Với điểm xuất phát thấp, điều kiện kinh tế khó khăn và có nhiều trở ngại. Muốn phát triển kinh tế bền vững ta thực hiện nền kinh tế hàng hoá là một bước ngoặtquan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một tất yếu và cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã xuất hiện nhiều khó khăn, phức tạp và đã tác động đến mặt xã hội nói chung. Để hạn chế những tác độnh tiêu cực này ta cần định hướng cho nền kinh tế phát triển, buộc nó phải đi theo con đường mà chúng ta lựa chọn là xây dựng CNXH. Chính vì vậy chính sách phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự định hướng XHCN là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của quy luật phát triển, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, sáng suốt của Đảng. Trong khi thực hiện từng bước sự chuyển đổi này chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN, đứng ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần phải ngày càng hoàn chỉnh bộ máy Nhà Nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo đưa nước ta đi theo con đường XHCN như đã chọn.
29 trang |
Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1528 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp để tiếp tục giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế của nước ta trong giai đoạn tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
muộn cũng bị thay thế bởi một chế độ xã hội cao hơn , chế độ xã hội trong đó con người hoàn toàn tự do, văn minh và bình đẳng, có nền kinh tế phát triển bền vững, xã hôị công bằng. Đó là chủ nghĩa cộng xản mà giai đoạn thấp của nó là CNXH - thời kì chuyên chính của giai cấp vô sản.
Nước ta sau khi giành được độc lập ở miền bắc , Đảng đã xác định đưa đất nước lên tiến lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN. Khi miền bắc hoàn toàn được giảI phóng thì cả nước bước vào thời kì quá độ lên CNXH. Đại hội Đảng VI (1986) là một bước ngoặt lịch sử của nền kinh tế vói đường lối mới của Đảng để phát triển đất nước. Theo đó ta xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Tư tưởng ấy càng được nhấn mạnh trong các kì đại hội tiếp theo của Đảng.
Cho tới nay, sau hơn mười năm đổi mới ta đã gặt hái được nhiều thành tựu đáng kể. Tuy nhiên bên cạnh đó còn có khá nhiều những mặt cần điêù chỉnh.
Một số suy nghĩ và giải pháp qua nghiên cứu kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường đang diễn ra ở nước ta hiện nay sẽ phần nào giúp ta hiểu rõ hơn về thực trạng của nước ta trong thời kì quá độ này.
Do hạn chế về hiểu biết nên trong bài viết này của em sẽ khó tránh đựơc những sai sót. Kính mong được các thầy cô chỉ bảo để bài viết thêm phần sâu sắc.
Em xin chân thành cảm ơn.
B - nội dung:
phần đề cương kháI quát
I - Lý luận Mac - Lênin về kinh tế hàng hoá và kinh tế thị trường và thực tiễn vấn đề này ở Việt Nam trong thời kì quá độ lên CNXH hiện nay.
1- Kinh tế hàng hoá:
Điều kiện ra đời :
Thực tế nền kinh tế thế giới cho thấy không nước nào mà nền kinh tế hàng hoá hay kinh tế thị trường lại vận động hoàn toàn dưới sự điều khiển “vô hình”của các quy luật kinh tế khách quan. Mà chúng đều vận động theo cơ chế thị trường có sự điều tiết của các doanh nghiệp và nhà nước và với mức độ và phạm vi khác nhau tuỳ thuộc điều kiện lịch sử của mỗi nước.
Kinh tế hàng hoá là mô hình kinh tế trong đó hầu hết các quan hệ kinh tế được thực hiện trên thị trường dưới hình thái hàng hoá và dịch vụ, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lí của nhà nước .
Kinh tế hàng hoá ra đời và tồn tại trong nhiều hình thái kinh tế xã hội gắn liền với hai điều kiện tiền đề:
Một là: Có sự phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là sự chuyên môn hoá sản xuất, mỗi ngươì chỉ sản xuất một hay một số loại sản phẩm nhất định. Những nhu cầu cuộc sống đòi hỏi phải có nhiều loại sản phẩm. Vì vậy người sản xuất này phải dựa vào người sản xuất khác phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Như vậy phân công lao động xã hội là biểu hiện sự phát triển của lực lựơng sản xuất làm cho năng suất lao động tăng lên và làm cho trao đổi sản phẩm trở thành tất yếu. Nó là cơ sở của sản xuất hàng hoá.
Hai là: Có chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm. đIều này làm cho người sản xuất hàng hoá độc lập với nhau và mỗi người có quyền chi phối sản phẩm của mình, có quyền đem sản phẩm của mình trao đổi với người khác.
Như vậy : Phân công lao động xã hội làm người sản xuất phụ thuộc vào nhau còn chế độ tư hữu lại chia rẽ họ làm họ độc lập với nhau đây là một mâu thuẫn. Mâu thuẫn này chỉ được giải quyết thông qua trao đổi, mua bán sản phẩm của nhau. Sản xuất hàng hoá ra đời bắt nguồn từ yêu cầu của cuộc sống.
* Sơ lược về lịch sử phát triển sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá ra đời từ sản xuất tự cấp tự túc và thay thế nó trong quá trình lịch sử lâu dài.
ở các xã hội trước chủ nghĩa tư bản, sản xuất hàng hoá là sản xuất giản đơn chỉ giữ vai trò phụ thuộc. Tuy nhiên chính sản xuất hàng hoá giản đơn đã tạo khả năng phát triển lực lượng sản xuất thiết lập các mối liên hệ kinh tế giữa các đơn vị kinh tế trước đó vốn tách biệt nhau.
Quan hệ hàng hoá phát triển nhanh chóng ở thời kỳ chế độ phong kiến tan rã và góp phần thúc đẩy quá trình đó diễn ra mạnh mẽ hơn.
Hình thức điển hình nhất, cao nhất, phổ biến nhất của sản xuất hàng hoá là sản xuất hàng hoá TBCN. Dưới CNTB quan hệ hàng hoá thâm nhập vào mọi lĩnh vực, mọi chức năng của nền sản xuất xã hội, hàng hoá trở thành tế bào của nền sản xuất xã hội . Nó mang đặc điểm: Dựa trên sự tách rời tư liệu sản xuất với sức lao động trên cơ sở bóc lột lao động làm thuê dưới hình thức chiếm đoạt giá trị thặng dư.
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển dưới CNXH. Đặc điểm của sản xuất hàng hoá XHCN là nó không dựa trên cơ sở chế độ người bóc lột người và nó nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu vật chất, tinh thần của mọi thành viên xã hội trên cơ sở sản xuất kinh doanh .
* Tính ưu việt của sản xuất hàng hoá:
Sản xuất hàng hoá tiếp tục tồn tại và phát triển ở nhiều xã hội là sản phẩm của lịch sử phát triển sản xuất của loài người. Bởi vậy nó có nhiều ưu thế, và là một phương thức hoạt động kinh tế tiến bộ hơn hẳn so với sản xuất tự cấp tự túc :
Nó làm thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã hội .Nó thúc đẩy quá trình xã hội hoá sản xuất nhanh tróng làm cho sự phân công chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, hợp tác hoá chặt chẽ hình thành các mối liên hệ kinh tế và sự phụ thuộc lẫn nhau của những người sản xuất hình thành thị trường trong nước và thế giới.
Nó thúc đẩy nhanh quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, đó là cơ sở để thúc đẩy quá trình dân chủ hoá, bình đẳng và tiến bộ xã hội.
