Đề tài Một số giải pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do Asean - Afta

Việt Nam đã cam kết lịch trình thực hiện các quy định của AFTA bằng việc công bố Danh mục thực hiện cắt giảm thuế, theo đó ngành nông nghiệp Việt Nam có lịch trình hội nhập AFTA tương đối sớm hơn so với các ngành khác. Nếu xét về vấn đề lựa chọn mô hình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp để hội nhập thành công, thì theo kinh nghiệm của các nước ASEAN đi trước, chúng ta nên thiên về đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, có tính đến một số mặt hàng chủ lực, ít nhất cũng vì hai lý do sau: + Thứ nhất, Việt Nam là một nước đông dân với sự phân bố không đều trên nhiều loại địa hình, giao thông liên lạc chưa phát triển, làm cho việc vận chuyển lương thực, thực phẩm giữa các vùng khó khăn. Do vậy, chúng ta nên đa dạng hoá trồng trọt, chăn nuôi ở tất cả các vùng miền của đất nước để đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của người dân mỗi vùng.

doc29 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 671 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do Asean - Afta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
EAN phải dành thêm thời gian để điều chỉnh sản xuất trong nước cho thích nghi với môi trường cạnh tranh quốc tế đang gia tăng (có nghĩa là kéo dài thêm việc bảo hộ trong một thời gian ngắn). Sau 3 năm kể từ khi tham gia chương trình CEPT (bắt đầu từ 01/01/1996), các nước ASEAN phải bắt đầu chuyển dần các mặt hàng từ TEL sang IL. Quá trình chuyển từ TEL sang IL được phép kéo dài trong 5 năm và mỗi năm phải chuyển được 20% số mặt hàng (đến năm 2000 còn 15,04% số dòng thuế của ASEAN trong danh mục này). Danh mục Loại trừ hoàn toàn (General Exceptions List-GEL) GEL bao gồm những mặt hàng không có nghĩa vụ phải giảm thuế quan. Các nước ASEAN có quyền đưa ra danh mục các mặt hàng này trên cơ sở nhằm bảo vệ an ninh quốc gia, đạo đức xã hội, bảo vệ sức khoẻ của con người, động vật, thực vật; bảo tồn các giá trị văn hoá, lịch sử, khảo cổ... (Đến năm 2000 trong danh mục này còn 909 dòng thuế quan chiếm 1,61% tổng số dòng thuế của ASEAN). Danh mục Nhạy cảm (Sentitive List-SL) SL bao gồm những mặt hàng nông sản chưa chế biến mà việc cắt giảm thuế quan đối với những mặt hàng này có thể gây tác động lớn đến sản xuất và đời sống trong nước. Các mặt hàng trong SL được dành một khung thời gian dài hơn trong việc cắt giảm thuế xuống 0-5%. Việc xoá bỏ hạn chế số lượng và hàng rào phi thuế quan khác được kéo dài đến năm 2010. Đối với những nước thành viên mới, thời gian ân hạn được kéo dài hơn, cụ thể: Việt Nam đến năm 2013, Lào và Myanma đến 2015, Campuchia đến 2017 (đến năm 2000 còn 0,58% số dòng thuế của ASEAN trong danh mục này). Điều này chứng tỏ phần lớn các mặt hàng nông sản chưa chế biến đã được các nước ASEAN đưa ngay vào Danh mục Giảm thuế (IL) hoặc Danh mục Loại trừ tạm thời (TEL), chỉ một số ít mặt hàng nông sản chưa chế biến có tầm quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân được các nước ASEAN đưa vào Danh mục Nhạy cảm (SL). Mức thuế suất thực hiện CEPT/AFTA chỉ được duy trì tối đa trong 3 năm liên tiếp, sau đó sẽ được cắt giảm để đạt mục tiêu giảm thuế 0-5% vào năm 2006. Mỗi bước giảm thuế không thấp hơn 5%. 2.2. Cơ chế trao đổi nhượng bộ của CEPT Theo quy định này, một sản phẩm muốn được hưởng nhượng bộ về thuế quan khi xuất khẩu trong khối thì cần phải thoả mãn đồng thời 3 điều kiện sau: - Phải thuộc Danh mục cắt giảm thuế của cả nước xuất khẩu và nước nhập khẩu; phải có mức thuế quan (nhập khẩu) bằng hoặc thấp hơn 20%. - Phải có chương trình cắt giảm thuế được Hội đồng AFTA thông qua. - Phải là một sản phẩm của khối ASEAN, tức là phải thoả mãn yêu cầu hàm lượng xuất xứ từ các nước thành viên ASEAN (hàm lượng nội địa) ít nhất là 40%. Công thức: 40% hàm lượng ASEAN = (A+B)/Giá FOB x 100% < 60% Trong đó: A: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào nhập khẩu từ các nước không phải là thành viên ASEAN (theo giá CIF tại thời điểm nhập khẩu). B: là giá trị nguyên vật liệu, bộ phận, các sản phẩm là đầu vào không xác định được xuất xứ (theo giá xác định ban đầu trước khi đưa vào chế biến trên lãnh thổ của nước xuất khẩu là thành viên của ASEAN). 2.3. Loại bỏ các hạn chế về số lượng (QRs) và các hàng rào phi thuế quan khác Các hạn chế về số lượng sẽ phải loại bỏ ngay khi sản phẩm đưa vào cắt giảm và được hưởng các ưu đãi của CEPT, hàng rào phi thuế quan khác sẽ được xoá bỏ dần trong vòng 5 năm khi sản phẩm được hưởng ưu đãi. 2.4. Tiến hành hợp tác trong lĩnh vực hải quan Xây dựng một Danh mục thuế quan chung thống nhất trong khối ASEAN, thống nhất hệ thống tính giá hải quan theo Hiệp định Trị giá hải quan của GATT-WTO, xây dựng hệ thống luồng hải quan xanh và thống nhất thủ tục hải quan để sản phẩm lưu thông thông suốt. 2.5. Cung cấp các thông tin về cơ chế thương mại theo yêu cầu của các nước (hay yêu cầu về minh bạch chính sách). 3. Cam kết của Việt Nam tham gia AFTA trong lĩnh vực nông nghiệp 3.1. Những cam kết chung Với mục tiêu nhanh chóng hội nhập thành công vào AFTA, trong thời gian qua, Việt Nam đã tiến hành những bước đi tích cực trong việc thực hiện các Quy định của Hiệp định về chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung (CEPT). Tháng 12/1995 tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN ở Băngcốc (Thái Lan), Việt Nam đã đệ trình Danh mục loại trừ hoàn toàn (GEL) gồm 165 mặt hàng, Danh mục loại trừ tạm thời (TEL): 1189 mặt hàng, Danh mục nhạy cảm (SL): 26 mặt hàng, Danh mục cắt giảm ngay (IL): 1633 mặt hàng. Hiện nay, Việt Nam đang thực hiện những cam kết đối với AFTA, đồng thời tăng dần thực hiện danh mục IL. Năm 1996, Việt Nam đã xếp 857 mặt hàng vào danh mục này, đến năm 1997 là 640 mặt hàng và đến năm 1998 là 1716 mặt hàng với mức thuế suất bình quân 6,1% (so với mức thuế suất nhập khẩu bình quân của mặt hàng không thuộc CEPT là 7,2%). Năm 1999 Việt Nam đã đưa vào danh mục IL thực hiện CEPT là 3582 mặt hàng (chiếm 41,3% tổng số mặt hàng đánh thuế của Việt Nam). Trong danh mục IL, bắt đầu từ 01/01/2001 mức thuế suất của những mặt hàng chịu thuế suất trên 20% sẽ được giảm xuống 20% và sẽ đạt 0-5% từ 01/01/2006. Mức thuế suất của những mặt hàng chịu thuế suất dưới 20% sẽ được giảm xuống còn 0-5% từ năm 2003. Trong danh mục TEL có hầu hết các mặt hàng hiện đang được sản xuất tại Việt Nam. Những mặt hàng này sẽ được chuyển vào danh mục IL trong 5 thời điểm cách đều nhau từ 1999-2003 với thuế suất giảm xuống còn 0-5% vào 2006. Các mặt hàng thuộc danh mục SL sẽ được giảm thuế suất xuống còn 0-5% vào năm 