Khoá luận tốt nghiệp 66
Cao Nam Hải - Lớp Nga - K38
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp để hội nhập thành công đòi hỏi phải có những biện pháp đồng bộ, bao gồm cả việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa thích hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái của từng vùng, từng địa phương, trong đó có việc chuyển đổi ruộng đất theo hướng “đổi điền, dồn thửa” cho quy mô sản xuất ít manh mún hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải phát triển hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thuỷ lợi. để thâm canh tăng năng suất, giúp nền nông nghiệp nước nhà phát triển mạnh, đủ khả năng hội nhập thành công và có lợi nhất vào nền nông nghiệp ASEAN cũng như của toàn thế giới.
37 trang |
Chia sẻ: Kuang2 | Lượt xem: 811 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do Asean - Afta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uất 0%, vì vậy thuế suất nhập khẩu không còn là yếu tố tác động quyết định tới khả năng xuất khẩu cà phê của nước ta vào thị trường này, mà yếu tố quan trọng cần chú ý là chất lượng sản phẩm, giá cả và nhu cầu thị trường đối với từng chủng loại cà phê cụ thể. Do đó, để đẩy mạnh xuất khẩu mặt hàng này vào các nước ASEAN trong thời gian tới, ngành sản xuất cà phê nước ta cần phải có những chuyển đổi mạnh mẽ về giống, chất lượng, chủng loại hàng cà phê xuất khẩu (tăng lượng xuất khẩu cà phê chè, giảm lượng xuất khẩu cà phê vối), chú trọng phát triển công nghiệp chế biến mới có thể tăng khả năng cạnh tranh với sản phẩm cùng loại của các nước khác, từ đó chiếm lĩnh và mở rộng được thị trường xuất khẩu tăng thu ngoại tệ về cho đất nước.
Bảng 6: Xuất khẩu cà phê Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm
Lượng (tấn)
Giá trị (1000 USD)
% trong tổng KNXK cà phê
1996
89.168
120.337
30,1
1997
116.688
146.944
29,8
1778
76.109
118.800
20,0
1999
79.699
62.293
16,5
2000
81.700
58.886
11,7
2001
56.509
23.587
6,0
2002
46.703
20.930
6,5
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
- Đối với hạt tiêu:
Xuất khẩu hạt tiêu của Việt nam mới nổi lên từ giữa những năm 90. Từ đó đến nay, diện tích trồng hồ tiêu không ngừng được mở rộng và đạt 28.000 ha năm 2001. Sản phẩm hồ tiêu của chúng ta được sản xuất ra chủ yếu dành cho xuất khẩu (95%), tiêu dùng nội địa chỉ chiếm tỷ lệ không đáng kể (khoảng 5%).
Hạt tiêu xuất khẩu của Việt Nam (chủ yếu là dưới dạng thô hoặc sơ chế) đang chiếm lĩnh thị trường hồ tiêu thế giới với sản lượng xuất khẩu tăng từ 10.000 tấn lên 56.000 tấn trong thời kỳ 1990-2001, đạt kim ngạch khoảng 90 triệu USD. Hiện nay, tuy không phải là nước sản xuất hồ tiêu lớn nhất, nhưng Việt Nam lại là nước xuất khẩu hàng đầu trên thế giới về mặt hàng này.
Bảng 7: Xuất khẩu hạt tiêu của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm
Lượng (tấn)
Giá trị (1000 USD)
% trong tổng KNXK hạt tiêu
1998
0
0
0
1999
21.444
83.400
60,9
2000
14.500
57.489
39,4
2001
17.891
28.153
29,0
2002
16.170
22.680
21,0
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Từ năm 1999, Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu hồ tiêu sang các nước ASEAN, chủ yếu là sang Xingapo, Lào, Malaysia, Thái Lan nhờ có giá xuất khẩu thấp hơn so với hồ tiêu ấn Độ. Nhưng điều đáng lưu ý hiện nay là sản lượng hồ tiêu xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN đang giảm dần do nhu cầu về mặt hàng điều ở các thị trường này tăng chậm, dẫn đến mức cung tăng lên làm cho giá cả sụt giảm nghiêm trọng. Mặt khác, trong số các nước nhập khẩu hồ tiêu chủ yếu của Việt Nam thì hầu hết đã giảm thuế nhập khẩu xuống còn 0%-5% (trừ Thái Lan vẫn còn duy trì thuế MFN 30% đối với hồ tiêu Việt Nam), do đó hy vọng tăng xuất khẩu nhờ giảm thuế heo CEPT/AFTA là không nhiều. Để khắc phục tình trạng trên, một mặt chúng ta phải tăng cường công tác chế biến thành phẩm, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu để giữ vững thị phần đã xác lập được; mặt khác chúng ta cũng phải quy hoạch lại diện tích gieo trồng loại cây này, chuyển đổi những diện tích không hiệu quả sang canh tác các loại cây trồng có giá trị gia tăng và khả năng xuất khẩu cao hơn.
- Đối với hạt điều:
Việt Nam có nhiều thế mạnh và điều kiện thuận lợi cho sản xuất và xuất khẩu hạt điều, và thực sự cây điều đã xác định được vị thế của mình trong sản xuất nông nghiệp nói chung và xuất khẩu nông sản của đất nước nói riêng. Hiện nay thị trường xuất khẩu điều chủ yếu của Việt Nam là: Châu Âu, Châu Mỹ, Trung Quốc và Nhật Bản. Một số nước ASEAN như: Lào, Xingapo, Malaysia có nhập điều của nước ta nhưng với khối lượng không nhiều.
Bảng 8: Xuất khẩu hạt điều của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm
Lượng (tấn)
Giá trị (1000 USD)
% trong tổng KNXK hạt điều
1996
2.173
9.617
12,7
1997
463
1.729
1,3
1778
87
381
0,3
1999
64
300
0,3
2000
200
895
0,5
2001
218
580
0,41
2002
238
801
0,38
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Hiện nay các nước ASEAN đang áp dụng mức thuế suất nhập khẩu điều của Việt Nam từ 5%-15%, do đó trong tương lai khi CEPT/AFTA hoàn thành, khả năng xuất khẩu mặt hàng này sẽ tăng lên. Để tăng giá trị xuất khẩu của sản phẩm điều trong thời gian tới, Việt Nam cần đặc biệt chú ý tới việc đổi mới cơ cấu giống cây trồng, tập trung trồng điều thâm canh đi đôi với nâng cao chất lượng điều tinh chế, cải tiến mẫu mã, bao bì, đa dạng hoá các sản phẩm từ điều để góp phần mở rộng thị phần của sản phẩm điều xuất khẩu nước ta trên thị trường khu vực ASEAN và quốc tế.
Thứ hai, nhóm có khả năng thâm nhập trung bình vào thị trường các nước ASEAN:
- Đối với cao su:
Trên thị trường cao su thế giới thị phần của các nước Thái Lan, Inđônêxia, Malaysia chiếm tới 80%, trong khi thị phần của Việt Nam mới đạt khoảng 5%. Sản xuất cao su trong nước của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, năng suất thấp, chất lượng, chủng loại sản phẩm chưa phong phú, khả năng tiếp cận trực tiếp khách hàng còn yếu, do đó giá cao su xuất khẩu của Việt Nam thường thấp hơn so với các nước trong khu vực. Trong khối ASEAN cao su của Việt Nam nhìn chung chỉ xuất được sang các nước Campuchia, Lào, Malaysia và Xingapo, nhưng với kim ngạch không ổn định.
Bảng 9: Xuất khẩu cao su của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm
Lượng (tấn)
Giá trị (1000 USD)
% trong tổng KNXK cao su
1996
18.456
24.691
9,4
1997
44.464
37.504
19,7
1778
27.951
14.578
11,4
1999
71.367
38.500
26,2
2000
43.800
21.576
13,0
2001
59.891
28.264
17,7
2002
25.120
49.970
19,0
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Các nước nhập khẩu cao su của Việt Nam hiện đang áp dụng thuế suất 0%, trong khi xu hướng xuất khẩu cao su các nước ASEAN không ổn định cho thấy nước ta khó có khả năng xuất khẩu cao su sang thị trường này nếu không thay đổi về cơ cấu sản phẩm xuất khẩu mặt hàng này.
