Đề tài Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Thành Đô

Như vậy, trong năm loại rủi ro kể trên, rủi ro tín dụng là có tác động mạnh mẽ đến sự tồn tại của ngân hàng. nếu như cho vay là chức năng chính của nhà ngân hàng và nó đem lại nguồn lợi nhuận lớn thì đi kèm với nó rủi ro tín dụng cũng luôn thường trực và khi đã xảy ra thì sức công phá của nó cũng rất nghiêm trọng, nó có thể biến Ngân hàng từ trạng thái phát đạt đến nguy cơ bị phá sản. Chính vì vậy nghiên cứu về rủi ro tín dụng và tìm ra các giải pháp cho nó luôn là một đề tài không bao giờ cũ đối với các nhà phân tích, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng. Vấn đề ở chỗ số vốn cho vay đó có hoạt động hiệu quả hay không và có thực hiện đúng mục đích hay không. Chúng ta đang tiến hành công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì vậy nhu cầu về vốn là rất lớn. Lý do đó đòi hỏi không chỉ có giải pháp huy động vốn đáp ứng nhu cầu mà còn phải xem xét thực trạng các nguồn vốn vay đang hoạt động ra sao và có an toàn không.

doc76 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 894 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chi nhánh Thành Đô, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g tính đến ngày 31/12/2006 đạt 830 tỉ VNĐ, chiếm 8% thị phần tín dụng trên địa bàn. Đến ngày 31/12/2007 tổng dư nợ tín dụng 1100 tỉ VNĐ. Tổng dư nợ 5 tháng đầu năm 2008 là 1300 tỉ VNĐ. Thời gian qua chi nhánh tích cực điều chỉnh cơ cấu dư nợ theo đúng chỉ đạo của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam. Dư nợ trung và dài hạn đạt 450 tỉ năm 2007, tăng 135 tỉ so với năm 2006, chiếm 40.9% tổng dư nợ. Trong 5 tháng năm 2008 mức dư nợ đối với cho vay trung – dài hạn là 510 tỉ đồng, chiếm 39.2% tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn đạt 790 tỉ VNĐ 5 tháng đầu năm 2008, tăng 140 tỉ đồng so với năm 2007, và chiếm 60.8% tổng dư nợ. Dư nợ ngắn hạn có xu hướng tăng, dư nợ trung và dài hạn có xu hướng giảm, điều này phù hợp với định hướng của Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển Việt Nam là tăng tỉ trọng dư nợ vay ngắn hạn, giảm tỉ trọng dư nợ vay trung, dài hạn xuống dưới 40% tổng dư nợ. Chi nhánh cần tiếp tục duy trì tỉ lệ an toàn trên bởi trong tình hình kinh tế có nhiều biến động mạnh như hiện nay, lạm phát tăng cao, tiền đồng mất giá, sự bất ổn định của thị trường thì sự đầu tư quá lớn vào vào cho vay dài hạn sẽ gia tăng rủi ro tín dụnh, gia tăng nguy cơ mât vốn đối với Ngân hàng. Mức cho vay trung và dài hạn dưới 40% vừa giúp chi nhánh giữ được các khách hàng có tiềm năng tài chính mạnh đang cần vốn đầu tư, vừa giúp chi nhánh ône định và vững vàng trước bất cứ sự biến động bất thường nào của thị trường. Bảng 5: Tổng hợp tình hình hoạt động cho vay qua các năm 2006, 2007 và 5 tháng đầu năm 2008 Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 5tháng 2008 So sánh Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉ trọng (%) Số tiền Tỉ trọng (%) CL 07-06 Tỉ trọng (%) CL 08-07 Tỉ trọng(%) 1 2 3 4 5 6 7 8=4-2 9=8/2*100 10=6-4 11= 10/4*100 Tổng dư nợ 830 100 1100 100 1300 270 32.5 200 18.2 Cho vay theo thời gian Dư nợ cho vay ngắn hạn 515 62.1 650 59.1 790 60.8 135 26.2 140 21.5 Dư nợ cho vay trung và dài hạn 315 37.9 450 40.9 510 39.2 135 42.9 60 13.3 Cho vay theo loại tiền Cho vay bằng VNĐ 670 80.7 810 73.6 845 65.0 140 20.9 35 4.3 Cho vay bằng ngoại tê. 160 19.3 290 26.4 455 35 130 81.3 165 56.9 Cho vay theo thành phần kinh tế Cho vay DNNN 330 39.8 185 16.8 260 20 -145 -43.9 75 40.5 Cho vay DNNQD 500 60.2 915 83.2 1040 80 415 83 125 13.7 Bảo đảm tiền vay Dư nợ cho vay có đảm bảo 590 71.1 850 77.3 1014 78 260 44.1 164 19.3 Dư nợ cho vay không đảm bảo 240 28.9 250 22.7 286 22 10 4.2 36 14.4 Tỉ lệ nợ xấu 5 1 0.5 Tỉ lệ nợ quá hạn 3 0.6 0.6 2.2.2 Rủi ro tín dụng tại chi nhánh Thành Đô: 2.2.2.1 Nợ quá hạn: Thực tế trong những năm qua, kinh doanh của chi nhánh chủ yếu phát sinh rủi ro tín dụng thuần túy, đó là việc khi bên vay ko thực hiện đúng các điều kiện cam kết trong hợp đồng tín dụng đã kí, do vậy gây hậu quả xấu cho Ngân hàng. Bảng 6 sẽ cho chúng ta thấy tình hình nợ quá hạn của chi nhánh trong thời gian qua. Bảng 6: Cơ cấu tỉ lệ nợ quá hạn. Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 5tháng 2008 So sánh CL 07-06 Tỉ trọng(%) CL 08-07 Tỉ trọng(%) 1 2 3 4 5=3-2 6=5/2*100 7=4-3 8=7/3*100 Số tuyệt đối 24.9 6.6 7.8 -18.3 -73.49 1.2 18.18 Tỉ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ 3% 0.6% 0.6% -2.4% -80% 0% 0% (Nguồn: Báo cáo tổng kết kế hoạch kinh doanh qua các năm của chi nhánh Thành Đô) Nợ quá hạn 5 tháng đầu năm 2008 là 7.8%, chiếm 0.6% tổng dư nợ. Tỉ lệ nợ quá hạn được xác định chủ yếu là nợ vay thanh toán công nợ, nợ của những đơn vị quốc doanh hay các doanh nghiệp Nhà Nước cổ phần Không để tình trạng kéo dài, chi nhánh đã thành lập ban xử lý nợ quá hạn, thực hiện nhiều biện pháp quyết liệt tận thu nên trong năm 2006 chi nhánh đã thu hồi được 82.5 tỉ VNĐ nợ quá hạn. Năm 2007, bằng nhiều biện pháp, giải pháp tích cực chi nhánh đã xử lí và thu hồi được trên 90 tỉ VNĐ nợ xấu, nợ quá hạn. Trong năm 2007 chi nhánh đã thực hiện trích quỹ Dự phòng rủi ro đạt 19 tỉ VNĐ, hoàn thành 100% kế hoạch trích dự phòng rủi ro năm 2007. Tính đến hết tháng 5 năm 2008, chi nhánh đã trích quỹ dự phòng rủi ro xấp xỉ 30 tỉ VNĐ, đạt 157.9% so với năm 2007. Đạt được những kết quả trên là do công tác thu hồi nợ được đẩy mạnh, ban thu hồi nợ của chi nhánh đã phân tích từng khoản nợ quá hạn, đưa ra các biện pháp để thu hồi nợ xấu nội bảng và ngoại bảng, tập trung đông đốc thu hồi triệt để nợ nhóm 4, nhóm 5, phân công trách nhiệm thu hồi nợ cho từng cán bộ nên chất lượng tín dụng đã có những chuyển biến rõ rệt. Quá trình quản lý rủi ro tín dụng và quá trình thẩm định các dự án đầu tư đã có nhiều bước phát triển so với thời gian trước, điều này được chứng minh cụ thể qua việc tỉ lệ nợ xấu và tỉ lệ nợ quá hạn giảm đi một cách đáng kể. Quá trình giải ngân vốn vay được chú trọng và theo dõi thường xuyên, việc các cán bộ thẩm định và tín dụng luôn đi theo sát tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã giúp cho daonh nghịêp kịp thời phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng tới khả năng trả nợ từ phía doanh nghiệp, từ đó cao những biện pháp kịp thời và dứt điểm trong công tác thu hồi nợ. Tuy nhiên, tỉ lệ nợ xâu, nợ quá hạn giảm rõ rệt bởi một phần số nợ xấu, nợ quá hạn của các doanh nghiệp đã được Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chấp nhận xử lí hạch toán ngoại bảng. