Đề tài Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp

Xuất khẩu của nước ta hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Một số nước có đồng tiền giảm giá nên hàng xuất khẩu của họ rẻ hơn, lấn sân một số thị trường của Việt Nam. Chúng ta không thiếu các tổ chức cho vay để thực hiện việc xuất khẩu nhưng vấn đề chủ yếu cầu giải quyết hiện nay đối với tín dụng ưu đãi là thiếu nguồn vốn. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có một tổ chức hỗ trợ về vồn thoả đáng cho Doanh nghiệp hoạt động chẳng hạn như bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm rủi ro xuất khẩu, hỗ trợ vốn cho bán hàng trả chậm. Xuất phát từ thực tế và đòi hỏi trên, nước ta cần thành lập một quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Trước mắt quỹ này làm nhiệm vụ cấp tín dụng ưu đãi và làm mấy việc chủ yếu sau: - Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. - Bảo hiểm rủi ro cho hàng xuất khẩu. - Bù lãi suất cho tín dụng xuất khẩu. - Hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp xuất khẩu bán hàng trả chậm. Việc nhà nước lập ra quỹ hỗ trợ xuất khẩu sẽ giúp cho Doanh nghiệp mạnh dạn bán hàng trả chậm với lãi xuất thấp nhờ vậy mà khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, bên cạnh đó còn nâng cao được giá bán hàng. Thông qua việc xuất khẩu nhiều, mạnh của các Công ty thì sản phẩm của họ phải có bao bì đóng gói với mẫu mã đẹp để tăng sự kích thích về sản phẩm và được tiêu thụ nhiều hơn thì Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội sẽ cung cấp được cho họ sản phẩm bao gói của mình với mục đích là mở rộng thị trường tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh tế.

doc18 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 734 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở doanh nghiệp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LờI Mở ĐầU Việt Nam với một nền kinh tế còn non kém chưa thoát khỏi sự yếu kém và nghèo nàn, một nền kinh tế chiếm đa số là nông nghiẹp lạc hậu, hệ thống kinh tế Nhà nước chưa năng động, không tận dụng hết các nguồn lực tiềm năng vốn có. Thời gian chuyển đổi cơ cấu kinh tế chưa lâu còn mang nặng tính tập trung bao cấp nặng sức ì phó thác cho Nhà nước. Chuyển sang nền kinh tế, sự tiếp thu chậm chạp và bảo thủ đã hạn chế rất đáng kể khả năng phát triển nền kinh tế. Nền kinh tế Nhà nước vẫn mang vai trò chủ đạo và được Nhà nước bảo hộ nhưng trong thực tế các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh không hiệu quả trong thị trường thậm chí Nhà nước phải bù lỗ, kiến thức kinh tế của các nhà quản lý này có thể là khiêm tốn cũng có thể là do sức ì cho Nhà nước giải quyết. Chủ trương của Đảng là phải đổi mới hệ thống quản lý kinh doanh, phương thức kinh doanh, tận dụng hết nguồn lực trí thức, tiếp cận và áp dụng triệt để kiến thức kinh tế phương tây vào nền kinh tế Việt Nam, buộc các nhà doanh nghiệp thực sự kinh doanh, đòi hỏi doanh nghiệp “sống” bằng chính khả năng của mình, gắn trách nhiệm sản xuất kinh doanh vào tất cả mọi thành viên trong doanh nghiệp. Với đề tài “Một số giải pháp để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp” em xin được xây dựng một vốn ít hiểu biết của mình nói về việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh ở nước ta. Cách nhìn nhận vấn đề giải quyết và một số kiến nghị về chính sách Nhà nước nhằm hoàn thiện hơn cho việc sản xuất kinh doanh góp phần phát triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mặc dù đã cố gắng tích luỹ để có được kết quả tốt cho đề tài nghiên cứu nhưng với sự nghiên cứu chưa được sâu sắc nên bài viết không tránh khỏi những hạn chế, sai sót nhất định. Em rất mong nhận được những ý kiến đóng góp, phê bình quý báu của thầy cô để bài viết thêm hoàn chỉnh hơn. Chương I Nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh - cơ sở cho sự tồn tại và prát triển của doanh nghiệp I- bản chất hiệu quả sản xuất kinh doanh trong các Doanh nghiệp 1- Quan điểm cơ bản về hiệu quả sản xuất kinh doanh ( SXKD) Hiệu quả SXKD là một phạm trù kinh