- Đối với sản phẩm chè:
Việt Nam tuy không phải là nước xuất khẩu chè lớn trên thế giới (chỉ chiếm khoảng 2-3% khối lượng chè buôn bán trên thế giới, trong khi các nước Sri-Lanka, Kênia, Trung Quốc, ấn Độ chiếm tới 2/3 thị trường chè xuất khẩu của thế giới), nhưng lại có lợi thế về chè xanh. Do đó, trong thời gian qua khối lượng chè xuất khẩu của nước ta tăng nhanh từ 20 nghìn tấn (năm 1990) lên 56 nghìn tấn (năm 2000) và 58 nghìn tấn (năm 2001), đạt kim ngạch 66 triệu USD.
Trong thị trường ASEAN, chè của Việt Nam đang bị cạnh tranh gay gắt bởi chè của Inđônêxia cả về giá cả lẫn chất lượng (năng suất chè của Việt Nam đạt 1 tấn chè chế biến/ha, bằng 50% năng suất của Inđônêxia, trong khi chè của Inđônêxia đã xác lập được tên tuổi trên nhiều thị trường, đặc biệt là Nga và Trung Đông).
Bảng 10: Xuất khẩu chè của Việt Nam sang ASEAN
Năm
Lượng (tấn)
Giá trị (1000 USD)
% trong tổng KNXK chè
1996
1.161
1.422
4,9
1997
434
599
1,2
1778
666
598
1,2
1999
1.810
1.700
3,8
2000
3.500
2.866
4,1
2001
3.600
2.871
4,5
2002
2.820
3.149
4,7
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Các nước ASEAN nhập khẩu chè chính của Việt Nam gồm có: Xingapo, Inđônêxia, Malaysia với thuế nhập khẩu là 0-5% (của Xingapo và Inđônêxia) và 15-60% (với các nước khác). Một điều đáng lưu ý là các nước ASEAN nhập khẩu chè của Việt Nam không phải để tiêu dùng trong nước mà để chế biến sâu, đóng gói nhãn mác các nước này để xuất khẩu sang nước thứ ba nên lượng nhập khẩu không ổn định mà thay đổi theo nhu cầu thị trường các nước đối tác của họ. Các nước có thuế nhập khẩu cao (Thái Lan và Myanma) lại không nhập chè của nước ta do chất lượng và chủng loại chè của ta không đáp ứng được thị hiếu tiêu dùng trong các nước này. Chính vì thế, khả năng mở rộng xuất khẩu chè sang các nước ASEAN để hưởng lợi từ CEPT/AFTA là rất ít, trừ khi chúng ta nâng cao được chất lượng, đáp ứng đúng, đủ về chủng loại và thị hiếu tiêu dùng chè của bạn.
- Đối với mặt hàng rau quả:
Rau quả của Việt Nam sản xuất hàng năm với khối lượng lớn (khoảng 5 triệu tấn rau và 6 triệu tấn quả), chủ yếu được tiêu dùng dưới dạng tươi. Số lượng xuất khẩu chỉ chiếm khoảng 15% sản lượng sản xuất hàng năm. Năm 2001, Việt Nam xuất khẩu một số sản phẩm chủ yếu gồm: dứa, chuối, xoài, dưa hấu, nhãn, thanh long, chôm chôm, bắp cải, dưa chuột, cà chua, đậu, xúp lơ, ớt ..., đạt kim ngạch 330 triệu USD.
Thị trường xuất khẩu lớn của Việt Nam hiện nay là các nước Trung Quốc, Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Xingapo, Inđônêxia, Campuchia, Lào.
Bảng 11: Xuất khẩu rau quả của Việt Nam sang các nước ASEAN
Năm
Giá trị (1000 USD)
% trong tổng KNXK rau quả
1996
26.393
29,3
1997
4.907,6
6,9
1778
8.551,9
16,0
1999
21.110,2
20,0
2000
7.600,8
3,6
2001
10.049
3,3
2002
5.628
2,8
Nguồn: Tổng cục Hải quan.
Mặc dù hiện nay các nước ASEAN nhập khẩu rau quả của Việt Nam vẫn chưa nhiều, số lượng không ổn định và chưa đúng với nhu cầu tiềm năng trong các nước này, nhưng thị trường ASEAN thực sự là một thị trường hứa hẹn đối với rau quả nước ta nếu chúng ta biết khai thác triệt để lợi thế so sánh về sự đa dạng của khí hậu của đất nước.
Thứ ba, nhóm có khả năng thâm nhập thấp hoặc bị đe doạ mất thị phần do các sản phẩm nhập khẩu từ các nước ASEAN khác:
Điểm yếu nhất của nhóm hàng này là công nghệ chế biến lạc hậu, mà bản thân việc chuyển đổi cơ cấu trong ngành nông nghiệp không thể giải quyết triệt để vấn đề. Muốn khắc phục tình trạng trên, khâu chốt yếu là phải đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đảm bảo ưu đãi thoả đáng cho các nhà đầu tư vào lĩnh vực chế biến nông phẩm hàng hoá. Công việc này sẽ có ý nghĩa quyết định đến việc bảo vệ thị trường nội địa bằng chính năng lực cạnh tranh của hàng nông sản chế biến trong nước.
3. Đánh giá tổng hợp khả năng cạnh tranh của một số mặt hàng nông sản chính của Việt Nam trên thị trường ASEAN
Theo các phân tích đã trình bày ở trên về khả năng cạnh tranh và thâm nhập thị trường của một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ đạo của Việt Nam so với các mặt hàng tương tự từ các nước ASEAN khác, chúng ta có thể nhận định một cách tổng quát rằng: nhìn chung, khi CEPT/AFTA hoàn thành (đồng nghĩa với hàng rào bảo hộ bằng các công cụ thuế quan sẽ được hạ xuống rất thấp (bình quân là 5%), hàng rào phi thuế quan cũng được giảm dần xuống mức có thể chấp nhận được trong các nước thành viên ASEAN) các nông phẩm xuất khẩu chính của nước ta như: gạo, cao su, cà phê, điều...sẽ có thêm những thuận lợi mới, thời cơ mới để mở rộng hơn nữa thị trường xuất khẩu trong khu vực, gia tăng cả về khối lượng lẫn giá trị kim ngạch xuất khẩu.
Mặc dù, hàng nông sản của chúng ta cũng sẽ phải đối mặt với không ít thách thức, trở ngại không dễ vượt qua, đặc biệt là đối với những mặt hàng đã qua chế biến do nhiều nguyên nhân như: trình độ công nghệ chế biến lạc hậu, mức độ áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào trồng trọt, chăn nuôi còn rất thấp, công tác quy hoạch thiếu khoa học, đồng bộ, cơ cấu ngành nông lâm ngư nghiệp cũng như cơ cấu nội bộ ngành (cơ cấu cây trồng, vật nuôi), cơ cấu vùng còn chưa hợp lý, thiếu các chiến lược, sách lược hiệu quả để phát triển ngành nông nghiệp cho phù hợp với xu thế hội nhập khu vực và quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp. Để khắc phục những tồn tại kể trên, đáp ứng yêu cầu phát triển cân đối, vững chắc, đẩy mạnh xuất khẩu và hội nhập của ngành nông nghiệp trong giai đoạn tới, một vấn đề quan trọng, cấp thiết cần sớm được giải quyết đó là việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp cho hợp lý, tập trung phát huy lợi thế so sánh của đất nước căn cứ trên nhu cầu của thị trường, tạo ra các sản phẩm xuất khẩu chủ lực làm đầu tầu kéo nền nông nghiệp nước nhà vững bước phát triển theo xu hướng hội nhập và mở cửa trong tương lai gần. Nói một cách cụ thể hơn, trong thời gian tới chúng ta phải có sự điều chỉnh hợp lý cơ cấu sản xuất ngành nông - lâm - ngư nghiệp theo hướng tăng tỷ trọng giá trị và sản lượng các ngành lâm sản và thuỷ sản cho tương xứng với tiềm năng của một đất nước với hơn 3.200 km bờ biển và sông ngòi dầy đặc, một đất nước với 2/3 diện tích rừng núi nhiệt đới và bán nhiệt đới. Trong nội bộ ngành nông nghiệp tỷ trọng ngành chăn nuôi phải tăng lên 20-25% trong vòng 10 năm tới đồng thời với việc giảm tỷ trọng ngành trồng trọt. Tuy nhiên một số hàng hoá xuất khẩu chủ lực đang có ưu thế vẫn nên tiếp tục được chú trong nâng cao chất lượng sản phẩm sản xuất ra, đặc biệt là công tác chế biến để nâng giá trị gia tăng của sản phẩm xuất khẩu. Cụ thể với từng mặt hàng xuất khẩu chủ lực hiện nay sẽ được trình bày trong Phụ lục 2.
III. thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt nam trong giai đoạn vừa qua
1. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng)
Giá trị sản lượng của ngành nông lâm ngư nghiệp trong hơn một thập kỷ qua đã tăng gấp đôi, trong đó ngành ngư nghiệp có tốc độ tăng nhanh nhất (hơn 3 lần), ngành nông nghiệp tăng 1,8 lần và ngành lâm nghiệp có tốc độ tăng chậm nhất (đạt 1,3 lần).
Trong nội bộ ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng (gồm: nông - lâm - ngư nghiệp), tỷ trọng của ngành ngư nghiệp (hay ngành thuỷ sản) tăng nhanh từ 10,86% năm 1990 lên 18,77% năm 2002. Điều này cho thấy ngành ngư nghiệp đang phát huy được thế mạnh của mình, khai thác được tiềm năng cả về nuôi trồng cũng như đánh bắt để sản xuất ra các hàng hoá đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng nhất là của thị trường xuất khẩu.
Cơ cấu giá trị ngành lâm nghiệp vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ (gần 5%) và có xu hướng giảm dần, cho thấy ngành lâm nghiệp chưa vươn lên ngang tầm của một đất nước với 2/3 lãnh thổ là rừng núi.
Tỷ trọng của ngành nông nghiệp tuy có giảm nhưng vẫn còn lớn (gần 80%). Điều này cho thấy, việc chuyển dịch cơ cấu nông - lâm - ngư thời gian qua còn chậm, sản xuất nông nghiệp thuần vẫn còn khá phổ biến trên cả nước.
Bảng 12: Cơ cấu giá trị ngành nông - lâm - ngư nghiệp (%)
Năm
1990
1995
1999
2000
2001
2002
Nông nghiệp
82,51
81,60
81,17
80,70
77,96
76,90
Lâm nghiệp
6,63
4,99
4,43
4,22
4,64
4,33
Ngư nghiệp
10,86
13,41
14,39
15,08
17,40
18,77
Toàn ngành NLN
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
100.00
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr.206
Đi sâu phân tích cơ cấu sản xuất của từng ngành riêng biệt cho thấy:
1.1. Cơ cấu ngành nông nghiệp
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, cơ cấu trồng trọt, chăn nuôi đã có sự điều chỉnh theo xu hướng giảm tỷ trọng ngành trồng trọt, tăng tỷ trọng ngành chăn nuôi. Tuy nhiên quá trình này diễn ra rất chậm chạp, trồng trọt vẫn là ngành sản xuất quan trọng, chiếm tới 80% giá trị sản lượng của ngành. Chăn nuôi vẫn chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vị trí của mình.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp, năm 2002 sản lượng thóc sản xuất ra đạt gần 34 triệu tấn, tăng thêm 1,5 triệu tấn so với năm 2001 và gấp đôi so với năm 1986. Sản lượng lương thực có hạt đạt gần 33,6 triệu tấn, tăng 4,6% so với năm 2001. Giá trị sản xuất của ngành chăn nuôi tăng 5,4% so với năm trước, trong đó giá trị chăn nuôi gia súc và gia cầm tăng 7%, sản phẩm chăn nuôi không qua giết mổ tăng 8,2%, sản lượng sữa tươi tăng gần 40%.
Bảng 13: Cơ cấu ngành nông nghiệp (%)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Trồng trọt
80,51
80,18
80,04
81,75
81,05
80,19
79,93
78,50
Chăn nuôi
19,49
19,82
19,96
18,85
18,95
19,81
20,27
21,50
Tổng
100
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr.201
Trong chăn nuôi đại gia súc, năm 2002 có trên 2,8 triệu con trâu, 41 triệu con bò (tăng nhẹ so với năm 2001). Đàn lợn tăng 6,4% so với năm 2001, đạt 23,2 triệu con. Đàn gia cầm tăng 6% đạt 233 triệu con so với 216 triệu con của năm 2001. Sản lượng thịt lợn hơi xuất chuồng đạt 2,2 triệu tấn, tăng 8,9% so với năm trước. Sản lượng trứng đạt 4,7 tỷ quả, tăng 1,34% so với năm 2001.
Trong ngành trồng trọt, mặc dù giá trị sản xuất của ngành kỳ 1995-2002 tăng gần 40% từ 66.183,4 tỷ đồng lên 96.933,1 tỷ đồng, nhưng cơ cấu giá trị ngành này trong 7 năm qua vẫn chậm được điều chỉnh. Lương thực vẫn là cây trồng chính, chiếm tỷ trọng lớn, tuy có giảm nhẹ. Tỷ trọng giá trị cây công nghiệp tăng đều, đạt 1/4 tổng giá trị ngành trồng trọt, cho thấy cây công nghiệp đang dần xác định được vị thế của mình trong ngành này. Như vậy, chuyển đổi cơ cấu cây trồng tuy đã đã đạt được những thành tựu đáng kể nhưng còn khá chậm so với yêu cầu đề ra và vẫn chưa thích ứng với nhu cầu của thị trường.
Bảng 14: Cơ cấu giá trị ngành trồng trọt (%)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Lương thực
63,63
64,13
62,55
63,47
63,58
63,35
59,62
59,61
Rau đậu
7,53
7,31
7,30
7,35
7,17
6,78
7,40
7,41
Cây công nghiệp
18,36
18,39
19,53
19,46
20,47
20,53
24,69
24,46
Cây ăn quả
8,43
8,17
8,23
7,88
7,47
7,64
6,76
6,94,
Cây khác
2,06
2,00
2,38
1,84
1,32
1,96
1,63
1,58
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 659
Trong hơn một thập kỷ qua, tổng diện tích đất nông nghiệp nước ta đã tăng từ 9,04 triệu ha năm 1990 lên 12,66 triệu ha năm 2002 (với tốc độ tăng bình quân 3%/năm). Trong đó diện tích cây hàng năm mà chủ yếu là cây lương thực tăng chậm (2%/năm) (Xem phụ lục 3) là do trong những năm qua, bà con nông dân đã ứng dụng nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhất là giống mới năng suất cao vào sản xuất, nên vẫn duy trì được tốc độ tăng sản lượng lương thực, không chỉ đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng trong nước mà còn tăng được khối lượng xuất khẩu. Một nguyên nhân khác khiến diện tích cây lương thực tăng chậm là do giá cả lương thực trên thị trường biến động thất thường, gây bất lợi cho người sản xuất.
Diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng lên nhanh chóng với tốc độ bình quân 8%/năm, đưa diện tích cây công nghiệp lâu năm tăng gấp đôi từ 657 ngàn ha (năm 1990) lên 1504 ngàn ha (năm 2002). Nguyên nhân chính dẫn đến diện tích cây lâu năm nhất là cây công nghiệp lâu năm và cây ăn quả tăng nhanh trong thời kỳ 1990-2002 là do có thị trường tiêu thụ sản phẩm. Tuy nhiên, do việc phát triển diện tích một số loại cây công nghiệp ồ ạt, không tính đến nhu cầu thị trường nên đã dẫn đến cung vượt cầu làm giá nông phẩm giảm nhanh chóng, nhiều diện tích đầu tư trồng mới không được chăm sóc, gây lãng phí rất lớn về vốn, nhân lực và chi phí cơ hội.