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới các cán bộ thu hồi nợ cần phối hợp chặt chẽ với các phòng liên quan để theo dõi sát sao tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn, đặc biệt quan tâm tới các khách hàng có nợ xấu, nợ quá hạn. Đối với khách hàng có vốn chủ sở hữu thấp, tình hình tài chính khó khăn, vốn vay sử dụng sai mục đích, bị gia hạn nợ nhiều lần và có nợ quá hạn chi nhánh cương quyết giảm dần dư nợ hoặc chỉ thu nợ, không tiếp tục cho vay. Quá trình giải ngân và quản lý rủi ro tín dụng chưa được tách biệt một cách rõ rang. Phòng thẩm định và quản lý tín dụng, phòng tín dụng vừa là người cho vay, vừa là người theo dõi các dự án, đồng thời cũng là người giải ngân các dự án. Sự kiêm nghiệm quá nhiều trách nhiệm, mảng làm việc như vậy sẽ khiến hiệu quả của các hoạt động bị giảm đáng kể. Việc thẩm định tài chính các dự án vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Như: mọi tính toán về các chỉ tiêu thẩm định đều được thực hiện trong giả định về một môi trường khá tĩnh, các yếu tố biến động liên quan đến vấn đề trượt giá, lãi suất chưa được đề cập đến. Việc áp dụng các phần mềm chuyên dụng trong thẩm định chưa được chú trọng, phần lớn công tac thẩm định mang tính thủ công, hoàn toàn dựa vào sự phân tích, đánh giá chủ quan của cá nhân người thẩm định. 2.2.2.2 Cho vay có tài sản đảm bảo và không có tài sản đảm bảo: Chất lượng vốn cho vay của Ngân hàng được thể hiện qua mức độ an toàn của vốn, hay nói cụ thể hơn mức độ an toàn vốn được đánh giá một phần ở khía cạnh tỉ lệ dư nợ cho vay đảm bảo và tỉ lệ dư nợ cho vay không có đảm bảo. Bảng 7 sẽ giúp ta có cái nhìn sâu hơn về chất lượng vốn vay của chi nhánh. Trong 5 tháng đầu năm 2008, cho vay có tài sản đảm bảo đạt 1014 tỉ VNĐ, tăng 164 tỉ so với năm 2007, chiếm 78% tổng dư nợ, hoàn thành 1045 kế hoạch đề ra năm 2008 (kế hoạch năm 2008 là 75%). Dư nợ cho vay ko có tài sản đảm bảo giảm 0.7% so với năm 2007, tuy chưa có sự chuyển biến rõ rệt trong việc giảm thiểu cho vay không tài sản đảm bảo nhưng mức cho vay 20% như hiện nay là tỉ lệ an toàn đối với chi nhánh. Bảng 7: Cơ cấu dư nợ vay có đảm bảo và không có đảm bảo Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 5 tháng 2008 So sánh CL 07-06 Tỉ trọng(%) CL 08-07 Tỉ trọng(%) 1 2 3 4 5=3-2 6=(5:2) 7=4-3 8=(7:3) Dư nợ có đảm bảo 77.10% 77.30% 78% 0.2% 0.26% 0.7% 0.91% Dư nợ không có đảm bảo 28.90% 22.70% 22% -6.2% -21.45% -0.7% -3.08% (Nguồn: Báo cáo tổng kết kế hoạch kinh doanh qua các năm của chi nhánh Thành Đô) Có được kết quả trên là bởi trong những năm qua chi nhánh đã chú trọng tăng cường bảo đảm tiền vay nhằm hạn chế rủi ro, dư nợ cho vay có đảm bảo tăng lên hàng năm. Đối với các doanh nghiệp có tài sản bằng vốn tự có rất ít thì Ngân hàng tăng cường tài sản đảm bảo bảng các hợp đồng kinh tế có cam kết ba bên, hợp đồng tiêu thụ sản phẩm đảm bảo chác chắn có nguồn thanh toán, các khoản phải thu chắc chắn có khả năng thu 2.2.2.3 Dư nợ theo thành phần kinh tế: Bảng 8: Cơ cấu dư nợ theo thành phần kinh tế. Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 5tháng 2008 So sánh CL 07-06 Tỉ trọng(%) CL 08-07 Tỉ trọng(%) 1 2 3 4 5=3-2 6=(5:2)*100 7=4-3 8=(7:3)*100 Cho vay DNNN 39.80% 16.80% 20% -23% -57.79% 3.2% 19.05% Cho vay DNNQD 60.2% 83.2% 80% 23% 38.21% -3.2% -3.85% (Nguồn: Số liệu báo cáo tổng kết kế hoạch kinh doanh qua các năm của chi nhánh Thành Đô) Dư nợ ngoài quốc doanh 5 tháng đầu năm 2008 đạt 1040 tỉ, tăng 125 tỉ so với năm 2007, chiếm 80% tổng dư nợ.(Theo bảng 4: tổng hợp tình hình cho vay qua các năm) Với số liệu trên ta thấy, dư nợ cho vay đối vơi các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng, đặc biệt chi nhánh đã chú trọng nâng cao tỉ lệ cho vay đôi với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh vì đây là lượng khách hàng có tiềm năng rất lớn. Theo bảng 5 dư nợ vay đối với các doanh nghiệp Nhà Nước đã giảm một cách đáng kể, cụ thể vào năm 2006 là 330 tỉ VNĐ, đến cưới năm 2007 là 185 tỉ VNĐ chiếm 16.8% tổng dư nợ. Có hiện tượng sụt giảm trong cho vay các doanh nghiệp Nhà Nước có thể do một số lý do sau: Các doanh nghiệp trong quốc doanh thường có ít nhu cầu về vốn vay hơn các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bởi một phần vẫn do Nhà Nước bao cấp. Hiệu quả kinh doanh của một số doanh nghiệp Nhà Nước không cao, khả năng thanh toán nợ đúng hạn kém. Sự hợp tác giữa các doanh nghiệp Nhà Nước và Ngân hàng còn nhiều hạn chế. Sang đến năm 2008, chi nhánh đã có sự thay đổi, tỉ lệ cho vay đối với các doanh nghiệp Nhà Nước tăng từ 16.8% năm 2007 đến 20% trong 5 tháng đầu năm 2008 đã cho thấy sự nỗ lực của Ngân hàng trong việc hỗ trợ tài chính đối với các doanh nghiệp Nhà nước có nhu cầu vay vốn. Trong thời gian tới chi nhánh muốn phát triển kinh doanh toàn diện, một mặt cần tìm hiểu nhu cầu và khả năng của các doanh nghiệp Nhà Nước, tạo mối quan hệ chặt chẽ và lâu dài với các doanh nghiệp làm ăn hiệu quả. Mặt khác cần tích cực lựa chọn khách hàng ngoài quốc doanh, tư nhân cá thể phù hợp với các điều kiện cụ thể để cho vay. 2.2.3 Hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Hà Thành: 2.2.3.1 Chấm điểm khách hàng: Chấm điểm khách hàng là một công cụ chiến lược để ngân hàng đánh giá và phân loại khách hàng. Chấm điểm khách hàng đòi hỏi phải đánh giá đặc điểm của khách hàng và khoản vay để xác định mức độ rủi ro và thiệt hại có thể xảy ra. Việc chấm điểm có thể được tiến hành bằng phương pháp chủ quan hoặc sử dụng các mô hình chấm điểm định lượng. Xếp hạng khách hàng là các doanh nghiệp: Hạng của doanh nghiệp được xác định dựa trên tổng số điểm của tất cả các chỉ tiêu dùng để đánh giá khách hàng. Tổng số điểm dưới 30 Khách hàng đạt hạng C Tổng số điểm từ 30 đến 49 Khách hàng đạt hạng B Tổng số điểm từ 50 đến 69 Khách hàng đạt hạng BB Tổng số điểm từ 70 đến 79 Khách hàng đạt hạng A Tổng số điểm từ 80 đến 100 Khách hàng đạt hạng AA Việc xác định điểm của doanh nghiệp được tiến hành căn cứ theo 10 chỉ tiêu sau: STT Chỉ tiêu Thang điểm 1 Ngành 1 - 5 2 Quy mô 1 – 5 3 Vị trí địa lý 1 – 5 4 Thương hiệu sản phẩm 1 – 5 5 Khả năng ban lãnh đạo 1 – 5 6 Tỷ số thanh toán 1 – 5 7 Tỷ số đòn bẩy 1 – 5 8 Khả năng sinh lời 1 – 5 9 Quan hệ với ngân hàng (BIDV) 1 – 5 10 Quan hệ với các tổ chức khác 1 – 5 Chỉ tiêu ngành: được cho điểm dựa trên định hướng hoạt động của BIDV Thành Đô và mức đọ rủi ro của từng ngành. Trong từng thời kì, tổng giám đốc sẽ công bố mưc điểm