Đề tài Một số giải pháp huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương techcombank

Tiền gửi bằng nội tệ của dân cư: Đây chủ yếu là tiền gửi tiết kiệm, nguồn này có quy mô lớn nhưng tăng trưởng không ổn định. Nhược điểm huy động tiền gửi tiết kiệm có lãi suất huy động bình quân cao, kì hạn tiển gửi danh nghĩa của người dân thường ngắn(kì hạn nhỏ hơn 12 tháng). Điều này đã ảnh hưởng đến khả năng sử dụng vốn, khả năng dịch chuyển kì hạn dư nợ, kết quả kinh doanh và giảm sức cạnh tranh của NHTM. + Tiền gửi bằng nội tệ của các TCKT- XH: Nguồn tiền này cũng có quy mô, cơ cấu lớn trong tổng nguồn huy động. Tiền gửi này thường là tiền gửi giao dịch hoặc có kì hạn ngắn. hưởng lãi suất thấp. Nếu ngân hàng huy động được nhiều để cho vay và đầu tư thì không những kéo dài được chênh lệch lãi suất hai

doc66 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 1189 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương techcombank, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trưởng tính an toàn, hiệu quả trong hoạt động của techcombank. Tổng dư nợ của Techcombank đến 31/12/2003 đạt 2.296 tỷ đồng tăng 400 tỷ đồng, hơn 21% so với cuối năm 2002. Dư nợ ngắn hạn của các tổ chức kinh tế và cá nhân trong nước tính đạt 1605 tỷ đồng, chiếm 30% tổng dư nợ. Năm 2004, cơ cấu tín dụng của Techcombank không có sự thay đổi lớn, tín dụng DN vừa và nhỏ của Techcombank là 2147 tỉ đồng, chiếm 62% tổng dư nợ tín dụng Techcombank, tăng 7% so với năm 2003 trong đó các khoản vay ngắn hạn chiếm 70% và các khoản vay dài hạn chiếm 30%. Tiếp tục phát huy thế mạnh của các sản phẩm cho vay tiêu dùng, trong năm 2005 Techcombank đã đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng và đạt được những kết quả khá ấn tượng đối với các sản phẩm trên. Tổng dư nợ tín dụng từ khu vực khách hàng cá nhân đạt 1560,9 tỷ đồng, tăng 66% so với năm 2004, chiếm 29% tổng dư nợ tín dụng. Để có thể tăng nhanh dư nợ bán lẻ Techcombank đã nghiên cứu và cải tiến quy trình cho vay của các sản phẩm như Ô tô xịn, Nhà mới..đồng thời phát triển them các sản phẩm tín dụng trọn gói Gia đình Trẻ hướng dẫn đến các cặp vợ chồng trẻ đang có nhu cầu tài chính để tạo dựng ngay cuộc sống tiện nghi. Sản phẩm đánh dấu một bước quan trọng trong công tác đa dạng hóa sản phẩm, đáp ứng nhu cầu của từng phân đoạn thị trường, các sản phẩm tín dụng bán lẻ khác như cho vay Du học, hỗ trợ kinh doanh cá thể vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng khá. Dư nợ tín dụng cuối năm 2008 đạt 26.022 tỷ đồng, tăng 30% so với mức dư nợ tín dụng cuối năm 2007. Bảng 2: Tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng Techcombank trong giai đoạn 2002-2008 (Đơn vị: tỷ đồng) Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 2103,3 2296 3462,90 5382,41 8810 20016,92 26022 2.1.4.3. Thẻ thanh toán Năm 2003 đánh dấu một sự kiện quan trọng đó là Techcombank tham gia thị trường thẻ Ngân hàng Việt Nam, dựa trên nền tảng công nghệ của Globus và sự hợp tác liên kết với Vietcombank, Techcombank đã phát triển sản phẩm thẻ thanh toán F@stAccess-connec 24 và chính thức phát hành thẻ ngày 05/12/2003. Nhờ hệ thống mới, Techcombank trở thành một trong những ngân hàng đầu tiên thực hiện được nghiệp vụ phát hành thẻ thanh toán kết nối trực tiếp từ tài khoản cá nhân. Tính đến cuối năm 2003,techcombank đã phát hành được 1600 thẻ F@stAccess-connec 24 cho khách hàng. Sau hơn 1 năm, số thẻ phát hành ra trên thị trường đã lên tới trên 20000 thẻ. Trong năm 2004 đã có 150000 giao dịch được thực hiện qua thẻ với doanh số hơn 160 tỷ đồng. Đằng sau con số đơn giản đó là sự nỗ lực phấn đấu của toàn hệ thống, và sự trợ giúp của những công nghệ tiên tiến nhất. Trên nền tảng công nghiệp hiện đại, với việc bổ sung them 2 tính năng mới hấp dẫn và lần đầu tiên xuất hiện tại thị trường Việt Nam, đó là F@stSaving-tài khoản tiết kiệm và F@stAdvance-ứng trước tài khoản cá nhân, thẻ F@stAccess nhanh chóng được thị trường đánh giá là một trong những thẻ tiện ích nhất. Trong năm 2005, số thẻ F@stAcces được Techcombank phát hành là 32000 thẻ, nâng số thẻ phát hành lũy kế tính đến ngày 31.12.2005 lên trên 50.566 thẻ. Số dư trong tài khoản thẻ đạt 543.012 giao dịch với doanh số là 611,9 tỉ đồng tăng 320% so với năm 2004. Có thể nói năm 2006 là năm Techcombank ra mắt rất nhiều sản phẩm bán lẻ mới với các tính năng hiện đại như: chứng chỉ tiền gửi, hệ thống tài khoản, các sản phẩm tiết kiệmCác sản phẩm này đã được khách hàng rất quan tâm và hưởng ứng .Tiêu biểu, sản phẩm chứng chỉ tiền gửi Lộc Xuân đã huy động được gần 300 tỉ sau 2 tháng triển khai, tài khoản tiết kiệm Đa năng F@stUni trở thành sản phẩm chủ lực của ngân hàng chỉ sau vài tháng, sản phẩm tiết kiệm giáo dục đã có trên 200 khách hàng với tổng giá trị hợp đồng trên 3,5 tỉ đồng sau chưa đầy 1 tháng chính thức cung cấp, sản phẩm thanh toán qua tin nhắn điện thoại di động F@stMObiPay đã gây được tiếng vang nhất định trên thị trường. Năm 2007 là một năm đáng ghi nhớ đối với hoạt động phát triển thẻ tại Techcombank. Thẻ ghi nợ Techcombank Visa được phát hành vào đầu năm và đến cuối năm đa đạt hơn 50.000 thẻ. Tổng số thẻ phát hành mới trong năm 2007 là 200.000 thẻ; tăng gần 300% so với năm 2006. Cùng với sự phát triển hoạt động phát hành thẻ, số giao dịch qua ngân hàng và số dư tiền gửitrên tài khoản cũng tăng đáng kể, từ trung b́nh 2.900.000 đồng/thẻ năm 2006 đến 4.000.000đồng/thẻ năm 2007 Độ bao phủ của mạng lưới dịch vụ thẻ không ngừng được mở rộng trên phạm vi toàn quốc, đặc biệt tại các trung tâm kinh tế, chính trị lớn. Đến hết năm 2007, Techcombank đã lắp đặt 168ATM, 2.300 máy cà thẻ tại các Đơn vị chấp nhận thẻ, góp phần tăng số lượng giao dịch thẻ gấp đôi so với năm 2006, từ 328.000 giao dịch/tháng cuối năm 2006 đến 66 0.000 giao dịch/thángcuối năm 2007. Chỉ thị của chính phủ về việc trả lương qua tài khoản cũng góp phần tạo ra một thị trường tolớn cho Techcombank. Chỉ trong ba tháng cuối năm 2007, Techcombank đã có thị phần đáng kể nhờ việc khai thác trả lương cho hàng chục ngàn cán bộ nhân viên của các bộ ngành như: Bộ Tư pháp, Bộ Kế hoạch Đầu tư, Bộ Công thương, Bộ Lao động Thương binh và Xă hội, Bộ Ngoại giao, Ṭa án Nhân dân tối cao, Bảo Việt Nhân thọ, Vietnam Airlines, Pacific Airlines, các trường học... Sản phẩm Internet banking mang tên F@st i-bank là một bước đột phá của Techcombank, mang đến một sản phẩm Internet Banking đích thực đầu tiên tại Việt Nam. Sau 7 tháng triểnkhai, đã có 820 khách hàng tham gia với tổng giá trị giao dịch thực hiện qua F@st i-bank là 155 tỷ đồng. Techcombank cũng là ngân hàng đầu tiên cung cấp dịch vụ thanh toán qua tin nhắn di động,qua đó khách hàng có thể mua hàng hoá, thanh toán hoá đơn điện thoại, phí bảo hiểm