hoạt động xuất khẩu hàng hoá. Việc đa dạng hoá này phải xuất phát từ nhu cầu thị trường truyền thống. Hiện nay Công ty đang mở rộng mặt hàng xuất khẩu sang các loại mặt hàng như là gạo, thuỷ sản, đá quí. Bước đầu tuy có khó khăn nhưng cũng đem lại một phần doanh thu cho Công ty.
- Bên cạnh việc đa dạng hoá các mặt hàng xuất khẩu thì phải có đầu tư theo chiều sâu các sản phẩm tinh chế. Hiện nay, do chưa có điều kiện để xây dựng cơ sở sản xuất, chế biến hoặc gia công hàng cho nước ngoài trên dây chuyền thiết bị hiện đại nên hàng hoá xuất khẩu của Công ty thường là các mặt hàng thô, chưa chế biến, khi xuất khẩu ra thị trường nước ngoài được chế biến lại và đưa ra tiêu thụ với nhãn mác khác nên không được người tiêu dùng thực sự biết đến. Vì những lý do đó mà việc nghiên cứu đầu tư để sản xuất ra các sản phẩm thâm nhập vào các thị trường khó tính như Mỹ, EU có nhu cầu nhập khẩu sản phẩm có tính hàm lượng công nghệ cao, được tinh chế là việc làm cần thiết mà Công ty phải tiến hành trong thời gian tới.
6. Nâng cao hiệu qủa công tác thu mua, tạo nguồn hàng.
Đối với các doanh nghiệp thương mại, đặc biệt trong lĩnh vực kinh doanh xuất khẩu công tác tổ chức nguồn hàng tốt có ý nghĩa quan trọng. Việc có được nguồn hàng tốt với chất lượng cao, giá rẻ, điều kiện giao hàng nhanh để cho phép ty thực hiện được hợp đồng xuất khẩu thuận tiện, đảm bảo uy tín đối với khách hàng. Thực tế cho thấy, các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu có tiếng không chỉ có nhiều vốn mà phải có hệ thống chân hàng mạnh, hệ thống thu mua rộng khắp, hoạt động thường xuyên theo sát thị trường.
Hiện nay ở Công ty Intimex, công tác tạo nguồn thu mua hàng xuất khẩu còn nhiều hạn chế, chủ yếu là do thu mua từ các địa phương, cơ sở sản xuất rồi đem về chế biến lại. Do đó mà nguồn hàng cung cấp cho hoạt động xuất khẩu của Công ty rất bếp bênh, chất lượng không đồng đều, việc kiểm tra chất lượng sau khi mua chỉ dựa trên cảm tính, theo kinh nghiệm, quá trình vận chuyển, giao hàng chưa được giám sát chặt chẽ. Do đó thời gian tới Công ty nên tìm ra các phương thức tạo nguồn mới đem lại hiệu quả cao hơn. Cụ thể.
- Phải tạo được mối quan hệ tốt với địa phương sản xuất hàng xuất khẩu, từ việc đóng gói phân loại và vận chuyển về kho bảo quản. Phương thức này tạo ra thuận lợi cho Công ty là khối lượng thu mua nhiều và đồng đều về chất lượng, phù hợp với điều kiện của hợp đồng xuất khẩu. Đưa ra các biện pháp khuyến khích vật chất đối với hoạt động thu mua có hiệu quả, như qui định tỷ lệ hoa hồng khi cán bộ thu mua được số lượng lớn, chất lượng đảm bảo. Bên cạnh đó phải xử lý nghiêm khắc đối với những trường hợp gian lận, tráo hàng làm giảm uy tín của Công ty.
- Thứ 2 là Công ty có thể thực hiện thu mua từ các nguồn trung gian. Các đầu mối trung gian sẽ thu mua các sản phẩm từ các cơ sở sản xuất sau đó phân loại và cung cấp cho các Công ty XNK. Tuy nhiên khi sử dụng giải pháp này, Công ty phải chia sẻ lợi nhuận 1 phần cao các đầu mối trung gian, nguồn hàng không thường xuyên. Nhưng ưu điểm của nó là cán bộ thu mua chỉ cần hiểu sơ qua về mặt hàng đó.