của từng ngành. Nếu một doanh nghiệp hoạt động trong nhiều ngành khác nhau thì ngành nào mang lại tỉ trọng doanh thu cao nhất trong tổng doan thu thì sẽ coi doanh nghiệp hoạt động trong ngành đó để chấm điểm. Chỉ tiêu quy mô: chỉ tiêu này của doanh nghiệp được đánh giá trên hai khía cạnh là tổng tài sản và doanh thu thuần. Chỉ tiêu vị trí địa lý: được cho điểm giựa trên địa bàn hoạt động chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu thương hiệu sản phẩm: được xác định giựa trên mức độ nổi tiếng của sản phẩm. Chỉ tiêu ban lãnh đạo: ban lãnh đạo được xét đến gồm Giám đốc, kế toán trưởng và có thể xét thêm trưởng phòng kinh doanh chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu chỉ số thanh toán: xét dựa trên hai chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn và thanh toán nhanh. Chỉ tiêu khả năng sinh lời: được xác định trên chỉ tiêu lợi nhuận ròng và chỉ số lợi nhuận ròng. Chỉ tiêu quan hệ với ngân hàng: được xác định bằng mức độ quan hệ và uy tín trong quan hệ của doanh nghiệp đối với BIDV chi nhánh Thành Đô. Chỉ tiêu uy tín với các đối tác khác: thông qua tìm hiểu uy tín của doanh nghiệp với các bạn hàng, các đối tác và các ngân hàng khác. Xếp hạng khách hàng cá nhân: Các khách hàng cá nhân có quan hệ tín dụng với chi nhánh được xếp hạng như sau: STT Xếp hạng tín dụng Diễn giải 1 AA Năng lực tín dụng rất tốt 2 A Năng lực tín dụng tốt 3 BB Năng lực tín dụng khá 4 B Năng lực tín dụng TB 5 C Năng lực tín dụng kém Hạng tín dụng của một khách hàng cá nhân được xác định dựa trên điểm số tín dụng mà khách hàng đó đạt được, trong đó điểm số tín dụng được tính bằng số điểm của các tiêu chí đánh giá khách hàng trên cơ sở thang điểm được xác định theo các tiêu chí sau: Tuổi của khách hàng: STT Tuổi Điểm 1 20 – 25 2 2 26 – 35 3 3 36 – 55 4 4 56 -60 3 5 >60 hoặc dưới 20 1 Trình độ học vấn: STT Trình độ học vấn Điểm 1 Trên Đại học 4 2 Đại học 3 3 Cao đẳng hoặc tương đương 2 4 Tốt nghiệp THPT 1 5 Dưới THPT 0 Loại hình công việc: STT Loại hình công việc Điểm 1 Không có việc làm 0 2 Đã nghỉ hưu và hưởng lương hưu 2 3 Lao động phổ thông 2 4 Lao động được đào tạo nghề 3 5 Điều hành sản xuất kinh doanh nhỏ 4 6 Cán bộ, chuyên viên 4 7 Quản lý điều hành 5 8 Không thuộc các đối tượng trên 1 Mức thu nhập hàng tháng: STT Mức thu nhập hàng tháng Điểm 1 TN > 5 triệu 10 2 4< TN <= 5 triệu 8 3 3< TN <= 4 triệu 6 4 2< TN <= 3 triệu 4 5 1< TN <= 2 triệu 2 6 TN < 1 triệu 1 Chênh lệch giữa thu nhập và chi tiêu hàng tháng: STT Chênh lệch thu chi hàng tháng Điểm 1 <= 1 triệu 1 2 1< Chênh lệch <= 2 triệu 2 3 2 < Chênh lệch <= 3 triệu 4 4 3 < Chênh lệch <= 4 triệu 6 5 4 < Chênh lệch <= 5 triệu 8 6 >5 triệu 10 Giá trị tài sản khách hàng hiện đang sở hữu: STT Giá trị tài sản đang sở hữu Điểm 1 TS <= 500 Triệu VND 1 2 500 < TS <= 1 tỷ VND 2 3 1 tỷ < TS <= 2 tỷ VND 4 4 2 tỷ < TS <= 3 tỷ VND 6 5 TS > 3 tỷ 8 Giá trị các khoản nợ của khách hàng: STT Giá trị các khoản nợ (Triệu VND) Điểm 1 >300 0 2 >200 và <= 300 1 3 >100 và <= 200 2 4 0 > và <= 100 3 5 0 4 Quan hệ với BIDV chi nhánh Thành Đô: STT Quan hệ với ngân hàng Điểm 1 Chưa từng thực hiện giao dịch 0 2 Đã thực hiện giao dịch 1 Uy tín của khách hàng trong thực hiện giao dịch: STT Uy tín Điểm 1 Đã phát sinh nợ quá hạn 0 2 Đã được gia hạn nợ 1 3 Trả lãi và nợ gốc đúng hạn 2 2.2.3.2 Thẩm định dự án và khách hàng vay vốn: Thẩm định khách hàng và thẩm định phương án vay vốn là khâu rất quan trọng trong quá trình cho vay. Thông qua công tác thẩm định cán bộ tín dụng có được thông tin cần thiết giúp cho việc ra quyết định có cho vay hay không cho vay. Các thông tin về khách hàng như năng lực điều hành quản lý sản xuất kinh doanh, mô hình tổ chức, cơ cấu và nguồn nhân lực, ngành nghề kinh doanh, tư cách và năng lực pháp lý cán bộ tín dụng có thể biết về tính nghiêm túc trong đề xuất vay vốn, tính hợp tác của khách hàng trong quan hệ kinh doanh (quan hệ tín dụng) cũng như tính trách nhiệm đối với khoản vay của khách hàng. Thông qua đó, cán bộ ngân hàng bước đầu có những nhận xét cá nhân về khách hàng, trả lời cho câu hỏi nếu cho vay, liệu khách hàng có thực hiện đúng như hợp đồng không? có thực sự muốn thiết lập mối quan hệ lâu dài với ngân hàng không? Nghiên cứu kỹ phương án sản xuất kinh doanh, phương án sử dụng vốn như ngành nghề kinh doanh, thời gian của phương án, tính hợp lý của phương án giúp cán bộ tín dụng trả lời câu hỏi: phương án có khả thi không, thời gian thu lợi có hợp lý không? nếu thực tế có biến động thì lợi nhuận của dự án biến đổi như thế nào? ảnh hưởng như thế nào tới khả hoàn trả của khách hàng?. Kết hợp thẩm định khách hàng và thẩm định phương án kinh doanh cùng với kiến thức chuyên môn, nhạy cảm nghề nghiệp giúp cán bộ tín dụng đánh giá về đề nghị vay vốn của khách hàng và ra quyết định cuối cùng về đề nghị vay. Nếu thấy khoản cho vay là an toàn, có lợi nhuận thì sẽ quyết định cho vay. Ngược lại qua công tác thẩm định, nếu thấy khách hàng hay phương án vay vốn có vấn đề, cán bộ tín dụng ra quyết định từ chối đề nghị vay của khách hàng. Do vậy quyết định của cán bộ thẩm định phần lớn dựa trên cảm quan nghề nhiệp, có thể quyết định của cán bộ tín dụng là đúng, có thể quyết định của là sai. Ngân hàng rất cần những cán bộ thẩm định có trình độ chuyên môn tốt, kiến thức sâu rộng, có kinh nghiệm... để ra những quyết định chính xác, hạn chể rủi ro. Cán bộ tín dụng cần đặc biệt quan tâm tới khâu thẩm định. Trong quá trình thẩm định chỉ cần coi nhẹ một yếu tố nào đó hoặc có một nhận xét cá nhận sai lệch về một yếu tố nào đó liên quan tới khách hàng hoặc phương án kinh doanh sẽ dẫn đến những kết luận sai làm, có thể dẫn đến việc không thu hồi được khoản cho vay, gây tổn thất cho ngân hàng. 2.2.3.3 Sử dụng hạn mức tín dụng: Hạn mức tín dụng là giá trị tối đa mà ngân hàng có thể cấp cho một khách hàng, một ngành hay một khu vực địa lý. Quy mô hạn mức tín dụng thể hiện số tiền tối đa ứng với mức độ rủi ro mà ngân hàng có thể chấp nhận được. Đối với khách hàng, ngành càng có nhiều rủi ro thì hạn mức tín dụng sẽ càng thấp và ngược lại. Mục tiêu của BIDV chi nhánh Thành Đô: Áp dụng chế độ hạn mức tín dụng nhằm đa dạng hóa cơ cấu danh mục tín dụng, từ đó tránh sự tập trung rủi ro và tăng cường chất lượng cơ cấu danh mục tín dụng. Nguyên tắc của BIDV chi nhánh Thành Đô: Áp dụng hạn mức tín dụng trong khi xác định thị trường mục tiêu, các phân đoạn trong từng thị trường mục tiêu. Đối với hạn mức giao dịch khách hàng, các khách hàng sẽ chỉ giao dịch vay vốn trong hạn mức giao dịch khách hàng đã được phê duyệt. 