qua một bước nhắn tin đơn giản. Các sản phẩm thương mại điện tử này (F@st Mobipay – giao dịch qua tin nhắn điện thoại, Cổng thanh toán điện tử F@st VietPay) đã giúp khai thác không những khách hàng cá nhân mà cả các đối tác lớn như FPT, Bảo hiểm BảoMinh, PacificAirlines, VinaPhone Trong năm 2008, các sản phẩm mới lần lượt được giới thiệu và đã thu hút được sự quan tâm của nhiều khách hàng như các sản phẩm tiết kiệm trúng thưởng, Tiết kiệm bội thu, linh, Tiết kiệm linh hoạt, sản phẩm internetbanking – F@st i bank, F@st E-Bank, thẻ đồng thương hiệu TECHCOMBANK – VISA – VIETNAM AIRLINES.... được nâng cấp hoàn thiện và phục vụ rộng rãi các đối tượng khách hàng. Các sản phẩm mới ra mắt được đánh giá là đã đáp ứng được nhu cầu của thị trường và được khách hàng đón nhận. Đặc biệt sản phẩm internet banking F@st I-bank/F@st E-Bank tạo rất nhiều thuận tiện cho khách hàng trong việc quản lý tài khoản, thanh toán, kiểm soát các giao dịch với ngân hàng đem lại nhiều tiện lợi hơn cho khách hàng. Techcombank trở thành ngân hàng đầu tiên và là ngân hàng có nhiều nhất số lượng các khách hàng sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử ở Việt Nam. Năm 2008, Techcombank phát hành gần 300 000 thẻ các loại trong đó có gần 100000 thẻ VISA debit và credit, trở thành ngân hàng có số lượng phát hành thẻ VISA debit lớn nhất Việt Nam, và là 1 trong số 3 ngân hàng phát hành thẻ quốc tế lớn nhất Việt Nam với thị phần 14% thẻ quốc tế phát hành ở Việt Nam.Công tác quản lý chất lượng dịch vụ cũng được tăng cường mạnh mẽ với phương châm đem lại sự hài lòng cho khách hàng, Techcombank đã liên tục tìm kiếm các giải pháp nâng cao chất lượng dịch vụ đặc biệt của đội ngũ cán bộ giao dịch khách hàng. 2.1.4.4. Công nghệ của Techcombank Năm 2007 là năm bản lề trong đó Techcombank đẩy mạnh việc thực hiện chiến lược ngân hàng bán lẻ đa đề ra từ năm 2005. Với những khái niệm và yêu cầu quản trị mới, công nghệ phải chuẩn bị để đáp ứng và thậm chí phải đi tiên phong trong việc thực hiện những yêu cầu này. T24 phiên bản mới cho phép tích hợp các module phục vụ mô h́inh ngân hàng bán lẻ như đánh giá chấm điểm khách hàng (Customer Scoring), quản lư nhắc nợ tập trung (Debt Collection). Hai phân hệ này đa được TTCN triển khai thành công và đi vào hoạt động kịp thời phục vụ yêu cầu nghiệp vụ của ngân hàng trong quý II và III năm 2007. Phát triển sản phẩm mới dựa trên nền tảng công nghệ cao luôn là ưu tiên hàng đầu của Techcombank trong việc tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường ngân hàng. Với hệ thống ngân hàng lơi phiên bản T24R6 mới nhất, TTCN đã cùng các pḥòng ban nghiệp vụ liên tiếp cho ra các sản phẩm mới như: Tiết kiệm Tài lộc Đón xuân (1/07), Tiết kiệm gửi Techcombank trúng Mercedes (QIII/07), Cho vay Tiêu dùng trả góp, Cho vay liên kết với Nguyễn Kim, Nhà Xinh, Bảo Việt, cải tiến các sản phẩm thẻ (Fast Access I), quản lư tập trung quy tŕnh phát hành thẻ (Debit và Credit), Sản phẩm tài khoản đầu tư của Pacific Airlines Đa dạng các kênh bán hàng, mở rộng việc tiếp cận với khách hàng qua các kênh phi truyền thống như Hệ thống tin nhắn nhanh (SMS), Ngân hàng trực tuyến (Internet Banking), Cổng thanh toán điện tử (Payment Gateway) không chỉ là chiến lược kinh doanh ngân hàng hiện đại mà c̣òn là thước đo năng lực các hệ thống công nghệ của một ngân hàng. Techcombank tự hào là