tế biểu hiện trình độ quản lý theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác nguồn lực trong quá trình tái sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là điều kiện quan trọng tạo đà tăng trưởng kinh tế và thực hiện mục tiêu kinh tế của Doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Có thể xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để xem xét, đánh giá hiệu quả SXKD của một Doanh nghiệp.. - Nếu hiểu một cách đầy đủ thì hiệu quả SXKD thể hiện trình độ tổ chức quản lý trong hoạt động cuả các Doanh nghiệp. - Nếu đứng trên góc độ từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất và kinh doanh. Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp, phản ánh trình độ sử dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là một phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt được hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi ích là “tiền”. Vấn đề cơ bản trong lĩnh vực quản lý là phải biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương và lợi ích địa phương, giữa lợi ích cá nhân lợi ích tập thể và lợi ích Nhà nước. - Trong thực tế hiệu quả SXKD của các Doanh nghiệp đạt được trong các trường hợp sau: + Kết quả tăng, chi phí giảm. + Kết quả tăng, chi phí tăng nhưng tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả SXKD. Trường hợp này diễn ra chậm hơn và trong SXKD có những lúc chúng ta phải chấp nhận. Thời gian đầu tốc độc tăng của chi phí lớn hơn tốc độ tăng của kết quả SXKD, nếu không thì Doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển. Trường hợp này diễn ra vào các thời điểm khi chúng ta đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng hoặc là phát triển thị trường mới.. Đây chính là một bài toán cân nhắc giữa việc kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thông thường thì mục tiêu tồn tại của Doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt động SXKD của Doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập từ tiêu thụ hàng hoá đủ bù đắp các chi phí đã chi ra để sản xuất các hàng hóa ấy. Còn mục tiêu phát triển của Doanh nghiệp đòi hỏi qúa trình SXKD vừa đảm bảo bù đắp chi phí đã bỏ ra vừa có tích luỹ để tiếp tục qúa trình tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các Doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất. Đây là nhiệm vụ cơ bản của Doanh nghiệp. 2- Bản chất của hiệu quả kinh tế trong SXKD. Thực chất là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả SXKD. Chính việc kham hiếm nguồn lực và việc sử dụng chúng có tính cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để và tiết kiệm các nguồn lực. Để đạt được mục tiêu kinh doanh các Doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực, hiệu năng của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm mọi chi phí. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả SXKD là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu, hay chính xác hơn là đạt hiệu quả tối đa với chi phí nhất định hoặc ngược lại đạt hiệu quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây được hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lực chọn tốt nhất đã bị bỏ qua, hay là giá trị của sự hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện công việc kinh doanh II- Nâng cao hiệu quả SXKD - cơ sở cho sự tồn tại và phát triển của Doanh nghiệp. Hiệu quả SXKD không những là thước đo chất lượng phản ánh trình độ tổ chức, quản lý kinh doanh mà còn là vấn đề sống còn của Doanh nghiệp. Doanh nghiệp muốn tồn tại phải kinh doanh có hiệu quả. Hiệu quả kinh doanh càng cao, Doanh nghiệp càng có điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất , đầu tư đổi mới trang thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật, quy trình công nghệ mới, cải thiện và nâng cao đời sống người lao động, thực hiện tốt nghĩa vụ với Nhà nước. Ta biết rằng các Doanh nghiệp tiến hành hoạt động kinh doanh đều với động cơ kinh tế là để kiếm lợi nhuận. Trong nền kinh tế thị trường, lợi nhuận là mục tiêu của kinh doanh, là thước đo hiệu