2013. Các mặt hàng thuộc danh mục GEL do Việt Nam đệ trình tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN năm 1995 là nhiều nhất so với các nước ASEAN khác (165 sản phẩm, chiếm 5,5% tổng số các dòng thuế, trong khi đó các nước khác chỉ có khoảng 3- 3,3% số dòng thuế thuộc danh mục này). Những mặt hàng này chiếm tới 41% số lượng hàng nhập khẩu của Việt Nam từ ASEAN (năm 1996), trong đó nhiều mặt hàng được bảo hộ với mục đích tăng thu Ngân sách thông qua thuế nhập khẩu (như nhiên liệu, thu phát truyền thanh, truyền hình, xe dưới 16 chỗ, hàng tiêu dùng đã qua sử dụng...). Điều này có nghĩa là Việt Nam đang bảo hộ cho khoảng 41% mậu dịch với ASEAN khỏi sự điều chỉnh của AFTA. 3.2. Cam kết trong lĩnh vực nông nghiệp Bảng 1: Lịch trình giảm thuế theo CEPT/AFTA của Việt Nam đối với các sản phẩm nông, lâm nghiệp chính Ngành hàng 1999 2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 Gạo 20% 20% 20% 20% 15% 10% 5% Cà phê: Sơ chế Thành phẩm 15% 35% 10% 25% 10% 20% 10% 15% 5% 15% 10% 10% 5% Chè: Sơ chế Thành phẩm 15% 40% 15% 30% 10% 20% 10% 15% 5% 15% 10% 10% 5% Cao su 3% 3% 3% 3% 3% 3% 3% Rau quả: Rau, củ Quả 20% 20% 15% 20% 15% 20% 10% 15% 5% 15% 15% 10% 5% Hạt điều 20% 15% 15% 15% 10% 10% 10% 5% Cây có dầu 10% 10% 10% 10% 10% 5% Đường 35% 40% Gỗ 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% 5% Thịt lợn 15% 15% 15% 15% 15% 10% 10% 5% Nguồn: Nghị định 78/2003CP(ngày 01/07/2003) - Công báo(Ngày 22/07/2003) Tính đến 31/12/2000, tổng số các mặt hàng nông sản có trong danh mục Biểu thuế ưu đãi hiện hành của Việt Nam là 840 dòng thuế, trong đó: có 51 dòng thuế thuộc Danh mục SL, 17 dòng thuộc Danh mục GEL, 569 dòng thuế đã đưa vào thực hiện cắt giảm IL và 203 dòng thuế thuộc Danh mục TEL. Như vậy, có thể thấy phần lớn các mặt hàng nông sản của ta đã được đưa vào thực hiện cắt giảm. Đó chủ yếu là những mặt hàng mà ta có thế mạnh xuất khẩu như: thuỷ hải sản tươi sống, cà phê, chè, hạt tiêu, hạt điều, rau quả tươi,... Những mặt hàng hiện chưa được đưa vào Danh mục cắt giảm ngay, chủ yếu là nông sản chế biến mà ta chưa có khả năng cạnh tranh. Việc đưa những mặt hàng này vào Danh mục TEL để chuyển vào cắt giảm ở những năm cuối (2001-2003) và Danh mục SL (2004-2006) là nhằm mục đích giúp các ngành sản xuất trong nước có thời gian để chuẩn bị, nâng cấp đầu tư sản xuất và cạnh tranh với hàng hoá ASEAN nhập khẩu khi thị trường được mở cửa hoàn toàn vào năm 2006. II. cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phảI Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp việt nam trong điều kiện hội nhập afta 1. Khái niệm cơ cấu kinh tế và điều chỉnh cơ cấu kinh tế 1.1.Cơ cấu kinh tế Cơ cấu kinh tế là một khái niệm thường được các nhà kinh tế sử dụng và được hiểu là một tổng thể hệ thống kinh tế gồm nhiều yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, có quan hệ tương tác với nhau trong một không gian, thời gian nhất định, trong điều kiện kinh tế, xã hội nhất định và được thể hiện cả ở mặt định tính lẫn định lượng, cả về số lượng và chất lượng. Khi nghiên cứu về cơ cấu kinh tế và thực hiện các giải pháp nhằm điều chỉnh cơ cấu kinh tế, người ta thường xét tới cơ cấu ngành, cơ cấu vùng và cơ cấu thành phần kinh tế. Ba bộ phận cơ bản hợp thành của cơ cấu kinh tế này có quan hệ chặt chẽ với nhau. Cơ cấu ngành và cơ cấu thành phần chỉ có thể chuyển dịch đúng đắn trên phạm vi không gian lãnh thổ cả nước. Đồng thời, việc phân bố sản xuất theo không gian lãnh thổ một cách hợp lý có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy phát triển các ngành và thành phần kinh tế trên lãnh thổ. 1.2. Điều chỉnh cơ cấu kinh tế Trong quá trình phát triển, cơ cấu kinh tế luôn thay đổi tuỳ theo từng thời kỳ do tính không cố định của các yếu tố hợp thành. Đó là sự thay đổi về số lượng của các ngành hoặc sự thay đổi về quan hệ tỷ lệ giữa các ngành, các vùng do tốc độ tăng trưởng không đều của các yếu tố cấu thành trong cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế thay đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác cho phù hợp với môi trường phát triển tạo ra sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế này không chỉ đơn thuần là chuyển dịch về vị trí mà còn là sự thay đổi về lượng và chất của cơ cấu kinh tế. Nội dung của chuyển dịch cơ cấu kinh tế là cải tạo cơ cấu cũ, lạc hậu để hình thành một cơ cấu tiên tiến, hoàn thiện, phù hợp hơn với những thay đổi của điều kiện kinh tế, xã hội đất nước (tăng tỷ trọng của ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ trọng của ngành nông nghiệp trong GDP cả nước). Như vậy, chuyển dịch cơ cấu kinh tế là quá trình liên tục và về thực chất đó là sự điều chỉnh cơ cấu thể hiện ở cả ba nội dung là cơ cấu ngành (nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ), cơ cấu thành phần và cơ cấu vùng lãnh thổ. 2. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp và sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam trong điều kiện hội nhập AFTA 2.1. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp Khu vực nông nghiệp và nông thôn đóng vai trò quan trọng trong sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt đối với các nước đang phát triển do nông nghiệp có đóng góp lớn vào giá trị GDP của toàn bộ nền kinh tế, vào nguồn thu ngoại tệ của đất nước và vào giải quyết việc làm cho lực lượng lao động xã hội. Vì vậy, việc xây dựng một cơ cấu kinh tế nông nghiệp phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế xã hội của đất nước trong bối cảnh mở cửa và hội nhập vào AFTA không những là mục tiêu mà còn là yêu cầu bức bách đối với một nước đang phát triển như Việt Nam. Sản xuất nông nghiệp theo nghĩa rộng bao gồm cả nông nghiệp, lâm nghiệp và ngư nghiệp. Vì vậy, cơ cấu sản xuất nông nghiệp bao gồm cả cơ cấu sản xuất theo ngành (nông - lâm - ngư nghiệp) và nội bộ ngành (trồng trọt và chăn nuôi đối với ngành nông nghiệp, nuôi trồng và khai thác đối với ngành lâm, ngư nghiệp); cơ cấu vùng chuyên môn hoá theo lãnh thổ ở khu vực nông thôn. Trong quá trình vận động và phát triển, cơ cấu sản xuất nông nghiệp luôn được điều chỉnh cho phù hợp với các yêu cầu mới của điều kiện kinh tế xã hội, khoa học, kỹ thuật, công nghệ và môi trường đất nước. 2.2. Sự cần thiết phải điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam trong quá trình hội nhập vào AFTA Trong nền kinh tế thị trường, người sản xuất nông nghiệp luôn phải hướng ra thị trường, phải xuất phát từ quan hệ cung - cầu hàng hoá trên thị trường để định hướng chiến lược và chính sách sản xuất kinh doanh của mình. Sự hình thành và biến đổi nhiệm vụ sản xuất kinh