* ở Việt Nam:
Trong giai đoạn quá độ lên CNXH, ở nước ta những đIều kiện chung của kinh tế hàng hoá vẫn còn bởi vậy nền kinh tế hàng hoá tồn tại là một tất yếu khách quan:
Phân công lao động xã hội với tư cách là cơ sở của trao đổi chẳng những không mất đi, trái lại ngày một phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. sự chuyên môn hoá và hợp tác hoá lao động đã vượt khỏi biên giới quốc gia và ngày càng mang tính quốc tế.
Phân công lao động xã hội đã phá vỡ các mối quan hệ truyền thống của nền kinh tế tự nhiên khép kín, tạo cơ sở thống nhất, phụ thuộc lẫn nhau giữa những người sản xuất vào hệ thống của hợp tác lao động. Sự phân công lao động của ta đã ngày càng chi tiết hơn đến từng ngành, từng cơ sở và ở phạm vi rộng hơn nữa là toàn bộ nền kinh tế quốc dân. hiện nay ta đã có hàng loạt các thị trường được hình thành từ sự phan công lao động đó là: Thị trường công nghệ, thị trường các yếu tố sản xuất,…Tạo đà cho nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần phát triển giúp ta nhanh chóng hoà nhập được với kinh tế trong khu vực và thế giới.
Trong nền kinh tế đã và đang tồn tại nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm lao động. Sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể của những người sản xuất hàng hoá nhỏ, sở hữu tư nhân TBCN, sở hữu hỗn hợp, đồng sở hữu,…Chế độ xã hội hoá sản xuất giữa các ngành, các xí nghiệp trong cùng một hình thức sở hữu vẫn chưa đều nhau. Sở dĩ như vậy là do cơ cấu kinh tế của ta giờ là cơ cấu kinh tế nhiều thành phần, sự tồn tại của các thành phần kinh tế là một tất yếu khách quan .
Sản xuất hàng hoá là để trao đổi đáp ứng nhu cầu của xã hội nên người sản xuất có điều kiện để chuyên môn hoá cao. Trình độ tay nghề được nâng lên do tích luỹ kinh nghiệm, tiếp thu được tri thức mới. Công cụ chuyên dùng được cải tiến, kỹ thuật mới được áp dụng do đó cạnh cạnh tranh ngày càng gay gắt khiến cho năng suất lao động được nâng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện và tốt hơn. Hiệu quả kinh tế được trú trọng làm mục tiêu đánh giá sự hoạt động của các thành phần kinh tế. Việc trao đổi hàng hoá dựa trên nguyên tắc ngang giá khiến cho người sản xuất luôn tìm cách tiết kiệm giảm đến mức tối đa những chi phí cá biệt, giảm giá trị hàng hoá cá biệt để có lợi nhuận khi trao đổi. Trên cơ sở phân công lao động, sản xuất hàng hoá phát triển. Khi sản xuất hàng hoá phát triển sẽ làm phân công lao động ngày càng cao hơn, sâu hơn. Quan hệ hàng hoá, tiền tệ, quan hệ thị trường ngày càng được chủ thể sản xuất hàng hoá vận dụng có hiệu quả hơn và từ đó ngoài các quan hệ kinh tế phát triển mà các quan hệ pháp lý xẫ hội, tập quán, tác phong cũng thay đổi.
Chính từ tính ưu việt rất riêng, rất có lợi ( tuy bên cạnh đó vẫn còn có những khuyết tật ) của sản xất hàng hoá mà tại đại hội VII Đảng ta đã xác định phương hướng : Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
b. Đặc điểm của kinh tế hàng hoá trong thời kì quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở nước ta:
Nước ta tiến lên CNXH từ một nền kinh tế tiểu nông lạc hậu, lực lượng sản xuất chưa phát triển, lại bỏ qua giai đoạn TBCN nên nền kinh tế hàng hoá của ta không giống với nền kinh tế hàng hoá của các nước khác trên thế giới với những đặc trưng tiêu biểu:
Thứ nhất:_Nền kinh tế nước ta đang trong quá trình chuyển biến từ một nền kinh tế hàng hoá kém phát triển mang nặng tính tự cấp tự túc sang một nền kinh tế hàng hoá phát triển từ thấp đến cao.
Xuất phát từ thực trạng có thể nói là rất tiêu điều của nền kinh tế nước ta: Kết cấu hạ tầng vật chất và xã hội kém, trình độ cơ sở vật chất và công nghệ trong các doanh nghiệp lạc hậu, khả năng cạnh tranh gần như không có, đội ngũ nhà doanh nghiệp tầm cỡ thiếu trầm trọng, bên cạnh đó thì thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân thấp kém khiến dung lượng hàng hoá trên thị trường có sự thay đổi rất chậm chạp, khả năng cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường thấp. Từ sự thật không mấy sáng sủa này, buộc ta phải có chiến lược phát triển để vượt qua thực trạng của nền kinh tế, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển cả về số lượng lẫn chất lượng và nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế hàng hoá ở nước ta.
Thứ hai:_Nền kinh tế hàng hoá dựa trên cơ sở nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần. Từ thực trạng nền kinh tế hàng hoá kém phát triển do nhiều nhân tố song nhân tố gây hậu quả nặng nề nhất là sự nhận thức không đúng đắn dẫn đến nôn nóng xoá bỏ nhanh các thành phần kinh tế, thực chất là xoá bỏ điều kiện tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá, làm mất khả năng cạnh tranh và tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp to lớn về nhiều mặt có khả năng đưa nền kinh tế vượt khỏi thực trạng thấp kém. Cơ cấu ngành theo hướng phát triển kinh tế dịch vụ đang dần chiếm ưu thế cao trong nền kinh tế hàng hoá thu hút một số lượng lớn lao động. Từ đó cơ cấu công- nông nghiệp và dịch vụ sớm hình thành theo định hướng chuyển dịch kinh tế mà Đại hội Đảng VIII đã đề ra. Nó đảm bảo cho mọi người, mọi doanh nghiệp ở mọi thành phần kinh tế đều được tự do kinh doanh theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ quyền sở hữu và quyền thu nhập hợp pháp. Nó còn làm cho các chủ thể kinh tế được hoạt động theo cơ chế tự chủ, hợp tác cạnh tranh và bình đẳng trước pháp luật.
Thứ ba:_Nền kinh tế hàng hoá theo cơ cấu kinh tế “mở”giữa nước ta với các nước trên thế giới.
Trước kia với cơ cấu kinh tế “khép kín”, với tình trạng “bế quan toả cảng”, luẩn quẩn sau luỹ tre làng nên kinh tế nước ta lâm vào bế tắc, kém phát triển có thể nói là lạc hậu nhất thế giới. Vì vậy sự ra đời của nền kinh tế hàng hoá TBCN đã làm cho thị trường dân tộc hoạt động trong sự gắn bó với thị trường thế giới. Do sự phân bố phát triển không đều về tài nguyên thiên nhiên, sức lao động và thế mạnh giữa các nước từ quy luật phân công và hợp tác lao động quốc tế, đời sống mang tính quốc tế hoá …dẫn đến nhu cầu khách quan là mở cửa nền kinh tế hàng hoá để đạt được hiệu quả cao và phát triển với tốc độ nhanh nền kinh tế.
Thứ tư: Phát triển kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN với vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước và sự quản lý kinh tế vĩ mô của nhà nước.
Trong các thành phần kinh tế thì kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo do bản chất vốn có và lại nắm giữ các ngành, lĩnh vực then chốt và trọng yếu, nên đảm bảo cho các thành phần kinh tế khác phát triển theo định hướng XHCN. Tuy nhiên vai trò của nó chỉ được khẳng định khi nó phát huy được sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế khác, nó sớm chuyển đổi cơ chế quản lý theo hướng năng suất, chất lượng và hiệu quả để đứng vững và chiến thắng trong môi trường hợp tác và cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế.
Nền kinh tế hàng hoá bên cạnh mặt tích cực là làm thay đổi bộ mặt của đất nước không tránh khỏi những khuyết tật nhất định về mặt xã hội như: phá sản, khủng hoảng , áp bức bất công, tàn phá môi trường, phân hoá giầu nghèo... Chính vì vậy cần phải có sự quản lý vĩ mô của Nhà nước.
Nước ta do chịu ảnh hưởng lâu dài của cơ chế kế hoạch hoá tập trung quan liêu, bao cấp nên những công cụ để Nhà nước đIều hành vĩ mô nền kinh tế hàng hoá như : hệ thống ngân hàng, tín dụng … còn thấp kém. Nước ta đang xây dựng pháp luật về kinh tế nhưng lại chưa đồng bộ, xã hội chưa quen với việc chấp hành luật pháp trong kinh doanh. Trình độ hiểu biết của nhà nước về cơ chế thị trường còn nhiều hạn chế, thiếu tính khoa học, thực tế còn lúng túng trong quản lý kinh tế vĩ mô. Trong điều kiện đó xu hướng vận động khách quancủa nước ta trước mắt và lâu dài là phấn đấu nâng cao năng lực và tăng cường các công cụ và do đó nâng cao trình độ quản lý vĩ mô của nhà nước. Từ định hướng đó đảng đã kiên định chiến lược phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN. Mà nhà nước là của dân, do dân và vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng là nhân tố quyết định nhất đảm bảo tính định hướng XHCN.
Sau hơn mười năm đổi mới ta đã đạt được một số thành tựu đáng kể làm vai trò quản lý của nhà nước được tăng cường. Bằng các công cụ rất riêng: pháp luật kế hoạch, thiết chế về tài chính, tiền tệ và những phương tiện vật chất khác. Nhà nước tạo đIều kiện khuyến khích, phát huy những mặt tích cực của kinh tế hàng hoá, ngăn ngừa, hạn chế tính tự phát và các khuyết tật của cơ chế thị trường.
Nhận xét:
Các đặc điểm của nền kinh tế hàng hoá ở trên có quan hệ mật thiết với nhau phản ánh kết quả của sự phân tích thực trạng và xu hướng vận động nội tại của quá trình hình thành và phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta hiện nay và tương lai.
Các đặc đIểm này bắt nguồn từ sự chi phối của các quy luật kinh tế nền kinh tế hàng hoá ( quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh và quy luật lưu thông tiền tệ ) bắt nguồn từ vai trò định hướng của kinh tế nhà nước và vai trò quản lý của nhà nước ở nước ta. Nhà nước là của dân và vì dân quyết định.
c. Phương hướng phát triển kinh tế hàng hoá ở nước ta:
Trong giai đoạn hiện nay khi mà chiến lược ổn định về kinh tế, chính trị, xã hội đã được xác định rõ, kết cấu hạ tầng vật chất và hạ tầng xã hội được xây dựng ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, hệ thống pháp luật và bộ máy nhà nước được củng cố và trong sạch hoá, số lượng các nhà quản lý, nhà kinh doanh giỏi thích nghi với cơ chế thị trường ngày càng đông đảo, tay nghề khá cao. Đảng đã xác định hướng đi của nền kinh tế cho phù hợp với các điều kiện tiền đề hiện có:
Trước hết phải thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách kinh tế nhiều thành phần theo định hướng XHCN với các hình thức sở hữu đa dạng: sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu hỗn hợp …
Thứ đến: cần sắp xếp lại khu vực kinh tế nhà nước theo hướng nắm khâu mặt hàng trọng yếu chuyển dần sang hạch toán kinh doanh, tự chủ về mọi mặt đủ sức đứng vững và giành thắng lợi trong cạnh tranh.
Ba là: sử dụng rộng rãi các hình thức kinh tế của kinh tế tư bản nhà nước để phát huy sức mạnh hỗn hợp của tư bản trong và ngoài nước với nhà nước về các mặt vốn, công nghệ và tài năng quản lý.
Bốn là: đẩy mạnh phân công lao động và hợp tác lao động theo hướng chuyên môn hoá kết hợp đa dạng hoá sản xuất kinh doanh, tăng cường và phát triển ngành sản xuất phi vật chất, coi trọng lao động trí tuệ.
Năm là: đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá coi trọng việc ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ của loài người. Dẫn đến đẩy mạnh kinh tế hàng hoá phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và làm tăng khả năng cạnh tranh hàng hoá của nước ta trên thị trường khu vực và quốc tế.
Sáu là: xây dựng và phát triển thị trường hướng ngoại nhưng phải lấy thị trường trong nước làm cơ sở, phải có mặt hàng mũi nhọn có khả năng cạnh tranh dựa trên cơ sở thế mạnh và lợi thế so sánh. Bởi vì người ta chỉ nhập khẩu những gì là thế yếu của mình và là thế mạnh của người khác tức là bán hay xuất caí mà thị trường cần chứ không phải cái mà mình có.
Bảy là: thực hiện chính sách đối ngoại có lợi cho sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Mở rộng quan hệ theo hướng đa dạng hoá về hình thức, đa phương hoá về nguồn và hai bên cùng có lợi, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau và không phân biệt chế độ chính trị.
Kết Luận:
Thấy rằng việc xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá ở nước ta là một quá trình vừa có tính cấp bách lại vừa có tính chiến lược lâu dài. Trong từng bước đi của quá trình vừa có những khó khăn do sự xuất phát thấp của nền kinh tế nhưng lại có những thuận lợi nhất định cần được khai thác: đó là nguồn lao động dồi dào, môi trường và con người việt nam năng động, có khả năng tiếp cận cơ chế thị trường nhanh, ta lại nằm trong khu Châu á - Thái bình dương; vùng trung tâm của nền văn minh loài người đang được di chuyển đến, vùng kinh tế năng động nhất hiện nay.
Chính vì thế ngay từ buổi đầu của chính sách đổi mới kinh tế ta đã xác định ngay việc đổi mới phải theo hướng có lợi cho sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá.Trong mấy thập niên gần đâ, kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ nhờ sự tác động và thúc đẩy của công nghệ mới và lực lượng sản xuất mới, cho nên nền kinh tế hàng hoá đang có su hướng chuyển sang kinh tế thị trường. Tốc độ phát triển cao của kinh tế hàng hoá tạo sự hấp dẫn mạnh đối với các nhà hoạch định chiến lược phát triển kinh tế – xã hội hiện nay ở các nước XHCN.
2- Kinh tế thị trường:
a- Thị trường và vai trò thị trường:
-Thị trường là một phạm trù kinh tế của sản xuất hàng hoá được biểu hiện các hoạt động mua bán, trao đổi cùng với các mối quan hệ do chúng gây ra được diễn ra trong một không gian và thời gian nhất định .
-Vai trò: Thị trường gắn liền với quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá, nơi ra đời và phát triển cùng qúa trình ra đời và phát triển của sản xuất và lưu thông hàng hoá, sản xuất hàng hoá phát triển, lượng sản hẩm lưu thông trên thị trưtờng ngày càng dồi dào phong phú-thị trường mở rộng- khái niệm thị trườngđược mở rộng hơn. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ làm môi giới. ở đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và lượng hàng hoá lưu thông trên thị trường.
Thị trường là trung tâm của toàn bộ quá trình tái sản xuất hàng hóa. Những vấn đề cơ bản của nền sản xuất hàng hoá là sản xuất cái gì? sản xuất như thế nào?và cho ai? đều phải thông qua thị trường. Vì vậy, thị trường đóng vai trò hoạt động và phương án sản xuất, kinh doanh có hiệu quả.
