Nhu cầu về sản phẩm dịch vụ là rất lớn, đa dạng và phong phú, biến đổi lớn, làm cho những sản phẩm, dịch vụ tồn tại có mặt trong rất nhiều ngành, nhiều lĩnh vực. Bởi vậy, cho tới nay việc định nghĩa thị trường dịch vụ có rất nhiều quan điểm khác nhau.
Theo Philip Kotler đưa ra một số ý kiến: Thị trường dịch vụ đòi hỏi các giải pháp nâng cao chất lượng, năng suất sản phẩm dịch vụ, tác động, làm thay đổi nhu cầu, tác động về việc định giá cũng như phân phối, giao tiếp, cổ động1.
Theo Krippendori: Đây cũng chính là một sự thích ứng có hệ thống và phối hợp chính sách kinh doanh dịch vụ tư nhân và chính phủ. Với sự thoả mãn tối ưu những nhu cầu của nhóm khách hàng được xác định và đạt được lợi nhuận xứng đáng.
* Để tổng quát ta có khái niệm thị trường dịch vụ như sau:
Thị trường dịch vụ là sự thích nghi lý thuyết hệ thống vào thị trường dịch vụ, bao gồm quá trình thu nhận, tìm hiểu, đánh giá và thoả mãn nhu cầu của thị trường mục tiêu, bằng hệ thống, các chính sách, các biện pháp tác động vào toàn bộ quá trình tổ chức sản xuất, cung ứng và tiêu dùng dịch vụ, thông qua phân phối các nguồn lực của tổ chức.
62 trang |
Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái (năm 2006 - 2010), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à Hội chợ thương mại Quốc tế (Việt Nam -Expo) diễn ra hàng năm. Có thể nói đây là hội chợ thu hút nhiều công ty nước ngoài nhất, hội chợ đã mở ra nhiều triển vọng phát triển quan hệ hợp tác quốc tế tại Việt Nam.
Tất cả những loại hình dịch vụ mà công ty thực hiện trên đây, minh họa cho chiến lược đa dạng hoá sản phẩm của công ty, theo mô hình cặp sản phẩm thị trường.
5.2. Về chiến lược định giá sản phẩm:
Không giống như những sản phẩm vật chất thông thường, định giá bán ra có đầy đủ các yếu tố hữu hình để căn cứ. Đối với sản phẩm dịch vụ mà công ty đang kinh doanh ngoài những yếu tố vật chất cấu tạo nên sản phẩm, để đánh giá còn nhiều yếu tố vô hình không thể định lượng được, do vậy việc định giá cho mỗi sản phẩm dịch vụ thực chất chỉ là sự đàm phán, thoả thuận trong từng trường hợp, đối với mỗi sản phẩm cụ thể giữa các bên. Nhận thức được điều này công ty đã áp dụng chiến lược định giá linh hoạt để xác định giá cho mỗi sản phẩm cụ thể, và áp dụng cho từng đối tượng khách hàng. Có hai đối tượng khách hàng chính của công ty là khách hàng truyền thống và khách hàng không truyền thống. Với khách hàng truyền thống công ty sử dụng chính sách giá, giữ khách. Còn khách hàng không truyền thống công ty sử dụng chính sách giá thu hút và dần dần chuyển thành khách hàng quen. Đối với khoản hoa hồng dành cho môi giới hiện nay theo quy định của Nhà nước, mức này là 3% / tổng giá trị hợp đồng. Tuy nhiên, việc trả mức hoa hồng cao hơn cho người môi giới là công cụ thể thu hút khách hữu hiệu thông qua môi giới. Tuy rằng mức áp dụng với khách hàng có thể cao hơn. Công ty cũng cần phải quan tâm tới mức hoa hồng của đối thủ cạnh tranh dành cho môi giới là bao nhiêu để quyết định mức hoa hồng của mình tạo ra mối quan hệ hai bên cùng có lợi giữa môi giới và công ty.
5.3. Về chính sách phân phối của công ty
Xuất phát từ đặc tính của sản phẩm dịch vụ khác với các sản phẩm khác thông thường. Việc tổ chức và hoạt động của kênh phân phối khác biệt hẳn so với kênh phân phối hàng hoá. hiện nay công ty chủ yếu thực hiện kênh phân phối trực tiếp. Trong quá trình cung ứng dịch vụ có nhiều bên tham gia tạo thành một kênh quảng cáo hữu hiệu.
5.4. Về chính sách xúc tiến của công ty
Do có thế mạnh trong lĩnh vực quảng cáo hội chợ nên công ty đã thực hiện các biện pháp giao tiếp khuếch trương một cách thuận tiện. Hoạt động khách hàng đóng vai trò quan trọng trong chính sách giao tiếp của công ty. Với đặc thù là kinh doanh sản phẩm dịch vụ nên việc giao tiếp với khách hàng đòi hỏi một sự khéo léo tế nhị, phải nắm vững về yếu tố kỹ thuật, giá cả Nói cách khác người làm nhiệm vụ giao tiếp với khách hàng phải là người có hiểu biết toàn diện về công ty của mình cũng như thị trường và khách hàng. Nhân viên của công ty không chỉ dừng lại ở đó mà phát triển những mối quan hệ lâu dài với khách hàng tạo cho họ ấn tượng tin cậy và cảm giác giúp đỡ. Trên góc độ mối quan hệ trong kinh doanh là một lợi thế của công ty.
Công ty đã thực hiện một quan hệ quần chúng có lựa chọn, định hướng vào các nhà kinh doanh. Tạo một hình ảnh tốt trong giới doanh nghiệp. Thông qua hội chợ triển lãm bằng việc in ấn các tờ rơi công ty đã quảng cáo cho mình. Đặc biệt là hàng năm, trước khi diễn ra những hội chợ quốc tế, công ty thường có những băng rôn quảng cáo trên khắp các đường phố lớn. Mặt khác công ty cũng dành một số gian hàng trong hội chợ để quảng cáo cho mình. Công ty còn có những chương trình quảng cáo qua chương trình truyền hình thương mại, Tạp chí thương mại, tạp chí thông tin quảng cáo và tờ thông tin quảng cáo ảnh. Bên cạnh những hoạt động trên công ty còn đánh giá cao việc quảng cáo qua thư chào hàng, điện thoại Việc tài trợ cho các cuộc thi cũng là hình thức quảng cáo của công ty, Công ty là đơn vị đồng tài trợ cho cuộc đua xe đạp, cuộc thi người đẹp thể thao hàng năm.
Tuy nhiên, công tác tổ chức các hoạt động xúc tiến của công ty còn nhiều hạn chế, công ty chưa chú trọng đến việc nghiên cứu và xây dựng các chiến lược xúc tiến có quy mô, chi tiết và cụ thể. Công ty chưa xác định rõ đối tượng cần tác động mà chỉ quảng cáo chung chung nên chưa gây được ấn tượng mạnh mẽ với khách hàng.
Môi trường kinh tế và nhân khẩu
Môi trường kỹ thuật và sinh thái
Môi trường chính trị và pháp luật
Môi trường
văn hoá-xã hội
Đối thủ cạnh tranh
Những cung ứng
Môi giới Marketing
Công chúng
Khách
hàng · mục
tiêu
Giá
cả
Sản phẩm
Khuyến mại
Phân phối lưu thông
Hệ
thống tiêu thụ
Hệ thống lãnh đạo, quản lý
Hệ thống thông tin
Hệ thống
lập kế hoạch
Hệ
thống
tổ
chức
Sơ đồ: Các yếu tố ảnh hưởng đến chiến lược, chính sách của công ty.
II. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG VÀ ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ SỨC CẠNH TRANH, SẢN PHẨM DỊCH VỤ QUẢNG CÁO CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN QUẢNG CÁO VÀ TRUYỀN THÔNG HÀ THÁI
1. Phân tích thực trạng
1.1. Thực trạng việc nghiên cứu môi trường và thị trường của Công ty trong lĩnh vực quảng cáo
1.1.1. Môi trường kinh tế:
Trước kia trong nền kinh tế theo cơ chế cũ thì nhu cầu tiêu dùng của người dân còn hạn chế bởi chế độ tem phiếu, các công ty cũng ở trong tình trạng hoạt động kém hiệu quả. Cho đến nay thì với cơ chế mở cửa trong nền kinh tế, thì đất nước ta đã có sự thay đổi vượt bậc, thu nhập của người dân tăng lên đồng nghĩa với nhu cầu của người dân ngày càng cao, nền kinh tế đang trên đà phát triển mạnh mẽ cả về chất lẫn lượng, điều này cũng góp phần cho sự phát triển của công ty, tạo điều kiện cho công ty ngày càng mở rộng khu vực kinh doanh của mình.
Nền kinh tế mở tạo điều kiện cho công ty có thể hoạt động một cách dễ dàng hơn như mở rộng quan hệ với bạn hàng, tìm kiếm đối tác. Nhưng cũng có không ít những khó khăn khi công ty phải chịu sức ép cạnh tranh trên thị trường, với sự ra đời của hàng trăm các công ty quảng cáo tư nhân khác.
1.1.2. Môi trường chính trị-pháp luật:
Đây là yếu tố mang lại nhiều thuận lợi cho công ty, vì công ty là công ty cổ phần, nên rất được Chính phủ quan tâm và tạo mọi điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công ty. Hệ thống pháp luật ngày càng hoàn thiện và ổn định hơn, tuy nhiên hệ thống pháp luật còn mang nặng tính thời điểm, không tạo ra một hành lang an toàn nào, cho các công ty kinh doanh có thể yên tâm hoạt động được. Những sự kiện chính trị nổi bật gần đây như kì họp Quốc hội khoá XI, đã mở ra rất nhiều hướng đi mới cho các công ty kinh doanh trên lãnh thổ Việt Nam.
1.1.3. Môi trường văn hoá -xã hội:
Vì đây là công ty chuyên về quảng cáo và hội chợ nên vấn đề văn hoá-xã hội ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của công ty. Công ty cũng cần phải nghiên cứu thật kỹ vấn đề này để tránh việc đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc Việt Nam, cũng như của các nước đối tác.
1.1.4. Môi trường cạnh tranh:
Trong điều kiện kinh tế xã hội như hiện nay thì hầu hết các doanh nghiệp đều chịu sự cạnh tranh gay gắt theo đúng quy luật kinh tế thị trường, Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái cũng không phải là ngoại lệ. Trên thị trường hiện nay tồn tại rất nhiều các công ty hoạt động trong lĩnh vực quảng cáo hội chợ, không chỉ là những công ty tư nhân, liên doanh, mà còn có những công ty 100% vốn nước ngoài. Có thể đơn cử ra một vài ví dụ như: Công ty Marcom, Công ty Alicom, Công ty Gold Sun, Công ty Cổ phẩn Quảng cáo Đông Dương. Gần đây trên thị trường còn xuất hiện một số các công ty nước ngoài có văn phòng giao dịch tại Việt Nam, các công ty này thường có trình độ công nghệ rất cao cho nên đã thu hút được rất nhiều khách hàng, các công ty này có một sức cạnh tranh rất lớn nên đòi hỏi các công ty trong nước phải tích cực và liên tục đổi mới thì mới có thể cạnh tranh được.
1.1.5. Nghiên cứu thị trường của công ty:
Để nghiên cứu thị trường của công ty thì ta phải đặt công ty trong một môi trường kinh tế cụ thể.Công ty có lịch sử phát triển hoạt động được 6 năm trên cả thị trường trong và ngoài nước, hàng năm công ty cũng không ngừng nghiên cứu để tìm hướng phát triển mở rộng thị trường của mình. Hiện nay các công ty muốn bán được sản phẩm của mình thì đều phải tìm hiểu và tiếp cận được với những khách hàng, muốn làm được điều này thì chỉ có thể thông qua quảng cáo, dù là quảng cáo dưới bất kỳ hình thức nào. Trong điều kiện kinh tế xã hội hiện nay thì quảng cáo giữ một vai trò đặc biệt quan trọng góp phần nâng cao cũng như đẩy mạnh sự phát triển của các doanh nghiệp. Với Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái thì không những công ty phải tiến hành nghiên cứu phát triển thị trường mới, mà qua đó cũng cần phải tiến hành khai thác các thị trường cũ để có hể tận dụng được tối đa các cơ hội kinh doanh và Công ty cũng nên tập trung kinh doanh trên những đoạn, thị trường để có thể thu được lợi nhuận cao nhất, điều này là cực kỳ quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển của công ty.
Cho đến nay thì Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái đã có được một thị trường rộng lớn và có uy tín trên thị trường, khách hàng đặt niềm tin vào Công ty ngày một nhiều, chứng tỏ công ty đang trên đà phát triển mạnh mẽ.
Thị trường những nhà buôn bán trung gian
Thị trường
người tiêu dùng
Thị trường
các nhà sản xuất
Thị trường
các cơ quan
Nhà nước
Thị trường
quốc tế
Công ty
Sơ đồ: Những kiểu thị trường khách hàng cơ bản của công ty
1.1.6. Các nhân tố và điều kiện ràng buộc của môi trường vĩ mô đến hoạt động kinh doanh và thị trường của công ty.
Trong bối cảnh kinh tế -xã hội, chính trị-pháp luật-văn hoá như hiện nay của Nhà nước ta thì công ty cũng được hưởng những ưu đãi. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là công ty muốn làm ăn ra sao thì làm, không quan tâm đến luật pháp quốc gia, đến các phong tục tập quán đặc trưng của dân tộc Việt Nam, mà các hoạt động kinh doanh của công ty phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, không được làm trái với những quy định của pháp luật, cũng như đi ngược lại với truyền thống văn hoá Việt Nam. Nếu công ty ra nước ngoài kinh doanh thì cũng phải tuân thủ đúng luật pháp của nước đó cũng như tôn trọng nền văn hoá của họ, trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng không được đi ngược lại những điều kiện trên. Vì thế khi tiến hành các hoạt động kinh doanh cũng như phát triển các thị trường mới, thì điều kiện đầu tiên công ty cần phải nghiên cứu thật kỹ đó chính là các điều kiện vĩ mô của thị trường đó. Người Việt Nam ta có câu “Phép vua thua lệ làng” cho nên chúng ta phải “nhập gia tuỳ tục” có như vậy thì mới có thể kinh doanh thuận lợi được4.
1.2. Thực trạng kinh doanh một số sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái
1.2.1. Tổ chức quảng cáo trên truyền hình và đài phát thanh
Thông thường công ty đứng ra làm môi giới quảng cáo cho các hãng nước ngoài. Các công ty nước ngoài thường đã dàn dựng sẵn băng hình quảng cáo và uỷ nhiệm cho công ty liên hệ với các cơ quan thông tin đại chúng. Tuy nhiên, công ty cũng dựng băng hình quảng cáo, trong một số trường hợp các công ty trong nước có nhu cầu. Trong cả hai trường hợp công ty đều hưởng phí hoa hồng từ khách hàng là một tỷ lệ % trên tổng giá trị hợp đồng. Tỷ lệ này có xu hướng giảm cùng với sự tăng lên của giá trị hợp đồng từ 2-5%. Sau khi nhận được đơn đặt hàng của khách hàng, công ty sẽ liên hệ với các công ty có chức năng liên quan, cụ thể là các ban và trung tâm dịch vụ quảng cáo trên truyền hình và trên đài phát thanh.