Sự thay đổi về cơ cấu diện tích đất dành cho các loại cây trồng cũng cho thấy xu hướng giảm tỷ trọng diện tích dành cho cây hàng năm từ 90% (năm 1990) xuống 83% (năm 2002), trong khi tỷ trọng diện tích cây lâu năm tăng từ 10% lên 17% trong cùng kỳ. Đồng thời với đó là xu hướng tăng tỷ trọng của ngành cây công nghiệp, giảm tỷ trọng của ngành cây lương thực. (Xem phụ lục số 4)
Đây là xu hướng mà nhiều nước trong khu vực ASEAN đã trải qua khi chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của họ trong quá trình hội nhập vào AFTA.
Cụ thể, tỷ trọng của ngành cây lương thực giảm nhanh từ 67,11% (năm 1990) xuống 59,52% (năm 2002). Tỷ trọng giá trị sản xuất rau, đậu không tăng và vẫn giữ ở mức 7%. Tỷ trọng giá trị cây ăn quả giảm dần từ 10,14% xuống 6,76% trong cùng kỳ, cho thấy chưa có sự quan tâm đúng mức đối với hai loại cây trồng này trong thời gian qua.
Giá trị thu hoạch bình quân/ha đất nông nghiệp (theo giá cố định 1994) trong hơn một thập kỷ qua tăng trên 30% (từ 7,12 triệu đồng lên 9,87 triệu đồng) cho thấy kết quả trực tiếp của việc chuyển đổi cơ cấu cây trồng sang những cây trồng có giá trị kinh tế cao hơn. Điều này thể hiện khá rõ trong ngành cây lương thực với giá trị thu hoạch/ha đất trồng cây lương thực tăng gần 60%, từ 8,1 triệu đồng/ha lên 13,29 triệu đồng/ha nhờ năng suất cây trồng tăng mạnh. Điều này cho thấy nguồn lực đất đai đang trong quá trình đi vào phân bổ và sử dụng hiệu quả hơn.
Ngành chăn nuôi có tốc độ tăng trưởng bình quân 6%/năm trong thời kỳ 1990 - 2002, đưa giá trị sản xuất ngành chăn nuôi theo giá cố định 1994 tăng gấp đôi (từ 10283,2 tỷ đồng năm 1990 lên 20316,5 tỷ đồng năm 2002). Trong đó đàn gia súc, gia cầm có tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt tương ứng 6% và 5% trong cùng kỳ. Riêng sản phẩm không qua giết mổ có tốc độ tăng trưởng cao nhất, đạt bình quân 8%/năm.
Bảng 15: Cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi (%)
Năm
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
Gia súc
64,92
64,83
64,16
64,59
64,50
64,41
64,06
62,38
Gia cầm
17,50
17,47
17,40
17,50
17,84
17,81
17,90
18,77
SP không qua giết mổ
14,19
14,53
15,45
15,05
14,93
15,14
15,39
16,40
SP khác
3,39
3,17
2,99
2,86
2,73
2,63
2,64
2,45
Tổng số
100
100
100
100
100
100
100
100
Nguồn : Nông nghiệp nông thôn Việt Nam thời kỳ đổi mới (1986-2002), PGS - TS Nguyễn Sinh Cúc, NXB Thống Kê, HN 2003, tr. 201
Cơ cấu giá trị ngành chăn nuôi thời kỳ 1990-2002 chuyển đổi rất chậm. Ngành chăn nuôi gia súc vẫn chiếm tỷ trọng lớn, ngành chăn nuôi gia cầm và các sản phẩm không qua giết mổ tuy có tăng nhưng tốc độ vẫn còn chậm. Sự chậm chuyển đổi cơ cấu trong nội bộ ngành trồng trọt, chăn nuôi đã ảnh hưởng lớn đến việc điều chỉnh cơ cấu chung của cả ngành nông nghiệp.
1.2. Cơ cấu giá trị ngành lâm nghiệp
Giá trị sản xuất lâm nghiệp trong thời kỳ 1990-2002 tăng bình quân với tốc độ 2%/năm, từ 4960 tỷ đồng năm 1990 lên 6175 tỷ đồng năm 2002 (theo giá cố định 1994) (Xem phụ lục số5). Có thể nói, giá trị sản lượng của ngành lâm nghiệp còn lệ thuộc quá nhiều vào khai thác lâm sản (chiếm 70 - 80% giá trị toàn ngành). Giá trị của trồng rừng và nuôi rừng tăng chậm từ 15 - 20% trong hơn một thập kỷ qua, trong khi trồng và nuôi rừng là là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho ngành ngành lâm nghiệp phát triển bền vững. Mặt khác, tỷ lệ che phủ hiện nay mới đạt 35,1%, diện tích đất trống đồi trọc còn nhiều, do vậy ngành lâm nghiệp cần đẩy mạnh hơn nữa việc trồng mới và bảo vệ rừng, đảm bảo cải thiện môi trường sinh thái để phát triển bền vững.
Trong thời gian qua giá trị sản lượng lâm nghiệp tăng không đều giữa các vùng. Vùng Đông Bắc có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất (9%/năm), vùng đồng bằng sông Cửu Long và Tây Bắc là 6%, còn các địa phương khác đều có tốc độ tăng trưởng âm (từ -1 đến -2%), thấp nhất là vùng Tây Nguyên (-4%). Điều này cho thấy sự phát triển thiếu bền vững của ngành lâm nghiệp. Cụ thể, Tây Nguyên là vùng có diện tích rừng tự nhiên lớn nhất (1/3 diện tích rừng cả nước) cũng là vùng có tốc độ tăng trưởng âm cao nhất. Vùng có tỷ lệ diện tích diện tích rừng trồng cao nhất (vùng Đông Bắc chiếm 31,4%) cũng là vùng có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất trong 5 năm trở lại đây. Tại nhiều vùng, rừng đã bị khai thác cạn kiệt, nhất là rừng tự nhiên. Điều này càng khẳng định muốn phát triển bền vững thì phải tăng cường trồng và bảo vệ rừng, đi đôi với việc sử dụng các giải pháp công nghệ tiên tiến tăng giá trị gia tăng của các sản phẩm từ rừng.
Trong 5 năm lại đây (1997-2002), diện tích rừng toàn quốc đã tăng từ 10,17 triệu ha (năm 1997) lên 11,36 triệu ha (năm 2002), trong đó diện tích rừng tự nhiên đã tăng tương ứng từ 8,97 triệu ha lên 9,59 triệu ha, diện tích rừng trồng tăng từ 1,38 triệu ha lên 1,96 triệu ha. Đây là kết quả của việc thực hiện hàng loạt các cố gắng về trồng rừng, phủ xanh đất trống đồi núi trọc, khoanh nuôi, bảo vệ và tái sinh rừng. Mặc dù về số tuyệt đối cả diện tích rừng trồng và rừng tự nhiên đều tăng, nhưng cơ cấu rừng trồng và rừng tự nhiên thời gian qua hầu như không có sự thay đổi, rừng tự nhiên vẫn chiếm tỷ trọng lớn (86,43 % năm 1997 và 84,41% năm 2001). Điều này cho thấy chúng ta cần tập trung đẩy mạnh hơn nữa việc trồng mới rừng trong thời gian tới.
Hiện nay lâm sản (ngoài gỗ) là lợi thế của rừng nhiệt đới chưa được chú trọng khai thác hợp lý. Trong khi đó công nghiệp chế biến để tăng giá trị sản phẩm, tận dụng các phế liệu để chế biến thành các lâm phẩm có giá trị còn yếu làm cho các sản phẩm lâm nghiệp của Việt Nam có khả năng cạnh tranh thấp không đáp ứng được đúng và đủ nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong nước và quốc tế. Điều này càng chứng tỏ sự thiếu hợp lý trong cơ cấu ngành lâm nghiệp, cả về nuôi trồng lẫn khai thác và chế biến, vẫn còn rất lớn đòi hỏi phải sớm có sự điều chỉnh trong thời gian tới, nhất là khi thời hạn hội nhập đầy đủ của nền nông nghiệp nước ta vào AFTA đang đến gần.