- Thị trường các yếu tố sản xuất hay thị trường đầu vào là nơi mua bán các yếu tố sản xuất. Thông qua thị trường này mà nhà kinh doanh mua được các yếu tố sản xuất như tư liệu sản xuất, sức lao động, có vốn để sản xuất kinh doanh. Ngược lại, người có tư liệu sản xuất, sức lao động vốn, thực hiện được việc mua bán, có thu nhập để tái sản xuất ra các yếu tố đó. Thông qua việc trao đổi mua bán trên thị trường các chủ thể kinh tế có được thu nhập,lượng thu nhập này có thể nhiều hay ít là tuỳ thuộc vào tính chất của công việc và thể hiện ở sự phân phối cho ai ? Chính vì vậy thị trường thực hiện chức năng phân phối của quá trình táI sản xuất.
- Thị trường là nơi cuối cùng để chuyển lao động tư nhân, cá biệt thành lao động xã hội. Chi phí cá biệt có được xã hội chấp nhận hay không sẽ quyết định sự thành bại của doanh nghiệp.
b - Tính tất yếu của nền kinh tế thị trường có định hướng XHCN ở nước ta :
Ngay từ tháng 8 năm 1979, Nhà nước ta đã chủ trương phát triển sản xuất hàng hoá. Chỉ thị 1000 của ban bí thư trung ương và quyết định số 25/CP của chính phủ năm 1981 đã để cho các hợp tác xã tự chủ trong sản xuất kinh doanh.
Đại hội Đảng VI, tháng 12 năm 1986 đã khẳng định quá trình từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta là quá trình chuyển từ nền kinh tế tự cung tự cấp thành nền kinh tế hàng hoá. Điều quan trọng là ở đây chúng ta không chỉ thừa nhận từng khâu, từng phần sản phẩm là sản xuất hàng hoá mà là cả một nền kinh tế hàng hoá coi đó là một quá trình có tính quy luật đi lên sản xuất lớn XHCN ở nước ta.
Tuy nhiên, lúc này vẫn coi kế hoạch là đặc trưng số một, quan hệ hàng hoá tiền tệ ở vị trí số hai.
Đại hội VII của Đảng đã tiế xa hơn, cho rằng “Thị trường có vai trò trực tiếp hướng dẫn các đơn vị kinh tế lựa chọn linh hoạt các mặt hàng quy mô, công nghệ và hình thức sản xuất kinh doanh nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong hợp tác và cạnh tranh ”. Rồi “Cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN đang trở thành cơ chế vận hành nền kinh tế. ”
Nền kinh tế Việt Nam đang bước sang một trang mới, một quá trình phát triển lịch sử mới. Do vậy việc lựa chọn kinh tế thị trường là đúng đắn vì nền kinh tế thị trường không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Nó là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hoá. Theo Mác: “sản xuất và trao đổi hàng hoá là một nét chung cho hình thái kinh tế xã hội hết sức khác nhau ”. Mặt khác ở nước ta đã có những bước xây dựng và đạt được một số thành tựu trong quá trình phát triển kinh tế hàng hoá. Nên việc chuyển sang kinh tế thị trường là một đIều đương nhiên.
Mặt khác, kinh tế thị trường và chủ nghĩa xã hội có thể dung hoà. Chế độ sở hữu không quyết định trực tiếp thể chế kinh tế, thông qua cơ cấu quyền sở hữu tài sản được hình thành bởi một chế độ sở hữu nào đó, tác động gián tiếp đến thể ché kinh tế. Vì vậy, trong điều kiện chế độ công hữu XHCN, xã hội có thể thực hiện đượcthể chế kinh tế thị trường, nếu sở hữu nhà nước được phân giảI thành các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt ( Trong đó nhà nước đại diện cho chủ sở hữu nắm giữ quyền chiếm hữu còn quyền sử dụng kinh doanh trao cho doanh nghiệp ) sẽ hình thành nền kinh tế thị trường. Tuy vậy, trong việc phát triển nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội, rút ngắn khoảng cách phân hoá giầu nghèo, giảm bớt thất nghiệp…
Nền kinh tế thị trường ở Việt Nam sẽ được phát triển theo định hướng XHCN. Sự định hướng của xã hội hùng mạnh lấy cơ sở “nhân dân lao động làm chủ, con người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có đIều kiện phát triển toàn diện cá nhân”. Xã hội có nền kinh tế phát triển cao trên cơ sở khoa học công nghệ và lực lượng sản xuất hiện đại.
Sự định hướng XHCN của nền kinh tế thị trường ở nước ta là cần thiết và có tính khách quan. Xây dựng nền kinh tế thị trường không có gì mâu thuẫn với định hướng XHCN. Đại hội đảng VIII đã khẳng định: “ cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng đến sự phát triển kinh tế xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường XHCN ”
c.Thực trạng của nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Khi chuyển sang kinh tế thị trường, chúng ta đứng trước thực trạng là: đất nước đang từng bước quá độ lên CNXH từ một xã hội vốn là thuộc địa nửa phong kiến với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội rất thấp. Đất nước lại phải trải qua hàng chục năm chiến tranh, tàn dư thực dân phong kiến còn nhiều, lại chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Với điểm xuất phát ấy có thể thấy rằng: nền kinh tế nước ta không hoàn toàn là nền kinh tế tự nhiên nữa nhưng cũng chưa phải là kinh tế hàng hoá theo nghĩa đầy đủ. Mặt khác do đổi mới kinh tế nên nền kinh tế nước ta không còn là nền kinh tế chỉ huy. Có thể nói nền kinh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường, là nền kinh tế hàng hoá kém phát triển, còn mang nặng tính tự cấp tự túc và chịu ảnh hưởng nặng nề của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Thực trạng đó được thể hiện ở các mặt sau:
Thứ nhất: Kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự nhiên. sự yếu kém của kinh tế hàng hoá ở nước ta thể hiện ở :
Trình độ cơ sở vật chất – kỹ thuật và công nghệ sản xuất còn thấp kém ( do chiến tranh kéo dài, cơ sở hạ tầng bị phá huỷ nặng nề, mặt khác mọi chi phí thời bấy giờ tập trung cho chiến tranh nên chưa có đIều kiện tập trung cho sản xuất )
Hệ thống kết cấu hầng, phục vụ sản xuất và phục vụ xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế thị trường trong nước và chưa có khả năng mở rộng giao lưu với thị trường thế giới.
Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối và kém hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế còn phổ biến là sản xuất nhỏ cho nên cơ cấu kinh tế nước ta còn mang nặng đặc trưng của một cơ cấu kinh tế nông nghiệp. Trong nông nghiệp lại có hiện tượng độc canh cây lúa, ngành nghề chưa phát triển. Từ sau ĐạI hội Đảng VI đến nay tuy cơ cấu kinh tế ngành và cơ cấu thành phần kinh tế đã có nhiều thay đổi nhưng vẫn chưa hình thành một cơ cấu kinh tế mới hợp lý và có hiệu quả.
(Một cơ cấu kinh tế được coi là hợp lý và có hiệu quả khi nó phản ánh đúng yêu cầu của quy luật khách quan, khi nó cho phép khai thác mọi tiềm năng của đất nước và thực hiện được sự phân công và hợp tác quốc tế)
Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó _Trong những năm qua thị trường ở nước ta còn ở trình độ thấp với tính chất còn hoang sơ, dung lượng thị trường còn thiếu và có phần rối loạn, mới từng bước có thị trường nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường với hệ số giá cả và quan hệ mua bán bình thường theo cơ chế thị trường. Mà về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động hoặc mới chỉ có thị trường này ở khu vực kinh tế ngoài quốc doanh với hình thức thuê mướn còn thô sơ mà phần lớn sử dụng chế độ lao động theo biên chế. Ta cũng chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn hoặc đã có nhưng mới chỉ ở mức độ thô sơ.