Là đầu mối quảng cáo thương mại trên các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là đài truyền hình Việt Nam. Năm 2004, công ty được Sở Thương mại
4 Đọan này được tóm tắt từ: Giáo trình quản lý học kinh tế quốc dân, tập II, Khoa khoa học quản lý, ĐHKTQD, Nxb khoa học và kỹ thuật, Hà Nội- 2002, tr.429-433.
giúp đỡ để tổ chức chương trình “Thông tin kinh tế” phát trên truyền hình Việt Nam. Ngoài ra, công ty còn phối hợp với đài truyền hình Hà Nội sản xuất chương trình thử nghiệm giải trí tạp chí hàng tuần được phát trên đài.
Tuy nhiên doanh thu từ việc quảng cáo trên truyền hình của công ty là không cao, bởi vì hoa hồng của công ty được hưởng là thấp và việc phát sóng và số lần quảng cáo trên truyền hình của công ty là không nhiều.
1.2.2. Quảng cáo trên phương tiện in ấn:
Quảng cáo trên phương tiện in ấn tỏ ra rất sôi động ở công ty. Khách hàng của công ty là các doanh nghiệp trong và ngoài nước, từ các tập đoàn lớn cho đến các cơ sở sản xuất nhỏ. Hầu hết các doanh nghiệp này đã đăng ký trên tờ “Thông tin quảng cáo” của công ty và một số khác uỷ nhiệm cho công ty mua những trang trắng của những tờ báo nổi tiếng như: Hà Nội mới, Thời báo kinh tế Việt Nam, Việt Nam News
Công ty còn nhận in lịch Catalogue, nhãn bao bì và các túi nilon quảng cáo.
1.2.3. Quảng cáo biển tấm lớn ngoài trời:
Quảng cáo biển tấm lớn ngoài trời là loại hình quảng cáo chiếm ưu thế lớn nhất trong các loại hình quảng cáo ở công ty.
Hiện nay, Việt Nam đang thịnh hành nhiều loại hình biển quảng cáo ngoài trời như: biển tôn, biển tôn có đèn rọi, hộp đèn ống, hộp đèn neonsign, các loại bảng điện tử, bảng LED mầu- một loại biển thông tin quảng cáo đang rất thịnh hành ở nhiều nước trên thế giới Việc lắp đặt các loại biển này hoàn toàn không đơn giản nhưng công ty tỏ ra là một công ty khá năng động trong việc kinh doanh dịch vụ quảng cáo này.
1.2.4. Quảng cáo trên các phương tiện giao thông vận tải:
Quảng cáo trên xe buýt: Nó có thể đưa các bảng tin quảng cáo đi khắp các đường trong thành phố và thu hút được nhiều người đi đường, công ty đã không ngừng phát triển loại hình quảng cáo này trong những năm gần đây.
Quảng cáo trên tàu hoả: Có lợi thế là tầu hoả đi được nhiều nơi trên đất nước, nó có tuyến đường riêng và các phương tiện khác phải nhường đường cho nó chạy. Đứng trước lợi thế đó qua thử nghiệm cho đến bây giờ, công ty có gần 30 toa được công ty kẻ biển quảng cáo trên các tuyến đường Bắc-Nam, Hà Nội-Hải Phòng
2. Đánh giá chung:
1.1. Những kết quả đã đạt được:
Công ty đã cố gắng để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng, công ty đã có những vị trí vững chắc trên thương trường đặc biệt là Hà Nội, lợi thế và khả năng cạnh tranh được nâng cao, kinh doanh đạt hiệu quả, đời sống của cán bộ công nhân viên trong toàn công ty được cải thiện, có được kết quả này là do:
- Công ty đã có nhiều lợi thế sẵn có về sản phẩm dịch vụ có chất lượng cao, đã có nhiều uy tín, đáp ứng được các yêu cầu về kỹ thuật, cho các chương trình, sự kiện với chất lượng tốt.
- Khách hàng đang sử dụng sản phẩm dịch vụ của công ty nhìn chung là khách hàng trung thành, họ đã có niềm tin vào sản phẩm và dịch vụ của công ty từ đó mà tạo ra được một lượng khách hàng tiềm năng, để công ty có điều kiện khai thác và mở rộng thị trường.
- Bản thân công ty làm công tác nghiên cứu thị trường tương đối thường xuyên, xác định đúng những đối thủ cạnh tranh của mình, phát hiện được những thị trường tiềm ẩn hay chưa được đáp ứng tốt.
- Các hoạt động tiếp thị kết hợp với thông tin quảng bá, nắm các hạng mục đầu tư cơ bản, kịp thời đề ra các chủ trương, biện pháp phù hợp với thực tế từng thời điểm, xử lý kịp thời các cơ chế giá, chi phí và khuyến mại, tạo sự năng động trong kinh doanh.
- Công ty đã khai thác sử dụng hợp lý có hiệu quả hệ thống kho tàng của mình, trong việc duy trì lượng dự trữ phù hợp, với phương thức phân phối ngày càng đa dạng, sẵn sàng đáp ứng mọi nhu cầu khi cần thiết.
- Trong công ty luôn có sự chỉ đạo thống nhất, đặc biệt là trong công tác tìm kiếm hợp đồng. Công ty có đội ngũ cán bộ và nhân viên kinh doanh giàu kinh nghiệm, có nghiệp vụ và luôn tận tình với khách hàng.
- Trong chỉ đạo điều hành, công ty luôn bám sát nhiệm vụ kế hoạch với tư tưởng tiến công và tìm mọi biện pháp tích cực, có hiệu quả nhất, phấn đấu thực hiện kế hoạch như triển khai kế hoạch từng tháng, quý cho các đơn vị, luôn gắn mục tiêu chỉ đạo tác nghiệp hàng ngày với mục tiêu chất lượng sản phẩm, đối với từng bộ phận, nhằm đảm bảo thực hiện kế hoạch sản xuất và đảm bảo chất lượng sản phẩm, nhờ đó đã giảm được chi phí, nâng cao được khả năng cạnh tranh, hiệu quả của sản phẩm và dịch vụ.
- Từng bước cải tiến các mặt tổ chức quản lý, nhằm nâng cao năng lực, hiệu quả điều hành của bộ máy và năng lực của đội ngũ cán bộ, nhân viên nghiệp vụ. Như sắp xếp lại tổ chức các phòng ban, tinh giảm bộ máy gián tiếp, đào tạo huấn luyện nghiệp vụ cho các cán bộ, công nhân viên
1.2. Những mặt còn tồn tại:
- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh đã đạt được và hoàn thành kế hoạch, thực tế năm sau cao hơn năm trước, song còn chưa tương xứng với khả năng, mối quan hệ và năng lực thực tế của công ty.
- Về giá cả, sự điều hành của công ty tạo ra một sự cứng nhắc thiếu linh hoạt, thậm chí có thể dẫn đến bỏ lỡ cơ hội kinh doanh.
- Cạnh tranh trên thị trường vẫn diễn ra rất gay gắt và quyết liệt, đã gây ra rất nhiều khó khăn cho công ty trong việc duy trì và giữ vững khả năng cạnh tranh của mình, thực tế việc kiểm soát hay khống chế đối thủ cạnh tranh là không thể thực hiện được.
- Các hoạt động Marketing, như nghiên cứu thị trường, tiếp thị, quảng cáo, khuyến mại tuy đã được tiến hành, song tính chất chuyên nghiệp chưa cao, dẫn đến hiệu quả của các hoạt động còn hạn chế.
- Hệ thống sản xuất có mức chi phí cao, ảnh hưởng trực tiếp tới giá thành sản phẩm của công ty và hoạt động này chưa hiệu quả trong việc đáp ứng nhanh nhạy nhu cầu khách hàng. Trên thị trường xuất hiện tư tưởng mua bán chịu, công ty đã có quy định về thời gian giao hàng, luân chuyển chứng từ và ký kết hợp đồng giao dịch chi trả, nhưng việc chấp hành các quy định này chưa nghiêm, dẫn đến tình trạng công nợ dây dưa kéo dài, đã ảnh hưởng nhất định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chung.
- Bộ máy quản lý từ công ty tới cơ sở còn cồng kềnh, cán bộ quản lý và lực lượng nhân viên giám tiếp còn chiếm số lượng lớn trong công ty, làm tăng chi phí quản lý doanh nghiệp.