doanh của người sản xuất nông nghiệp để thích ứng với các điều kiện mới của thị trường dẫn tới từng bước hình thành và chuyển dịch cơ cấu sản xuất ngành nông nghiệp của đất nước. Như vậy, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình Việt Nam mở cửa hội nhập AFTA là một tất yếu khách quan. Nền nông nghiệp nước ta trong giai đoạn vừa qua tuy đã có nhiều biến chuyển tích cực theo hướng sản xuất hàng hoá, tuy nhiên, sản xuất nông nghiệp Việt Nam vẫn mang nặng tính tự phát, chưa theo quy hoạch và định hướng thống nhất. Chính thực tế này đã tạo những nghịch lý đáng buồn: khi được mùa thì giá nông sản xuống thấp, ngược lại khi mất mùa thì giá nông sản lên cao, gây thiệt hại lớn cho bà con nông dân. Mặt khác, khi giá một loại nông sản trên thị trường xuất khẩu lên cao, các hộ nông dân ồ ạt chặt các cây trồng truyền thống, trồng các loại cây mới một cách tự phát, thiếu quy hoạch, thiếu phương phương pháp khoa học. Thực tế này dẫn tới chất lượng sản phẩm làm ra không đạt yêu cầu, giá xuất khẩu giảm mạnh hoặc không có người mua, người nông dân không biết làm gì với sản phẩm mình làm ra. Hệ quả tất yếu là người nông dân một lần nữa lại chặt bỏ loại cây mới trồng, gây nên những thiệt hại lớn về kinh tế, tạo ra bất ổn về chính trị, xã hội. Hơn thế nữa, sau khi Việt Nam cam kết thực hiện quy định của AFTA về tự do thương mại hàng nông sản, hàng hoá nông phẩm của nước ta lại phải đối mặt với những thách thức mới. Các nước ASEAN do có vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên, khí hậu gần giống với Việt Nam với các loại nông phẩm xuất khẩu gần giống Việt Nam, nên khi CEPT/AFTA hoàn thành vào năm 2010 sẽ trở thành các đối thủ cạnh tranh thực sự của nông sản Việt Nam. Để có khả năng cạnh tranh, nền nông nghiệp nước ta phải tập trung sản xuất một số loại sản phẩm chủ lực, độc đáo, phù hợp với điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội đất nước với chất lượng tốt, giá thành hợp lý đủ khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Điều này chỉ có thể có được khi nền nông nghiệp được điều chỉnh một cách hợp lý phù hợp với quá trình tự do hoá kinh tế theo xu hướng hội nhập. Chính vì vậy, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Việt Nam là một tất yếu khách quan trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế mà AFTA là bước đi đầu tiên. Vấn đề này cũng đã được khẳng định trong Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc IX “chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá lớn, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của hàng nông sản trên thị trường”, và trong Nghị quyết 09/2000/NQ - CP ngày 15/06/2000 của Chính phủ về một số chủ trương, chính sách chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp: “Việc lựa chọn cơ cấu, quy mô và chủng loại sản phẩm các ngành hàng sản xuất nông nghiệp phải khai thác lợi thế của cả nước và từng vùng, bám sát nhu cầu trong nước và thế giới, phải có khả năng tiêu thụ được hàng hoá, có hiệu quả cao về kinh tế, xã hội, sinh thái.” 3. Các nhân tố tác động đến điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam Trong nền kinh tế thị trường mở theo hướng hội nhập AFTA hiện nay, cơ cấu sản xuất nông nghiệp Việt Nam được hình thành dưới tác động của hàng loạt các nhân tố chủ quan và khách quan, trong đó trước hết phải kể đến là: - Sự phát triển của các loại thị trường trong nước và quốc tế, nhất là thị trường hàng nông sản có tác động trực tiếp đến hình thành và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, do thị trường là yếu tố hướng dẫn và điều tiết các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và của người nông dân. - Các nguồn lực được phân bổ và sử dụng vào sản xuất nông nghiệp, việc phát huy lợi thế so sánh của đất nước là cơ sở để hình thành và chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp một cách có hiệu quả và bền vững nhất. Dựa trên cơ sở xác định lợi thế so sánh và các nguồn lực được phân bổ vào sản xuất để xác định và chuyển hướng mạnh mẽ sang phát triển các ngành có lợi thế và điều kiện phát triển, tạo đà cho hội nhập và tham gia vào quá trình phân công lao động quốc tế. - Sự phát triển và ứng dụng tiến bộ khoa học công nghệ vào sản xuất. Tiến bộ khoa học công nghệ cùng với các lợi thế so sánh khác trong điều kiện mở cửa và hội nhập có thể cho phép sản xuất ra sản phẩm chất lượng cao, giá thành hạ có sức cạnh tranh mạnh trên thị trường. Từ đó dẫn đến kết quả là làm chuyển dịch cơ cấu sản xuất theo hướng xuất khẩu. Tuy nhiên, ở nước ta, vai trò của khoa học công nghệ trong chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp còn phụ thuộc vào các yếu tố như chính sách khoa học công nghệ của nhà nước, thực trạng trang bị công nghệ của các ngành và khả năng đầu tư để đổi mới kỹ thuật công nghệ. - Môi trường thể chế là yếu tố cơ sở cho quá trình xác định và điều chỉnh cơ cấu kinh tế nói chung và cơ cấu sản xuất nông nghiệp nói riêng. Đường lối đối ngoại rộng mở, rõ ràng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế mà nước ta đang thực hiện rõ ràng có tác động quan trọng tới chuyển dịch cơ cấu sản xuất. Nhà nước xây dựng và quyết định chiến lược, kế hoạch phát triển kinh tế xã hội nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế xã hội cụ thể của đất nước mà về thực chất, đó là các định hướng phát triển, định hướng phân bổ nguồn lực và đầu tư theo ngành, vùng và lãnh thổ. Nhà nước thông qua hệ thống chính sách, luật pháp để khuyến khích hay hạn chế đối với các hoạt động sản xuất kinh doanh theo định hướng được xác định. Như vậy, sự đồng bộ và tính ổn định của môi trường thể chế có ý nghĩa quan trọng trong chuyển đổi cơ cấu ngành, cơ cấu thành phần kinh tế và cơ cấu lãnh thổ. IV. KINH NGHIệM ĐIềU CHỉNH CƠ CấU SảN XUấT NÔNG NGHIệP TRONG QUá TRìNH HộI NHậP KHU VựC MậU DịCH Tự DO ASEAN (AFTA) CủA MộT Số NƯớc đông nam á 1. Điểm tương đồng giữa Việt Nam và các nước được phân tích Trong số 10 nước thành viên ASEAN, có 4 nước nông nghiệp phát triển khá là Thái Lan, Malaysia, Inđônêxia và Philippin. Do vậy, đề tài này sẽ tập trung khái quát những kinh nghiệm của họ trong việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA để tham khảo cho trường hợp Việt Nam, bởi mấy lý do sau: - Thứ nhất, nền nông nghiệp những nước này vẫn còn đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế đất nước và 5 nước (bao gồm cả Việt Nam) cùng đang chiếm thị phần khá lớn trên thị trường nông sản thế giới (chiếm tới 45% tổng lượng gạo xuất khẩu của thế giới, 80% lượng cao su xuất khẩu, chiếm thị phần lớn trong trong xuất khẩu cà phê và dầu ăn...) - Thứ hai, cả 5 nước ASEAN này đều có những điều kiện tự nhiên giống nhau, nên những mặt hàng mà các nước này là khách hàng của Việt Nam thì ít, những mặt hàng mà các nước đó là đối thủ cạnh tranh trong xuất khẩu với nước ta (gạo, cà phê, cao su, thuỷ sản, hạt tiêu) thì nhiều. Tuy nhiên nếu căn cứ vào tỷ trọng của nông nghiệp, thì vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế của mỗi nước có khác nhau, cụ thể: Trong số các nước kể trên, nông nghiệp Việt Nam có vai trò quan trọng hơn cả đối với nền kinh tế đất nước bởi tỷ lệ lao động nông nghiệp và cơ cấu GDP nông nghiệp cao nhất. Tiếp sau Việt Nam là Thái Lan và cuối cùng là Malaysia. Malaysia đạt trình độ công nghiệp hoá cao nhất, thể hiện ở chỉ tiêu GDP/người lớn nhất, còn các chỉ tiêu về tỷ lệ lao động, cơ cấu nông nghiệp trong GDP thì thấp nhất. Bảng 2: Vai trò của nông nghiệp trong nền kinh tế 4 nước ASEAN và Việt Nam (năm 2001) Nước GDP/người (USD) %Lao động nông nghiệp %GDP nông nghiệp %tăng GDP nông nghiệp Malaysia 3.678,8 18,4 8 1.9 Thái Lan 1874 48,8 10 3.6 Philippin 927,6 37,4 15 1.9 Inđônêxia 680,2 45,3 16 2.8 Việt Nam 427,8 76,8 23,6 4.2 Nguồn: Tư liệu kinh tế các nước thành viên ASEAN, NXB Thống kê, HN 2002, tr. 12, 62 Trong khi đó, tại Việt Nam mức độ đóng góp của nông nghiệp vào GDP, tỷ lệ lao động nông nghiệp trong lực lượng lao động xã hội vẫn rất lớn. Tại Việt Nam và Thái Lan còn tương ứng 69% và 50% lực lượng lao động tìm kiếm việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp (ở Malaysia, chỉ có 16% lực lượng lao động được thu hút vào sản xuất nông nghiệp). Ngành nông nghiệp của 2 nước Philippin và Inđônêxia cũng là khu vực giải quyết việc làm cho trên 40% lực lượng lao động xã hội. Bảng 3: Sản lượng một số sản phẩm nông nghiệp chủ lực của 4 nước ASEAN và Việt Nam năm 2001 (Đơn vị:1000tấn) Inđônêxia Malaysia Philippin Thái Lan Việt Nam Lúa 50.096 2.215 12.954,9 25.200 31.970,2 Mía 23.500 1.600 28.237,9 49.070 14.325,4 Ngô 9.090 67 4.525 4.673 2.122,9 Cao su 1.650 700 73 2.380 300,7 Cà phê 376,8 12,5 129,8 90 843,9 Nguồn: Tư liệu thống kê KT – XH các nước thnàh viên ASEAN, NXB Thống kê, HN 2002, tr. 294, 312, 352, 339, 401. Do điều kiện tự nhiên, thời tiết khí hậu tương đối giống nhau nên một số mặt hàng nông sản có ý nghĩa quan trọng trong nông nghiệp nước này cũng là sản phẩm chủ yếu của nước kia. Chẳng hạn, gạo không chỉ là mặt hàng quan trọng trong nông nghiệp Việt Nam mà còn đối với Thái Lan, Inđônêxia; dầu cọ đối với Inđônêsia và Thái Lan .v.v. 2. Kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của các nước ASEAN trong quá trình hội nhập AFTA 2.1. Tập trung sản xuất những nông phẩm có lợi thế cạnh tranh Trong thương mại quốc tế, các nước đều cố gắng phát huy lợi thế so sánh của mình để sản xuất những mặt hàng nông sản có chất lượng cao, giá thành thấp, đủ sức cạnh tranh trên trị trường quốc tế. Sản xuất nông nghiệp của các nước ASEAN trong điều kiện mở cửa và hội nhập AFTA cũng được điều chỉnh theo quy luật đó. + Thái Lan: chuyển đổi sản xuất nông nghiệp theo hướng đa dạng hoá sản phẩm để giảm bớt rủi ro về thị trường xuất khẩu và ổn định tiêu dùng trong nước. Chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Thái Lan đã phản ánh rõ nét định hướng phát triển thương mại đa dạng hoá sản phẩm, phát huy lợi thế so sánh. So với năm 1990, cơ cấu sản phẩm nông nghiệp Thái Lan hiện nay đã có sự thay đổi đáng kể: số lượng các sản phẩm chăn nuôi, cao su, cây ăn quả tăng nhanh đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của thị trường trong và ngoài nước, trong khi các sản phẩm truyền thống như lúa gạo, ngô, sắn đậu tương giảm nhanh. Trong 10 năm qua, Thái Lan đã giảm mạnh việc xuất khẩu ngô từ trên 1 triệu tấn/năm xuống còn 100 ngàn tấn/năm, nhập khẩu đậu tương tăng mạnh từ 57 nghìn tấn lên 750 ngàn tấn để đáp ứng nhu cầu sản xuất thức ăn gia súc tăng nhanh trong nước. Gạo - mặt hàng xuất khẩu quan trọng của Thái Lan, với khối lượng xuất khẩu tăng liên tục trong 10 năm qua, thì trong vòng 3 - 4 năm gần đây lại có xu hướng giảm dần. Xuất khẩu đường cũng đang có xu hướng chững lại. Trong khi đó, xuất khẩu một số mặt hàng khác lại tăng mạnh như thuỷ sản, hạt tiêu, rau quả, hoa. Hiện nay Thái Lan đang đứng đầu thế giới về xuất khẩu gạo, về sản xuất và xuất khẩu cao su, tôm sú, đứng thứ ba về xuất khẩu đường. + Khác với Thái Lan, Malaysia lại thực hiện điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng tập trung vào sản xuất cây công nghiệp phục vụ xuất khẩu, như: cọ dầu, cao su, ca cao - những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao. Ba loại cây này chiếm tới 77% diện tích đất nông nghiệp cả nước và đóng góp tới 71% GDP nông nghiệp (riêng cọ dầu chiếm tỷ lệ gần 40% GDP nông nghiệp). Ngoài ra, Malaysia còn chú trọng phát triển cây lúa nước, dừa và hoa quả (lúa gạo và hoa quả chiếm tới 10% GDP nông nghiệp), các cây trồng khác như: cà phê, mía đường .v.v. chỉ chiếm một phần nhỏ diện tích đất nông nghiệp. Hơn 10 năm qua, cây cọ dầu là cây phát triển mạnh nhất với lượng sản xuất và xuất khẩu đều tăng nhanh, trong khi đó cây cao su và ca cao có xu hướng giảm dần. Do chăn nuôi phát triển nhanh dẫn tới nhu cầu về ngô, đậu tương làm thức ăn gia súc tăng mạnh (mặc dù sản xuất ngô và đậu tương trong nước vẫn tăng liên tục nhưng Malaysia vẫn phải nhập khẩu nhiều với lượng nhập khẩu tăng đều qua các năm). Malaysia chủ trương tập trung vào một số sản phẩm có lợi thế so sánh, còn những sản phẩm khác sẽ được nhập khẩu để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước (nhập khẩu đường, đậu tương, gạo tăng đều trong những năm gần đây). Là nước có nguồn tài nguyên về lâm nghiệp lớn trên thế giới, trong thập kỷ gần đây Malaysia đang chuyển mạnh từ xuất khẩu gỗ xẻ, gỗ ván sang xuất khẩu đồ gia dụng, gỗ xây dựng và ván sàn. Việc làm này không những đã làm tăng nhanh giá trị gia tăng hàng xuất khẩu của Malaysia, mà còn nâng cao được khả năng cạnh tranh của sản phẩm gỗ Malaysia trên thị trường quốc tế. Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp ở Malaysia được thực hiện theo hướng chuyên môn hoá sản xuất hàng hoá cao, gắn sản xuất và tiêu dùng trong nước với thị trường quốc tế. Nông nghiệp của Malaysia tập trung vào phát triển theo mô hình trang trại, đồn điền tư bản nông nghiệp với quy mô sản xuất lớn, ứng dụng công nghệ cao, tập trung sản xuất một số cây công nghiệp xuất khẩu. Các trang trại gắn bó chặt chẽ với các cơ sở nghiên cứu triển khai (R&D) để nhanh chóng ứng dụng và hưởng lợi từ kết quả nghiên cứu khoa học. Mặt khác, Malaysia rất chú trọng đầu tư cho công nghiệp chế biến nông sản chế biến, nhờ thế đã nâng cao được giá trị xuất khẩu, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nông sản. Với các làm này, Malaysia đã tạo ra được nhiều sản phẩm hàng hoá mũi nhọn xuất khẩu với khối lượng lớn, giá thành hạ, chất lượng cao có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên, hiện nay do tập trung vào một số mặt hàng cây công nghiệp xuất khẩu, nên nông nghiệp của Malaysia luôn phải đối phó với những thay đổi trên thị trường quốc tế về những sản phẩm mà trong nước không sản xuất hoặc sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng. + Inđônêxia: là quốc đảo đông dân, nên thị thường tiêu dùng trong nước luôn tạo ra sức ép lớn đối với kinh tế. Bởi vậy, một mặt nước này vẫn duy trì mức độ vừa phải chiến lược đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, măt khác, vẫn tập trung mũi nhọn vào những mặt hàng chủ lực, như: lúa gạo, cọ dầu, dừa, cao su, cà phê, đường, ca cao, hàng lâm sản.v.v. Inđônêxia chủ trương hướng mạnh vào sản xuất các mặt hàng có lợi thế so sánh như: lâm nghiệp, chăn nuôi và thuỷ sản, trong khi đó các loại cây lương thực chỉ có tốc độ tăng bình quân hàng năm khoảng trên 1,5%. Các ngành lâm nghiệp, trồng cây công nghiệp, chăn nuôi và thuỷ sản của Inđônêxia phát triển mạnh đem lại tăng trưởng khá (gần 3%) cho nông nghiệp. Trong những năm gần đây, sản xuất cọ dầu của Inđônêxia tăng mạnh do giá dầu cọ trên thị trường thế giới lên cao (bằng các biện pháp như: giảm mạnh đất trồng cà phê và sắn để chuyển sang trồng cọ dầu), trong khi hầu hết các cây trồng khác tăng trưởng không đáng kể. Bên cạnh đó Inđônêxia còn có thế mạnh về sản xuất, xuất khẩu các nông sản khác như: hạt tiêu, hoa quả, gỗ và các sản phẩm từ gỗ, tôm, đường, cá ngừ.v.v. Inđônêxia hiện đang đứng đầu thế giới về sản xuất hạt tiêu trắng và thứ hai thế giới về sản xuất hạt tiêu đen với sản lượng lên tới 22 ngàn tấn/năm. Trong những năm gần đây, xuất khẩu dầu cọ và cao su của Inđônêxia tăng tương đối ổn định, tuy nhiên nước này vẫn phải nhập khối lượng lớn lương thực (gạo, mỳ), đường 1 triệu tấn/năm) và nguyên liệu làm thức ăn gia súc (3triệu tấn/năm). + Nông nghiệp của quần đảo Philippin phát triển hướng vào khai thác thế mạnh về chăn nuôi và nuôi trồng thuỷ sản. Ngành chăn nuôi chiếm khoảng 24% giá trị sản lượng nông nghiệp và có tốc độ tăng trưởng bình quân trên 5%/năm trong hơn một thập kỷ qua. Hiện nay, Philippin đang đứng thứ 12 thế giới về nuôi trồng thuỷ sản, và chỉ riêng ngành này đã đóng góp tới 15% GDP nông nghiệp cả nước. Phần lớn diện tích đất nông nghiệp của nước này được dùng để trồng lúa (chiếm 40% diện tích đất nông nghiệp và tạo ra 22% giá trị GDP nông nghiệp). Chính phủ đã tập trung đầu tư 1/3 ngân sách nông nghiệp cho vùng Miđanao để biến vùng này thành vùng chuyên canh lúa của đất nước, nhưng hàng năm nước này vẵn phải nhập khẩu khối lượng khá lớn lương thực (trên 1 triệu tấn/năm) làm thức ăn chăn nuôi. Dừa cũng là cây trồng chính trong nông nghiệp của Philippin. 90% sản lượng dừa được chế biến thành cùi dừa khô, trong số đó 5% để xuất khẩu, số còn lại được chế biến thành dầu ăn và dầu công nghiệp. Mía đường cũng là cây trồng quan trọng của Philippin do nước này được xuất khẩu theo quota ưu đãi vào thị trường Mỹ. Nhưng gần đây, cả diện tích mía đường và dừa đều có xu hướng thu hẹp lại để mở rộng diện tích các loại cây trồng có hiệu quả cao hơn như: cà phê, cây ăn quả (xoài, dứa.v.v.). Sản phẩm nông sản xuất khẩu chủ yếu của Philippin là dầu dừa, đường, chuối, dứa, cà phê, cá hồi với kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4tỷ USD/năm. 2.2. Điều chỉnh cơ cấu nông nghiệp bám sát nhu cầu thị trường trong nước và xuất khẩu Xu thế phát triển và điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp chung của các nước là: Từ độc canh sang đa canh; từ trồng cây hàng năm sang trồng cây lâu năm, cây ăn quả, cây công nghiệp; từ sản xuất, xuất khẩu nguyên liệu thô sang xuất khẩu nông sản đã qua chế biến; đẩy mạnh phát triển chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản; chuyển từ tự túc lương thực sang cân đối lương thực thông qua thương mại quốc tế. Một số cây trồng truyền thống không có thị trường tiêu thụ cũng bị thay thế dần (ví dụ như cây sắn ở Thái Lan; mía, dừa ở Philippin; đậu tương của Malaysia). Điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp để thích ứng với những biến động của thị trường thế giới không phải là điều dễ dàng, nhưng trong điều kiện mở cửa và hội nhập AFTA hiện nay, chấp nhận sản xuất một số sản phẩm mũi nhọn mà nước mình có lợi thế trong cạnh tranh, chuyển sang nhập khẩu những mặt hàng ít có khả năng cạnh tranh, buộc các nước ASEAN đã nêu phải có những biện pháp điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của mình một cách có hiệu quả nhất, tạo thế ổn định sản xuất trong điều kiện thị trường luôn biến động. Thái Lan là một ví dụ điển hình: Trong những năm 1950 và 1960, sản xuất nông nghiệp của nước này mang nặng tính chất tự cung tự cấp, nông nghiệp phát triển chủ yếu dựa vào quảng canh do quỹ đất nông nghiệp còn lớn, cơ sở cho sản xuất nông nghiệp còn lạc hậu. Trong thời kỳ này, Thái Lan thực hiện chiến lược thay thế hàng nhập khẩu nên sản suất nông nghiệp chủ yếu hướng vào thị trường nội địa. Đến giữa những năm 1970, chiến lược thay thế hàng nhập khẩu được thay bằng chiến lược hướng vào xuất khẩu. Trong điều kiện cơ sở hạ tầng đã được nâng cấp đáng kể, các tiến bộ của cuộc “cách mạng xanh” được ứng dụng vào sản xuất nên cơ cấu cây trồng được thay đổi mạnh mẽ. Đến thập kỷ 80 Thái Lan chủ trương thực hiện chiến lược đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng giảm tỷ lệ của cây trồng truyền thống có giá trị kinh tế thấp (lúa gạo), tăng tỷ lệ các cây trồng mới (rau, hoa quả, cây có dầu, chăn nuôi lợn, gia cầm.v.v.) để khai thác hết nội lực về vốn và lao động, đồng thời đối phó với hiện tượng giá cả xuống thấp và rủi ro thị trường của các nông sản xuất khẩu truyền thống. Do vậy diện tích trồng lúa giảm mạnh từ trên 90% (năm 1965) xuống còn 62% (năm 1988) và 50% (năm 1998). Sự đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp kéo theo sự thay đổi cơ cấu xuất khẩu nông sản. Xuất khẩu gạo từ chỗ chiếm 45% tổng kim ngạch xuất khẩu (năm 1953) đã giảm xuống còn 8% (năm 1992) và 3% (năm 1998). Để tăng khả năng cạnh tranh và thích nghi trong quá trình hội nhập AFTA, tăng tính hiệu quả của sản xuất trong điều kiện hạn chế về cơ sở hạ tầng và chi phí sản xuất gia tăng, Chính phủ Thái Lan tăng cường khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp và khu vực nông thôn nên vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng nông nghiệp 2%-3%/năm, kể cả trong thời kỳ khủng hoảng tài chính tiền tệ (1997-1998). 