Sở dĩ như vậy là do nhiều nguyên nhân khác nhau. Về khách quan trình độ phát triển của phân công lao động thấp. Về mặt chủ quan là do nhận thức chưa đúng đắn về nền kinh tế XHCN, do sự phân biệt duy ý chí giữa thị trường có tổ chức và thị trường tự do. Với những quan niệm quy tư liệu sản xuất lưu chuyển trong nội bộ các xí nghiệp quốc doanh là hàng hoá đặc biệt không được mua bán tự do, lại do quản lý theo chiều dọc – theo chức năng kinh doanh của từng ngành một cách máy móc dẫn đến hiện tượng cửa quyền cắt đứt mối quan hệ tự nhiên giữa các ngành, dẫn đến thị trường bị chai cắt, manh mún.
Từ đó ta thấy với tất cả tính phức tạp và các mặt tiêu cực xảy ra trên thị trường, việc chuyển sang nền kinh tế thị trường vẫn chưa tới bước tiến bộ về kinh tế hơn hẳn trước đây và tạo ra khả năng dẫn tới các bước ngoặt quyết định. Vì vậy phải tiếp tục thúc đẩy quá trình hình thành và phát triển của thị trường ngày càng thông suốt, đầy đủ và thống nhất trên cả nướ, gắn liền cới thị trường nước ngoài.
Năng suất lao động và thu nhập quốc dân theo đầu người còn thấp, như vậy rõ ràng lá nền kinh tế hàng hoá còn kém phát triển, cơ cấu kinh tế còn mất cân đối, thị trường trong nước chưa phát triển.
Theo số liệu thống kê của ngân hàng thế giới năm 1991 thì mức thu nhập bình quân đầu người ở nước ta so với các nước đang phát triển ở Đông Nam á vào loại thấp nhất. Theo sự dự đoán của các nhà kinh tế Việt Nam thì GNP/người, năm 96’ là 250 USD trong khi đó Singapore là 22520 USD , Thái Lan là 2315 USD , Thụy Sỹ >40000 USD.
Thứ hai: ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế tập trung quan liêu bao cấp.
Chính những nhược điểm lạc hậu của cơ chế này đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế, nó xoá bỏ quan hệ hàng hoá tiền tệ làm nền kinh tế bị “ hiện vật hoá ”. Một cơ chế lệnh kế hoạch, lệnh giá cả, tài chính tiền tệ theo quy tắc cấp phát giao nộp nhằm thực hiện kế hoạch, một cơ chế mà phạm trù giá cả, tài chính, lưu thông tiền tệ là những phạm trù vốn có của kinh tế hàng hoá mà dù có được sử dụng thì cũng chỉ là hình thức – gần như đối lập với nền kinh tế hàng hoá vận động theo cơ chế thị trường. ở mặt quan hệ tổ chức hành chính cơ chế kinh tế ấy là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại điều hành bởi nhiều đầu mối của các ngành chức năng ( công nghiệp , nông nghiệp …), kiểu một dàn nhạc có nhiều nhạc trưởng nên mang tính chất phân tán.
ở mặt quan hệ kinh tế, cơ chế ấy thể hiện quan hệ giao nộp, thu mua cấp phát. Sản xuất và kinh doanh được tiến hành gần như là ở khu vực hành chính sự nghiệp hay hậu cần quân đội tạo đIều kiện cho sự phát triển kinh tế, suy yếu, triệt tiêu động lực phát triển kinh tế, gây hiện tượng ỉ nại, dựa dẫm, lười biếng, tạo môi trường cho lãng phí thất thoát tài sản quốc gia, cản trở việc cải thiện đời sống và phát triển sản xuất.
Vì vậy Đại hội Đảng VII đã khẳng định : “Xoá bỏ triệt để cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, hình thành cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác. Xây dựng và phát triển đồng bộ các thị trường hàng tiêu dùng, vật tư, dịch vụ, tiền vốn, sức lao động …Thực hiện giao lưu kinh tế thông suốt trong nước và với thị trường thế giới”.
d. Thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế Việt Nam sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Xuất phát từ thực trạng của nền kịnh tế nước ta khi chuyển sang kinh tế thị trường theo ta thấy thực chất của quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là quá trình kết hợp giữa chuỷên nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc sang nền kinh tế hàng hoá tiến tới nền kinh tế thị trường và quá trình chuyển cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước.
Lịch sử đã chứng minh rằng không thể chuyển nền sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn “đòn xeo” là nền kinh tế hàng hoá. Chính Mác đã coi sự phát triển của kinh tế hàng hoá là xuất phát điểm và là điều kiện quan trọng nhất không thể thiếu được đối với sự ra đời và phát triển của nền sản xuất lớn TBCN. Về sau khi nội chiến kết thúc Lê Nin cũng chủ trương thi hành chính sách kinh tế mới ( NEP ) để khởi động sự sống động của nền kinh tế, mở rộng giao lưu hàng hoá giữa thành thị và nông thôn, thực hiện các quan hệ kinh tế bằng hình thức quan hệ hàng hoá tiền tệ trên thị trường.
Đối với nước ta quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường có nhưỡng đặc điểm khác với các nước Đông Âu và Liên Xô cũ. Trong khi họ đi lên từ một nền kinh tế phát triển, đã được cơ khí hoá, thoát khỏi tính chất tự nhiên thì chúng ta đi lên từ một nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cấp tự túc, đó cũng là mô hình nền kinh tế chỉ huy với cơ chế kế hoạch hoá tập trung đối lập với thị trường. Do vậy quá trình chuyển nền kinh tế nước ta sang kinh tế thị trường đồng thời cũng là quá trình thực hiện nền kinh tế mở, nhằm hoà nhập với thị trường thế giới.
Trong bối cảnh hiện nay, bài học về sự kết hợp sức mạnh đân tộc với sức mạnh của thời đại trong công cuộc đấu tranh giành độc lập tự do trước đây lại một lần nữa sống động trong công cuộc phát triển đất nước.
Quan hệ quốc tế của ta đã có nhiều đổi mới quan trọng, ta chuyển từ quan hệ đơn phương sang đa phương, quan hệ với tất cả các nước không chỉ với các nước XHCN như trước nữa. Vì vậy mà hoạt động kinh tế đã có những tiến bộ lớn. Xuất khẩu hàng hoá tăng nhanh với nhịp độ 20%/năm ( 1986-1992 ) bảo đảm nhập khẩu các loại vật tư và cônh nghệ chủ yếu, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế. Ta đã nhanh chóng điều chỉnh và khắc phục được những hụt hẫng về nguồn vốn và thị trường từ các nước SNG và Đông Âu. Hàng hoá xuất khẩu của ta đẫ tìm được những thị trường mới trong khu vực Đông Nam á và Tây Âu. nguồn vốn nước ngoài vào Việt Nam cũng tăng nhanh.
Trong khi hoà nhập vào thị trường thế giới và đẩy mạnh hoạt động thương mại cần áp dụng có hiệu quả nguyên tắc lợi thế so sánh. Từ đó để xác định rõ cần sản xuất và cung ứng cho thị trường loại hàng hoá nào, và số lượng bao nhiêu để từ đó xác định quy mô sản xuất.