Ngoài 2 phương thức trên thì Công ty có thể sử dụng hình thức liên doanh liên kết với các cơ sở sản xuất chế biến. Phương thức này đảm bảo cho Công ty chủ động cả về khối lượng, chất lượng bao bì, mẫu mã, giá cả và hình thức thanh toán. Tuy nhiên hình thức này Công ty cũng phải chi sử một phần lợi nhuận cho bên kia thực hiện liên doanh liên kết.
- Công tác kiểm định chất lượng hàng hoá phải được đảm nhiệm bởi đội ngũ kiểm tra, kiểm nghiệm chất lượng có kinh nghiệm và trình độ chuyên môn cao. Song song với đội ngũ cán bộ kiểm tra chất lượng hàng hoá Công ty phải hỗ trợ máy móc trang thiết bị hiện đại trợ giúp cán bộ thu mua.
7. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn.
Trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu, yêu cầu về vốn rất lớn và luôn là vấn đề khó khăn đối với các Công ty XK nói chung và Intimex nói riêng. Hiện nay Công ty không thể đảm bảo vốn cho ccá hoạt động xuất khẩu của mình do việc phải khai thác các nguồn hàng có tốc độ quay lớn, Công ty phải huy động từ các nguồn trong nước và quốc tế. Công ty có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, mỗi nguồn có 1 ưu thế khác nhau vì vậy đòi hỏi ban lãnh đạo phải có sự điều chỉnh cơ cấu các nguồn vay một cách hợp lý và phù hợp, không để xảy ra tình trạng lãng phí và tập trung rủi ro vào một vài đối tác nhất định. Việc huy động vốn trong nước thì Công ty có thể huy động thông qua một số nguồn sau:
- Công ty có thể huy động từ nguồn lợi nhuận được bổ sung vào cơ cấu vốn tự có hàng năm của mình. Đây là nguồn vốn cơ bản và lâu dài của Công ty. Tuy vậy, là một doanh nghiệp kinh doanh thương mại dịch vụ tổng hợp nên nguồn vốn của Công ty bị phân tán ở nhiều lĩnh vực, do đó hoạt động xuất khẩu thường bị thiếu vốn.
Nguồn vốn được bổ sung từ lợi nhuận hàng năm của Công ty không thể theo kịp được với tốc độ phát triển của hoạt động xuất khẩu nên hoạt động xuất khẩu phải sử dụng các hình thức huy động khác.
- Công ty có thể sử dụng hình thức vay ngân hàng. Ngân hàng là nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho sản xuất kinh doanh. Hiện nay, giữa Công ty và các ngân hàng như ngân hàng công thương Hoàn Kiếm, ngân hàng ngoại thương đã có những thoả thuận chung về hạn mức cho vay với từng lĩnh vực cho vay xuất khẩu. Ngược lại Công ty luôn đảm bảo được chữ tín với ngân hàng, vay đúng mục đích, trả đúng hạn, giải quyết được vấn đề vốn khi mở rộng qui mô xuất khẩu.
Vấn đề huy động vốn của nước ngoài, Công ty có thể huy động - vay từ các nhà nhập khẩu là khách hàng của Công ty, song vấn đề đặt ra là Công ty phải đảm bảo uy tín với khách hàng. Việc vay từ các nhà nhập khẩu là trường hợp ứng với một số hợp đồng xuất khẩu, Công ty yêu cầu khách hàng trả tiền trước một phần hoặc toàn bộ giá trị hợp đồng. Nếu hợp đồng xuất khẩu đó mà có giá trị lớn vượt ngoài khả năng vốn của Công ty thì có thể sử dụng biện pháp yêu cầu tín dụng.
Để nâng cao việc sử dụng nguồn vốn Công ty có thể tiến hành liên doanh liên kết với nước ngoài để tạo thêm nguồn vốn từ bên ngoài vào Công ty. Trong giai đoạn hội nhập kinh tế hiện nay, liên doanh liên kết kinh tế đang là hình thức hợp tác chủ yếu. Việc liên doanh liên kết phải đảm bảo được lợi ích trước mắt và lâu dài của Công ty. Trong liên doanh liên kết phải qui định rõ thời gian hợp tác liên doanh, tỷ lệ góp vốn, phạm vi hoạt động trên cơ sở nghiên cứu kỹ chiến lược kinh doanh của mình cũng như là tiếp thu kinh nghiệm của những mô hình liên kết đã thành công.