quả hoạt động SXKD, là động lực thúc đẩy các Doanh nghiệp cũng như mỗi người lao động không ngừng sử dụng hợp lý, tiết kiệm các nguồn lực, nâng cao năng suất, chất lượng và hiệu quả của quá trình SXKD. Để đạt được lợi nhuận cao, một Doanh nghiệp phải nhìn thấy được những cơ hội mà người khác bỏ qua, phải phát hiện ra sản phẩm mới, tìm ra phương pháp sản xuất mới và tốt hơn để có chi phí thấp nhất hoặc là phải liều lĩnh, mạo hiểm mức bình thường và đôi khi phải biết chấp nhận rủi ro. Vì thế nâng cao hiệu quả SXKD sẽ làm tăng doanh thu, tăng lợi nhuận nhờ đó mà tăng tỉ trọng của vốn có làm cho kết cấu tài chính của Doanh nghiệp thay đổi theo hướng an toàn có lợi, tạo khả năng thanh toán tốt cho Doanh nghiệp từ đó nâng cao uy tín của mình trên thương trường. Việc SXKD có hiệu quả sẽ đem lại cho Doanh nghiệp khả năng dồi dào về tài chính từ đó thúc đẩy công tác nghiên cứu đầu tư sản xuất cho các sản phẩm mới, thu hút lao động ngoài xã hội đồng thời có điều kiện để cải thiện môi trường làm việc cũng như đảm bảo đời sống cho người lao động. Nó còn giúp cho Doanh nghiệp có điều kiện hơn trong việc nghiên cứu và thực hiện các khâu xúc tiến tiếp thị, quảng cáo và các dịch vụ khác bán hàng làm tăng khả năng cạnh tranh, thu hút nhiều khách hàng đến với Doanh nghiệp. Nhờ vậy sản phẩm tiêu thụ được nhiều hơn. Hơn nữa nó còn góp phần đẩy nhanh tốc độ luân chuyển vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm các khoản chi phí cho Doanh nghiệp như chi phí kho tàng, bảo quản. Từ tất cả những phân tích trên cho thấy: không ngừng nâng cao hiệu quả SXKD là mục tiêu hàng đầu và là ước vọng của mỗi Doanh nghiệp. Sau đây là vấn đề khó khăn, phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố đòi hỏi các Doanh nghiệp phải có biện pháp phù hợp, mang tần chiến lược xuất phát từ những khó khăn thuận lợi của Doanh nghiệp. Chương II Phân tích và đánh giá thực trạng hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu trong thời gian qua. I- Quá trình hình thành và phát triển của Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội. 1- Hoàn cảnh ra đời Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội. Tiền thân là xí nghiệp thương binh 27/7 Hà Nội. Được thành lập theo quyết định số 268/CV ngày 22/8/1975 của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội. Nhiệm vụ của Công ty là được Thành phố giao cho tiếp nhận số anh chị em thương binh sau chiến tranh kết thúc. Không đủ điều kiện làm việc trong các cơ quan Nhà nước (tình trạng sức khoẻ, trình độ văn hoá, tay nghề.. ) của 4 quận, huyện nơi ngoại thành để tổ chức sản xuất làm ra của cải vật chất cho xã hội và tự nuôi sống bản thân mình. Đồng thời thực hiện chính sách hậu phương quân đội của Đảng và Nhà nước sau chiến tranh. Giai đoạn đầu của Công ty sản xuất các mặt hàng dây chun và chỉ khâu cung cấp cho ngành nội thương và quân đội. 2-Quá trình phát triển. Từ năm 1987 Nhà nước chuyển nền kinh tế từ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Số lao động là thương binh chiếm 70% tổng số lao động của Công ty. Trong điều kiện cơ sở vật chất rất nghèo nàn, kinh nghiệm quản lý sản xuất kinh doanh còn ít ỏi lại chưa hiểu biết với cơ chế thị trường là bao nhiêu. Với những khó khăn trên câu hỏi đầu tiên đặt ra cho Công ty là làm gì đây để duy trì cuộc sống cho anh em, làm mặt hàng gì đây cho phù hợp với cơ chế thị trường và đặc biệt là phù hợp với sức khoẻ của thương binh, nguồn vốn lấy ở đâu? Đào tạo và hướng dẫn công nghệ sản xuất như thế nào? Các vấn đề đặt ra ở đây phải mất 3 năm (1988 - 1990) thì Ban lãnh đạo Công ty mới giải quyết được. Sau khi tiếp cận với thị trường khu vực phía Nam và tham khảo tài liệu khoa học kỹ thuật của một số nước. Ban lãnh đạo Công ty đã định hướng được mặt hàng để thay thế cho mặt hàng dây chun và chỉ khâu đó là: Sản xuất các loại bao bì mềm LDPE, HDPE, PP và bao bì hợp Carton sóng có in nhiều màu sắc, túi xốp siêu thị các loại để phục vụ nhu cầu thị trường. Tháng 5/1992 Công ty được thành lập Doanh nghiệp Nhà nước theo quyết định số 388. Do