Những năm gần đây, lợi thế so ssánh của ta đã và đang chú ý và phát huy: đó là sự phong phú của tài nguyên thiên nhiên ( về số lượng loại ), nhuồn nhân lực dồi dào với tiền công thấp và vị trí lãnh thổ thuận lợi. Bên cạnh đó nhà nước lại có chính sách đầu tư hấp dẫn, tạo đIều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài. Ta tiếp tục coi trọng các thị trường truỳên thống, nhanh chóng thâm nhập vào các thị trường mới, mở rộng thị trường khu vực cải tiến cơ cấu suất khẩu theo hướng tăng tỉ trọng các chế biến, giảm tỉ trọng xuất khẩu nguyên liệu tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực như dầu mỏ, nông-lâm-thuỷ-hải sản…phát triển dịch vụ vận tải hàng không, thông tin liên lạc…
Để làm được những vấn đề đó Nhà Nước cần có những chính sách bảo hộ mậu dịch hợp lý nhằm khuyến khích các ngành kinh tế phát triển, thu hút những sản phẩm quý hiếm và sản phẩm khoa học từ bên ngoài, ngăn chặn nhập khẩu những mặt hàng ta có khả năng sản xuất. Đồng thời cần duy trì ổn định về chính trị, kinh tế và xã hội nhằm tạo ra môi trường và hành lang cần thiết cho tất cả các doanh nghiệp trong các thành phần kinh tế hoạt động-thúc đẩy kinh tế hàng hoá phát triển.
2 - Các giai đoạn và biện pháp hình thành kinh tế thị trường theo định hướng XHCN ở Việt Nam:
Quá trình hình thành và phát triển nền kinh tế hàng hoá theo định hướng XHCN ở nước ta là một quan hệ phức tạp, nhiều khó khăn, không nên quan niệm giản đơn và nóng vội cần phải tuân thủ những quy luật của quá trình hình thành và phát triển kinhtế thị trường. Gồm các giai đoạn sau:
+ Giai đoạn quá độ chuyển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phầntheo định hướng XHCN:
Về mặt lịch sử giai đoạn này bắt đầu từ năm 1979 với mốc lịch sử rất quan trọng là nghị quyết BCHTW lần VI ( khoá IV ), tháng 9 năm 1979. Về mặt logic thì bắt đầu từ việc hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá theo đúng nghĩa nhằm tạo ra mối quan hệ vừa tự chủ vừa lệ thuộc lẫn nhau giữa các chủ thể sản xuất. Giai đoạn nằy mang nội dung chủ yếu là khắc phục tính hiện vật trong quan hệ trao đổi, hình thành quan hệ hàng hoá tiền tệ. cùng với nội dung ấy là các giải pháp chủ yếu sau:
- Hình thành và củng cố những đơn vị sản xuất hàng hoá nhằm chuyển quan hệ trao đổi có tính hiện vật sang quan hệ hàng hoá tiền tệ.
- Chuyển quan hệ sở hữu có tính đơn nhất sang quan hệ sở hữu có tính đa dạng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau.
- Đổi mới chính sách kinh tế nhằm chuyển các quan hệ kinh tế theo chiều dọc sang các quan hệ kinh tế theo chiều ngang.
+ Giai đoạn phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN:
Đại hội III của Đảng năm 1986 đã đặt nền móng vững chắc cho quan đIểm phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN ở nước ta. Quan đIểm này đã được tái khẳng định rõ hơn ở Đại hội lần thứ VII, VIII của Đảng ta. Gắn với giai đoạn này là nội dung : phát triển và mở rộng quan hệ hàng hoá, tiền tệ tạo đIều kiện cho kinh tế hàng hoá phát triển. Cùng những giải pháp chủ yếu:
- Chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo định hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để đảm bảo sự tăng trưởng và phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ổn định của hệ thống kinh tế quốc dân cũng như ổn định chính trị xã hội. Thúc đẩy ngành trọng đIểm mũi nhọn tạo sự tích luỹ đồng bộ để thu hút được nguồn vốn đầu tư từ bên ngoài vào tạo công ăn việc làm cho người lao động.
- Chủ động tạo điều kiện cần thiết để xây dựng đồng bộ các yếu tố của thị trường, phát huy những ưu thế và động lực của thị trường đồng thời hạn chế những mặt tiêu cực của cơ chế thị trường.
Hiện nay ở nước ta thị trường đầu ra của sản xuất, khả năng cạnh tranh của hàng nội địa còn kém nên cần nâng cao chất lượng sản phẩm và phấn đấu giảm giá cả hàng hoá.còn ở thị trường đầu vào của sản xuất cần hình thành nhanh chóng thị trường tiền vốn và thị trường lao động. Sở dĩ cần như vậy là vì trình độ thị trường là phản ánh trình độ phát triển của cơ chế hàng hoá, thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển hơn. Nó vừa là đIều kiện vừa là môi trường của sản xuất
- Hoàn thịên và tăng cừng vận dụng các chính sách tài chính và tiền tệ.
- Bồi dưỡng và đào tạo càn bộ quản lý doanh nghiệp theo yêu cầu của kinh tế thị trường.
- Tăng cường vai trò quản lý của Nhà nước nhằm phát huy những ưa thế khắc phục những khuyết tật của cơ chế thị trường.
+ Giai đoạn hình thành và phát triển kinh tế thị trường theo định hướng XHCN:
Nội dung chủ yếu của giai đoạn này là tiền tệ hoặc các quan hệ kinh tế, tạo lập cơ sở kinh tế cho các quy luật kinh tế của kinh tế thị trường phát huy tác dụng một cách đầy đủ, phát triển kinh tế trong nước và hoà nhập với kinh tế thế giới vơí các giải pháp là:
- Phát triển cơ cấu kinh tế mở nhằm hiện đạI hoá nền kinh tế quốc dân.Đâ là giải pháp mang tính thời đại.Dựa trên lợi thế so sánh và chủ quyền nước ta.
- Hoàn thiện và phát triển kinh tế thị trường và các yếu tố sản xuất nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn, sức lao động và các đIều kiện vật chất khác cho sản xuất.
- Thiết lập cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước-giải pháp quyết định đến sự hình thanh và phát triển nền kinh tế thị trưởng nước ta.
- Lựa chọn chính sách khoa học, công nghệ vì mục tiêu phát triểnnhằm khắc phục sự khan hiếm các nguồn lực đưa nền kinh tế phát triển theo chiều sâu, trong đólao đọng trí tuệ trở thành đặc trưng nổi bật. Như vậy phải đòi hỏi có một đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật đông đảo và tài năng, tận tuỵ với sự nghiệp xây dựng đất nước.
Nói tóm lại,để thành công trong quá trình hình thành xây dựng và phát triển nền kinh tế thị trường vận hành theo cơ chế thị trường ở nước ta cần theo đúng trình tự cộng các giai đoạn và giải quyết tốt các yêu cầu đặt ra để phát triển một cách toàn diện, tránh những thất bại không đáng có.
3. Một số kết quả đạt được từ khi đổi mới cơ chế ở nước ta:
Sau hơn 10 năm thực hiện việc chuyển đổi cơ chế kinh tế từ cơ chế kế hoạch tập trung sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi về mọi mặt của nền kinh tế-xã hội nước ta.
Về nông nghiệp: Những năm 80 sản xuất nông nghiệp bị cản trở do không khuyến khích đối với hoạt động tư nhân, cá thể và giá cả bị bóp méo. Từ chỉ thị 150 của ban bí thư (1981) đến nghị quyết 10 của bộ chính trị (1988), nghị quyết trung ương V (khoá 7) tháng 6/1993 và kì họp thứ 3 quốc hội khoá IX đã thông qua luật ruộng đất, giao quyền sử dụng lâu dài cho người dân, cùng với cơ chế một giá theo thị trường với sản phẩm nông nghiệp và mở rộng hình thức tổ chức sản xuất làm thay đổi phương thức canh tác, nâng cao năng suất. Đến nay nông sản phẩm đã có phần dư thừa và đã trở thành một nước xuất khẩu gạo nổi tiếng trên thế giới cùng với ngô, sắn, mía, đường. Tóm lại, chúng ta đã và đang trong giai đoạn thay đổi cơ cấu ngành.