Để góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, Công ty có thể sử dụng các biện pháp sau:
- Việc thực hiện hợp đồng xuất khẩu phải được tiến hành nhanh chóng, thanh toán đúng hạn, không để xảy ra hiện tượng chiếm dụng vốn.
- Thiết lập các mối quan hệ với hệ thống tổ chức tín dụng, tận dụng các điều kiện vay với lãi suất ưu đãi.
- Trong cơ cấu nguồn vốn thực hiện việc phân bổ có hiệu quả hợp lý, có thể theo nguyên tắc cơ cấu vốn lưu động và vốn cố định là 8 : 2, ưu tiên sử dụng vốn lưu động vào việc thực hiện các hợp đồng xuất khẩu có tốc độ triển khai nhanh, vòng quay vốn lớn.
- Sử dụng nguồn vốn nhàn rỗi của cán bộ công nhân viên trong Công ty dưới hình thức vay ngắn hạn.
8. Chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hội nhập kinh tế quốc tế là xu hướng tất yếu của nền kinh tế toàn cầu, nó đem lại rất nhiều cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp vì hàng hoá được lưu thông tự do gặp ít trở ngại. Tuy nhiên do tác động của qui luật cạnh tranh thị trường, hội nhập kinh tế sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến các doanh nghiệp xuất khẩu. Chính vì vậy để tồn tại và phát triển trong điều kiện nước ta hội nhập AFTA và chuẩn bị tham gia vào WTO, Công ty cũng phải nghiên cứu tác động của quá trình này đến hoạt động kinh doanh của Công ty đặc biệt là hoạt động xuất khẩu. Ban giám đốc cần xem xét thời cơ và thách thức, những cơ hội và khó khăn do hội nhập kinh tế mang lại trên cơ sở đó hoạch định chiến lược kinh doanh sao cho phù hợp với điều kiện mới, phát huy được sức mạnh nội lực, tận dụng có hiệu quả nguồn vốn, cơ sở vật chất, nguồn nhân lực, vậ lực để đạt được kết quả nhất khi hội nhập kinh tế diễn ra. Bên cạnh đó, Công ty cần nghiên cứu kỹ các biện hiệp định thương mại của Nhà nước đã được ký kết để phân tích những thuận lợi và khó khăn khi tiến hành mở rộng thị trường quốc tế.
III. Một số Kiến nghị với Nhà nước.
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Hoàn thiện hệ thống pháp luật về quản lý hoạt động xuất khẩu trong cơ chế thị trường hiện nay theo hướng đơn giản, thông thoáng.
Vì hoạt động xuất khẩu là một nguồn thu của ngân sách Nhà nước nên Nhà nước phải có những chính sách thông thoáng tạo điều kiện cho cácd doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực này có cơ hội để phát triển. Xuất phát từ thực tế của Công ty Intimex, em xin mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị sau:
Các văn bản pháp luật về quản lý hoạt động xuất khẩu phải được xây dựng đảm bảo tính thống nhất, chặt chẽ, tạo được điều kiện thuận lợi, công bằng để tất cả các thành phần kinh tế đều có thể tham gia hoạt động xuất khẩu. Cụ thể như sau:
- Về chính sách thuế xuất khẩu:
Thuế là một công cụ quan trọng để Nhà nước điều tiết Nhà nước kinh tế do đó Nhà nước phải có chính sách thuế phù hợp để khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu. Đối với những doanh nghiệp kinh doanh những mặt hàng có tính cạnh tranh cao khi tham gia xuất khẩu thì Nhà nước nên giảm thuế, cho hưởng những mức thuế đặc biệt. Đối với tất cả các mặt hàng, ngành hàng xuất khẩu phải có hiểu thức chung và biểu thức riêng hợp lý. Vấn đề về thuế thu nhập doanh nghiệp, hiện nay mức thuế này là 32%, để khuyến khích các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu, Nhà nước nên giảm để tạo điều kiện hơn cho các doanh nghiệp.
- Về thủ tục hành chính.