năng lực sản xuất và nhu cầu mất cân đối (cung ít hơn cầu) nên Công ty vẫn tiếp tục đầu tư vào các năm tiếp theo với các dây chuyền sản xuất và Công nghệ tương đối hiện đại. Trong 26 năm qua, Công ty đã trưởng thành về mọi mặt, quá trình phát triển của Công ty gắn liền với sự đổi mới không ngừng về trình độ quản lý, về kỹ thuật, công nghệ... Một niềm vinh dự to lớn đối với quá trình phát triển và trưởng thành của Công ty là ngày 31/10/1997 Chủ tịch nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương đã ký quyết định tặng thưởng danh hiệu "Đơn vị anh hùng" cho tập thể cán bộ công nhân viên của Công ty. II – một số giải pháp của Công ty đã và đang thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1- Đào tạo con người : Luôn chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, công nhân viên nhằm ổn định tình hình nội bộ để cho người lao động luôn yên tâm gắn bó với sự nghiệp của Công ty. Tổ chức đào tạo kiện toàn độ ngũ kế cận máy, tạo điều kiện cho người lao động điều khiển máy với thao tác thuần thục mau lẹ có thể khắc phục được những sự cố hỏng hóc nhẹ của máy. Cử một số đồng chí có năng lực đi học về quản lý. Hàng năm thường xuyên tổ chức rèn luyện thi tay nghề, thi thợ giỏi để bình xét xếp bậc thợ. 2 Đổi mới công nghệ nâng cao chất lượng sản phẩm. Đây là vấn đề mấu chốt cho sự tồn tại và phát triển của Công ty. Công ty lấy định mức kinh tế kỹ thuật làm trọng tâm để xây dựng điều tiết giá thành, kịp thời đảm bảo đầu vào và đầu ra hợp lý, đảm bảo sản xuất có lãi: Có thể hiểu công nghệ là tổng hợp các phương tiện kỹ thuật, kỹ năng, phương pháp được dùng để chuyển hoá các nguồn lực thành sản phẩm. Đổi mới công nghệ là quá trình phát minh, phát triển và dựa vào thị trường để tạo ra những sản phẩm mới, công nghệ mới. 3 Thực hiện tích luỹ vốn, nâng cao vốn tự có. Trên cơ sở sản xuất phát triển, lợi nhuận năm sau cao hơn năm trước. Trên cơ sở tích luỹ các quỹ của xí nghiệp, đây là cơ sở để cải thiện đời sống cho người lao động đặc biệt là thương bệnh binh. 4 Phát động phong trào thi đua: Phát huy phong trào thi đua lao động sản xuất làm chủ công nghệ mới, tiết kiệm vật tư, giữ gìn trang thiết bị. Hàng tháng có bình xét khen thưởng kịp thời bằng vật chất. Do đó đã thúc đẩy, khuyến khích cán bộ, công nhân viên tích cực trong lao động sản xuất. 5 Cải cách thủ tục hành chính: Bộ máy của Công ty gọn nhẹ, linh hoạt, thủ tục hành chính đơn giản không gây phiền hà cho khách hàng cũng như người lao động 6 Không ngừng chiếm lĩnh thị trường : Để mở rộng thị trường và tạo thế cạnh tranh thì phải mở rộng hợp tác với các cơ quan, Doanh nghiệp trong và ngoài nước, mở thêm các đại lý tiêu thụ sản phẩm. Chương III Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh tại Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà nội I- Tăng cường sử dụng có hiệu quả nguồn lao động Lao động có ý nghĩa quyết định đến hoạt động SXKD của Doanh nghiệp, với việc sử dụng có hiệu quả nguồn lao động sẽ làm cho Doanh nghiệp có hiệu quả SXKD để tồn tại và phát triển, đứng vững trên thị trường cạnh tranh đầy gay gắt. 1- Tăng cường phân công lao động, bố trí lao động hợp lý Phân công lao động, bố trí lao động hợp lý sẽ làm cho Công ty khai thác được triệt để năng lực và sức sáng tạo của người lao động tiến tới nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn lao động. Đối với Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội thì thực hiện những biện pháp sau để sử dụng lao động có hiệu quả. Các phòng ban phải xây dựng lại quy định phân giao nhiệm vụ cụ thể, các mối quan hệ của từng thành viên trong nhóm, phòng, quyền hạn và trách nhiệm. Kiên quyết dùng các biện pháp tổ chức, thuyên chuyển, cho thôi việc đối với những vị trí thừa trong các phòng ban, dây chuyền sản xuất. 2- Hoàn thiện công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn: Lực lượng công nhân của Công ty về trình độ chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của Công ty. Trình độ lao động phổ thông chiếm tỉ lệ cao 92,8% trong tổng số lao động. Cùng với