2.2.3.4 Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng: Mục tiêu của BIDV chi nhánh Thành Đô lập quỹ dự phòng rủi ro là để tránh các tổn thất có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng ngân hàng. Hàng quý chi nhánh sẽ xem xét, quyết định sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng theo những nguyên tắc sau: Thường xuyên tiến hành phân loại tài sản có và trích lập dự phòng rủi ro đối với những hạng mục phải trích lập dự phòng theo đúng quy định. Rủi ro tín dụng của khoản vay nào thì được sử dụng dự phòng cụ thể của khoản vay đó để xử lý. Phát mại tài sản đảm bảo theo thỏa thuận với khách hàng và theo quy định với pháp luật để thu hòi nợ. Trường hợp phát mại tài sản không đủ bù đắp cho rủi ro tín dụng của khoản nợ thì được sử dụng dự phòng chung để xử lý đủ. Tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ như sau: Nhóm 1: 0% Nhóm 2: 5% Nhóm 3: 20% Nhóm 4: 50% Nhóm 5: 100%. Chi nhánh thực hiện trích lập và duy trì dự phòng chung bằng 0.75% tổng giá trị các khoản sau: Tổng giá trị các khoản nợ từ nhóm 1 đến nhóm 4. Tổng các khoản bảo lãnh, cam kết cho và và chấp nhận thanh toán (L/C) đang trong thời gian còn hiệu lức sau khi chờ kí quỹ. Tỷ lệ dự phòng chung 0.75% được thực hiện trong thời gian 5năm. 2.2.3.5 Xử lý nợ quá hạn và nợ khó đòi: Đây chính là biện pháp cuối cùng nhằm hạn chế tối đa những khoản thiệt hại đã xảy ra . Việc xử lý nợ quá hạn cần có biện pháp cụ thể như : Phân tích nguyên nhân nợ quá hạn của từng khách hàng , từ đó có biện pháp tháo gỡ. Đối với những khách hàng nợ quá hạn có tính chất tạm thời , hoạt động sản xuất kinh doanh bình thường , ngân hàng xem xét khả năng trả nợ và phương án sản xuất kinh doanh trong thời gian tới để quyết định cho vay . Việc cho vay bảo đảm thu hồi vốn , giúp khách hàng vượt qua khó khăn và có biện pháp trả nợ có thể áp dụng biện pháp sau: Xác định phương án cơ cấu nợ : Căn cứ vào phương án sản xuất kinh doanh của khách hàng , khách hàng chứng minh được khả năng hoàn trả khi đến hạn sau khi được cơ cấu lại nợ thì ngân hàng sẽ cơ cấu lại . Để thực hiện việc cơ cấu lại nợ cho khách hàng đòi hỏi ngân hàng phải giám sát chặt chẽ các khoản nợ và hoạt động của khách hàng sau khi cơ cấu . Đối với khách hàng khó khăn về tài chính , kinh doanh thua lỗ , NQH chưa xác định được nguồn trả nợ , ngân hàng cần quản lý chặt chẽ khoản vay và khách hàng như trên nhú sau: + Đối với khoản vay có tài sản bảo đảm : Tìm các khách hàng có khả năng về tài chính nhận lại nợ của khách hàng khó khăn để tiếp tục khai thác hiệu quả tài sản bảo đảm khả năng trả nợ Ngân hàng rà soát tài sản bảo đảm , tình trạng tài sản , hồ sơ pháp lý để có thể phát mại tài sản thu hồi vốn . Phối hợp cùng với các Bộ, Ban, Ngành cho tiến hành thanh lý , phát mại các tài sản bảo đảm cho vay theo chỉ định để thu hồi vốn . Trong trường hợp tài sản phát mại không đủ thu hồi vốn thì buộc khách hàng phải trả tiếp phần còn lại thông qua việc bán tiếp tài sản , nếu không ngân hàng có thể tuyên bố phá sản . Đối với trường hợp cho vay chỉ định , nếu tài sản phát mại không đủ thu hồi vốn vay , ngân hàng hoàn thiện thủ tục để trình Chính phủ xử lý . + Đối với khoản vay không có bảo đảm : Trong trường hợp này cần kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của khách hàng, các khoản phải thu , nguồn vốn thanh toán của các công trình qua thông báo vốn hàng năm đối với lĩnh vực xây dựng , kỳ thu tiền đối với lĩnh vực khác và yêu cầu khách hàng cùng chủ đầu tư , người mua hàng cam kết thanh toán chuyển khoản về tài khoản của khách hàng tại ngân hàng . Tư vấn cho khách hàng bán bớt tài sản không phát huy hiệu quả, không cần sử dụng để trả nợ tiền vay . Đối với những khách hàng là cá nhân: kết hợp cùng với cơ quan công tác, vận động gia đình thu xếp nguồn để trả nợ. - Tận thu nợ ngoại bảng và nợ khoanh Nợ ngoại bảng, nợ khoanh chính là những khoản nợ không sinh lời, thông thường được ngân hàng chuyển ra ngoại bảng hoặc không tính lãi. Khoản nợ trên có ảnh hưởng rất lớn đến kết quả kinh doanh của Ngân hàng, do phải lấy từ nguồn dự phòng rủi ro để bù đắp , đây chính là lợi nhuận của Ngân hàng. Nếu nợ ngoại bảng tăng lên thì Ngân hàng có thể không có lãi do phải trích dự phòng nhiều, vì vậy việc tận dụng thu nợ ngoại bảng , nợ khoanh chính là góp phần lành mạnh hoá tình hình tài chính của Ngân hàng Đối với khoản nợ chỉ định Ngân hàng phối hợp với cơ quan chức năng để có biện pháp thu hồi vốn như phát mại tài sản và trình Chính phủ chờ xử lý. 2.2.4 Đánh giá công tác hạn chế rủi ro tín dụng tại chi nhánh Thành Đô: 2.2.4.1.Những kết quả đã đạt được: Tỷ lệ nợ quá hạn đã giảm và được duy trì ở mức thấp (0,6%) trong khi tổng dư nợ vẫn tăng lên qua các năm. Có thể nói đây là một tỷ lệ nợ quá hạn lý tưởng đối với các Ngân hàng thương mại. Khi Nhà nước có quyết định chuyển các dự án tín dụng trung và dài hạn theo KHNN sang cho Quỹ đầu tư phụ trách thì chi nhánh đã có những biện pháp tích cực nhằm tăng dư nợ của tín dụng trung dài hạn thương mại để bù đắp cho phần tín dụng trung dài hạn theo KHNN bị mất đi. Tích cực thực hiện các biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro. Trong việc xét duyệt các khoản vay, chi nhánh đã chú trọng công tác phân tích tình hình hoạt động của doanh nghiệp, nghiên cứu, nâng cao chất lượng thẩm định các khoản vay, các dự án đầu tư, chú ý phân tích hiệu quả và các yếu tố tác động đến dự án để thấy được rủi ro của khoản vay. Thực hiện tốt việc kiểm tra tín dụng, phối hợp tốt với kiểm soát nội bộ trong việc kiểm tra chéo công tác tín dụng. Nắm bắt kịp thời diễn biến tình hình hoạt động của doanh nghiệp và cùng doanh nghiệp có biện pháp tích cực tháo gỡ khi doanh nghiệp gặp khó khăn. Đồng thời, hợp tác với các doanh nghiệp trong việc xử lý các khoản nợ quá hạn kể cả cho vay ngắn hạn tạo nguồn thu cho đơn vị để trả nợ. Quá trình giải ngân vốn vay được chú trọng và theo dõi thường xuyên, việc cán bộ thẩm định và tín dụng luôn đi theo sát tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đã giúp cho chi nhánh kịp thời phát hiện những nguy cơ tiềm ẩn ảnh hưởng tới khả năng trả nợ từ phía doanh nghiệp, từ đó có những biện pháp kịp thời và dứt điểm trong công tác thu hồi nợ. Thực hiện nghiêm túc luật các tổ chức tín dụng, các quy định, quy chế uỷ quyền cũng như quy trình nghiệp vụ do Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam ban hành. Chi nhánh Thành Đô đã thực hiện nghiên