Thủ tục hải quan hiện nay là một vấn đề khó khăn và phức tạp. Thủ tục xuất khẩu được thực hiện nhiều khâu, nhiều cửa rườm rà, lãng phí thời gian, công sức của các doanh nghiệp. Do đó Nhà nước nên tiến hành cải cách thủ tục liên quan đến quản lý xuất khẩu, xem xét lại các danh mục hàng hoá xuất khẩu giảm bớt các danh mục thuộc diện quản lý chuyên ngành, tiến hành từng bước bỏ các thủ tục hành chính không cần thiết để tiết kiệm thời gian tiền của, công sức cho các doanh nghiệp.
Trong công tác hải quan còn tồn tại những hiện tượng áp mã thuế chưa đúng do có nhiều văn bản không rõ ràng. Do đó Nhà nước cần cụ thể hơn nữa khi xây dựng mã thuế áp cho từng loại hàng hoá xuất khẩu.
Bên cạnh đó Nhà nước cũng phải xây dựng các qui chế phối hợp công tác giữa các lực lượng cơ quan chức năng làm việc tại cửa khẩu xuất nhập hàng hoá. Đơn giản một số khâu không cần thiết gây phiền hà trong thủ tục xuất khẩu, tránh hiện tượng quan liêu, cửa quyền.
- Duy trì tỷ giá hối đoái ổn định.
Nhà nước phải đảm bảo tính ổn định của tỷ giá hối đoán theo hướng có lợi cho doanh nghiệp xuất khẩu, không được chênh lệch so với thực tế thị trường và không được gây khó khăn cho hoạt động nhập khẩu, duy trì tính ổn định trong hoạt động ngoại thương.
2. Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu.
- Vấn đề về vốn:
Vốn trong kinh doanh đối với các doanh nghiệp rất quan trọng, đặc biệt là các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu. Thực tế cho thấy nhiều doanh nghiệp đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội kinh doanh, nhiều hợp đồng xuất khẩu không thực hiện được do khả năng tài chính của doanh nghiệp hạn hẹp. Trong tình trạng ấy thì các ngân hàng thương mại lại tồn tại hiện tượng tồn đọng vốn. Việc các doanh nghiệp kinh doanh vay vốn là điều đương nhiên, không thể tránh khỏi. Tuy nhiên việc tiếp cận và vay được vốn được do đòi hỏi khắt khe của thủ tục vay vốn tài sản thế chấp, thời hạn thanh toánVậy nên trong thời gian tới Nhà nước cần đưa ra các biện pháp cải cách hoạt động của ngân hàng, đặc biệt là thủ tục vay vốn cần phải hợp lý dựa trên khả năng hiện có của các doanh nghiệp.
- Vấn đề về thị trường.
Nhà nước phải có các chính sách kinh tế đối ngoại để mở rộng các quan hệ kinh tế quốc tế, tích cực tham gia các hoạt động xúc tiến thương mại ký kết các hiệp định thương mại song phương, đa phương cung cấp thông tin về môi trường kinh doanh tại các quốc gia đã có quan hệ thương mại cho các doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận, xâm nhập thị trường mới. Việc nước ta tham gia khối liên kết ASEAN đã tạo điều kiện cho các hoạt động xuất khẩu phát triển thuận lợi. Cùng với việc nước ta xin gia nhập tổ chức WTO lại càng làm tăng cơ hội kinh doanh cho các doanh nghiệp nước nhà. Nhưng để cho sự hợp tác quốc tế thành công thì Nhà nước phải có sự cải cách về cơ chế thương mại luật pháp về tổ chức cán bộ phù hợp với thông lệ quốc tế.
3. Quỹ bảo hiểm xuất khẩu.
Trong kinh doanh xuất khẩu, nhiều khi doanh nghiệp bị đối tác chiếm dụng vốn gây nhiều rủi ro, dễ mất vốn. Thêm vào đó là do cung cầu về hàng hoá không ổn định lên xuống thất thường, ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái làm cho hiệu quả hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp không cao. Do đó, Nhà nước nên thành lập quĩ bảo hiểm XK để thúc hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp tránh bị rủi ro và bảo toàn được vốn.
Trên đây là một số kiến nghị tổng hợp từ hoạt động thực tiễn tại Công ty Intimex cũng là những khó khăn vướng mắc từ phía chính sách của Nhà nước cần xem xét, điều chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp xuất khẩu, đảm bảo cho sự phát triển kinh tế chung của xã hội.