- Chế độ đãi ngộ đối với cán bộ, công nhân viên đi công tác xa, tuy đã có nhưng còn rất thiếu và chưa kịp thời. Đặc biệt mọi khoản phí đều phải kèm hoá đơn thì mới được thanh toán sau đợt công tác kết thúc, điều này thường là rất khó thực hiện được đối với đội ngũ công nhân sản xuất, vì thường phải mua những thiết bị, mà khó có thể có hoá đơn.
- Đội ngũ cán bộ, công nhân kỹ thuật chỉ có 22 người trong khi phải đảm đương một khối lượng công việc rất lớn. Điều này làm tăng thời gian chuẩn bị cho các chương trình lớn, không tạo được sự linh hoạt trong vận hành, cài đặt, cũng như tháo lắp thiết bị.
- Về năng lực cạnh tranh của công ty còn chưa cao, bởi vậy công ty càng cần phải tìm ra những giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của mình.
CHƯƠNG III
MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH
SẢN PHẨM DỊCH VỤ QUẢNG CÁO CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN QUẢNG CÁO VÀ TRUYỀN THÔNG HÀ THÁI (NĂM 2006 - 2010)
I. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA VIỆC PHẢI NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH, SẢN PHẨM DỊCH VỤ QUẢNG CÁO CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN QUẢNG CÁO VÀ TUYỀN THÔNG HÀ THÁI
1. Cạnh tranh:
Theo Mark: “Cạnh tranh là sự ganh đua, sự đấu tranh gay gắt giữa các nhà tư bản nhằm giành giật điều kiện thuận lợi trong sản xuất và mua bán hàng hóa, dịch vụ, để thu được lợi nhuận siêu ngạch”.
Cạnh tranh là quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, nó cũng như một cao dao hai lưỡi. Đối với những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh kém hiệu quả, cạnh tranh sẽ đẩy doanh nghiệp đó đến chỗ phá sản. Ngược lại, đối với các doanh nghiệp nắm bắt tốt, thích nghi nhanh với thị trường thì cạnh tranh lại tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi giúp cho doanh nghiệp, khẳng định được vị thế của mình trên thị trường.
2. Các công cụ cạnh tranh chủ yếu của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái.
- Mẫu mã và chất lượng sản phẩm, dịch vụ quảng cáo.
- Giá cả
- Hoạt động quảng bá, khuyếch trương.
- Mạng lưới phân phối tiêu thụ sản phẩm, dịch vụ
- Uy tín của doanh nghiệp
- Vốn, công nghệ, nhân lực, kỹ thuật, kỹ năng sản xuất, chiến lược, chính
sách và kỹ năng quản lý, của doanh nghiệp.
3. Tính tất yếu phải nâng cao khả năng cạnh tranh:
Nền kinh tế thị trường là một nền kinh tế được điều tiết chủ yếu bởi các quy luật của thị trường như quy luật cung cầu, giá cả, quy luật tiền tệ, quy luật cạnh tranh... Trong số các quy luật của nền kinh tế thị trường, cạnh tranh là một trong số những quy luật có tác dụng rất lớn trong việc điều tiết, thúc đẩy sự phát triển của thị trường. Sự tồn tại của cạnh tranh là tất yếu trong mỗi nền kinh tế.
Cạnh tranh là một sự ganh đua giữa các cá nhân, tổ chức, đơn vị trong các hoạt động kinh doanh nhằm mục đích thu lợi nhuận. Ở đâu có lợi ích kinh tế thì ở đó có sự cạnh tranh. Quy luật cạnh tranh là cơ chế vận động của thị trường, là nơi gặp gỡ của các đối thủ cạnh tranh mà kết quả là sẽ có doanh nghiệp bị lật ra khỏi thị trường, có nguy cơ phá sản, song cũng có những doanh nghiệp trụ lại được và ngày càng phát triển.
Ngày nay, do sự phát triển của khoa học kỹ thuật, sản xuất hàng hóa ngày càng phát triển với quy mô hết sức rộng lớn, nó không chỉ giới hạn ở một quốc gia nào đó, mà đã mở rộng ra phạm vi thế giới. Chính điều này đã làm cho cạnh tranh ngày càng sâu rộng và gay gắt hơn. Nó được xem như một yếu tố tồn tại khách quan của nền kinh tế. Mỗi doanh nghiệp dù muốn hay không vẫn phải chấp nhận sự cạnh tranh.
4. Vai trò của cạnh tranh đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
Cạnh tranh có vai trò rất to lớn và quan trọng đối với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và với bản thân mỗi doanh nghiệp nói riêng. Bất kỳ một nền kinh nào cũng cần thiết phải duy trì sự cạnh tranh. Đứng ở góc độ lợi ích xã hội, cạnh tranh là một hình thức mà Nhà nước sử dụng để chống độc quyền, tạo cơ hội để người tiêu dùng có thể lựa chọn được những sản phẩm, dịch vụ có chất lượng tốt, giá rẻ. Chính vì vậy duy trì sự cạnh tranh là nhằm bảo đảm về lợi ích người tiêu dùng. Đứng ở góc độ doanh nghiệp, cạnh tranh sẽ là điều kiện thuận lợi để mỗi doanh nghiệp tự khẳng định vị trí của mình trên thị trường, tự hoàn thiện bản thân để vươn lên dành ưu thế so với các đối thủ cạnh tranh khác.
Trên thị trường, cạnh tranh giữa các doanh nghiệp là cuộc cạnh tranh khốc liệt nhất, nhằm giành dật người mua, chiếm lĩnh thị trường tiêu thụ, tạo ưu thế về mọi mặt cho doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận lớn nhất.
Cạnh tranh buộc các doanh nghiệp phải sản xuất và cung ứng những hàng hóa và dịch vụ mà thị trường cần để đáp ứng nhu cầu ngày càng đa dạng và phong phú của khách hàng. Cạnh tranh thực chất là một cuộc chạy đua không có đích, là quá trình các doanh nghiệp đưa ra các biện pháp kinh tế tích cực và sáng tạo nhằm đứng vững trên thương trường và tăng lợi nhuận trên cơ sở tạo ra ưu thế về sản phẩm, giá bán và tổ chức tiêu thụ sản phẩm. Doanh nghiệp muốn tạo ra ưu thế về sản phẩm và giá bán thì phải tăng chất lượng sản phẩm và giá bán phải rẻ. Muốn vậy, mỗi doanh nghiệp phải không ngừng đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất kinh doanh nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ, bên cạnh đó phải tối ưu hóa các yếu tố đầu vào, của sản xuất để giảm tối đa giá thành sản phẩm. Trong cơ chế thị trường, doanh nghiệp nào cung cấp hàng hóa dịch vụ với chất lượng tốt mà giá rẻ nhất thì sẽ chiến thắng. Chính vì vậy, cạnh tranh sẽ loại bỏ các doanh nghiệp có chi phí cao trong sản xuất kinh doanh và khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có chi phí thấp vươn lên.
II. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG CAO SỨC CẠNH TRANH, SẢN PHẨM DỊCH VỤ QUẢNG CÁO CỦA CÔNG TY CỔ PHẦN QUẢNG CÁO VÀ TRUYỀN THÔNG HÀ THÁI (NĂM 2006-2010)
1. Giải pháp xây dựng một chiến lược cạnh tranh.
Trước tiên công ty muốn nâng cao sức cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ quảng cáo của mình thì công ty phải xây dựng được cho mình một chiến lược cạnh tranh đủ mạnh, để chiến thắng đối thủ cạnh tranh.