2.3. Thực hiện cải tổ để đương đầu với thử thách + Inđônêxia: Trong thời kỳ khủng hoảng tài chính - tiền tệ khu vực, các nước ASEAN đều trực tiếp bị tác động, trong đó Inđônêxia là nước bị thiệt hại nặng nhất. Tình hình chính trị mất ổn định, thiên tai và cháy rừng lại liên tiếp xảy ra làm cho nông nghiệp nước này bị thiệt hại nặng nề. Mức sống của 130 triệu trong tổng số 205 triệu dân của của nước này tụt xuống dưới mức nghèo khổ, 38 trên tổng số 90 triệu lao động bị thất nghiệp, tỷ lệ lạm phát tăng nhanh, thu nhập bình quân/người giảm từ 1080 USD đầu những năm 90 xuống còn 480 USD vào năm 1998. Chính phủ mới của Inđônêxia đã phải thực hiện những cải tổ sâu sắc nhằm đem lại lòng tin và tăng cường thu hút vốn đầu tư vào sản xuất nông nghịêp đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các hộ nông dân có quy mô sản xuất nhỏ giảm tỷ lệ nghèo đói phát triển sản xuất hàng hoá, cụ thể như: Xoá bỏ sự độc quyền của Cục hậu cần Quốc gia Inđônêxia (BULOG) trong nhập khẩu lúa mỳ, bột mỳ, đậu tương, tỏi, gạo. Cắt giảm thuế quan đối với tất cả các hàng thực phẩm xuống mức cao nhất là 5%. Loại bỏ cản trở đối với việc buôn bán, vận chuyển nông sản hàng hoá. Thực hiện tự do buôn bán nông phẩm giữa các vùng. Bên cạnh đó, Chính phủ Inđônêxia còn thực hiện cải cách trong một số lĩnh vực khác để hỗ trợ giảm đói nghèo cho nông dân và tăng cường nguồn lực cho khu vực nông nghiệp, như: Chính sách đảm bảo giá sàn theo từng vùng để hỗ trợ nông dân thay cho việc bảo hộ người tiêu dùng trước đây; Nhà nước đảm bảo thu mua sản phẩm hàng hoá của nông dân làm ra với giá sàn khi giá nông sản xuống thấp; Cắt trợ giá cho người tiêu dùng đối với sản phẩm đường, đậu tương, lúa mỳ, sản phẩm sữa, bột cá; trợ giá tiêu dùng đối với sản phẩm gạo cho nhóm dân cư nghèo nhất; mở rộng tự do buôn bán thực phẩm; chuyển từ cơ chế quản lý hành chính sang các công cụ tài chính - thị trường để quản lý lương thực và ổn định giá cả; Cắt bỏ rào cản phi thuế quan trong thị trường hàng nông sản để tạo điều kiện cho các hộ sản xuất quy mô nhỏ có cơ hội tăng thu nhập; Tự do hoá thương mại phân bón, hoá chất nông nghiệp, giống; tư nhân hoá nhà máy phân bón, chấm dứt trợ giá và bao cấp cho các nhà máy phân bón trong nước; Đẩy mạnh công tác nghiên cứu giống, chấm dứt sự độc quyền của các công ty giống Nhà nước để các thành phần kinh tế khác tham gia thị trường này; Loại bỏ độc quyền phân bón và vật tư nông nghiệp, tiêu thụ sản phẩm nông sản của các HTX, chuyển các HTX thành các tổ chức kinh doanh hiện đại hoạt động trên nguyên tắc cạnh tranh; Tăng mức cho vay tín dụng đối với nông dân từ 1,4 triệu Rp/ha lên 2 triệu Rp/ha, tăng tổng lượng tín dụng cho vay từ 1,9 nghìn tỷ Rp lên 3,4 nghìn tỷ Rp; Tăng hiệu quả công tác thuỷ lợi, nâng cao công suất các trạm bơm.v.v. Để khắc phục tình trạng bất ổn về lương thực, bắt đầu từ tháng 7/1998 Chính phủ chủ trương hỗ trợ trực tiếp cho người nghèo đói theo chế độ tem phiếu, các hộ được mua 10 kg gạo/tháng theo giá ưu đãi xấp xỉ 25% giá thị trường (trên 3 triệu hộ với 17 triệu người nghèo được hưởng lợi từ Chương trình này). + Philippin: Thay đổi chính sách đối với nông nghiệp từ bảo trợ sản xuất trong nước sang tăng cường cạnh tranh. Trước đây, Nhà nước thực hiện trợ giá lúa, ngô, hỗ trợ tín dụng, hạn chế nhập khẩu nông sản, tự do nhập khẩu vật tư, bao cấp cho hệ thống khuyến nông của Chính phủ. Đến năm 1998, Nhà nước đã ban hành Luật hiện đại hoá nông ngư nghiệp (AFMA) với nội dung chính bao gồm: chuyển hướng sản xuất sang dựa vào tài nguyên sang dựa vào công nghệ; đảm bảo cho mọi người tham gia sản xuất có khả năng tiếp cận công bằng đối với các loại tài sản, tài nguyên, dịch vụ; phát triển cây trồng có giá trị kinh tế cao, tăng cường công tác chế biến để tăng giá trị hàng hoá, phát triển công nghiệp nông thôn; đảm bảo an ninh lương thực; khuyến khích liên kết kinh tế thông qua các tổ chức HTX, hiệp hội, công ty, trang trại...; tăng cường phát triển tài nguyên, nguồn nhân lực thông qua các tổ chức nhân dân: HTX, các NGO, xây dựng cơ chế nối kết giữa các tổ chức này với quá trình ra quyết định của Chính phủ; đẩy mạnh định hướng thị trường để phát triển khả năng cạnh tranh của nông nghiệp trên thị trường ASEAN và quốc tế. Từ tháng 3 năm 1998, Luật này có hiệu lực và đã trở thành trọng tâm chiến lược phát triển nông nghiệp hiện nay của Philippin. Luật hiện đại hoá nông ngư nghiệp là một tổ hợp các chính sách liên quan đến lĩnh vực sản xuất, tiếp thị, sử dụng tài nguyên, nguồn nhân lực, nghiên cứu chuyển giao, khuyến nông, phát triển kinh tế nông thôn, tài chính thương mại, do Bộ nông nghiệp làm điều phối viên với sự tham gia của Bộ khoa học công nghệ, Bộ giao thông.v.v. với các biện pháp cụ thể như: Xác định vùng chuyên canh để tại đó xây dựng các nhà máy chế biến, hệ thống thuỷ lợi, thông tin, tiếp thị, giám sát chất lượng để phục vụ sản xuất các mặt hàng nông sản chiến lược. Hình thành hệ thống giáo dục địa phương hoàn chỉnh từ tiểu học đến trung học, dạy nghề gắn với mạng lưới giáo dục trung tâm quốc gia, phục vụ nông nghiệp và ngư nghiệp của đất nước theo nhu cầu của sản xuất. Tăng cường vốn đầu tư cho công tác nghiên cứu,chuyển giao, áp dụng công nghệ và khuyến nông từ 0,2% lên 1% tổng giá trị gia tăng của toàn ngành. Triển khai chương trình phát triển công nghiệp nông thôn tạo ra các ưu đãi khuyến khích các nhà đầu tư, các doanh nghiệp bỏ vốn vào ngành chế biến nông sản, đồng thời phân cấp cho chính quyền địa phương thực hiện hỗ trợ đầu tư và tiếp thị. Giảm thuế đối với vật tư, thiết bị nhập khẩu của các doanh nghiệp nông ngư nghiệp. Bộ Nông nghiệp Philippin cũng thông qua nhiều chương trìnhphát triển sản xuất và bảo quản sau thu hoạch trong chương trình lương thực, tiến hành các dự án thuỷ lợi như đập ngăn nước, hệ thống giếng khoan thuỷ lợi, hỗ trợ sau thu hoạch, bao gồm: xây dựng các hè phơi sấy đa năng, phân phối máy sấy nhỏ nhằm khịp thời sấy thóc; phân phối công cụ đo độ ẩm của ngô để kiểm soát aflatoxin; các thiết bị xay xát gạo, nhà kho, vận tải ... cũng được cải thiện. + Thái Lan: Phát triển nông nghiệp theo định hướng gắn với xuất khẩu của Thái Lan đã góp phần quan trọng trong việc tránh những tác động tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ vừa qua đồng thời đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng nông nghiệp. Tuy nhiên, trong điều kiện mở cửa và hội nhập mạnh mẽ vào AFTA hiện nay, nông nghiệp Thái Lan đang phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn, đó