Kết luận
Với 30 năm hoạt động, Công ty xuất nhập khẩu Intimex đã không ngừng học hỏi, tiếp thu những kinh nghiệm quí báu từ thực tiễn để tiếp tục tồn tại và không ngừng phát triển. Phải đối mặt với những khó khăn do sự thay đổi cơ chế kinh tế, với sự cạnh tranh gay gắt của quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Công ty đã không chịu bó tay và mà ngược lại, vẫn đang kiên trì tìm những hướng đi mới, những giải pháp mới để tự khẳng định mình và không ngừng đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên, nếu muốn tham gia vào thị trường khu vực và thế giới thì Công ty phải chấp nhận sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt như một qui luật tất yếu của cơ chế thị trường.
Nhằm gắn liền với những đòi hỏi và yêu cầu của thực tiễn, qua thời gian thực tập ở Công ty XNK thương mại dịch vụ Intimex, em đã chọn đề tài "Một số giải pháp đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại Công ty Intimex". Nội dung chính của đề tài đề cập đến 3 vấn đề chính là:
- Cơ sở lý luận chung về hoạt động xuất khẩu của 1 doanh nghiệp.
- Phân tích tình hình xuất khẩu hàng hoá của Công ty Intimex.
- Đưa ra những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty.
Đây là một đề tài lớn, trình độ kiến thức bị hạn chế, các giải pháp đưa ra không nhằm tham vọng giải quyết được những vấn đề tồn tại của Công ty mà chỉ là những ý kiến chủ quan mang tính chất tham khảo và mong muốn nhỏ là góp phần giúp hoạt động xuất khẩu của Công ty ngày một hoàn thiện hơn. Vì những nguyên nhân trên, trong thời hạn ngắn của bài viết này sẽ không thể tránh khỏi những sai sót. Em rất mong nhận được sự đánh giá, bổ sung, góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú cán bộ trong Công ty và các bạn để đề tài của em được hoàn thiện hơn.
Cuối cùng cho phép em được bày tỏ sự biết ơn chân thành tới tập thể các thầy cô giáo trong khoa kinh doanh quốc tế, đặc biệt là thầy giáo thạc sĩ Bùi Huy Nhượng của trường Đại học Kinh tế Quốc dân, tập thể các cô, các chú, đang công tác tại công ty XNK tổng hợp Intimex đã tận tình giúp đỡ em trong quá trình thực tập và hoàn thành chuyên đề này.
Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn.
Tài liệu tham khảo
Các loại sách
1. Giáo trình "Thương mại quốc tế" của PGS.TS Nguyễn Duy Bột - NXB Thống kê 1998.
2. Giáo trình "Kinh doanh quốc tế" của TS. Nguyễn Thị Hường - NXB Thông kê.
3. Giáo trình "Marketing quốc tế" của PTS Nguyễn Văn Cao - NXB Giáo dục 1999
4. Giáo trình "Kỹ thuật nghiệp vụ ngoai thương" của PGS Vũ Hữu Tửu - NXB Giáo dục 1998.
5. Giáo trình "Kinh tế học phát triển" - NXB Thống kê - 1997.
6. Giáo trình "Đàm phán và ký kết hợp đồng kinh doanh quốc tế" của GS -TS Tô Xuân Dân - 1998.
Các loại tạp chí.
- Tạp chí kinh tế phát triển số 46. "Mấy vấn đề về xuất khẩu trong tăng trưởng kinh tế"
Của Trần Thanh Hải 2001.
- Tạp chí Kinh tế kế hoạch số 6 - 2002. "Tình hình xuất khẩu một số mặt hàng chủ yếu trong mấy tháng đầu năm 2002".
- Báo cáo tổng kết năm của Công ty Intimex
- Tạp chí kinh tế kế hoạch số 4 - 2002. "Tình hình kinh tế - xã hội trong 3 tháng đầu năm 2002".
- Thời báo kinh tế thế giới s 28 - ngày 17/2/2003 giá cà phê tăng nhanh" tác giả Hoài Linh.