Mỗi một sản phẩm dịch vụ quảng cáo của công ty trên thị trường sẽ thích ứng với một chiến lược phát triển riêng cho từng loại và sẽ thích ứng với một khung thị trường riêng biệt nhất định, nhờ đó mà nâng cao năng suất chất lượng của dịch vụ cung cấp, đồng thời cũng tăng doanh lợi cho doanh nghiệp. Để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ quảng cáo, thì chúng ta sẽ phải đi vào nghiên cứu thị trường khách hàng của từng sản phẩm dịch vụ đó và một số vấn đề có tác động trực tiếp đến sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ, để từ đó có những chiến lược phù hợp, cho những sản phẩm dịch vụ của mình nhằm nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường.
Về cơ bản thị trường sản phẩm dịch vụ thể hiện các yếu tố cần được xem xét, khi xác lập một chiến lược và thực hiện định vị trên thị trường cho sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Các yếu tố công cụ trong thị trường sản phẩm dịch vụ được phát triển hoàn thiện qua quá trình thực tiễn, bao gồm 7 yếu tố là: sản phẩm dịch vụ, phí dịch vụ, phân phối, giao tiếp dịch vụ, con người, quá trình dịch vụ và dịch vụ khách hàng. Tuy nhiên, các yếu tố này ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ở những mức độ khác nhau. Vì thế doanh nghiệp cần phải nghiên cứu kỹ chúng thì mới có thể đưa ra những quyết định chiến lược phù hợp.
Một chiến lược cạnh tranh phải được xây dựng trên cơ sở:
+ Tiềm năng của doanh nghiệp.
+ Nhu cầu của khách hàng.
+ Tiềm lực của đối thủ cạnh tranh, mục tiêu của các đối thủ cạnh tranh.
Trong chiến lược cạnh tranh phải nêu lên được những biện pháp có tính chiến lược, đó là những biện pháp để cạnh tranh lâu dài như chất lượng sản phẩm dịch vụ, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường, trình độ dịch vụ khách hàng... và cũng cần có những biện pháp cạnh tranh trước mắt như giá cả, mẫu mã, thiết kế...
2. Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, đa dạng hóa các loại sản phẩm dịch vụ quảng cáo - Giải pháp có tính chiến lược.
Một sản phẩm dịch vụ ban đầu, có sự khác biệt xuất hiện trên thị trường, qua sự cạnh tranh mà các hãng dần dần cho ra những dịch vụ tương tự, dẫn tới dịch vụ các hãng trở nên đồng nhất và nó trở thành dịch vụ thông thường, đó là sự biến thiên của dịch vụ. Như vậy để nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ, thì trước hết phải nâng cao chất lượng của sản phẩm dịch vụ, để cho các đối thủ cạnh tranh không theo được thì lúc đó sản phẩm dịch vụ của công ty sẽ đứng đầu trên thị trường.
Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay, chất lượng của sản phẩm dịch vụ là rất quan trọng cho nên cần phải lập kế hoạch đào tạo và bồi dưỡng kiến thức nâng cao năng lực của cán bộ công nhân viên. Doanh nghiệp cũng không thể bỏ qua việc đầu tư vào các trang thiết bị cần thiết, vì đây là yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm dịch vụ. Với sản phẩm dịch vụ quảng cáo thì công tác đầu tư cho trang thiết bị kỹ thuật là rất cần thiết, vì mặc dù là sản phẩm dịch vụ nhưng nó lại được thể hiện ra bên ngoài là một sản phẩm hiện hữu cụ thể. Ví dụ như một tấm Pano quảng cáo khổ lớn được đặt ở các ngã tư đường, ở đây nó hiện diện là một sản phẩm hiện hữu cho nên chất lượng của nó càng được thể hiện ra bên ngoài một cách rõ ràng, từ chất liệu cho đến kỹ thuật in ấn, lắp ráp, sức thu hút, đến suốt cả quá trình tồn tại của nó. Một biển quảng cáo cố định không thể là vừa lắp đặt lên 2 ngày là mầu sắc đã thay đổi, hình thức đã bị biến dạng. Do đó vấn đề chất lượng của sản phẩm dịch vụ quảng cáo ngoài trời cần được đặt lên hàng đầu.
Các biện pháp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ quảng cáo gồm:
- Kiểm tra chặt chẽ chất lượng nguyên vật liệu chế tạo, tạo mối quan hệ bạn hàng cung cấp nguyên vật liệu ổn định, đúng thời gian, đảm bảo chất lượng của nguyên vật liệu phải tốt, tránh sự xuống cấp theo thời gian.
- Đối với sản phẩm dịch vụ quảng cáo thì các vấn đề in ấn, mỹ thuật là yếu tố chủ chốt, cho nên cần phải đầu tư cho các trang thiết bị cần thiết cho công việc này, cũng như đào tạo đội ngũ thiết kế có trình độ, có khả năng sáng tạo.
- Tuân thủ đúng yêu cầu của khách hàng về chất lượng sản phẩm dịch vụ quảng cáo, thực hiện đúng quy trình sản xuất và lắp đặt.
- Đảm bảo các tiêu chuẩn về sản phẩm quảng cáo do Nhà nước quy định, tránh làm trái pháp luật, đi ngược lại với thuần phong mỹ tục của dân tộc.
3. Giải pháp chọn thị trường mục tiêu và khách hàng trọng điểm.
Một trong những mục tiêu chính của doanh nghiệp là sự chiếm lĩnh thị trường có hiệu quả của một mặt hàng thuộc một loại sản phẩm. Để có thể chiếm lĩnh thị trường và có được sự cạnh tranh cao trên khu vực thị trường đó thì một điều không thể bỏ qua đó chính là việc nghiên cứu và lựa chọn thị trường mục tiêu cho sản phẩm của mình. Những người làm quảng cáo không những phải thích ứng với sự thay đổi của sản phẩm mà còn phải cân nhắc để có thể tiếp cận với nhiều khu vực thị trường khác nhau. Đôi khi một người quảng cáo phải sản xuất ra những quảng cáo khác nhau để tìm được tiếng nói tán thưởng từ những khu vực đa dạng này. Đó là thích ứng sản phẩm với thị trường, hay lựa chọn cặp sản phẩm - thị trường đúng đắn. Để xác định các cặp sản phẩm - thị trường này thì trước hết là phải xác định được thị trường mục tiêu của công ty. Chúng ta nhìn nhận một thị trường như một nhóm người có thể được nhận biết bởi một số tính chất, ham thích hay có những vấn đề giống nhau, có thể ưu thích sử dụng sản phẩm của chúng ta, có khả năng mua và có thể mua được chúng qua một số khâu trung gian. Như vậy việc nghiên cứu thị trường cũng cần phải tiến hành một cách có khoa học và đảm bảo thông tin thu về phải chính xác và có giá trị sử dụng cao, làm được điều này sẽ giúp cho việc ra các quyết định đúng đắn.
Bên cạnh việc nghiên cứu lựa chọn thị trường thì doanh nghiệp cũng phải xác định được khách hàng trọng điểm của mình là ai. Với sản phẩm quảng cáo thì khách hàng chủ yếu là những doanh nghiệp hoặc các tổ chức có nhu cầu về quảng cáo. Khách hàng chính là người nuôi sống doanh nghiệp, nếu như không có khách hàng thì doanh nghiệp cũng không thể tồn tại được. Vì vậy công ty cần nghiên cứu kỹ những khách hàng của mình, chỉ ra được đâu là khách hàng tiềm năng, hay khách hàng trọng điểm của công ty. Công việc này cũng vô cùng quan trọng và nó đòi hỏi một quá trình nghiên cứu công phu và tỉ mỉ, khi đã xác định được rồi thì công ty cũng cần phải có những chế độ ưu đãi đối với họ để có thể giữ họ lại với công ty.
4. Giải pháp tăng cường vai trò của quản lý trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ quảng cáo.
Để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ không thể không nhắc đến các yếu tố của quản lý. Đó là quản lý những yếu tố cơ bản của một sản phẩm khi nó được tung ra thị trường, bao gồm các yếu tố về giá, phân phối, và xúc tiến...