là: Việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp tuy đang diễn ra, nhưng tốc độ còn chậm, ngành trồng trọt vẫn chiếm tỷ trọng lớn (trong thập kỷ 90, giá trị gia tăng ngành trồng trọt đạt 61,3%, thuỷ sản - 11,7%, chăn nuôi - 10,6%); năng suất nông nghiệp vẫn còn thấp, chi phí sản xuất cao; cơ sở hạ tầng và trang thiết bị phục vụ sản xuất yếu kém, lạc hậu; cơ khí hoá nông nghiệp chỉ phát triển mạnh ở vùng trung tâm, còn ở các vùng phía Bắc và Đông Bắc lao động thủ công có sử dụng sức trâu bò vẫn chiếm ưu thế. Các nguồn tài nguyên bị khai thác kém hiệu quả trong khi mâu thuẫn giữa mục tiêu thương mại và bảo vệ môi trường sinh thái đang ngày càng trở nên gay gắt; đội ngũ cán bộ khoa học yếu kém, nhất là trong nghiên cứu cơ bản. Vào tháng 6 năm 1999 Chính phủ đã đưa ra chương trình đầu tư theo chiều sâu nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh của 12 mặt hàng nông sản chủ lực, được phân chia thành 3 nhóm như sau: Nhóm hàng có khả năng cạnh tranh cao, bao gồm: gạo, sắn, cao su, tôm càng xanh, dứa. Nhóm có khả năng cạnh tranh trung bình, bao gồm: đường, dầu cọ, ngô, cà phê. Nhóm đặc sản, bao gồm: nhãn, sầu riêng, hoa phong lan. Xuất phát từ định hướng này, Chính phủ đã đề ra những giải pháp thích hợp cho từng nhóm hàng riêng biệt, xuyên suốt từ sản xuất, chế biến đến tiêu thụ, chú trọng vào công tác nghiên cứu khoa học, nâng cao chất lượng, tăng cường tín dụng ưu đãi trung và dài hạn, tăng cường đầu tư cho thuỷ lợi và khoa học kỹ thuật. Nhờ nhanh chóng điều chỉnh chính sách để đương đầu với khó khăn, đồng thời tranh thủ thời cơ do cuộc khủng hoảng gây ra, do vậy trong lúc các lĩnh vực khác rơi vào khủng hoảng thì nông nghiệp nước này vẫn đạt tốc độ tăng trưởng 3%/năm. Tỷ giá đồng Bath được điều chỉnh hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi cho gia tăng xuất khẩu hàng nông sản. Nhờ đó tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng nông sản đã lên tới 33,6%. Ngoài ra, Chính phủ còn thực hiện trợ cấp trực tiếp cho hoạt động sản xuất và tiếp thị của nông dân thông qua “Quỹ hỗ trợ chính sách cho nông dân” (năm 1998 là 10 triệu Bath) giảm thuế xuất khẩu nông sản và thuế nhập khẩu nguyên liệu. Để tăng cường khả năng cạnh tranh của ngành công nghiệp chế biến nông sản trên thị trường quốc tế, Thái Lan hướng vào nâng cao chất lượng hàng nông sản xuất khẩu. Các nhà đầu tư phải thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh theo hệ thống tiêu chuẩn chất lượng và quản lý môi trường ISO 14000, nhờ vậy mà nhiều mặt hàng nông sản chế biến của Thái Lan đã đạt tiêu chuẩn quốc tế và dễ dàng vượt qua các rào cản thương mại, thâm nhập thành công vào các thị trường "khó tính "như EU, Mỹ, Nhật... Đầu tư tư nhân và liên doanh với nước ngoài tăng nhanh trong công nghiệp chế biến cao su và thuỷ sản. Năm 1998 xuất khẩu nông sản đã qua chế biến tăng 19%. Hầu hết các dự án đầu tư đều có công nghệ hiện đại, nhờ đó chất lượng và uy tín sản phẩm đã được nâng lên rõ rệt. Thái Lan hiện nay đang đang dẫn đầu thế giới về chế biến dứa, tôm và cá hồi đông lạnh (kim ngạch xuất khẩu năm 1998 đạt 611 triệu USD). Nhờ chất lượng đảm bảo, có uy tín nên Thái Lan dã dần giành được khách hàng của Inđônêxia và Malaysia. Hiệp hội cao su Thái Lan đã ký được hợp đồng đảm bảo cung cấp sản phẩm có chất lượng cao cho Nhật Bản. Tương tự, Thái Lan cũng đã khẩu thịt gà chế biến sang các nước Châu Âu và Nhật Bản. Thái Lan còn chủ trương xây dựng tỉnh Pattani thành trung tâm sản xuất thực phẩm cho thế giới đạo Hồi, nhờ phát hiện ra tiềm năng to lớn của thị trường 1,5 tỷ người tiêu dùng với sức mua 80 tỷ USD/năm. Dự kiến chương trình này sẽ xuất khẩu 10 tỷ USD trong vài năm tới. Chính phủ còn cung cấp kinh phí xây dựng cơ sở hạ tầng, khuyến khích đầu tư bằng thuế và tín dụng ưu đãi, giúp các nhà đầu tư nghiên cứu thị trường Ai Cập, Nam Phi, thống nhất với Inđônêxia và Malaysia về nhãn hiệu sản phẩm, quy cách quản lý chất lượng thực phẩm cho người tiêu dùng theo đạo Hồi ở các nước ASEAN. Đến nay đã có 221 nhà máy sản xuất các sản phẩm này đi vào hoạt động. + Malaysia: trong năm 2000, nước này đã tuyên bố Chiến lược phát triển nông nghiệp trong 10 năm tới với mục tiêu đưa nông nghiệp phát triển thành một lĩnh vực hiện đại, có trình độ thương mại hoá cao, thông qua việc thực hiện đồng bộ một hệ thống các chính sách với nội dung chính như sau: Tối ưu hoá việc sử dụng các nguồn tài nguyên, tập trung vào việc phục hồi, và cải tạo đất hoang, mở rộng, nâng độ màu mỡ của đất trồng cây hàng năm. Chính phủ đã xây dựng một quy hoạch sử dụng đất tổng thể, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn nước nhằm tăng năng suất cây trồng và duy trì nguồn tài nguyên cho tương lai. Phát triển các ngành công nghiệp chế biến gắn với sản xuất nông nghiệp dựa vào tài nguyên của từng địa phương để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thành phẩm. Đầu tư cho nghiên cứu và triển khai, trong đó nghiên cứu áp dụng công nghệ hiện đại là ưu tiên hàng đầu, tập trung vào các yếu tố: quản lý tài nguyên, phương pháp sản xuất, chế biến, đóng gói, phát triển giống cây trồng, vật nuôi, các nguồn vốn trong và ngoài nước. Cả Nhà nước và tư nhân được huy động để áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ cao trong trồng trọt và chăn nuôi. Chính sách khuyến khích bằng vật chất cũng được áp dụng để liên kết nghiên cứu, sản xuất và sử dụng tài nguyên địa phương. Đề cao vai trò của tư nhân trong quá trình chuyển đổi nông nghiệp thành lĩnh vực thương mại hoá, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Các kỹ năng quản lý, marketing, sử dụng nguồn vốn, mạng lưới phân phối của tư nhân được coi trọng. Nhiều quy định và chính sách hỗ trợ, tăng cường phát triển nông nghiệp dựa trên nguồn lực và sự linh hoạt của khu vực kinh tế tư nhân bao gồm cả các tổ chức của nông dân, ngư dân đã được ban hành. Các tổ chức này được khuyến khích tham gia thương mại, kể cả liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài. Đổi mới công tác tiếp thị, tìm kiếm và mở rộng thị trường. Theo các nhà hoạch định chính sách Malaysia, tốc độ phát triển của ngành nông nghiệp trong tương lai phụ thuộc và sự phát triển của công tác thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường: giữ vững thị trường truyền thống, mở rộng thị trường mới, đáp ứng được nhu cầu về số lượng và chất lượng của thị trường trong nước và ngoài nước. Sản phẩm nông nghiệp của Malaysia được định hướng vào những mặt hàng có năng lực cạnh tranh cao, tập trung vào các thị trường chuyên biệt, bám sát thị hiếu của khách hàng, kịp thời đáp ứng