1.3. Cơ cấu giá trị ngành ngư nghiệp
Trong hơn một thập kỷ qua ngành ngư nghiệp đạt tốc độ tăng trưởng khá nhanh (đạt bình quân 11%/năm) đưa giá trị sản lượng thuỷ sản từ 81325,2 tỷ (năm 1990) lên 28100,1 tỷ (năm 2002), theo giá cố định 1994. Tốc độ tăng trưởng bình quân của ngành khai thác thuỷ sản đạt 9%/năm và của ngành nuôi trồng là 14%/năm trong cùng thời kỳ 1990-2002. Cơ cấu sản lượng ngành thuỷ sản đang phát triển theo xu hướng tăng tỷ trọng nuôi trồng, giảm tỷ trọng đánh bắt. Xu hướng này càng được thể hiện rõ nét trong những năm gần đây.(Xem phụ lục số 6)
Do là ngành đặc thù, nên sản xuất thuỷ sản phân bố không đều giữa các vùng tự nhiên trong cả nước, chủ yếu phát triển mạnh ở những tỉnh ven biển (cả nuôi trồng và đánh bắt). Các vùng đồng bằng sông Cửu Long, Đông Nam Bộ và Bắc Trung Bộ chiếm tới trên 85% giá trị sản lượng thuỷ sản cả nước. Vùng Bắc Trung Bộ và đồng bằng sông Hồng chiếm tỷ lệ 5-6% (chủ yếu phát triển ở các tỉnh ven biển). Các tỉnh xa biển thuộc vùng Trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên chiếm tỷ trọng rất nhỏ về sản lượng thuỷ sản (chiếm trên dưới 1%).
Nuôi trồng thuỷ sản phát triển mạnh ở hai vùng đồng bằng lớn của cả nước, trong đó đồng bằng sông Cửu Long chiếm tới 60% về sản lượng và 67,6% về giá trị hàng thuỷ sản sản xuất ra của cả nước, các vùng còn lại đều chiếm tỷ trọng nhỏ. Vùng ven biển miền Trung tuy có lợi thế về phát triển kinh tế nuôi trồng thuỷ hải sản ven biển nhưng cũng chỉ mới chiếm khoảng 8% sản lượng và sản xuất của cả nước.
Có thể thấy giá trị sản phẩm của thuỷ sản nuôi trồng ở miền Nam cao hơn so với miền Bắc. Điều này thể hiện ở mối quan hệ giữa cơ cấu sản lượng và cơ cấu giá trị sản lượng thuỷ sản nuôi trồng. Về cơ cấu sản lượng thuỷ sản nuôi trồng trong những năm gần đẩy hai miền tương ứng là 70,61% và 29,39%, cơ cấu giá trị tương ứng là 80,8% và 19,2%.
2. Thực trạng điều chỉnh cơ cấu xuất khẩu các mặt hàng nông sản
Từ năm 1995 trở lại đây, mặc dầu tỷ trọng hàng nông - lâm - thuỷ sản xuất khẩu trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của cả nước giảm từ 46,3% xuống 32,5% (thời kỳ 1995-2002), nhưng về giá trị tuyệt đối, giá trị kim ngạch xuất khẩu hàng nông sản của Việt Nam tăng gấp hơn 2 lần (từ 2521,1 triệu USD năm 1995 lên 3425 triệu USD năm 2002), góp phần đưa tỷ trọng kim ngạch hàng nông sản xuất khẩu trong tổng GDP nông nghiệp lên trên 50%. Nhiều mặt hàng có: tỷ suất xuất khẩu/giá trị sản xuất ra rất cao như: cà phê, điều (trên 90%). Một số mặt hàng nông sản của Việt Nam đã vươn lên xác định được vị thế của mình trên thị trường khu vực ASEAN và thế giới như: lúa gạo, cà phê, điều, hàng thuỷ sản, cao su .v.v. (Xem Phụ lục 5). Đây là xu hướng phát triển nông theo hướng phục vụ xuất khẩu và cũng phù hợp với xu thế hội nhập kinh tế khu vực ASEAN/AFTA và quốc tế của Việt Nam.
Trong cơ cấu hàng nông - lâm - thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam những năm qua, hàng nông sản vẫn chiếm tỷ trọng lớn (bình quân thời kỳ 1995-2002 chiếm tới 62,42% tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu toàn ngành), trong đó các sản phẩm xuất khẩu quan trọng là gạo (24%), cà phê (13,5%), điều (4,4%).v.v. Điều đáng lưu ý là giá trị kim ngạch xuất khẩu các sản phẩm chăn nuôi còn rất khiêm tốn, các sản phẩm rau quả - là ưu thế của nông nghiệp nhiệt đới - cũng chỉ chiếm 2,35% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn ngành. Điều này cho thấy những bất cập trong chuyển dịch cơ cấu nội bộ ngành nông nghiệp cũng như trong các giải pháp để đi vào khai thác lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới của đất nước, đẩy mạnh xuất khẩu nông phẩm và chủ động hội nhập vào nền nông nghiệp khu vực và thế giới, mà trước mắt đó là vào AFTA/ASEAN.
Trong cùng thời kỳ trên, giá trị xuất khẩu của hàng thuỷ sản đã tăng gấp 3 lần, từ 621,4 triệu USD năm 1995 lên gần 1 tỷ USD năm 1999, và đặc biệt tăng nhanh trong những năm gần đây (đạt 202,4 triệu USD và năm 2002), nhờ đó đã đẩy nhanh tỷ trọng giá trị hàng thuỷ sản trong cơ cấu giá trị xuất khẩu hàng nông - lâm - ngư nghiệp. Thuỷ sản đang khẳng định được vai trò và vị trí của mình không chỉ trên thị trưòng trong nước mà cả trên thị trường khu vực ASEAN và quốc tế.
Hàng lâm sản xuất khẩu mới chiếm tỷ lệ khiêm tốn trong cơ cấu xuất khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản (dưới 6%) và có xu hứóng giảm. Điều này cho thấy hàng lâm sản nói riêng và ngành lâm nghiệp nói chung còn gặp nhiều khó khăn trong phát triển sản xuất kinh doanh, khai thác lợi thế so sánh và mở rộng thị trường.
Những biến động trong cơ cấu xuất khẩu hàng nông - lâm - thuỷ sản thời gian qua cho thấy Việt Nam cần thiết phải xây dựng một chiến lược kinh doanh phù hợp để một mặt vừa giữ vững thị phần của những mặt hàng đã xác định được vị thế trên thị trường thế giới, đồng thời đẩy mạnh các biện pháp nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm, xúc tiến thương mại để tăng khả năng thâm nhập và mở rộng thị trường cho các mặt hàng nông - lâm - thuỷ hải sản khác, nâng cao sức cạnh tranh của các sản phẩm xuất khẩu chủ lực đối với các mặt hàng cùng loại từ các nước ASEAN khác, đặc biệt khi CEPT/AFTA hoàn thành trong một vài năm sắp tới.
3. Một số chính sách liên quan đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất và mở rộng xuất khẩu mặt hàng nông sản ở Việt Nam trong thời gian qua
Sự điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam phụ thuộc vào rất nhiều nhân tố như: điều kiện về đất đai, tài chính, cơ sở vật chất kỹ thuật (hệ thống cở hạ tầng, giao thông, thuỷ lợi .v.v.), khả năng nắm bắt nhu cầu và những thay đổi của thị trường trong và ngoài nước, sự năng động của bà con nông dân .v.v. Bên cạnh đó, hệ thống chính sách của Nhà nước và cơ chế vận hành của nó trên thực tế có ý nghĩa quyết định đến việc định hướng cũng như thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp. Chính vì vậy, từ khi thực hiện chính sách “Đổi mới” đến nay, Việt Nam đã ban hành nhiều chính sách quan trọng đối với việc phát triển nông nghiệp, trực tiếp hay gián tiếp thúc đẩy quá trình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp đất nước. Một số chính sách có vai trò quan trọng trong điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong thời gian qua là:
3.1. Chính sách đất đai
Chính sách đất đai có ý nghĩa quan trọng, tạo tiền đề cho quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam là do: Một là, đất đai là địa bàn diễn ra quá trình điều chỉnh cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp theo hướng khai thác lợi thế so sánh của từng vùng, tiểu vùng. Điều này càng có ý nghĩa đối với Việt Nam - một nước mà tại đó sản xuất nông nghiệp vẫn giữ vai trò quan trọng trong nền kinh tế, số người phụ thuộc vào nông nghiệp còn nhiều,trong khi bình quân đất canh tác lại rất thấp (1034 m2/người và 1938 m2/lao động nông nghiệp), sự phân bổ giữa các vùng rất không đều. Hai là, chính sách đất đai là yếu tố quyết định nhằm phát huy vai trò tự chủ, tự chịu trách nhiệm của kinh tế hộ, vừa là động lực chủ yếu của tăng trưởng nông nghiệp trong suốt hơn một thập kỷ rưỡi qua.