4.1. Về giá cả: Giá cả là một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng. Để thu hút được khách hàng chính sách giá cả phải mềm dẻo, linh hoạt phù hợp với thị trường. Tuy nhiên cần phải giữ vững 2 nguyên tắc:
- Kinh doanh có lãi.
- Đảm bảo được sự cân xứng tương đối giữa các sản phẩm và sự tương đương của giá trị đồng tiền ở các thị trường khác nhau trên thế giới.
Đối với những khách hàng khác nhau thì áp dụng những chính sách giá khác nhau và dùng chính sách giá để tạo cơ hội cho khách hàng mới có khả năng thâm nhập thị trường Việt Nam.
Cũng như chất lượng của sản phẩm dịch vụ quảng cáo, giá cả của những sản phẩm này cũng cũng là một trong những yếu tố để khách hàng lựa chọn. Nếu doanh nghiệp cung cấp những dịch vụ tốt, giá thành hợp lý doanh nghiệp sẽ thành công trên thương trường, đẩy lùi được các đối thủ cạnh tranh.
Trong quá trình định giá dịch vụ, thì phải đảm bảo một số nguyên tắc định giá sau: phải căn cứ vào giá trị đích thực dịch vụ đó mang lại cho khách hàng, tránh tình trạng chỉ căn cứ vào chi phí rồi cộng thêm một khoản lợi nhuận tăng thêm. Quá trình hình thành giá dịch vụ, phải được xem xét từ ba góc độ: chi phí dịch vụ của người cung cấp, tình trạng cạnh tranh trên thị trường và giá trị dịch vụ tiêu dùng mà người tiêu dùng nhận được. Trong điều kiện thực hiện cạnh tranh dịch vụ giá cả phải tuân theo giá thị trường. Biểu hiện thực tế là giá cạnh tranh, giá cạnh tranh được giới hạn từ chi phí bình quân tới giá của dịch vụ có chất lượng cao nhất.
Như vậy để nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ quảng cáo thì ngoài việc chỉ định ra một mức giá cụ thể nào đó, doanh nghiệp cần phải lưu ý đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của sản phẩm dịch vụ đối với người tiêu dùng, hay với khách hàng.
4.2. Về phân phối: Trong kinh doanh dịch vụ quảng cáo, thì việc thiết lập một mạng lưới kênh phân phối là một việc làm rất quan trọng, nó cũng góp phần vào việc nâng cao khả năng cạnh tranh cho sản phẩm dịch vụ quảng cáo. Doanh nghiệp cần phải thiết lập một mạng lưới kênh phân phối đầy đủ, để có thể tiếp cận được với khách hàng của mình một cách nhanh nhất.
Trong quá trình phân phối phải đảm bảo cung cấp cho khách hàng dịch vụ kịp thời nhất, đúng thời gian và địa điểm. Đối với sản phẩm dịch quảng cáo, thì mạng lưới kênh phân phối được xác lập ngay từ khâu thiết kế, từ khi có đơn đặt hàng của khách hàng. Sau đó sẽ tiến hành sản xuất, xin giấy phép, lắp dựng... Mỗi khâu của quá trình phân phối cần phải được giao cho một đối tượng cụ thể đảm trách, và họ phải chịu trách nhiệm về công việc của mình.
4.3. Về xúc tiến: Không phải đơn giải mình là người làm quảng cáo mà không cần phải quảng cáo cho chính mình. Doanh nghiệp muốn cho mọi người biết mình là người làm quảng cáo để thu hút khách hàng đến với mình thì ngay chính bản thân doanh nghiệp cũng cần phải tự quảng cáo cho mình. Doanh nghiệp cũng cần phải lựa chọn một chương trình xúc tiến phù hợp, thích hợp với khả năng tài chính của mình để tiến hành các hoạt động xúc tiến. Chính việc lựa chọn đúng đắn các chương trình xúc tiến, cũng có thể làm tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
4.4. Đảm bảo các yếu tố con người cho hoạt động quảng cáo: Trong quảng cáo yếu tố con người là rất quan trọng, nó quyết định sự thành công hay thất bại của quảng cáo. Con người hình thành nên ý tưởng quảng cáo, thiết kế ra một chương trình quảng cáo đầy đủ, mang lại hiệu quả quảng cáo cao, cho đến việc thực hiện các công việc kỹ thuật của quảng cáo. Cho nên doanh nghiệp cần phải tích cực đầu tư vào con người, ngày càng nâng cao trình độ nghiệp vụ chuyên môn cho họ, có như vậy thì mới có thể đảm bảo cho các sản phẩm quảng cáo mà họ làm ra có được hiệu quả cao.
5. Giải pháp không ngừng nâng cao uy tín đối với khách hàng.
Uy tín là vấn đề mang tính chất sống còn đối với một doanh nghiệp. Tất cả các yếu tố trên đều cấu thành nên uy tín của doanh nghiệp cho nên cần phải được coi trọng, dần dần cải thiện được hình ảnh tốt đẹp của doanh nghiệp trong con mắt khách hàng.
Tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín trên thị trường trong nước cũng như quốc tế. Muốn vậy doanh nghiệp cần phải:
- Tập trung đầu tư công nghệ mới cho quá trình cung ứng sản phẩm dịch vụ quảng cáo.
- Tổ chức một đội ngũ nghiên cứu thị trường, tiếp thị quảng cáo sản phẩm dịch vụ.
- Tích cực quảng bá thương hiệu của mình trên thị trường.
- Khắc phục các khó khăn trong quá trình thiết kế sản phẩm quảng cáo.
Uy tín của doanh nghiệp trên thị trường là một nguồn tài sản vô giá và vô cùng quan trọng đối với một công ty kinh doanh sản phẩm dịch vụ. Vì thế cần phải liên tục đổi mới, hoàn thiện mình để có vị thế tốt trong lòng người tiêu dùng.
6. Giải pháp tổ chức tốt các hoạt động quản lý kế hoạch hóa, kiểm tra, kiểm soát.
Một công ty có sức cạnh tranh cao trên thị trường không thể loại bỏ trường hợp là công ty có một chế độ quản lý, kiểm tra, kiểm soát chặt chẽ và hợp lý. Ngay từ lúc lập kế hoạch kinh doanh công ty cũng đã phải tiến hành theo dõi sát sao các hoạt động của công ty, công ty phải tiến hành kiểm tra thường xuyên tất cả các khâu trong toàn bộ hệ thống. Để cho việc kiểm tra giám sát được chặt chẽ mà không gây lãng phí nguồn lực thì đòi hỏi công ty phải lập được một kế hoạch hợp lý, phân định rõ ràng trách nhiệm và nghĩa vụ của các thành viên trong công ty, đảm bảo chất lượng của hàng hóa và dịch vụ ngay từ khâu đầu tiên của toàn bộ quá trình. Công ty cũng nên thường xuyên tổ chức các nhóm, các đoàn kiểm tra đột xuất để đảm bảo kết quả, thật khách quan, không có sự chuẩn bị trước. Hoạt động quản lý, kế hoạch hóa, kiểm tra, kiểm soát, được tiến hành thường xuyên liên tục là góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm, một yếu tố quan trọng để quyết định sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của công ty.
7. Giải pháp về huy động vốn để nâng cao, sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của công ty.
Do đặc thù của chất lượng sản phẩm dịch vụ, Công ty luôn đòi hỏi một số vốn lớn để phục vụ sản xuất kinh doanh, Công ty cần vốn để đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hóa dây chuyền công nghệ. Do đó, trong thời gian tới, công ty cần huy động vốn từ nhiều nguồn:
7.1. Vay ngân hàng:
Đây là nguồn vốn công ty có thể huy động được khối lượng nhiều, tuy nhiên hàng năm Công ty phải trả lãi vay rất lớn.
Bên cạnh đó, vay ngân hàng phải có tổ chức bảo lãnh, có dự án khả thi và mất nhiều thời gian chờ xét duyệt nên nhiều lúc không đáp ứng kịp thời vốn phục vụ cho sản xuất. Vì vậy, trong thời gian tới công ty nên tìm những nguồn vốn khác. Tuy nhiên, khi cần một khoản vốn lớn thì ngân hàng vẫn là một địa chỉ cần tìm đến.