yêu cầu sản xuất của Công ty cần phải tiến hành đào tạo và đào tạo lại để nâng cao trình độ chuyên môn. Cán bộ công nhân viên trong Công ty thường xuyên được kiểm tra và đào tạo lại tay nghề để nâng cao hiệu quả làm việc. Chính sách đào tạo cán bộ, công nhân của Công ty thường được tổ chức dưới hình thức sau: Đào tạo tại chỗ tức là đào tạo kỹ thuật trong phạm vi nhiệm vụ và trách nhiệm của nhân viên, dưới sự chỉ đạo của giám sát viên hoặc giám sát bộ phận. Mở lớp đào tạo trong Công ty, môn học chung cho tất cả các bộ phận sẽ theo quy định và hướng dẫn của Công ty. Đào tạo ngoài Công ty, Công ty có thể cử nhân viên dự các khoá huấn luyện hoặc là hội thảo của các Công ty và của các trường đào tạo khi có điều kiện. Việc cử đi học phải được quản lý chặt chẽ có định hướng rõ ràng, cố gắng kế thừa kinh nghiệm, nghề nghiệp cũ. Khuyến khích người lao động sử dụng thời gian của mình để tự trau dồi kiến thức. Công ty sẽ trả học phí một phần hay trợ cấp cho các khoa học nghiệp vụ nếu được Ban giám đốc phê chuẩn. Trong công tác đào tạo và nâng cao trình độ chuyên môn của Công ty có rất nhiều hình thức khác nhau và mục tiêu đào tạo cho từng năm được đề ra theo yêu cầu đòi hỏi của công việc thực tế. Đối với cán bộ kỹ thuật đã công tác lâu năm cần có kế hoạch luân phiên đưa đi đào tạo lại về khoa học công nghệ mới, về tin học và ngoại ngữ. Đối với cán bộ mới ra trường nên áp dụng hình thức kèm cặp, bồi dưỡng kinh nghiệm tại chỗ. Đối với công nhân định kỳ hàng năm có chương trình bổ túc về nghề nghiệp nhất là các dây chuyền về công nghệ mới. Phải mở rộng chiến dịch đào tạo cho toàn bộ lao động trong Công ty. Nghĩa là người lao động có khả năng thích ứng với nhu cầu công việc ở mức độ nhất định vẫn cần nâng cao trình độ chuyên môn hơn nữa để họ có thể thích ứng với công việc ở mức độ cao hơn, tự chủ vững tin trong công việc được giao. Đây là biện pháp nâng cao hơn nữa hiệu quả sử dụng lao động để thực hiện phương án này hàng năm Công ty phải bỏ ra một khoản chi phí không nhỏ. Nhưng không thể không có vì nó liên quan đến sự phát triển của Công ty trong tương lai. II- Đẩy mạnh tiêu thụ sản phẩm Thị trường tiêu thụ là đặc biệt quan trọng đối với Công ty vì từ trước tới nay khách hàng đặt sản xuất chính là người tìm kiếm thị trường tiêu thụ sản phẩm của Công ty. Do vậy để mang lại hiệu quả cao trong việc tiêu thụ sản phẩm. Trong thời gian tới Công ty cần phải tiến hành các biện pháp nghiên cứu và mở rộng thị trường bao gồm: 1- Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường và xác định thị trường mục tiêu: Nền kinh tế nước ta chuyển sang kinh tế thị trường có cạnh tranh nên một Doanh nghiệp muốn đứng vững phải đáp ứng một cách tốt nhất nhu cầu thị trường nhằm thu về lợi nhuận lớn nhất. Trong điều kiện đó công tác nghiên cứu thị trường cần phải được thường xuyên coi trọng vì nó là khâu cần thiết quyết định trong quá trình kinh doanh. Qua việc nghiên cứu thị trường đến việc xác định thị trường trọng điểm để quyết định sự tăng giảm sản xuất ở thị trường. Việc nghiên cứu thị trường phải nghiên cứu cụ thể ở từng loại khách hàng, từng loại hàng dựa trên khả năng có thể của Doanh nghiệp mà còn chính sách kinh doanh hợp lý. Để có được sự nghiên cứu đầy đủ chính xác, Công ty cần đào tạo và cử những chuyên gia có kinh nghiệm đi tìm hiểu thực tế, nắm bắt thông tin, xử lý dữ liệu, dự báo chính xác và nếu có thể tìm và bắt mối với khách hàng. Công tác nghiên cứu thị trường của Công ty từ năm 1998 vẫn là tìm kiếm và tìm hiểu thị trường, nâng cao giá trị tổng sản lượng hàng bao bì. Hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty đòi hỏi phải nắm được những thông tin cần thiết về các Doanh nghiệp cùng sản xuất hàng bao bì, xu hướng thị trường hàng hoá bao bì trong nước và thế giới. Khả năng tiêu thụ của Công ty. Đối với mỗi thị trường cụ thể Công ty phải có cách tiếp cận riêng để đề ra hệ thống chỉ tiêu kỹ thuật phù hợp. Mặt khác công tác nghiên cứu thị trường cần được kéo dài và thường xuyên, liên tục, cần phải quan tâm tới nhiều thông tin khác