Do chính sách đất đai có ý nghĩa quan trọng với điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp như vậy, nên đã giành được rất nhiều sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Nhiều chính sách về đất đai đã được ban hành, trong đó quan trọng nhất phải kể đến Luật đất đai năm 1993, Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998 và Luật sửa đổi một số điều của Luật đất đai năm 2001. Chính phủ cũng ban hành nhiều Nghị định hướng dẫn thi hành các Luật này. Theo đó, đất đai được giao tới tận hộ để sử dụng ổn định lâu dài, tạo điều kiện để nông dân thực sự tự chủ trên mảnh đất được giao. Mức huy động đóng góp theo Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp cũng được hạ thấp dần (so với Pháp lệnh cũ giảm 3%), diện được miễn giảm thuế sử dụng đất nông nghiệp cũng được mở rộng. Bên cạnh đó, người nông dân còn được hưởng các quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn kinh doanh bằng giá trị quyền sử dụng đất. Nhờ mở rộng thêm quyền hạn cho người sử dụng đất nên đã tạo ra được nhiều ảnh hưởng tích cực tới nông dân và sản xuất nông nghiệp, khuyến khích nông dân sử dụng có hiệu quả diện tích đất đai hiện có.
Bên cạnh những thuận lợi, chính sách đất đai cũng đồng thời làm nảy sinh nhiều khó khăn ảnh hưởng tới quá trình chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, cụ thể:
Tại nhiều vùng, đất đai vẫn bị sử dụng kém hiệu quả, công tác quy hoạch vùng chưa sát thực tế, một số nơi nông dân tự phát chuyển đổi cơ cấu cây trồng nên đã xảy ra hiện tượng trồng rồi chặt gây lãng phí.
Việc trao các quyền về chuyển đổi, chuyển nhượng là tiền đề để thực hiện tích tụ, tập trung ruộng đất, khuyến khích phát triển nông nghiệp hàng hoá theo hướng khai thác tối đa lợi thế so sánh của từng điạ phương. Tuy nhiên trên thực tế, quá trình tích tụ tập trung ruộng đất diễn ra chậm chạp do có những khó khăn về sử dụng Giấy chứng nhận QSD đất sau chuyển đổi, do tâm lý không muốn có sự thay đổi của người nông dân .v.v.
Diện tích đất giao khoán manh mún, gây khó khăn cho việc quy hoạch, chuyển đổi cơ cấu sản xuất hộ gia đình. Các hộ tuy đã tiến hành chuyển đổi ruộng đất cho nhau để tiện canh tác, nhưng quá trình này còn diễn ra tự phát, chưa có sự hướng dẫn và tổ chức thực hiện thống nhất giữa các địa phương, nhiều nơi nông dân tự chuyển đổi “ngầm” cho nhau gây nên tình trạng biến động về đất đai rất khó quản lý.
Mặc dù người sử dụng đất được hưởng 7 quyền theo quy định của Luật đất đai, các văn bản hướng dẫn dưới Luật cũng đã có, nhưng người nông dân cần có hướng dẫn cụ thể hơn mới có thể thực sự thực hiện được các quyền lợi này.
Việc đánh thuế sử dụng đất nông nghiệp theo hạng đất lúa là không công bằng giữa người trồng cây lương thực với trồng cây công nghiệp và giữa những người trồng cây công nghiệp với nhau.
Để sản xuất ra khối lượng sản phẩm lớn, có giá trị kinh tế cao có độ đồng đều về chất lượng, chủng loại và mẫu mã đòi hỏi phải có một quy mô diện tích nhất định. Nhưng hiện nay hầu hết các hộ sản nông nghiệp nước ta hiện nay đều có quy mô diện tích đất không lớn, trong khi quá trình tích tụ tập trung ruộng đất diễn ra rất chậm chạp.
Chưa có quy hoạch rõ ràng về đất đai dành cho phát triển công nghiệp nông thôn, xây dựng cở hạ tầng và phúc lợi ở địa phương. Điều này gây khó khăn cho phát triển các hoạt động phi nông nghiệp ở nông thôn, làm chậm quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn nói chung và cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng.
ở vùng miền núi, các doanh nghiệp lâm nghiệp Nhà nước còn bao chiếm nhiều diện tích, nhưng sử dụng kém hiệu quả, chậm chuyển giao cho hộ nông dân nên gây ảnh hưởng tiêu cực tới chuyển đổi cơ cấu sản xuất.
Tất cả những tồn tại trên phải được nhanh chóng khắc phục triệt để mới có thể làm cho chính sách đất đai thực sự phát huy được vai trò chủ đạo của nó trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng, cũng như toàn ngành nông nghiệp nói chung cho phù hợp với quá trình mở cửa và hội nhập nền kinh tế của đất nước hiện nay.
3.2. Chính sách giá cả
Trong cơ chế thị trường, tín hiệu của giá cả giúp hướng các nguồn tài nguyên của đất nước vào việc sử dụng có hiệu quả nhất. Tuy nhiên, Chính phủ nhiều nước, nhất là các nước đang phát triển, can thiệp vào giá cả nhằm tăng sản lượng nông sản hàng hoá, ổn định giá cả, đảm bảo an ninh lương thực, cung cấp lương thực thực phẩm, nguyên liệu với giá rẻ cho công nghiệp để thực hiện tích luỹ cho công nghiệp hoá. Đối với Việt Nam, Chính phủ ta tuy không can thiệp trực tiếp vào giá cả hàng hoá như trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, nhưng vẫn duy trì cơ chế điều chỉnh giá cả thị trường trong nước và chính sách xuất nhập khẩu để giữ giá có lợi cho sản xuất lương thực, thực phẩm và các cây trồng khác.
Nhờ thực hiện cải cách kinh tế nói chung và tự do hoá giá cả nói riêng trong những năm vừa qua, giá cả hàng nông sản (nhất là các mặt hàng thực phẩm) đã tăng lên làm giảm dần giá cánh kéo so với mặt bằng giá chung trên thị trường. Các chính sách về giá của Nhà nước đã tạo ra sự khích lệ, khuyến khích sản xuất phát triển. Kết quả là từ một nước nhập khẩu, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu gạo lớn trên thế giới. Gần đây trong xu thế tự do hoá thương mại và hội nhập kinh tế khu vực ASEAN và quốc tế, Chính phủ đã loại bỏ dần những biện pháp can thiệp phi thuế quan, như: quota, kiểm soát số lượng, đầu mối xuất nhập khẩu .v.v. Ví dụ, đối với xuất khẩu gạo, trong năm 1998, Chính phủ đã sửa đổi chính sách cho phép số lượng các doanh nghiệp được trực tiếp xuất nhập khẩu nhiều hơn (kể cả doanh nghiệp tư nhân cũng được phép xuất khẩu gạo), tăng khối lượng quota xuất khẩu.v.v. Những thay đổi này đã góp phần cải thiện giá cả, giảm dần khoảng cách về giá xuất khẩu so với sản phẩm cùng loại của các đối thủ cạnh tranh khác trong khu vực.
3.3. Chính sách đầu tư
Trong thập kỷ qua, chính sách đầu tư của Việt Nam đang chuyển dần vào phát huy và khai thác lợi thế so sánh của từng vùng sinh thái nhằm hình thành các vùng sản xuất hàng hoá, tạo ra các nông phẩm chất lượng cao, giá thành hạ, có sức cạnh tranh cao trên thị trường; đồng thời hình thành cơ chế khuyến khích mọi thành phần kinh tế cùng bỏ vốn đầu tư kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, kể cả việc kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài.