Về công nghiệp: Đã có sự thay đổi cơ cấu kinh tế. Năm 1990 có khoảng 60% sản lượng công nghiệp thuộc về sở hữu nhà nước còn 40% thuộc về khu vực tư nhân và hợp trong khu vực quốc doanh. Giá trị xuất khẩu hàng năm tăng trên 60%,trong đó dầu thô là mặt hàng có kim ngạch lớn nhất hiện nay. Đến năm 2001 sản lượng dầu khai thác được là 17 triệu tấn, với kim ngạch 3,17 tỷ USD. Dự đoán năm 2002 kim ngạch xuất khẩu đạt 2,6 tỷ USD. Ngành dệt may:đã xâm nhạp vào gần 30 nước- đặc biệt cả các thị trường khó tính như EU, Mĩ, Nhật. Năm 2001 giá trị đạt 2,1 tỷ USD. Dự kiến năm 2002 đạt 2,4 tỷ USD.
Về xây dựng cơ bản: Những năm gần đây đã tăng thêm. Xét về cơ cấu thì việc đầu tư trong khu vực Nhà Nước cũng có nhiều điều chưa hợp lý, tỷ lệ đầu tư cho ngành nông nghiệp còn rất ít so với nhu cầu cần thiết. Ta phải vay vốn và cho nước ngoài đầu tư trực tiếp. Các dự án đầu tư nước ngoài chủ yếu vào lĩnh vực thăm dò và khai thác dàu khí, than, vàng, đá quý, sản xuất hàng xuất khẩu, chế biến nông, lâm, hải, sản, xây dựng khác sạn, nhà ở, du lịch,GTVT, bưu chính viễn thông với quy mô không lớn lắm. Gần đây đầu tư cho kết cấu hạ tầng, y tế- giáo dục được quan tâm hơn. Do vậy cán cân thanh toán quốc tế được cải thiện. Tỷ lệ xuất khẩu so với GDP tăng mạnh trong thời kỳ đổi mới. Phần nhập khẩu cũng chỉ nhập những mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất là chính, từ đó tỷ lệ lạm phát giảm, đồng tiền Việt Nam ổn định. Tuy lãi suất tiền gửi có giảm nhưng không gây sự phản ứng trong dân chúng bằng cách rút tiền gửi khỏi ngân hàng, bằng chính sách thuế. Nhà nước cũng tăng được nguồn thu, khắc phục thâm hụt ngân sách.
Tuy vậy vẫn còn mặt trái của cơ chế thị trường mới xuất hiện này. Đó là sự phân hoá giầu nghèo với những khó khăn trong việc phân phối tài nguyên và sản phẩm làm ra, nhiều hành vi trái đạo đức, văn minh (làm hàng giả, gây ô nhiễm ) đang phát triển nhưng chưa đựơc ngăn chặn.
Tóm laị: Sau hơn 10 năm thực hiện cơ chế thị trường nền kinh tế của chúng ta đã đạt được những kết quả vượt trội trong tiến trình phát triển kinh tế như : giải quyết được nạn nghèo đói, đề cao vai trò tiền tệ, giảm đáng kể lạm phát, hàng hoá, dịch vụ đa dạng – phong phú có khả năng tích lũy từ nội tại nền kinh tế, …
Bên cạnh đó còn có những biểu hiện mặt trái của nó ra nền kinh tế xã hội đó là sự phân hoá giầu nghèo, chậy theo nhuận mà bất chấp đạo đức, sự thoái hoá biến chất về lập trường tư tưởng của một số lãnh đạo…
II - Một số giải pháp để tiếp tục giữ vững định hướng XHCN trong phát triển kinh tế của nước ta trong giai đọan tới :
1 - Các biện pháp đảm bảo định hướng XHCN trong phát triển kinh tế:
Phát triển cơ chế thị trường theo định hướng XHCN là một tiến trình phức tạp lâu dài và khó khăn. khi hình thành nền kinh tế thị trường cơ cấu xã hội trở nên phức tạp và khó nắm bắt, đồng thời nếu như không định hướng tốt thì cơ chế thị trường sẽ bị chệch hướng. Do đó để tiếp tục giữ vững định hướng XHCN trong khi đổi mới cơ chế cần thực hiện một số giải pháp cơ bản nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững của toàn bộ nền kinh tế, đồng thời phaỉ giữ đúng hướng đi của nền kinh tế. Giải pháp quan trọng để thực hiện mục tiêu trên chính là việc đề cao vai trò của kinh tế nhà nước, bên cạnh đó là các thành phần kinh tế tư nhân, cá thể được phát triển mạnh, cần phát huy tính tích cực định hướng nền kinh tế của các thành phần kinh tế nhà nước.
Muốn làm được những điều ấy cần:
Một là: Giữ vững quyền sở hữu trong tay nhà nước- chỉ nhà nước là duy nhất có chủ quyền sở hữu toàn bộ lãnh thổ quốc gia.
Hai là: Nhà nước xác định rõ những ngành kinh tế, những lĩnh vực mà kinh tế quốc doanh cần dữ vai trò chủ đạo. Đó là những ngành, những lĩnh vực đảm bảo sự chi phối hoạt động thống nhất của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, đảm bảo cho an ninh quốc gia và an toàn xã hội như: hệ thống cảng biển, sân bay, đường sắt, quản lý mạng lưới đường quốc lộ, hệ thống phân phối đIện quốc gia, liên lạc viễn thông, hệ thống quỹ dự trữ quốc gia, các cơ sở kinh tế phục vụ quốc phòng an ninh, những cơ sở phục vụ công cộng đảm bảo nhu cầu sinh hoạt thường xuyên của nhân dân…
Ba là: Nhà nước đầu tư xây dựng mạnh các xí nghiệp quốc doanh khẳng định cần tồn tại để mau chóng vượt lên và đứng vững trên thị trường, cơ sở vật chất, trang thiết bị công nghệ, tổ chức quản lý sản xuất của các xí nghiệp quốc doanh được đầu tư xứng đáng từ đó đứng vững trong cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân.
Bốn là: Hỗ trợ việc xây dựng và hoạt động của kinh tế HTX trong các ngành và lĩnh vực kinh tế với đa dạng hình thức tổ chức và hoạt động bảo đảm đúng với các nguyên tắc hợp tác vì lợi ích tập thể.
Năm là: Tổ chức lại hệ thống thương nghiệp quốc doanh và HTX mua bán nhằm cung ứng hàng hoá và tiêu thụ sản phẩm cho các vùng miền núi và trung du, các vùng đồng bào đân tộc ít người, xa xôi hẻo lành, hải đảo…để đảm bảo công bằng xã hội và các mục tiêu kinh tế – xã hội – chính trị trong phát triển, bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Sáu là: Có các chính sách kích thích cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư đổi mới trang thiết bị công nghệ. Từ đó nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ. Đồng thời có những chính sách ngăn chặn những hoạt động làm hàng giả, hàng kém phẩm chất cấm nhập thiết bị công nghệ cũ – thuộc diện đào thải của nước ngoài.