7.2. Huy động vốn của cán bộ công nhân viên trong công ty.
Đây là nguồn vốn có tiềm năng lớn, tỷ lệ trả lãi thấp. Hơn nữa, khi nhân viên nhận thức được mình, sản xuất kinh doanh trên chính đồng vốn của mình thì họ sẽ có trách nhiệm hơn trong việc sản xuất, nâng cao năng suất lao động, phát triển lợi nhuận.
7.3. Huy động vốn của các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán.
Công ty là công ty cổ phẩn, nên có thể phát hành cổ phiếu, trên thị trường chứng khoán để huy động vốn của các nhà đầu tư, phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh.
8. Giải pháp đầu tư để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của công ty.
8.1. Sự cần thiết phải đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh.
Đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào thì giá cả và chất lượng của sản phẩm vẫn là 2 yếu tố đầu tiên để giúp doanh nghiệp có chỗ đứng trên thị trường. Trong thời đại bùng nổ công nghệ hiện nay, để có được chất lượng tốt phù hợp với nhu cầu ngày càng cao của thị trường thì doanh nghiệp phải đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, bên cạnh đó phải đầu tư nâng cao chất lượng tay nghề của người lao động. Cùng với sự hiện đại của công nghệ, năng suất lao động sẽ được nâng cao, thất thoát nguyên vật liệu giảm từ đó sẽ làm hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác để tiêu thụ sản phẩm được tốt thì công ty còn phải chú ý đầu tư cho các hoạt động quảng cáo, nghiên cứu thị trường, tiếp thị quảng bá sản phẩm... Nếu các công việc trên được chú ý đầu tư hợp lý thì sản phẩm của công ty sẽ có được thị phần rộng, đẩy nhanh được tốc độ tiêu thụ và khi đó khả năng cạnh tranh của công ty được tăng lên.
Chính vì vậy ta có thể khẳng định rằng: đầu tư chính là tiền đề để nâng cao khả năng cạnh tranh của Công ty.
8.2. Lĩnh vực cần đầu tư nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của công ty.
8.2.1. Vốn và cơ cấu vốn đầu tư hợp lý:
Vốn và cơ cấu vốn đầu tư là một trong những yếu tố quyết định đến khả năng cạnh tranh của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp hoạt động, nếu như thiếu vốn thì không thể đạt được hiệu quả như mong muốn. Nhưng ngược lại nếu doanh nghiệp có nhiếu vốn mà không có một cơ cấu vốn phù hợp với thực trạng hoạt động của công ty thì cũng không thể nâng cao được lợi nhuận cũng như hiệu quả hoạt động.
Chính vì thế, để có thể nâng cao được khả năng cạnh tranh thì trước hết đòi hỏi doanh nghiệp phải có một lượng vốn nhất định, và đồng thời phải luôn có một cơ cấu vốn hợp lý.
8.2.2. Đầu tư vào tài sản cố định
Đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất trong hoạt động đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp bởi hai lý do cơ bản sau:
Thứ nhất: chi phí cho các hạng mục chiếm tỷ lệ cao trong tổng vốn đầu tư.
Thứ hai: đó là bộ phận cơ bản tạo ra sản phẩm - hoạt động chính của mỗi doanh nghiệp.
Như vậy, hoạt động đầu tư vào tài sản cố định đóng vai trò quan trọng nhất nếu không muốn nói là quyết định đối với phần lợi nhuận thu được cũng như khả năng cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của doanh nghiệp. Các hãng thường tăng cường thêm tài sản cố định khi họ thấy trước được những cơ hội có lợi để mở rộng sản xuất. Nhưng việc đầu tư quá lớn cho tài sản cố định đồng nghĩa với việc vốn khê đọng lớn. Do vậy, doanh nghiệp cần phải xác định mức hợp lý cho tài sản cố định, phù hợp với khả năng cũng như quy mô hoạt động của doanh nghiệp.
8.2.3. Đầu tư vào nguồn nhân lực:
Nếu như tài sản cố định là một bộ phận quan trọng hình thành nên năng lực sản xuất của doanh nghiệp thì có thể coi nguồn nhân lực là bộ phận quyết định đến việc vận hành quá trình sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Nếu doanh nghiệp có cơ sở vật chất hiện đại, nhưng không có đội ngũ lao động có trình độ, thì việc vận hành hoạt động sản xuất kinh doanh không hiệu quả và dẫn đến việc đưa doanh nghiệp thất bại trước các đối thủ cạnh tranh.
Nguồn nhân lực trong cơ chế thị trường đóng một vai trò hết sức quan trọng, vì thế, trong chiến lược phát triển, doanh nghiệp không thể không đề cập đến vấn đề đầu tư đào tạo cho đội ngũ lao động của mình. Để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần phân chi nguồn nhân lực ra thành đội ngũ cán bộ quản lý, đội ngũ cán bộ nghiên cứu và ứng dụng khoa học và đội ngũ công nhân kỹ thuật.
8.2.4. Đầu tư vào tài sản vô hình:
Khác với tài sản hữu hình, tài sản vô hình là các tài sản không có hình thái cụ thể, tuy nhiên nó có đóng góp quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp. Các tài sản vô hình đó có thể là uy tín của doanh nghiệp, bầu không khí làm việc, sự nổi tiếng của nhãn mác thương hiệu, vị trí thương mại... Các tài sản vô hình không trực tiếp tạo ra sản phẩm nhưng nó đã gián tiếp tác động làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp diễn ra nhanh hơn. Đầu tư hợp lý vào tài sản vô hình đồng nghĩa với việc thúc đẩy vị thế, lợi nhuận của doanh nghiệp tăng lên.
9. Giải pháp nâng cao trình độ tay nghề và tinh thần trách nhiệm của người lao động.
- Thường xuyên mở các lớp đào tạo, nâng cao trình độ chuyên môn, tổ chức kiểm tra, đánh giá tay nghề của công nhân, trên cơ sở đó phân loại và có kế hoạch đào tạo riêng đối với từng nhóm công nhân.
- Tổ chức các hoạt động văn hóa để khích lệ về mặt tinh thần cho công nhân như: ngày hội thể thao, các buổi ca nhạc, giao lưu... Tiến hành hình thức: “Một ngày không có phế phẩm” để nâng cao tinh thần lao động sản xuất của công nhân.
- Nâng cao năng lực của cán bộ quản lý: Cử các chuyên gia, cán bộ kỹ thuật đi học hỏi kinh nghiệm ở nước ngoài.
- Ngoài ra, Công ty nên có các chính sách để thu hút nhân tài như: trả lương cao cho các vị trí quan trọng ở lĩnh vực công nghệ, kỹ thuật, quản lý kinh doanh...Nâng cao trình độ ngoại ngữ cho các cán bộ đặc biệt là các nhân viên phòng kinh doanh, kỹ thuật, Marketing...
III. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ ĐỂ THỰC HIỆN GIẢI PHÁP:
1. Kiến nghị đối với công ty:
Công ty tồn tại trong ngành quảng cáo có mức độ tăng trưởng nhanh, có lợi thế cạnh tranh lớn. Để giữ vững vị trí dẫn đầu trong ngành, Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái luôn có thể thực hiện thành công các giải pháp và chiến lược đã đề ra, song để thực hiện tốt các giải pháp cần lưu ý:
- Phải biến các mục tiêu của công ty thành quyết tâm phấn đấu của từng cán bộ công nhân viên. Trong quá trình thực hiện các giải pháp, phải được bàn bạc thống nhất và quyết tâm hành động.
- Thường xuyên xem xét lại những cơ sở của các giải pháp và điều chỉnh các giải pháp cho phù hợp với từng điều kiện môi trường, từng thời gian và từng địa điểm.