Bảng 16: Chỉ số đầu tư của NSNN cho nông nghiệp
Năm
1990
1998
1999
2000
2001
2002
% nông nghiệp trong GDP (1)
38.7
25.8
25.4
24.3
23.2
23.0
% đầu tư NSNN cho nông nghiệp (2)
17.1
10.2
11.5
12.6
12.2
11.4
Chỉ số đầu tư nông nghiệp (%) (3)
0.44
0.39
0.45
0.53
0.53
0.49
Nguồn: Vụ nông nghiệp và phát triển nông thôn – Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Chú thích: (3) = (2)/(1) (%)
Đầu tư cho phát triển nông nghiệp của Nhà nước trong thời gian qua tập trung vào xây dựng và củng cố hệ thống cơ sở hạ tầng, thuỷ lợi, khoa học kỹ thuật cho các vùng sản xuất hàng hoá, ưu tiên cho các chương trình khai hoang vùng Đồng tháp Mười – Tứ giác Long Xuyên, Tây Nguyên và các vùng nông nghiệp trọng điểm khác. Ngoài ra đầu tư của Nhà nước còn dành phần đáng kể cho các chương trình mục tiêu quốc gia như Chương trình 327 phủ xanh đất trống đồi núi trọc, chương trình trồng mới 5 triệu ha rừng, chương trình 773, chương trình đánh bắt xa bờ, chương trình định canh định cư, chương trình xoá đói giảm nghèo .v.v. Đầu tư của Ngân sách Nhà nước cho nông nghiệp trong những năm qua tuy về số tuyệt đối đều tăng (tuy mới chiếm khoảng 5% tổng vốn đầu tư Ngân sách), nhưng đồng thời cũng đang diễn ra xu hướng giảm thu thuế từ nông nghiệp cho Ngân sách Nhà nước (năm 1993: 4,90%; năm 1997: 3,2%) thể hiện rõ chủ trương “khoan thư sức dân”của Nhà nước ta, qua đó tạo động lực khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư vào phát triển nông nghiệp, thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành nông nghiệp.
Tỷ trọng đầu tư của Ngân sách Nhà nước trực tiếp cho nông nghiệp trong thời gian qua chưa tương xứng với tiềm năng và vị trí của nông nghiệp trong nền kinh tế quốc dân. Chỉ số đầu tư nông nghiệp tuy có tăng lên nhưng vẫn còn thấp xa so với nhiều nước trong khu vực (Thái Lan: 0,62; Inđônêxia: 0,67). Đầu tư của Nhà nước vào hệ thống nghiên cứu triển khai cho nông nghiệp cũng còn thấp xa so với yêu cầu: khoảng 70% đầu tư của Nhà nước vào hệ thống nghiên cứu là để trả lương. Bên cạnh đó, đầu tư của Nhà nước cho nông nghiệp lại chủ yếu tập trung cho doanh nghiệp Nhà nước, đầu tư cho doanh nghiệp dân doanh mới chiếm khoảng 10% tổng đầu tư cho các doanh nghiệp quốc doanh. Khu vực nông nghiệp cũng chưa thực sự hấp dẫn đầu tư trực tiếp nước ngoài (mới thu hút được khoảng 7% tổng vốn FDI cả nước).
3.4. Chính sách tín dụng
Cùng với đầu tư của Nhà nước, hệ thống tín dụng cũng đã đóng góp ngày càng nhiều vào việc thúc đẩy quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp phát triển. Hệ thống ngân hàng một cấp trước đây đã được chuyển thành hệ thống ngân hàng hai cấp với sự hình thành của nhiều ngân hàng thương mại quốc doanh lớn, cung cấp tài chính chính thức cho nông nghiệp Việt Nam, như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng phục vụ người nghèo và Quỹ tín dụng nhân dân.
Ngân hàng nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang mở rộng việc cho vay tới tận hộ nông dân, giúp người nông dân có vốn đầu tư thâm canh và điều chỉnh cơ cấu sản xuất của mình. Dư nợ của Ngân hàng tăng nhanh từ 225 tỷ năm 1991 lên 6038 tỷ năm 1997, và đặc biệt là tỷ lệ dư nợ cho vay tới tận hộ nông dân đã tăng từ 10% lên trên 73% trong cùng kỳ, điều đó chứng tỏ nông dân đang ngày càng được tiếp cận nhiều hơn với nguồn tín dụng chính thức.
Ngân hàng Phục vụ người nghèo tuy mới được thành lập năm 1995 và là ngân hàng chính sách, nhưng cũng đã cho vay được trên 400 tỷ đồng, góp phần quan trọng vào việc giúp đỡ nông dân nhất là những hộ nghèo phát triển sản xuất. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ nghèo còn hạn chế, mặc dù Ngân hàng người nghèo cho vay vốn với những điều kiện ưu đãi như: lãi suất thấp, không thế chấp, nhưng do thủ tục còn phức tạp hay do chính bản thân người nghèo sợ không trả được nợ nên không dám vay. Theo dự tính của Ngân hàng thế giới, thì chỉ khoảng 33% hộ nông dân trong cả nước tiếp cận được nguồn vốn tín dụng chính thức của Nhà nước. Mặt khác, cả Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng người nghèo đều có các chi nhánh trên khắp đất nước nhưng do hoạt động của Ngân hàng liên quan chặt chẽ tới hệ thống thông tin liên lạc và trụ sở thường đặt tại trung tâm huyện nên nông dân vùng sâu, vùng xa vẫn gặp khó khăn khi tiếp cận với nguồn tín dụng này.
4. Một số nhận xét về việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp tại Việt Nam giai đoạn vừa qua
Từ thực tế điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở nước ta thời gian qua, có thể rút ra một số nhận xét sau:
4.1. Thời gian qua tuy đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận trong chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nhưng yếu tố chất lượng của cơ cấu chưa thể hiện rõ, đặc biệt là chưa hướng tới nhu cầu của thị trường tiêu thụ và ổn định sản xuất
Mục tiêu điều chỉnh cơ cấu hợp lý trong nội bộ ngành nông nghiệp (theo nghĩa rộng bao gồm cả nông - lâm - ngư nghiệp) là phải làm sao để kết quả tổng hợp trên 1 ha diện tích và trên 1 lao động nông nghiệp phải không ngừng tăng lên. Trong những năm đầu của thập kỷ 90, chỉ tiêu này có tăng lên, nhưng mấy năm cuối lại có chiều hướng giảm sút do 2 nguyên nhân chính:
Thứ nhất , do giá cả các mặt hàng xuất khẩu chủ lực giảm trên bình diện chung ; Thứ hai, giá trị kinh tế của nông nghiệp thuần vẫn chiếm tỷ trọng lớn và dao động ở mức 80%. Điều này cho thấy nông nghiệp vẫn giữ vị trí độc tôn, lâm, ngư nghiệp chưa vươn lên ngang tầm với những lợi thế hiện có.
Hơn thế nữa, tỷ trọng của ngành lâm nghiệp đang giảm (cả về giá trị sản lượng và giá trị xuất khẩu) cho thấy hậu quả của việc khai thác tài nguyên lâm nghiệp theo kiểu “bóc lột tài nguyên” đến mức cạn kiệt đang gây ra sự mất cân bằng sinh thái, thể hiện rõ nhất là lũ lụt, nạn hạn hán xảy ra thường xuyên hơn và không còn theo chu kỳ như trước kia ở nhiều vùng trong cả nước thời gian vừa qua.
Tỷ trọng của ngành ngư nghiệp tuy có tăng lên (cả về giá trị sản xuất và giá trị xuất khẩu) nhưng vẫn chưa thực sự khai thác hết tiềm năng vốn có của ngành. Hơn nữa, do việc đầu tư khai thác nhưng không tính đến tác động của môi trường nuôi trồng, nên nhiều dự án đã không mang lại hiệu quả, mức độ rủi ro rất lớn.
Trong nội bộ ngành nông nghiệp theo nghĩa hẹp (gồm trồng trọt và chăn nuôi), tuy tỷ trọng ngành trồng trọt giảm, tỷ trọng ngành chăn nuôi có tăng lên, nhưng nhìn chung vẫn chưa đạt đến một tỷ lệ hợp lý (chăn nuôi chiếm tỷ trọng 25%, trồng trọt - 75%). Còn trong cơ cấu nội bộ ngành trồng trọt, cây lương thực vẫn là loại cây được trồng khá phổ biến, trong khi các loại cây công nghiệp, cây ăn quả và những loại cây có giá trị kinh tế và giá trị xuất khẩu vẫn chưa được chú trọng phát triển mạnh.
Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu ngành nông nghiệp theo cả nghĩa rộng lẫn nghĩa hẹp trong thời gian qua là rất chậm chạp, chưa đạt yêu cầu và vẫn chưa tương xứng với tiềm năng về tài nguyên và sinh thái của đất nước.
4.2. Cơ cấu ngành nông nghiệp đang trong quá trình chuyển dần từ nền kinh tế mang nặng tính tự cung tự cấp sang kinh tế hàng hoá. Bước đầu đã có một số loại sản phẩm chủ lực trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh của mỗi vùng
Nhiều vùng sản xuất hàng hoá chuyên canh đã được hình thành, như: vùng sản xuất lúa ở Đồng bằng sông Cửu Long, vùng cây công nghiệp dài ngày ở miền Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, khai thác, nuôi trồng thuỷ sản ở Nam Trung Bộ và Nam Bộ.v.v. Người nông dân ngày nay đã chú trọng đến không chỉ khối lượng sản phẩm sản xuất ra, mà còn quan tâm nhiều hơn đến giá trị thu hoạch được. Điều đó thể hiện, các thông tin về nhu cầu thị trường đã có tác động đến việc bố trí và sử dụng các nguồn lực của kinh tế hộ nông dân. Nhiều tiến bộ khoa học kỹ thuật mới đã được ứng dụng vào sản xuất, hình thành nên nhiều mô hình sản xuất hàng hoá trên khắp các vùng trong cả nước. Trong cơ cấu thu nhập của hộ gia đình đã thể hiện sự đa dạng hoá, tỷ trọng thu nhập từ làm ruộng giảm, tỷ trọng thu nhập từ làm vườn, trồng cây công nghiệp và chăn nuôi tăng lên rõ rệt.
4.3. Cơ cấu kinh tế nông nghiệp vẫn chưa gắn chặt với quá trình hội nhập khu vực ASEAN và quốc tế trong lĩnh vực nông nghiệp
Hiện tại, các mối liên kết giữa người sản xuất với người xuất khẩu còn rời rạc và mang nặng tính phi vụ. Các quan hệ hợp đồng sản xuất - tiêu thụ chưa được phát triển rộng, còn tồn tại nhiều đầu mối trung gian, môi giới. Do đó, tình trạng chênh lệch giữa giá xuất khẩu với giá thu mua còn khá lớn làm người sản xuất vẫn phải chịu nhiều thiệt thòi. Bên cạnh đó, nhiều biện pháp hỗ trợ của Nhà nước không đến được với người sản xuất.v.v. Đây chính là những nguyên nhân kìm hãm sự chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng tích cực, có tính đến yếu tố thị trường xuất nhập khẩu trong khu vực ASEAN và thế giới.
Cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam hiện nay vẫn chưa thể hiện là một cơ cấu có hiệu quả. Điều này thể hiện rất rõ qua cơ cấu phân bổ và sử dụng đất đai: đất dành cho công nghiệp và cây ăn quả mới chiếm tương ứng là 11,21% và 4,34%; giá trị sản lượng cây công nghiệp mới chiếm 20,6%, cây ăn quả chiếm 7,64%. So với các nước khác trong khu vực ASEAN, thì tỷ lệ này là rất thấp. (Chỉ số tương tự ở Inđônêxia, Malaysia, Philippin,và Thái Lan là 40% và 70%). Không những thế, giá trị xuất khẩu của các mặt hàng nông sản nước ta như: gạo, cà phê, hạt điều, tiêu.v.v. thường thấp hơn so với giá của các sản phẩm cùng loại từ các nước trong khu vực ASEAN và thấp hơn giá xuất khẩu bình quân trên thế giới do chất lượng hàng xuất không cao. Điều này cho thấy ngành công nghiệp chế biến và bảo quản sau thu hạch, cũng như công tác nhân giống cây, con vẫ chưa có những chuyển biến ngang tầm với yêu cầu để nâng cao giá trị các mặt hàng nông phẩm xuất khẩu của đất nước.
4.4. Các bộ phận trong cơ cấu kinh tế nông nghiệp chưa thể hiện rõ sự phân công lao động và khai thác lợi thế vùng
Điều chỉnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp nước ta vẫn chưa đạt được hiệu quả do việc sử dụng các nguồn lực vào sản xuất khai thác lợi thế so sánh của từng địa phương. Chẳng hạn, nhân tố đất đai – tư liệu sản xuất quan trọng nhất, không thể thiếu được trong sản xuất nông nghiệp – vốn là đại lượng có hạn, nhưng lại được sử dụng chưa hiệu quả, đồng thời nhiều địa phương cũng chưa tận dụng, khai thác các lợi thế về tiểu vùng khí hậu để sản xuất những giống cây, con có tính độc đáo và chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu đa dạng của thị trường xất khẩu khu vực và quốc tế.
Ngoài việc gắn kết giữa hai bộ phận trồng trọt và chăn nuôi trong sản xuất nông nghiệp theo nghĩa hẹp, các bộ phận còn lại trong cơ cấu nông nghiệp theo nghĩa rộng như giữa sản xuất lương thực và phát triển lâm nghiệp, giữa nuôi trồng thuỷ sản và phát triển sản xuất nông nghiệp chưa gắn kết chặt chẽ với nhau. Cơ cấu chưa thể hiện sự phân công lao động theo chiều thuận, nghĩa là thiếu quy hoạch và mất cân đối giữa sản xuất và chế biến, cung ứng vật tư nông nghiệp ..., nhằm huy động sức mạnh tổng hợp trên cơ sở khai thác tối đa nguồn lực của từng ngành, từng địa phương và từng vùng sinh thái.
4.5. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp chưa theo một quy hoạch tổng thể hợp lý
Trong thời gian qua, người nông dân khi thấy thị trường có nhu cầu thì ồ ạt chạy theo, trồng cây mới nuôi con mới mang nặng tính chất phong trào, tự phát, trong khi công tác quy hoạch chưa thực sự làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách khuyến khích hay hạn chế người sản xuất đối với từng mặt hàng cụ thể. Trên thực tế cả người làm công tác quy hoạch lẫn người nông dân chưa đánh giá đúng nhu cầu thị trường, nhất là chưa lường trước được những thay đổi bất thường, rủi ro có thể xảy ra để có các chính sách ứng phó từ trước. Do đó, nhiều sản phẩm nông nghiệp của chúng ta không tiêu thụ được, hoặc phải bán với giá thấp, nên không khuyến khích người nông dân tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nôi.
4.6. Tác động của những nhân tố kích thích sản xuất trong những năm đầu của thập kỷ đã đến mức tới hạn, trong khi chưa tìm thêm được các nhân tố mới để kích thích sản xuất phát triển
Chỉ thị 100 của Ban Bí thư trung Ương Đảng về công tác khoán sản phẩm đến tận người lao động. Nghị quyết 10 của Bộ Chính Trị về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp trong việc giải phóng sức sản xuất, Luật đất đai mới được bổ sung trao thêm các quyền cho người sử dụng đất... đã có tác động tích cực, biến chúng thành động lực phát triển một thời, thì đến nay đã đã bắt đầu cạn kiệt. Nếu không có sự đổi mới cơ chế quản lý, tìm ra động lực mới trong giai đoạn tới thì sự phát triển của sản xuất nông nghiệp sẽ có nguy cơ chững lại.
Việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp để hội nhập thành công đòi hỏi phải có những biện pháp đồng bộ, bao gồm cả việc lựa chọn cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý, vừa có hiệu quả kinh tế cao, vừa thích hợp với điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái của từng vùng, từng địa phương, trong đó có việc chuyển đổi ruộng đất theo hướng “đổi điền, dồn thửa” cho quy mô sản xuất ít manh mún hơn. Bên cạnh đó, chúng ta còn phải phát triển hệ thống giao thông nông thôn, hệ thống thuỷ lợi.. để thâm canh tăng năng suất, giúp nền nông nghiệp nước nhà phát triển mạnh, đủ khả năng hội nhập thành công và có lợi nhất vào nền nông nghiệp ASEAN cũng như của toàn thế giới.