cứu, phân tích đánh giá khách hàng từ nhiều kênh thông tin, xây dựng hệ thống chỉ tiêu đánh giá khách hàng nhằm xây dựng hạn mức tín dụng phù hợp với từng khách hàng, nâng cao chất lượng tín dụng cũng như giảm thiểu thời gian và thủ tục duyệt vay. 2.2.4.2.Những mặt còn hạn chế: Tuy nhiên, tỉ lệ nợ xâu, nợ quá hạn giảm rõ rệt bởi một phần số nợ xấu, nợ quá hạn của các doanh nghiệp đã được Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển chấp nhận xử lí hạch toán ngoại bảng. Điều này đòi hỏi trong thời gian tới các cán bộ thu hồi nợ cần phối hợp chặt chẽ với các phòng liên quan để theo dõi sát sao tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vay vốn, đặc biệt quan tâm tới các khách hàng có nợ xấu, nợ quá hạn. Đối với khách hàng có vốn chủ sở hữu thấp, tình hình tài chính khó khăn, vốn vay sử dụng sai mục đích, bị gia hạn nợ nhiều lần và có nợ quá hạn chi nhánh cương quyết giảm dần dư nợ hoặc chỉ thu nợ, không tiếp tục cho vay. Quá trình giải ngân và quản lý rủi ro tín dụng chưa được tách biệt một cách rõ rang. Phòng thẩm định và quản lý tín dụng, phòng tín dụng vừa là người cho vay, vừa là người theo dõi các dự án, đồng thời cũng là người giải ngân các dự án. Sự kiêm nghiệm quá nhiều trách nhiệm, mảng làm việc như vậy sẽ khiến hiệu quả của các hoạt động bị giảm đáng kể. Việc thẩm định tài chính các dự án vẫn còn tồn tại một số hạn chế. Như: mọi tính toán về các chỉ tiêu thẩm định đều được thực hiện trong giả định về một môi trường khá tĩnh, các yếu tố biến động liên quan đến vấn đề trượt giá, lãi suất chưa được đề cập đến. Việc áp dụng các phần mềm chuyên dụng trong thẩm định chưa được chú trọng, phần lớn công tac thẩm định mang tính thủ công, hoàn toàn dựa vào sự phân tích, đánh giá chủ quan của cá nhân người thẩm định. Những mặt đã đạt được và những mặt còn hạn chế tồn tại nêu trên đòi hỏi thời gian tới chi nhánh cần có những thay đổi, chuyển biến mạnh mẽ hơn nữa trong hoạt động quản lý rủi ro tín dụng, nâng cao chất lượng thẩm định các dự án nhằm đảm bảo hiệu quả và an toàn vốn cao nhất. CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI: 3.1 Định hướng phát triển của BIDV chi nhánh Thành Đô: Mục tiêu chung của toàn chi nhánh: hoạt động an toàn, quản lý được rủi ro trong giới hạn hợp lý, phát triển nhưng phải gắn liền với phát triển bền vững, phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng với đa dạng lĩnh vực, đa dạng sản phẩm dịch vụ, tiện ích có chất lượng cao. Mô hình chi nhánh: Chi nhánh mạnh có nhiều nguồn lực, tiềm lực. Xây dựng thương hiệu chi nhánh Thành Đô trở thành thương hiệu mạnh và có uy tín trên thị trường. Đột phá công nghệ là chìa khóa đem tới sự thành công cho chi nhánh, tạo ra những điều kiện làm việc phù hợp với cán bộ, tạo cho khách hàng sự tiện lợi và thoải mái khi sử dụng các dịch vụ của chi nhánh. Mục tiêu cụ thể trong năm 2008: Mức tăng của tổng tài sản: 20%. Mức tăng của nguồn vốn huy động: 150%, trong đó huy động vốn bình quân tăng 180% s với năm 2007. Mức giới hạn dư nợ cao nhất: 1400 tỷ. Mức dư nợ cho vay trung và dài hạn < 40% tổng mức dư nợ cho vay. Chênh lệch thu – chi tăng 150%. Để có thể hoàn thành được mục tiêu trên, đòi hỏi ngân hàng phải có những kế hoạch và chiến lượ cụ thể, thực tế, có sẹ chủ động trong công tác huy động vốn và sử dụng vốn. 3.2 Một số giải pháp hạn chế rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại: 3.2.1 Nâng cao hiệu quả công tác thẩm định các dự án đầu tư : Thẩm định các dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh được coi là một khâu quan trọng nhất trước khi quyết định cho vay hay bảo lãnh. Việc thẩm định bao gồm các công tác chủ yếu như: Kiểm tra tư cách người vay như: năng lực hành vi dân sự, năng lực pháp lý, pháp nhân.., Mức độ tín nhiệm trong quá trình giao dịch với khách hàng bằng việc tham khảo thông tin tín dụng tại trung tâm thông tin tín dụng (CIC) hoặc tham khảo xếp loại định mức tín nhiệm doanh nghiệp do tổ chức độc lập có uy tín công bố và tự tiến hành công tác thẩm định. Đối với các báo cáo tài chính hiện nay, các báo cáo của nhiều doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp tư nhân gửi cho ngâ hàng thường có tính chất đối phó và thiếu độ tin cậy. Để đảm bảo tính chính xác của các số liệu trên bảng cân đối kế toán và báo cáo kết qủa kinh doanh của dianh nghiệp cần tiến hành việc xác định số liệu của doanh nghiệp bằng việc kiểm tra sổ sách của doanh nghiệp. Để việc thẩm định tình hình tài chính và năng lực tài chính của doanh nghiệp hiệu quả thì việc yêu cầu có xác nhận của các tổ chức kiểm toán độc lập để tránh các báo cáo tài chính thiếu trung thực là cần thiết, tuy nhiên trên thực tế rất ít các doanh nghiệp có được báo cáo tài chính được kiểm toán. Ngân hàng có thể sử dụng báo cáo thuế và trên cơ sở thẩm định của cán bộ thẩm định để có được một báo cáo tương đối chính xác. Đối với những dự án lớn, ngân hàng nên thuê tổ chức tư vấn độc lập, có uy tín và năng lực để thẩm định, xác nhận trước khi chấp thuận cho vay. Viêc này có thể làm tăng chi phí cho ngân hàng nhưng đảm bảo an toàn cho ngân hàng khi quyết định cho vay bởi vì cán bộ thẩm định của ngân hàng tuy có kinh nghiệm nhưng chắc chắn không toàn diện, chuyên nghiệp bằng một tổ chức chuyển về thẩm định. 3.2.2 Quản lý tài sản đảm bảo: Cách bảo đảm tốt nhất cho các rủi ro tín dụng là có bảo lãnh khoản vay tốt và đa dạng hóa danh mục đầu tư. Việc co vay có tài sản đảm bảo giúp ngân hàng có nguồn thu nợ thứ cấp nếu như nguồn thu được tạo ra từ khoản vay không có khả năng. Với đặc thù kinh doanh trong một lĩnh vực chứa đựng nhiều rủi ro tiềm ẩn, việc có tài sản đảm bảo cho khoản vay của khách hàng là điều kiện khá tiên quyết của ngân hàng với khách hàng, hạn chế tổn thất của ngân hàng trong trường hợp các khoản vay quá hạn khách hàng không trả được nợ, buộc phải xử lý tài snar đảm bảo để thu hồi nợ. Để tài sản đảm bảo phát huy tối đa tác dụng đảm bảo thì ngân hàng phải có những biện pháp hữu hiệu trong việc quản lý tài sản. Trước hết, bằng các điều khoản trong hợp đồng tín dụng cũng như bằng các thủ tục đăng kí giao dịch đảm bảo, kí hợp đồng bằng công chứng ngân hàng phải chắc chắn xác lập được quyền của mình đối với tài sản trong trường hợp khách hàng không trả được nợ. Các công việc này cần phải tiến hành chính xác và đầy đủ, tránh những thiếu sót có thể ảnh hưởng đến quyền của ngân hàng đối với tài sản đảm bảo. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng cần không ngừng kiểm tra, đánh giá lại tài sản đảm bảo. Theo quy định của ngân hàng, giá trị khoản vay của khách hàng được tính theo một tỉ lệ trên giá trị cua rtaif sản đảm bảo. Nếu không có sự chuẩn xác, việc cho vay có thể vượt quá mức cho phép gây rủi ro cho ngân hàng. Các tài sản có thể tiến hành định giá lại định kì 6 tháng hoặc tối đa không quá 12 tháng/lần, riêng đối với các tài sản có mức biến động lớn cần phảo theo dõi thường xuyên và đánh giá lại đột xuất khi giá trị tài sản giảm mạnh. Chất lượng cua tài sản đảm bảo mà cụ thể là giá thị trường của tài sản đảm bảo tại thời điểm ngân hàng xử lý tài sản đảm bảo sẽ có tính chất quyết định đến nguôn thu hồi nợ của ngân hàng. 3.2.3 Giám sát chặt chẽ các khoản cho vay: Sau khi cho vay một món tiền, ngân hàng cũng như các cán bộ Ngân hàng không thể bỏ mặc khoản tiền đó để cho khách hàng muốn sử dụng khoản tiền đó làm gì cũng được, mà các cán bộ Ngân hàng vẫn phải thường xuyên theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng. Các bộ Ngân hàng theo dõi, giám sát hoạt động của khách hàng để biết được khách hàng có dùng tiền vay vào đúng mục đích như đã cam kết với Ngân hàng không, tình hình kinh doanh của khách hàng có những biến động gì, có ảnh hưởng tới khoản vay không, khách hàng có thể hoàn trả tiền vay đúng hạn như đã cam kết không. Giám sát khoản cho vay là cả một quá trình tính từ khi khách hàng nhận được tiền đến khi hết kì hạn của khoản vay, giám sát khoản vay càng chặt chẽ bao nhiêu thì Ngân hàng càng có sự chủ động trong việc kiểm soát các loại rủi ro có thể xảy ra. Mỗi cán bộ ngân hàng có những cách khác nhau để giám sát khoản cho vay của mình nhưng không thể bỏ qua những yêu cầu chung nhất có tính chuẩn mực của Ngân hàng như hàng tháng, hàng quý hay hàng năm cán bộ ngân hàng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các thông cần thiết liên quan tới hoạt động kinh doanh của mình như báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo luân chuyển tiền tệvà những báo cáo này là yêu cầu bắt buộc để hoàn thiện hồ sơ khoản vay trong thời hạn hợp đồng. Ngoài ra mỗi cán bộ có các cách riêng để tìm hiều tình hình kinh doanh của khách hàng như tiếp xúc trực tiếp, qua trò chuyện, xuống cơ sở của khách hàng hoặc thông qua các khách hàng khác, qua đối tác của khách hàng Bắt buộc khách hàng vay vốn phải cung cấp các báo cáo tài chính định kỳ, bảng tổng kết tài sản yêu cầu các khách hàng cung cấp thêm các giấy tờ cần thiết cho hồ sơ của khoản vay như các hợp đồng kinh doanh, hóa đơn mua bán hàng hóa, hóa đơn thuế. Tạo điều kiện cho cán bộ tín dụng trong quá trình kiểm tra định kì thực tế tình hình sử dụng vốn tại doanh nghiệp và tạo điều kiện ngay cả khi cán bộ tín dụng xuống kiển tra đột xuất. Cán bộ ngân hàng thường xuyên đôn đốc khách hàng sử dụng vốn vay đúng mục đích. Nếu khách hàng sử dụng vốn vay sai mục đích, cán bộ ngân hàng có thể yêu cầu khách hành dừng việc kinh doanh của mình lại. Cán bộ tín dụng đặc biệt chú ý việc giám sát chặt chẽ tài sản đảm bảo. Ngoài công tác thực tế định giá tài sản đảm bảo ở khâu thẩm định, qua suốt kì hạn vay nợ, tài sản đảm bảo có thể có những biến động tăng giảm giá trị, khi đó cán bộ tín dụng sẽ có những biện pháp xử lý kịp thời. Nếu thấy có sự sụt giảm giá trị tài sản đảm bảo, cán bộ tín dụng nhất thiết phải báo cho khách hàng biết và yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo. Trong quá trình tham gia giám sát hoạt động kinh doanh của khách hàng, qua các thông tin thu thập được và qua sự tinh ý, nhậy cảm nghề nghiệp cán bộ tín dụng có thể phát hiện ra những vấn đề đối với khoản vay. Cán bộ tín dụng cần thường xuyên theo dõi để phát hiện ra những dấu hiệu của rủi ro cho vay và có hướng đề phòng. Một điều cần thiết là cán bộ ngân hàng cần thường xuyên theo dõi những biến đổi trong tài khoản tiền gửi của khách hàng, những thay đổi thất thường trong tài khoản tiền gửi của khách hàng có thể là dấu hiệu của rủi ro. 3.2.4 Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng: Rủi ro trong hoạt động ngân hàng nói chung và rủi ro tín dụng nói riêng là khó tránh khỏi, trong nhiều trường hợp, khách hàng không thể trả nợ cho ngân hàng khiến cho ngân hàng có khả năng lâm vào tình trạng mất vốn kinh doanh. Để khắc phục tình trạng đó, việc ngân hàng trích lập quỹ dự phòng rủi ro là rất cần thiết nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, có nguồn bù đắp lại những rủi ro trong hoạt động kinh doanh mà ngân hàng phải gánh chịu. Mục tiêu của việc trích lập quỹ dự phòng rủi ro là còn để đảm bảo kết quả kinh doanh của ngân hàng, phản ánh đúng vị thế tài chính của ngân hàng và nó được đảm bảo bằng nguồn tiền có thực để trang trải rủi ro khi xảy ra. Trong những trường hợp ngân hàng gặp rủi ro không thu hồi vốn được thì việc xoá những khoản nợ không thể thu hồi này và công bố những khoản mất vốn sẽ là những bât lợi đến kết quả kinh doanh và đến vốn kinh doanh của ngân hàng nếu như không có quỹ dự phòng rủi ro được trích lập từ trước. Trong trường hợp đã có trích lập quỹ dự phòng rủi ro, khi xảy ra khả năng mất vốn thì việc loại trừ những khoản nợ không thể thu hồi sẽ không ảnh hưởng nhiều đến kết quả trong báo cáo tài chính của ngân hàng. 3.2.5 Hoàn thiện hệ thống chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng: Chấm điểm tín dụng là một quy trình đánh giá khả năng của khách hàng trong việc thực hiện các nghĩa vụ trả nợ ( lãi và gốc) đối với ngân hàng. Từ đó xác định rủi ro của hoạt động cấp tín dụng cho khách hàng đó. Thông qua quá trình đánh giá bằng thang điểm trên cơ sở các thông tin tài chính và phi tài chính, ngân hàng sẽ xác định được mức độ rủi ro tín dụng của một doanh nghiệp. Chấm điểm tín dụng giúp đưa ra những nhận xét, đánh giá vè tình hình hoạt động, khả năng sinh lời, khả năng thanh toán trong hiện tại và tương lai của doah nghiệp, căn cứ vào đó ngân hàng ra các quyết định cho vay như hạn mức tín dụng, số tiền cho vay, thời hạn, lãi suất. Chấm điểm tín dụng cũng giúp quản lý tòan bộ danh mục tín dụng, có thể đánh giá và giám sát khách hàng, nhận biết các dấu hiệu xấu và có biện pháp đối phó kịp thời, ước lượng mức vốn đã cho vay không thể thu hồi để trích lập dự phòng rủi ro tín dụng đồng thời phát triển chiến lược Marketing hướng tới khách hàng có ít rủi ro hơn. Để đảm bảo cho các thứ hạng rủi ro được chính xác và thồng nhất về những khái niệm tổn thất tín dụng của hệ thống xếp hạng, các tài sản khác nhau có cùng mức độ rủi ro phải có mức xếp hạng giồng nhau. Nhưng những đại