- Con người là yếu tố quan trọng khi thực thi các giải pháp, nên phải phát huy trí tuệ, tinh thần đoàn kết và làm chủ của cán bộ công nhân viên, đồng thời thường xuyên huấn luyện, đào tạo cán bộ công nhân viên trở thành những người giàu lòng nhiệt tình, có kiến thức, làm việc có chất lượng và khoa học nhằm thực hiện tốt các giải pháp đã đề ra.
Liên tục phát triển trong 6 năm qua: Dù là một công ty còn trẻ, nhưng đã có giá trị tổng sản lượng dẫn đầu ngành quảng cáo. Điều đó cho phép ta tin tưởng vào việc thực hiện thành công các giải pháp, và chiến lược đã đề ra, đạt được mục tiêu đến năm 2010, giữ vững vị thế cạnh tranh và hiệu quả ngày càng cao của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái.
Tuy nhiên, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, công ty đứng trước nhiều khó khăn thử thách từ bên ngoài, cũng như bên trong công ty. Bởi vậy công ty càng cần phải phát huy thế mạnh và khắc phục những yếu kém còn tồn tại, nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của công ty.
2. Các kiến nghị đối với Nhà nước:
- Có những chính sách ưu đãi về thuế, cho những công ty quảng cáo.
- Có những chính sách quản lý chất lượng hàng hóa và dịch vụ tốt, nhằm tạo sự công bằng trong cạnh tranh.
- Hoàn thiện luật pháp, và tạo hành lang pháp lý thông thoáng cho quảng cáo phát triển.
KẾT LUẬN
Ngày nay, với sự cạnh tranh trên thị trường ngày càng khốc liệt. Bởi vậy các doanh nghiệp, không còn cách nào khác là phải tìm cách nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ của mình, để chiến thắng trong cạnh tranh. Do đó để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái (năm 2006 - 2010). Tôi đã qua nghiên cứu và khảo sát thực tế, thực trạng của công ty và qua chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, tôi đã đề ra 9 giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái.
Đó là những giải pháp:
1. Giải pháp xây dựng một chiến lược cạnh tranh.
2. Giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, và đa dạng hóa các loại sản phẩm dịch vụ quảng cáo.
3. Giải pháp chọn thị trường mục tiêu và khách hàng trọng điểm.
4. Giải pháp tăng cường vai trò của quản lý, trong việc nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ quảng cáo.
5. Giải pháp không ngừng nâng cao uy tín đối với khách hàng.
6. Giải pháp tổ chức tốt các hoạt động quản lý, kế hoạch hóa, kiểm tra, kiểm soát.
7. Giải pháp về huy động vốn để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của công ty.
8. Giải pháp đầu tư để nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của công ty.
9. Giải pháp nâng cao trình độ tay nghề và tinh thần trách nhiệm của người lao động.
Đây là những giải pháp cơ bản nhằm nâng cao sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của công ty. Những giải pháp này có thể, có những khiếm khuyết, nên rất mong sự góp ý của Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên trong công ty và chúc công ty luôn thành công trong sự nghiệp của mình.
Để hoàn thành đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, tôi đã có sự giúp đỡ tận tình của cô giáo hướng dẫn cô Nguyễn Thị Hồng Thủy và cán bộ công nhân viên tại Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái, đặc biệt là Ban lãnh đạo công ty và phòng kinh doanh.
Do thời gian làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp này không nhiều, và do trình độ còn có hạn, nên các vấn đề được trình bày trong đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp này, chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Bởi vậy tôi rất mong nhận được sự góp ý của các thầy, cô và của các bạn.
Một lần nữa, tôi xin chân thành cảm ơn sự giúp đỡ tận tình, của các cán bộ công nhân viên trong Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái, và sự chỉ bảo tận tình của Cô giáo hướng dẫn: Cô Nguyễn Thị Hồng Thủy, trong quá trình thực tập và hoàn thành đề tài chuyên đề thực tập tốt nghiệp này.
LỜI CAM KẾT
Tôi Lê Phương Đại, lớp quản lý kinh tế, K35, tại chức, định kỳ. Đã tự tay viết chuyên đề này, với sự tham khảo các tài liệu đã được liệt kê ở cuối chuyên đề, nếu sai tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm trước pháp luật và quy chế của nhà trường.
Xác nhận
của Công ty thực tập
Hà Nội, ngày 26 tháng 12 năm 2006
Người viết Chuyên đề
LÊ PHƯƠNG ĐẠI
Xác nhận
của Giáo viên hướng dẫn
Xác nhận
của Giáo viên chủ nhiệm lớp
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Khoa học quản lý - Đại học Kinh tế Quốc dân: Giáo trình khoa học quản lý tập I, tập II. Chủ biên: PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà; PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền. NXB Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội 2004.
Khoa học quản lý - Đại học Kinh tế Quốc dân: Giáo trình quản lý học Kinh tế Quốc dân, tập I, tập II. Chủ biên: GS.TS. Đỗ Hoàng Toàn - TS. Mai Văn Bưu. NXB Khoa học Kỹ thuật Hà Nội 2001.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân: Giáo trình chiến lược và kế hoạch phát triển doanh nghiệp. Chủ biên: PTS. Nguyễn Thành Độ. Nhà xuất bản giáo dục - 1996.
Trường Đại học Kinh tế Quốc dân: Giáo trình Quản trị doanh nghiệp. Chủ biên: PGS. PTS. Lê Văn Tâm. NXB Giáo dục - 1998.
Vũ Cao Đàm: Phương pháp luận nghiên cứu khoa học, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội - 1998.
David Begg, Stanley, Rudiger Dornbusch: Kinh tế học, NXB Giáo dục, Hà Nội - 1992.
PTS. Phùng Thị Thanh Thủy: Phân tích kinh tế hoạt động của doanh nghiệp, NXB Thống kê - 1995.
PGS-TS. Lê Văn Tư; PTS. Nguyễn Ngọc Hùng: Thị trường chứng khoán, NXB thống kê - 1997.
Khoa Khoa học Quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình chính sách kinh tế xã hội. Chủ biên: PGS.TS. Đoàn Thị Thu Hà;
PGS.TS. Nguyễn Thị Ngọc Huyền, NXB Khoa học và Kỹ thuật -2006
Philip Kotler: Marketing căn bản, NXB Thống kê, Hà Nội, 1994.
Khoa Khoa học Quản lý - Đại học Kinh tế quốc dân: Giáo trình Tâm lý học quản lý kinh tế. Chủ biên: Trần Thị Thuý Sửu, Lê Thị Anh Vân, Đỗ Hoàng Toàn, NXB Khoa học và Kỹ thuật -2003.
MỤC LỤC
Lời mở đầu 3
Chương I: Cơ sở lý luận về sản phẩm dịch vụ và sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ 5
I. Khái niệm - Đặc trưng của sản phẩm dịch vụ và đặc điểm của thị trường dịch vụ 5
II. Đặc trưng của sản phẩm dịch vụ quảng cáo 10
III. Vai trò của công ty chuyên môn hoá trong hoạt động quảng cáo 13
IV. Các yếu tố tạo lập nên sức cạnh tranh và các chỉ tiêu đánh giá sức cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ quảng cáo 14
Chương II: Thực trạng về sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái 29
I. Tổng quan về doanh nghiệp 29
II. Phân tích thực trạng và đánh giá chung về sức cạnh tranh sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái 41
Chương III: Một số giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái (năm 2006-2010) 48
I. Tính tất yếu khách quan của việc phải nâng cao sức cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và Truyền thông Hà Thái 48
II. Một số giải pháp để nâng cao sức cạnh tranh, sản phẩm dịch vụ quảng cáo của Công ty Cổ phần Quảng cáo và
Truyền thông Hà Thái (năm 2006-2010) 50
III. Một số kiến nghị để thực hiện giải pháp 59
Kết luận 60
Lời cam kết và xác nhận 62
Tài liệu tham khảo 63
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5344.doc