nhau, thông qua đó Công ty có thể trách được những tổn thất trong qúa trình kinh doanh. Hơn nữa còn phải được tiến hành trên cả 2 lĩnh vực thị trường trong nước và thị trường nước ngoài. Nghiên cứu thị trường nước ngoài gắn liền với công tác xuất khẩu hàng hoá và nhập khẩu vật tư thiết bị. Bộ phân nghiên cứu thị trường xuất khẩu, nhập khẩu cần có các cán bộ có khả năng nghiệp vụ ngoại thương, ngoại ngữ để theo dõi các thị trường nước ngoài theo từng khu vực như: thị trường Đông Nam á, thị trường Tây Âu, Đông Âu và các thị trường mới như Trung á, Bắc Mỹ và Chây Mỹ. Khi có điều kiện Công ty nên tạo cơ hội cho các cán bộ tiếp cận các thị trường nói trên để có những thông tin chính xác, đánh giá đúng thị trường từ đó giúp Công ty có đủ điều kiện thâm nhập và mở rộng thị trường ra nước ngoài. Còn đối với thị trường trong nước đang là tiềm năng to lớn cho việc phát triển sản xuất của Công ty nói riêng và của toàn ngành nói chung. Vì thế đòi hỏi phải có cơ chế kinh doanh hiện nay, phải coi trọng thị trường trong nước với hơn 78 triệu dân là then chốt cho việc đầu tư kinh doanh sát với nhu cầu thị trường. Để công tác thu nhập thông tin, điều tra nghiên cứu thị trường nội địa thành các vùng hẹp (có thể theo vùng địa lý như: vùng Đồng bằng miền Núi, thành phố hay nông thôn). Đối với những vùng như thành phố có thu nhập cao, sống trang trọng, thích đi mua sắm thì đây quả là một thị trường lớn đối với Công ty. Vì thế trong thời gian tới, Công ty cầu thành lập phòng Marketing với chức năng nghiên cứu và phát triển thị trường, đề ra các chính sách marketing (sản phẩm, giá cả, phân phối, xúc tiến), phối hợp chặt chẽ với phòng xuất nhập khẩu để hoạt động SXKD hàng bao bì của Công ty có hiệu quả hơn. 2- Sử dụng chính sách khuyếch trương quảng cáo Quảng cáo là bất cứ hình thức trình bầy được chi trả nào của trình bầy và xúc tiến phi cá nhân về ý tưởng các hàng hoá, các dịch vụ cho một người bảo trợ nhất định. Quảng cáo là để dễ dàng cho người tiêu dùng nắm bắt thông tin về hàng hoá, thúc đẩy khách hàng do dự đến với mình nhanh hơn, từ đó Công ty mới có được chiến lược để đẩy mạch tiêu thụ sản phẩm. Đây là một trong những vũ khí lợi hại nhất để thu hút khách hàng. Vì nhận thức rõ điều này nên Công ty không tiếc chi những khoản tiền khổng lồ cho việc quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình. Tuy nhiên quảng cáo có hiệu quả không phải là điều đơn giản, mà nó là cả một nghệ thuật, một kỹ năng mang tính tiểu sảo. Quảng cáo phải làm sao cho người tiêu dùng hiểu được thế mạch của Công ty là một Doanh nghiệp lớn có lịch sử kinh doanh lâu dài, có thị trường rộng, có chữ tín trong quan hệ buôn bán, mặt hàng kinh doanh có chất lượng, đảm bảo đúng nhãn mác, xuất xứ, sản xuất với giá thành hợp lý, dịch vụ trước và sau khi bán hàng đáp ứng nhu cầu tối đã cho khách hàng. Quảng cáo ngay trên bao bì sản phẩm, qua ti vi, đài, báo. Thường xuyên quảng cáo ở các mặt báo có nhiều độc giả quan tâm như thời báo kinh tế, đầu tư, Doanh nghiệp... những báo này là phương tiện gián tiếp đưa người tiêu dùng đến với Công ty. Công ty nên duy trì quảng cáo một cách đều đặn. Công ty nên tổ chức cửa hàng giới thiệu sản phẩm để tăng khả năng tiếp cận người tiêu dùng. Tổ chức các hội nghị khách hàng tiêu dùng và khách hàng trung gian khoảng 3 tháng một lần. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay muốn tiêu thụ được sản phẩm, Công ty phải biết chiều khách hàng bằng cách nâng cao chất lượng phục vụ thông qua việc đáp ứng đầy đủ số lượng, chất lượng và mặt hàng sao cho phù hợp với các nhu cầu của nhiều đối tượng tiêu dùng khác nhau, phương thức tiêu thụ phải đơn giản, thuận tiện, thiết bị phục vụ phải tiện lợi và hiện đại. Ngoài ra Công ty cũng cần quan tâm đặc biệt đến thái độ bán hàng. Nên nhớ rằng thân mật, cởi mở và chu đáo trong quá trình phục vụ là thứ nam châm thu hút khách hàng. Muốn tồn tại và đứng vững trong cạnh tranh nhằm nâng cao hiệu quả SXKD Công ty cần quán triệt phương châm “khách hàng là tất cả” III- Đầu tư cho công nghệ mới nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Trong những năm qua với những nỗ lực và cố gắng, Công ty đã mua sắm một số máy móc chuyên dùng hiện đại và một số máy móc thiết bị mới thay thế cho các máy móc cũ đã quá lạc hậu. Nhưng so với trình độ của các nước phát triển hay ngay cả với những nước cạnh tranh với nước ta về hàng bao bì như Đài Loan, Singapro, Nhật bản... thì máy móc thiết bị của Công ty vẫn lạc hậu hơn. Do đó để nâng cao chất lượng sản phẩm trong gian đoạn hiện nay thì Công ty vần phải đầu tư thêm máy móc thiết bị mới, hiện đại của các nước phát triển. Đặc biệt nhu cầu của thị trường đối với sản phẩm bao bì của Công ty trong những năm tới trung bình là 1400 tấn/năm. Trong khi năng lực hiện tại năm 2000 của các phân xưởng chỉ đạt 1200tấn/năm. Vì thế để đạt chỉ tiêu trên thì các phân xưởng bao bì nhựa 12người/ ca dự tính phải được đầu tư để cải tiến và mua mới thêm một số máy móc thiết bị trị giá 1,5 tỷ đồng, gồm máy in liên hoàn... Dĩ nhiên khi mua sắm máy móc thiết bị, ngoài việc lựa chọn các máy phù hợp với nhu cầu, đảm bảo nâng cao chất lượng sản phẩm, Công ty phải đánh giá được hiệu quả của việc đầu tư vào máy móc thiết bị. IV- Sử dụng hợp lý nguyên vật liệu và đảm bảo vật tư cho sản xuất. Để tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm thì Công ty phải tìm mọi biện pháp để giảm giá thành như tăng năng suất lao động, định mức nguyên vật liệu sát sao, triệt để tận dụng nguồn nguyên liệu trong nước. Trước đây nguyên vật liệu trong nước chỉ được Công ty dùng vào sản xuất những mặt hàng phụ. Nay mặt hàng đang được đa dạng hoá, nguồn nguyên liệu trong nước đã và đang được cải thiện đáng kể, đạt tiêu chuẩn chất lượng tốt cho ngành sản xuất bao bì được đầu tư khá lớn. Công ty sẽ sử dụng nguồn nguyên liệu trong nước như là: thu mua phế liệu, dung môi in lô... để sản xuất những sản phẩm chất lượng cao và đặc trưng. Công ty có kế hoạch thay thế và sử dụng rộng rãi nguyên vật liệu trong nước từ các nhà máy nhựa như là: Tiền Phong ...... Thay vì trước đây phải nhập khầu, các mặt hàng cao cấp mà buộc phải nhập nguyên vật liệu ngoại thì Công ty cũng cố gắng sử dụng thêm nguồn nguyên liệu trong nước. Khi Công ty đi vào sản xuất cho các thị trường thì Công ty phải quan tâm đên việc đảm bảo vật tư cả về số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm cho quá trình sản xuất. Một số biện pháp nâng cao chiến lược công tác đảm bảo vật tư cho sản xuất là: - Tìm chọn những bạn hàng có uy tín trên thị trường đảm bảo cung cấp cho Công ty đúng số lượng, chất lượng, thời gian và địa điểm giao hàng với mức giá hợp lý nhất. - Tính toán hợp lý số lượng vật tư cần nhập mỗi lẫn và thời gian giữa hai lần nhập nhằm đảm bảo cho qúa trình sản xuất diễn ra liên tục đồng thời lượng vật tư dự trữ cũng không quá lớn, nếu không gây ra tình trạng vốn bị ứ đọng, làm giảm vòng quay của vốn dẫn đến SXKD kém hiệu quả. - Quản lý và tổ chức tốt việc vận chuyển, tiếp nhận hàng hoá, tạo điều kiện cung ứng vật tư kịp thời và đồng bộ cho SXKD của Công ty. Giữ gìn tốt số lượng và chất lượng vật tư hàng hoá. đảm bảo sử dụng hiệu quả vốn lưu động, giảm chi phí trong cạnh tranh. V- Tăng cường quan hệ hợp tác với đối tác. Mối quan hệ với đối tác là một tài sản vô giá đối với bất kỳ Doanh nghiệp nào. Doanh nghiệp có tồn tại hay không phụ thuộc phần lớn vào mối quan hệ như người ta thường nói “Buôn có bạn, bán có phường”. Mối quan hệ muốn chặt chẽ thì các bên phải giữ chữ tín với nhau, đó là thái độ sòng phẳng và chiếu cố lẫn nhau trong quan hệ buôn bán kinh doanh. Khi thực hiện hợp đồng, Công ty có đối tác trong nước là các xí nghiệp may, Công ty thực phẩm, các Công ty sản xuất bột ngọt, các siêu thị... và các Công ty xuất nhập khẩu. Các mối quan hệ này một mặt tạo điều kiện cho việc tiến hành sản xuất thuận tiện hơn một mặt có ảnh hưởng tới hiệu quả sản xuất theo hợp đồng của Công ty. Để phát triển sản xuất theo hợp đồng có hiệu quả Công ty cần có giải pháp về quan hệ với đối tác như sau: 1- Quan hệ trực tiếp với người đặt sản xuất theo hợp đồng. Hầu hết các hợp đồng của Công ty đều được ký trực tiếp không phải qua khâu trung gian nên lợi nhuận không bị chia sẽ, kết quả lợi ích kinh tế của Công ty không bị hạn chế. Các Công ty trực tiếp ký kết hợp đồng, họ cung cấp tài liệu kỹ thuật các mẫu hàng...