lượng này không thể biết trước, do đó các hệ thống xếp hạng tín dụng phụ thuộc vào các tiêu chuẩn được coi là dự đoán được tổn thất tín dụng. Tính chính xác và tính nhất quán đòi hỏi các tiêu chuẩn rõ ràng và cụ thể cho từng loại thứ hạng phải được nêu rõ trong các chính sách tín dụng của ngân hàng thương mại và phải được điều chỉnh khi cần thiết để đảm bảo các khoản tín dụng có mức độ rủi ro bằng nhau phải thuộc cùng một nhóm. 3.2.6 Nâng cao chất lượng cán bộ tín dụng tại ngân hàng: Trong điều kiện kinh tế thị trường ngày càng phát triển, khoa học – kỹ thuật – công nghệ đổi mới từng ngày, đào tạo cán bộ nhằm mục đích nâng cao chất lượng nghiệp vụ cho mỗi cán bộ là điều không thể thiếu. Cũng như bất cứ một hoạt động sản xuất kinh doanh nào, kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng, nhân tố con người là nhân tố quan trọng nhất quyết định sự thành bại của ngân hàng. Các quyết định cũng như hành động của con người có thể mang lại nguồn lợi nhuận lớn, cũng có thể gây tổn thất lớn cho doanh nghiệp. Đặc biệt đối với lĩnh vực ngân hàng – lĩnh vực có mức độ rủi ro cao – các quyết định đúng đắn có thể giúp ngân hàng ngày càng vững mạnh và phát triển, những quyết định sai lầm có thể gây thiệt hại, có thể dẫn đến phá sản và sụp đổ ngân hàng hoặc toàn hệ thống ngân hàng. Đào tạo cán bộ ngân hàng không những giúp bản thân cán bộ ngân hàng hiểu rõ hơn về nghiệp vụ cụ thể của mình mà còn giúp cán bộ tín dụng tiếp cận được với nhiều kỹ thuật mới, công nghệ mới. Qua các chương trình đào tạo, các cán bộ ngân hàng có điều kiện trao đổi kinh ngiệm, trao đổi kiến thức nghiệp vụ và kiến thức về các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội giúp cán bộ ngân hàng có cái nhìn mới hơn, cập nhật hơn về khoa hoc công nghệ, trang thiết bị mới. Qua đó giúp họ đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng. Chất lượng một khoản vay có thể bị giảm sút do nhiều nguyên nhân nhưng trước hết các cán bộ tín dụng vẫn phải chịu trách nhiệm nhất định về các khoản nợ quá hạn cũng như những tổn thất gây ra do nợ quá hạn phát sinh từ những khoản cho vay do họ trực tiếp tiêp nhận, phân tích, thẩm định, trình phê duyệt và giám sát trong suốt thời gian hợp đồng. Thông qua công tác đào tạo thường xuyên, cán bộ tín dụng được cung cấp thêm nhiều kiến thức mới trong mọi lĩnh vực, nhận định nghề nghiệp của họ tốt hơn, biết vận dụng tốt hơn các kiến thức về khoa học, tự nhiên, xã hội cũng như công nghệ ngân hàng để xem xét, đánh giá các chỉ tiêu kỹ thuật, phương thức tổ chức sản xuất kinh doanh, phương án vay vốn, xu hướng phát triển ngành nghề, khả năng hoàn trả vốn vay và các vấn đề cần thiết khác liên quan tới quyết định cho vay. 3.3 Một số kiến nghị, đề xuất: 3.3.1 Kiến nghị với Nhà Nước: Hoàn thiện môi trường pháp lý nói chung: Môi trường pháp lý ổn định và phù hợp là điều kiện quan trọng để cho cả ngân hàng và doanh nghiệp hoạt động tốt. Nhà nước cần ban hành một cách đồng bộ, thống nhất các văn bản pháp luật. Cần có sự rõ ràng trong các luật kinh doanh, các quy định về ngành nghề kinh doanh, trong đó quy định rõ những ưu đãi đối với từng ngành, từng lĩnh vực, đặc biệt là nhà nước cần chú ý ban hành luật thuế mới, phù hợp với từng ngành. Nhà nước cũng cần sớm xóa bỏ các ưu đại đối với các doanh nghiệp quốc doanh, tạo sự bình đẳng trong kinh doanh, để nền kinh tế có sự cạnh tranh bình đẳng. Các luật mới phải nhất quán, không mâu thuẫn với nhau. Khi cho ra một văn bản pháp luật mới, nhà nước cần có các quy định cụ thể, rõ ràng về quyền, nghĩa vụ, trách nhiệm của đối tượng thực hiện văn bản pháp luật đó, cần có các văn bản hướng dẫn thực hiện và phải có một khoản thời gian có hiệu lực tối thiểu nhất định để văn bản đó được thực hiện, tránh tình trạng văn vản mới ban ra chưa được thực hiện đã bị thay đổi bởi văn bản khác. Môi trường pháp lý nói chung tác động nhiều đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các cá nhân, tổ chức trong xã hội nên một môi trường pháp lý phù hợp ổn định là điều rất quan trọng giúp cá nhân tổ chức phát triển tốt. Khách hàng của ngân hàng tồn tại trong nền kinh tế có sự ổn định về luật pháp sẽ giúp họ hoạt động tốt hơn, hạn chế rủi ro hơn, khả năng trả nợ của khách hàng tốt hơn, do đó ngân hàng ít gặp rủi ro hơn. Ban hành các quy định cụ thể về tài sản thể chấp: Ban hành các quy định cụ thể về các giấy tờ cần thiết và bắt buộc đối với từng loại tài sản được dùng làm tài sản thế chấp. Các tài sản thế chấp phải được cơ quan có thẩm quyền đảm bảo là không được thế chấp, cầm cố ở nơi khác và nếu đảm bảo sai về tài sản đảm bảo thì nhà nước sẽ xử phạt thật nặng cơ quan có thẩm quyền, quy trách nhiệm cho tổ chức và cá nhân có kết quả đảm bảo sai. Việc thực hiện tốt các quy định về giấy tờ pháp lý của khoản vay và trách nhiệm đảm bảo cho khoản vay giúp ngân hàng loại trừ bớt được tình trạng một tài sản được đem thế chấp ở nhiều nơi mà ở nơi nào cũng có đảm bảo của cấp có thẩm quyền, ở nơi nào giấy tờ cũng hợp lệ. Và khi ngân hàng muốn bán tài sản thế chấp thì không thể bán được do tài sản đó thuộc quyền sở hữu của nhiều đối tượng khác nữa. Khi đó ngân hàng không gặp phải khó khăn do không bán được tài sản thế chấp hoặc không phải chia nhỏ giá trị tài sản thế chấp ra nhiều phần cho các đối tượng đồng sở hữu tài sản đảm bảo. Ban hành luật thuế: Nhà nước cần ban hành cụ thể, rõ ràng về luật thuế đánh vào tài sản đảm bảo khi ngân hàng quyết định bán, thanh lý tài sản đản bảo khi khách hàng vay không có khả năng trả được nợ. Thực tế cho thấy các năm qua ngân hàng gặp rất nhiều khó khăn trong việc bán, thanh lý tài sản đảm bảo nhằm tận thu món nợ của khách hàng, ngoài các khó khăn về thủ tục pháp lý để được bán tài sản đảm bảo rất lằng nhằng, ngân hàng gặp phải tình trạng là tài sản đảm bảo bị đánh thuế trùng lặp. Các tài sản đản bảo là bất động sản thường bị đánh thuế trùng, bị đánh thuế hai lần. Đánh thuế hai lần tức là khi ngân hàng bán bất động sản ra ngoài thị trường, ngân hàng chịu một loại thuế là thuế buôn bán bất động sản, số tiền ngân hàng nhận được bị giảm so giá trị đảm bảo ngân hàng dự tính. Số tiền thu được từ bán tài sản đảm bảo này được cho vào doanh thu của ngân hàng, đến kì tính thuế, khoản doanh thu này lại bị đánh thuế lần nữa theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Như vậy trong bản thân luật thuế về các loại thuế khác nhau đã có sự không thống nhất, trồng tréo lên nhau dẫn đến tình trạng một tài sản bị đánh thuế nhiều lần làm cho giá trị thực