Nhận xét của giáo viên hướng dẫn
Nhận xét của đơn vị thực tập
Mục lục
Lời mở đầu 1
Chương I: Lý luận chung về hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3
I. Vai trò của xuất khẩu đối với sự phát triển của mọt quốc gia nói chung và sự phát triển của một doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 3
1. Khái niệm và đặc điểm của xuất khẩu 3
2. Tính tất yếu của thương mại quốc tế và vai trò của nó được sự phát triển của một quốc gia 4
3. Các hình thức của xuất khẩu 6
4. Mục tiêu của xuất khẩu 9
5. Nhiệm vụ của xuất khẩu 9
II. Một số nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 10
1. Các yếu tố thuộc môi trường vĩ mô 10
2. Các yếu tố thuộc môi trường vi mô 11
III. Nội dung của hoạt động xuất khẩu của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường 12
1. Công tác nghiên cứu thị trường xuất khẩu và lựa chọn mặt hàng 12
2. Lập phương án kinh doanh và tạo nguồn hàng xuất khẩu 14
3. Giao dịch đàm phán kinh doanh và ký kết hợp đồng xuất khẩu 15
4. Thực hiện hợp đồng xuất khẩu 16
5. Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu 17
Chương 2: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty XNK Intimex 18
I. Khái quát về Công ty 18
1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty 18
1.1. Quá trình hình thành 18
1.2. Quá trình phát triển của Công ty Intimex 20
2. Chức năng - nhiệm vụ - cơ cấu tổ chức của Công ty Intimex 23
21. Chức năng của Công ty Intimex 23
2.2. Nhiệm vụ của Công ty Intimex 23
2.3. Cơ cấu tổ chức bộ máy và nhiệm vụ các phòng ban 24
3. Tiềm năng của Công ty 28
II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Công ty 30
1. Tình hình hoạt động xuất khẩu hàng hoá trong những năm gần đây của Công ty Intimex 30
2. Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu 35
3. Cơ cấu thị trường xuất khẩu 39
4. Cơ cấu hình thức xuất khẩu của Công ty 44
5. Nội dung về nghiệp vụ xuất khẩu của Công ty 47
5.1. Nghiên cứu lựa chọn thị trường xuất khẩu 47
5.2. Ký kết hợp đồng xuất khẩu 47
5.3. Xin giấy xuất khẩu 47
5.4. Thu mua tạo nguồn hàng xuất khẩu 47
5.5. Nghiệp vụ giao hàng xuất khẩu 49
5.6. Nghiệp vụ thanh toán 49
III. Đánh giá từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá của Công ty 50
1. Những thành tựu đã đạt được từ hoạt động kinh doanh xuất khẩu 50
1.1. Kết quả và hiệu quả kinh doanh xuất khẩu 50
1.2. Những thành công đạt được 53
2. Hạn chế 54
3. Nguyên nhân 55
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu tại Công ty Intimex 58
I. Định hướng phát triển đối với hoạt động xuất khẩu của Công ty Intimex trong thời gian tới 58
II. Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Công ty 59
1. Giải pháp nghiên cứu và mở rộng thị trường 59
2. Tăng cường hoạt động xúc tiến thương mại 60
3. Nâng cao trình độ nghiệp vụ của các cán bộ xuất khẩu 61
4. Đa dạng hoá các hình thức xuất khẩu 62
5. Đa dạng hoá các mặt hàng, ngành hàng, đầu tư cho các sản phẩm tinh chế 63
6. Nâng cao hiệu quả công tác thu mua, tạo nguồn hàng 64
7. Nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn 65
8. Chuẩn bị cho quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 67
III. Một số kiến nghị với nhà nước 67
1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật 67
2. Trợ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu 69
3. Quỹ bảo hiểm xuất khẩu 70
Kết luận 71
Tài liệu tham khảo 72
Nhận xét của cơ sở thực tập
Công ty vận tải thuỷ I xác nhận
Sinh viên : Nguyễn Hải Nam
Lớp : KTLĐ - 42
Trường Đại học Kinh tế quốc dân
Thực tập tại cơ quan từ ngày 16/02/2004 đến ngày 20/05/2004. Trong quá trình thực tập tại cơ quan sinh viên Nguyễn Hải Nam.
- Chấp hành nghiên chỉnh nội quy của Công ty
- Thực tập đầy đủ, chăm chỉ.
- Chịu khó tìm tòi, học hỏi, sáng tạo.
- Dưa ra được những biện pháp góp phần khắc phục những vấn đề cần hoàn thiện hơn của cơ quan.
Hà Nội 20/05/2004
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 2360.doc