Bảy là: Thực hiện hệ thống chính sách xã hội để hạn chế bớt những tác động xấu của kinh tế thị trường đến đời sống của các tầng lớp nhân dân, đảm bảo xã hội đối với từng đối tượng lao động, chính sách ưu đãi với những người có công với đất nước, chính sách bảo trợ xã hội với những người có nhiều khó khăn thua thiệt vì tật nguyền,cô đơn vô gia cư,những dân tộc ít người…
Tám là: Xây dưng và tuyên truyền giáo dục thự hiện các hành vi và thái độ ứng xử có văn hoá, đạo đức lành mạnh trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, phục vụ, quản lí đời sống xã hội.
Những biện pháp vừa đảm bảo yêu cầu trong đường lối lãnh đạo của Đảng, trong chức năng quản lý của nhà nước vừa đáp ứng được mong muốn của mọi người dân được sống ngày càng hạnh phúc trong xã hội có kinh tế phát triển, dân giàu nước mạnh xã hội công bằng văn minh định hướng XHCN được giữ vững.
Tuy nhiên để các biện pháp này được thực hiện một cách triệt để và có hiệu quả thì cần đề cao vai trò quản lý của nhà nước trong quá trình thực hiện định hướng XHCN.
2. Vai trò quản lý của nhà nước theo định hướng XHCN:
Trước đây do sai lầm về nhận thức, ta gắn kinh tế thị trường với CNTB là đối lập với kế hoạch hoá và áp dụng máy móc mô hình quản lý kinh tế tập trung, bỏ qua con đường sản xuất hàng hoá và duy trì khá dài kiểu sản xuất tự cung tự cấp. Việc trao đổi hàng hoá bị hạn chế trong phạm vi quốc gia và giữa các nước XHCN với nhau dẫn đến khủng hoảng kinh tế. Đó chính là lý do vì sao ta cần phải đổi mới và kết quả ban đầu của sự đổi mới khẳng định sự sáng tạo của toàn dân ta và tư duy của Đảng.
CNXH là ước mơ của dân ta từ lâu và là ý tưởng của Đảng, nó bao trùm trong cấu trúc về chính trị – kinh tế – xã hội, không để tách bạch những đặc trưng của nó trong hệ thống mục tiêu, cơ cấu và cơ chế kinh tế mà chúng ta hướng tới: đó là dân giàu, nước mạnh xã hội công bằng, văn minh và dân chủ.
Giai đoạn hiện nay ở nước ta vừa phải có tốc độ tăng trưởng kinh tế vừa phải giải quyết chống nghèo nàn và thất nghiệp. Do đó các nhân tố xã hội phải thường xuyên giải quyết đi liền với các nhân tố kinh tế để đảm bảo tốc độ tăng trưởng kinh tế. Phát triển kinh tế là nguồn gốc của cho sự phát triển xã hội và ngược lại, phát triển xã hội chính là động lực cho sự phát triển kinh tế.
Nhà nước cần đIều chỉnh các hình thức sở hữu và cách phân phối sẽ tạo ra một cơ chế kinh tế mới trong nền kinh tế nước ta. Đồng thời phải đầu tư phát triển các doanh nghiệp cùng các thành phần kinh tế khác để hỗ trợ, giảI quyết việc làm góp phần giải quyết việc làm và làm phát triển kinh tế. HTX phải được phát triển trên nguyên tắc tự nguyện, cộng đồng dưới dạng cổ phần và liên doanh…, kinh tế tư nhân được phát triển bình đẳng và có thể đan xen vào các thành phần kinh tế khác.
Quá trình vận nền kinh tế ở nước ta sẽ tạo một cơ cấu kinh tế mới, cơ cấu đó có một phần do tự đIều chỉnh và một phần do Nhà Nước đIều tiết để có sự ổn định và cân bằng mới. Đặc tính của cơ cấu kinh tế này là nó phải thể hiện được tính xã hội hoá ngày càng cao, tính cộng đồng trong sản xuất, kinh doanh ngày càng mở rộng, quy mô các loại và công trình công cộng ngày càng lớn và được sử dụng có hiệu quả gắn chặt với tốc độ phát triển kinh tế.
Nhằ Nước với chức năng của mình sẽ góp phần tích cực tạo lập, nuôi dưỡng và quản lý nền kinh tế là đặc trưng quan trọng trong cơ chế thị kinh tế trường ở nước ta, đảm bảo công bằng, ổn định và tăng trưởng.
Cơ chế thị trường có khả năng tự điều chỉnh nền kinh tế phát triển nhưng nó có những khuyết tật là sự phân biệt giàu nghèo, môi trường và phúc lợi xã hội. Bởi vậy cần có sự can thiệp của nhà nước để kinh tế phát triển theo đúng hướng của nó.
Nhà nước ta được hình thành và phát triển do quá trình đấu tranh cách mạng của nhân dân ta, nhà nước đó phải mưu cầu hạnh phúc cho dân tộc. Bởi vậy nó phải đóng vai trò bà đỡ giúp cho thị trường phát triển đúng hướng bằng hệ thống pháp luật bảo vệ quyền tự do, dân chủ,sự công bằng xã hội.
Chúng ta đi vào nền kinh tế thị trường có nhiều thử thách nhưng cũng có những thuận lợi và cơ hội tốt. Hiện tại sự cách biệt trong nền kinh tế nước ta giữa các tầng lớp dân cư là không quá lớn, khoảng chách giữa giàu và nghèo là không quá xa. Cần khuyến khích mọi người làm giàu một cách chân chính, cấm sự phi đạo đức ảnh hưởng đến đời sống của toàn xã hội.
Quá trình chuyển nền kinh tế ta vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước theo định hướng XHCN là kết quả lao động trí tuệ do quần chúng nhân dân sáng tạo dưới sự lãnh đạo của Đảng ta. Con đường đI lên còn phải trải qua nhiều thử thách và cam go nhưng đoàn kết trong cộng đồng đân tộc sẽ tạo ra sự phát triển và ổn định về mọi mặt. Đó là nhân tố để phát triển bền vững đất nước ta.
III - Kết luận chung :
Việt Nam hiện nay trong giai đoạn quá độ lên CNXH đó là một thời kỳ phức tạp và đầy biến động, một thời kỳ xây dựng cơ sở vật chất hạ tầng cho CNXH để hoàn thành cách mạng dân dân chủ.
Với điểm xuất phát thấp, điều kiện kinh tế khó khăn và có nhiều trở ngại. Muốn phát triển kinh tế bền vững ta thực hiện nền kinh tế hàng hoá là một bước ngoặtquan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một tất yếu và cần thiết. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã xuất hiện nhiều khó khăn, phức tạp và đã tác động đến mặt xã hội nói chung. Để hạn chế những tác độnh tiêu cực này ta cần định hướng cho nền kinh tế phát triển, buộc nó phải đi theo con đường mà chúng ta lựa chọn là xây dựng CNXH. Chính vì vậy chính sách phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự định hướng XHCN là một yêu cầu cấp thiết và hợp lý của quy luật phát triển, nó thể hiện tư tưởng tiến bộ, sáng suốt của Đảng. Trong khi thực hiện từng bước sự chuyển đổi này chúng ta phải giữ vững định hướng XHCN, đứng ngang tầm với mục tiêu phát triển kinh tế. Muốn vậy cần phải ngày càng hoàn chỉnh bộ máy Nhà Nước, hoàn thiện hệ thống pháp luật, đảm bảo đưa nước ta đi theo con đường XHCN như đã chọn.
Là một sinh viên kinh tế – một cử nhân kinh tế tương lai, em tự nhận thấy rằng cần phải học tập tốt môn KTCT để nhận thức tốt quá trình hình thành, vận động và phát triển của nền kinh tế thị trường- nền kinh tế của chúng ta hiện nay.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 33699.doc