cầu thị trường. Nhà nước đề ra một loạt các biện pháp tổng thể như: truyền bá rộng rãi thông tin về thị trường; tổ chức nghiên cứu, phân tích, dự báo về các thị trường tiềm năng; xây dựng cơ sở hạ tầng, tăng cường giám sát chất lượng và tiêu chuẩn, khuyến khích các liên doanh với tư nhân trong công tác tiếp thị nông sản. Phát triển một ngành lương thực năng động, sẵn sàng đáp ứng tiềm năng to lớn của thị trường nội địa về hàng lương thực đã qua chế biến. Đó là tiềm năng về thay thế hàng nhập khẩu đáp ứng nhu cầu mới nảy sinh khi thu nhập của người tiêu dùng tăng lên. Malaysia đã đề ra một loạt các chính sách mới nhằm nâng cao chất lượng và dinh dưỡng của các thực phẩm đang được lưu hành trên thị trường. Để đạt được mục tiêu trên, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách cụ thể trong việc cải tạo giống cây trồng vật nuôi, tăng cường cơ khí hoá, cải thiện trình độ quản lý của các trang trại, giảm hao hụt sau thu hoạch, cố gắng đáp ứng 65% nhu cầu về lúa gạo trong nước vào năm 2010. Bên cạnh đó, Malaysia còn đẩy mạnh đánh bắt cá xa bờ, nuôi trồng thuỷ sản, phát triển ngành chăn nuôi hiện đại, chăn nuôi bò kết hợp với canh tác cọ dầu trong các hộ gia đình, mở rộng diện tích cây trồng làm thức ăn cho gia súc. Malaysia tập trung vào phát triển các cây trồng có lợi thế so sánh như cọ dầu, cao su. Quá trình cơ khí hoá, tự động hoá, áp dụng giống có năng suất cao, phát triển đất mới, nâng cao công tác quản lý... là nhằm hạ chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh trên thị trường dầu cọ và cao su thế giới. Nhằm hỗ trợ thực hiện chính sách cho ngành nông nghiệp, Nhà nước xây dựng một chương trình đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ hỗ trợ như: khuyến nông, tín dụng, áp dụng công nghệ mới, tiếp thị và phát triển các tổ chức của nông dân. 3. Một số vấn đề rút ra từ kinh nghiệm điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA của một số nước ASEAN Qua kinh nghiệm và thực tiễn trong điều chỉn cơ cấu nông nghiệp của các nước ASEAN như đã phân tích ở trên, chúng ta có thể nhận thấy rằng không có một mô hình phổ quát cho việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp trong quá trình hội nhập AFTA. Tuy nhiên, với trường hợp của Việt Nam, chúng ta có thể rút ra một số vấn đề cơ bản như sau: 3.1. Về lựa chọn chiến lược điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp Trong quá trình xây dựng chiến lược điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp, các nước đều có tính đến phân công lao động khu vực. Nghĩa là mỗi nước đều tập trung đầu tư cho một số mặt hàng mũi nhọn dựa trên các lợi thế sau: Lợi thế về điều kiện tự nhiên. Lợi thế về lao động. Lợi thế về công nghệ sản xuất và chế biến. Lợi thế về nhu cầu thị trường. Lợi thế về các yếu tố truyền thống. Cụ thể là, Malaysia đẩy mạnh sản xuất, chế biến dầu cọ, cao su, ca cao; Thái Lan thì lúa gạo, đường và thuỷ sản; Inđônêxia thì lâm nghiệp, chăn nuôi, thuỷ sản; Philippin thì chăn nuôi, thuỷ sản, lúa gạo... Rõ ràng sự khai thác lợi thế của từng nước có tính đến phân công lao động giữa các nước trong khối đã thúc đẩy tăng trưởng về chất, cũng như giảm chi phí, tăng năng suất lao động và nâng cao chất lượng sản phẩm, tiết kiệm vốn đầu tư, giúp cho việc đầu tư tập trung và có trọng điểm. 3.2. Phát triển sản xuất và chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng thị trường mở Để phát huy tối đa lợi thế so sánh, các nước đều tập trung vào sản xuất một hoặc một số sản phẩm nông nghiệp chính với khối lượng lớn, giá cả thấp, nhằm vươn ra thị trường thế giới, đồng thời chấp nhận nhập khẩu các mặt hàng nông nghiệp không có khả năng cạnh tranh hoặc nếu sản xuất thì giá trị gia tăng không lớn, hiệu quả kinh tế không cao so với việc sử dụng các nguồn lực trong nước tiến hành sản xuất các sản phẩm khác. Chẳng hạn Philippin sản xuất nhiều gạo phẩm cấp cao, nhưng lại nhập lương thực phẩm cấp thấp làm thức ăn cho gia súc, gia cầm. Thái Lan đang đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng nông sản đã qua chế biến nên tốc độ gia tăng xuất khẩu gạo chững lại, đồng thời giảm xuất khẩu ngô, tăng nhập khẩu đậu tương... 3.3. Duy trì và ổn định thị trường trong nước bằng những phương thức khác nhau Trong khi tập trung cho các mũi nhọn sản xuất và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực, các nước ASEAN vẫn chú ý tới việc duy trì và ổn định thị trường trong nước. Những nước có tiềm lực lớn về vốn và công nghệ thì tập trung hơn vào những ngành mũi nhọn để tăng cường xuất khẩu (như Malaysia). Còn những nước khác thì lựa chọn phương thức phát triển đa ngành, đa nghề, đa dạng hoá sản phẩm. Việc lựa chọn này, một mặt để ổn định thị trường rộng lớn, đông dân trong nước với nhu cầu ngày càng đa dạng của người tiêu dùng; mặt khác là để hạn chế rủi ro khi thị trường thế giới biến động. Điều này ta có thể thấy rất rõ ở những nước đông dân cư, lãnh thổ rộng lớn, như: Inđônêxia, Philippin, Thái Lan. 3.4. Về trường hợp của Việt Nam Việt Nam đã cam kết lịch trình thực hiện các quy định của AFTA bằng việc công bố Danh mục thực hiện cắt giảm thuế, theo đó ngành nông nghiệp Việt Nam có lịch trình hội nhập AFTA tương đối sớm hơn so với các ngành khác. Nếu xét về vấn đề lựa chọn mô hình điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp để hội nhập thành công, thì theo kinh nghiệm của các nước ASEAN đi trước, chúng ta nên thiên về đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp, có tính đến một số mặt hàng chủ lực, ít nhất cũng vì hai lý do sau: + Thứ nhất, Việt Nam là một nước đông dân với sự phân bố không đều trên nhiều loại địa hình, giao thông liên lạc chưa phát triển, làm cho việc vận chuyển lương thực, thực phẩm giữa các vùng khó khăn. Do vậy, chúng ta nên đa dạng hoá trồng trọt, chăn nuôi ở tất cả các vùng miền của đất nước để đáp ứng được những nhu cầu tối thiểu của người dân mỗi vùng. + Thứ hai, Việt Nam còn là nước nông nghiệp nhiệt đới, có nhiều tiểu vùng khí hậu thuận lợi cho nuôi trồng nhiều loại nông sản quý, độc đáo, rất được ưa chuộng trên thị trường thế giới. Đây là điều kiện tốt cho nước ta xây dựng một số mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực có khả năng cạnh tranh cao trong quá trình hội nhập khu vực mậu dịch tự do ASEAN- AFTA. Hy vọng rằng với những kinh nghiệm của các nước ASEAN đã nêu, việc điều chỉnh cơ cấu sản xuất nông nghiệp của Việt Nam sẽ được tiến hành một cách đúng đắn hợp lý, tạo nên cơ sở thuận lợi cho nền nông nghiệp nước ta vững vàng hội nhập AFTA.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docchuongI.doc
Tài liệu liên quan