để Công ty tiến hành sản xuất. Để tiến hành quan hệ trực tiếp với khách hàng đặt sản xuất theo hợp đồng thì Công ty cần thực hiện. Tiến hành tạo mẫu mã riêng của Công ty có thể bằng cách hợp tác với đối tác để cùng tạo kiểu dáng sản phẩm bao bì túi đẹp, thích hợp sẽ là cơ sở để cho đối tác quyết định đặt sản xuất tại Công ty. Bởi vì mẫu mã sản phẩm đã phản ánh đầy đủ về trình độ sản xuất, thể hiện chất lượng có đáp được yêu cầu sản xuất theo hợp đồng hay không. Thông thường khi ký kết hợp đồng sản xuất, khách hàng thường trực tiếp cung cấp mẫu mã, các tài liệu kỹ thuật.. 2- Quan hệ với các Công ty cùng sản xuất bao bì. Một mặt phát triển thêm quan hệ hợp đồng sản xuất của Công ty đã có từ trước mặt khác là phát triển sự liên kết vẽ kỹ thuật gồm: - Cùng giúp đỡ nhau về vấn đề tạo mẫu túi, bao bì. - Giúp đỡ nhau về đào tạo và tuyển chọn công nhân. - Trao đổi kinh nghiệm sản xuất và tổ chức sản xuất. Xu hướng ngày nay là các Công ty kinh doanh quốc tế thường liên kết với nhau để tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Bởi vì khi đã là thành viên của một hiệp hội nào đó thì việc cạnh tranh là cạnh tranh của cả khối. Hiện tại Công ty chưa thể liên kết được với các Doanh nghiệp nước ngoài thì giải pháp trước mắt là liên kết với các Doanh nghiệp nội địa. 3- Quan hệ với người cung cấp nguyên vật liệu Từ trước tới nay khi tiến hành hoạt động sản xuất, Công ty phải nhập hầu hết nguyên vật liệu từ phía khách hàng nước ngoài. Do vậy Công ty rất phụ thuộc vào họ. Vì vậy Công ty phải chủ trương mở rộng mối quan hệ với các Doanh nghiệp cung cấp vật liệu, mối quan hệ này phải được liên kết chặt chẽ thông qua các hoạt động như. - Khi có đơn đặt hàng thì Công ty phải ký kết hợp đồng chặt chẽ với nhà cung cấp nguyên vật liệu. - Cung cấp thông tin về nguyên vật liệu cho nhà cung cấp để lần sau cung cấp được tốt hơn. - Có sự đầu tư giúp đỡ về vốn cho các hoạt động xuất khẩu nguyên vật liệu sản xuất cho Công ty mình. Chủ trương mở rộng quan hệ này sẽ tạo điều kiện cho giai đoạn phát triển mới của Công ty đó là SXKD để mở rộng thị trường và chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ sản phẩm. Kết luận Xuất khẩu của nước ta hiện nay đang gặp nhiều khó khăn. Một số nước có đồng tiền giảm giá nên hàng xuất khẩu của họ rẻ hơn, lấn sân một số thị trường của Việt Nam. Chúng ta không thiếu các tổ chức cho vay để thực hiện việc xuất khẩu nhưng vấn đề chủ yếu cầu giải quyết hiện nay đối với tín dụng ưu đãi là thiếu nguồn vốn. Trong khi đó, chúng ta lại chưa có một tổ chức hỗ trợ về vồn thoả đáng cho Doanh nghiệp hoạt động chẳng hạn như bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, bảo hiểm rủi ro xuất khẩu, hỗ trợ vốn cho bán hàng trả chậm. Xuất phát từ thực tế và đòi hỏi trên, nước ta cần thành lập một quỹ hỗ trợ xuất khẩu. Trước mắt quỹ này làm nhiệm vụ cấp tín dụng ưu đãi và làm mấy việc chủ yếu sau: - Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu. - Bảo hiểm rủi ro cho hàng xuất khẩu. - Bù lãi suất cho tín dụng xuất khẩu. - Hỗ trợ vốn cho các Doanh nghiệp xuất khẩu bán hàng trả chậm. Việc nhà nước lập ra quỹ hỗ trợ xuất khẩu sẽ giúp cho Doanh nghiệp mạnh dạn bán hàng trả chậm với lãi xuất thấp nhờ vậy mà khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu, bên cạnh đó còn nâng cao được giá bán hàng. Thông qua việc xuất khẩu nhiều, mạnh của các Công ty thì sản phẩm của họ phải có bao bì đóng gói với mẫu mã đẹp để tăng sự kích thích về sản phẩm và được tiêu thụ nhiều hơn thì Công ty sản xuất bao bì và hàng xuất khẩu Hà Nội sẽ cung cấp được cho họ sản phẩm bao gói của mình với mục đích là mở rộng thị trường tăng doanh thu, tăng lợi nhuận và nâng cao hiệu quả kinh tế. Contents

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQT1540.doc
Tài liệu liên quan