ngân hàng thu được nhỏ hơn rât nhiều lần giá trị khoản nợ khách hàng, do đó tổn thất của ngân hàng là rất lớn. Trước thực tế đó, nhà nước cần sớm có các quy định rõ ràng về luật thuế nói chung và luật thuế đánh vào tài sản thể chấp nói riêng để giảm bớt thiệt hại cho ngân hàng và các thành phần kinh tế khác. Đồng thời với việc ban hành các luật thuế mới cần ban hành ngay các quy định hướng dẫn thi hành luật và có các quy đinh xử phạt thật nghiêm đối với các thành phần làm trái với các quy định pháp luật nói trên. 3.3.2 Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà Nước: Hoàn thiện hệ thống cung cấp thông tin tín dụng nhằm đáp ứng yêu cầu cập nhật thông tin một cách chính xác và đầy đủ. Hiện nay hệ thống ngân hàng ở Việt Nam đang khai thác thông tin qua trung tâm lưu trữ thông tin CIC, trung tâm lưu trữ thông tin có chức năng cung cấp các thông tin liên quan đến tình hình phát triển chung của nền kinh tế, tình hình hoạt động của từng ngành cụ thể, thông tin về các các cá nhân, tổ chức là các khách hàng của các ngân hàng ở Việt Nam. Tuy nhiên các thông tin do trung tâm lưu trữ thông tin CIC cung cấp cho các ngân hàng còn rất sơ sài, hầu hết các thông tin chỉ mang tính chất giới thiệu sơ qua tóm lược, không đầy đủ. Các thông tin thu được hầu như không không có thông tin tài chính không cung cấp nhiều thông tin giúp ngân hàng có thể dự đoán được mức độ tin tưởng khách hàng. Để phục vụ tốt hơn nhu cầu khai thác thông tin của các ngân hàng, trung tâm khai thác thông tin CIC cần: Tăng khối lượng thông tin và chất lượng thông tin: Khi tìm hiểu về một cá nhân, tổ chức cũng như tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của họ CIC cần khai thác tối đa các thông tin có thể được, khi cung cấp thông tin đó cho người sử dụng (ngân hàng) CIC cần sàng lọc thông tin đảm bảo mức độ chính xác của thông tin giúp người sử dụng thông tin không quyết định sai lầm do nguồn thông tin sai. Yếu tố thông tin đầy đủ và chính xác giúp ngân hàng rất nhiều trong công tác thẩm định (phục vụ cho việc ra quyết định cho vay) và giám sát khoản vay của ngân hàng. Việc tăng khối lượng thông tin và chất lượng thông tin do CIC cung cấp giúp ngân hàng dự đoán tốt hơn rủi ro cho vay. Tăng tốc độ cung cấp thông tin: Để tăng tốc độ cung cấp thông tin, làm sao cho thông tin đến được với người khai thác một cách nhanh nhất CIC cần có mạng lưới máy tính hiện đại tốc độ truy cập lớn, phục vụ nhiều đối tượng cùng một lúc. Trung tâm lưu trữ thông tin nên mua công nghệ khai thác và xử lý thông tin hiện đại của các nước tiên tiến. Tốc độ cung cấp thông tin nhanh giúp ngân hàng có thông tin về khách hàng một cách kịp thời, phục vụ tốt cho các quyết định của ngân hàng. Ngoài ra trung tâm lưu trữ thông tin cần tổ chức sắp xếp thông tin một cách khoa học giúp người sử dụng có thể khai thác thông tin dễ dàng, thuận tiện. Nâng cao chất lượng phân tích tình hình tài chính và phát triển hệ thống cảnh báo sớm những tiềm ẩn trong hoạt động các tổ chức tín dụng. Xây dựng hệ thống phâ tích, xếp loại doah nghiệp thống nhất toàn ngành để các bộ, ngành lien quan có thể trao đổi thông tin, tham khảo kết quả giám sát, phân tích Hoàn thiện mô hình tổ chức bộ máy thanh tra ngân hàng, có sự độc lập tương đối về điều hành và hoạt động nghiệp vụ trong tổ chức bộ máy của ngân hàng Nhà Nước. 3.3.3 Kiến nghị đối với ngân hàng BIDV chi nhánh Thành Đô: Chi nhánh Thành Đô nên thường xuyên tổ chức các buổi họp mặt khách hàng, thông qua đó sẽ tuyên truyền, phổ biến các thay đổi của chính sách cho vay, chương trình khuyến mãi khách hàng, tiến hành các buổi giao lưu gặp gỡ với khách hàng để nắm bắt tâm tư, nguyện vọng và nhu cầu của khách hàng để ngân hàng có thể đưa ra những dịch vụ tốt nhất. Tranh thủ sự giúp đỡ của chính quyền địa phương trong việc thẩm định khách hàng, cho vay, thu nợ đặc biệt là can thiệp trong việc giải quyết các vấn đề xảy ra khi không thu hồi được nợ, phải phát mại tài sản. Nâng cao trách nhiệm của cán bộ tín dụng, có chế độ thưởng phạt nghiêm minh. Bên cạnh đó, ngân hàng cần có chế độ khen thưởng xứng đáng với những cán bộ có thành tích xuất sắc trong hoạt động tín dụng. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường đầy biến động, sự phát triển như vũ bảo của khoa học kỹ thuật ngày nay đòi hỏi việc trang bị thêm những kiến thức mới, cập nhật thông tin phải được tiến hành hàng ngày, hàng giờ để theo kịp những thay đổi đó, đặc biệt với hoạt động ngân hàng là hoạt động có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Để đáp ứng yêu cầu đó, về phía ngân hàng giao dịch nên thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn ; các cơ chế thể lệ chính sách của ngành , liên ngành ; chủ trương của Đảng, Nhà nước và địa phương. Trong quá trình bồi dưỡng, tập huấn phải gắn lý luận với thực tiễn để các cán bộ tín dụng có thể vận dụng kiến thức một cách linh hoạt, sáng tạo trong thực tế. Bên cạnh đó phải thường xuyên chấn chỉnh về đạo đức, tác phong nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm, kỷ luật lao động nhất là về văn minh thương mại trong giao tiếp với khách hàng. Tất cả những biện pháp đó đều nhằm một mục đích duy nhất là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực góp phần phòng tránh những rủi ro tín dụng có thể xảy ra. KẾT LUẬN Kinh doanh tiền tệ tín dụng trong điều kiện nền kinh tế nước ta hiện nay các Ngân hàng thương mại gặp phải rất nhiều khó khăn, rủi ro. Thực trạng đó là kết quả tổng hợp của rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Chính bởi vậy ngân hàng phải biết vượt lên chính mình, đẩy lùi những vướng mắc tồn tại trong kinh doanh, hạn chế rủi ro ở mức thấp nhất bằng các biện pháp khác nhau. Trong thời gian tới nền kinh tế Việt Nam sẽ có rất nhiều chuyển kiến mạnh mẽ, khó khăn cũ có thể sẽ mất đi những tất yếu có những khó khăn mới nẩy sinh. Yêu cầu đặt ra là Ngân hàng nhà nước cũng như Ngân hàng Đầu Tư và Phát Triển cần có biện pháp chỉ đạo thích hợp và bản thân chi nhánh Thành Đô cũng cần phải có những biện pháp cụ thể nhằm giải quyết những khó khăn đang tồn tại và những khó khăn mới nảy sinh. Kết thúc chuyên đề thực tập tốt nghiệp, em xin chân thành cảm ơn PGS.TS Phan Thu Hà đã tận tình chỉ bảo và hướng dẫn em. Đồng thời em cũng xin chân thành cảm ơn các cô chú, anh chị tại chi nhánh BIDV Thành Đô đã tạo mọi điều kiện thuận lợi giúp em hoàn thành tốt chuyên đề thục tập tốt nghiệp này. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7582.doc
Tài liệu liên quan