một trong những ngân hàng tiên phong và dẫn đầu trong việc áp dụng các thành tựu kỹ thuật tiên tiến này. Tháng 4/2007 đánh dấu một bước tiến mới trong việc ứng dụng Internet vào giao dịch ngân hàng khi Techcombank là ngân hàng tại Việt Nam đầu tiên tung ra sản phẩm F@st I Bank, một sản phẩm ngân hàng trực tuyến trọn gói đầy đủ, cho phép khách hàng giao dịch chuyển khoản trực tuyến qua mạng internet. Với sản phẩm này, lần đầu tiên công nghệ bảo mật hai yếu tố, mật khẩu sử dụng một lần của hăng bảo mật hàng đầu thế giới RSA Mỹ được áp dụng cho khách hàng của một ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Thanh toán qua SMS banking là một kênh giao dịch trực tuyến đa được Techcombank triển khai từ năm 2006. Hàng loạt dịch vụ giá trị gia tăng trên kênh thanh toán này đa được Techcombank phối hợp với các nhà cung cấp dịch vụ triển khai năm 2007. Điển h́nh là các thỏa thuận hợp tác Báo cáo thường niên 2007 với VTC, FPT, Bảo Minh, Viettel, Vinaphone, Goldmart cho phép khách hàng của Techcombank thanh toán dịch vụ của các nhà cung cấp thông qua tin nhắn. Việc sử dụng hạ tầng Internet để thanh toán các dịch vụ trực tuyến sử dụng thẻ quốc tế như Visa, Master đã trở nên phổ biến tại các nước phát triển nhưng c̣òn mới lạ tại thị trường Việt Nam do chưa có nhiều nhà cung cấp dịch vụ thanh toán trong khi đa có nhu cầu nhất định của những khách hàng sở hữu thẻ tín dụng hoặc ghi nợ quốc tế. Một lần nữa Techcombank lại là một trong những ngân hàng đầu tiên cung cấp giải pháp cổng thanh toán điện tử (payment gateway) cho khách hàng của ḿnh, những nhà cung cấp dịch vụ mua bán trực tuyến mà 123 Mua là một ví dụ. Một số dịch vụ ngân hàng điện tử khác được Techcombank triển khai thành công trong năm 2007 có thể kể đến như sản phẩm F@st Sbank cung cấp cầu nối cho nhà đầu tư với các công ty chứng khoán, sản phẩm Telebank cho Prudential, thẻ Metro gift, giải pháp thanh toán cho Pacific Airline. Năm 2007, Techcombank đa xây dựng và đưa vào vận hành một trun Càng ứng dụng công nghệ hiện đại th́ ngân hàng càng phải đối mặt với những vấn đề “hậu cần”như đầu tư cơ sở hạ tầng công nghệ bao gồm máy chủ, máy trạm, đường truyền, và cuối cùng,nhưng không kém phần quan trọng là an ninh bảo mật hệ thống.g tâm dữ liệu (Data Center)hoàn toàn mới với các trang thiết bị hiện đại như hệ thống sàn nâng, hệ thống chống cháy tự động bằng khí Nitrogen, hệ thống điều ḥòa đa điểm tại chỗ. Theo kịp sự phát triển về mạng lưới của ngân hàng, năm 2007 TCCN đa triển khai hạ tầng cho hàng chục chi nhánh phòng giao dịch mới, nâng cấp hệ thống đường truyền công nghệ mới như cáp quang, megawan, đảm bảo liên lạc giữa từng chi nhánh với trung tâm dữ liệu ở mức cao nhất. Nhận thức rõ rủi ro về bảo mật thông tin luôn song hành cùng sự phát triển của các hệ thống công nghệ, Techcombank đã thành lập một pḥòng chuyên biệt phụ trách công tác bảo mật. Bên cạnh đó bộ phận kiểm toán IT độc lập cũng được thành lập nhằm đảm bảo các hoạt động IT phải tuân thủ theo các tiêu chuẩn quản lư công nghệ quốc tế như Cobit, Iso 270001.Có thể nói trong năm 2007, Techcombank đã tiến một bước dài về công nghệ, giữ vững vị thế là một ngân hàng hiện đại, đi đầu trong việc áp dụng các thành tựu công nghệ vào chiến lược kinh doanh của ḿình. Techcombank nói chung và TTCN nói riêng cũng nhận rơ các thách thức mới đang ở phía trước trên con đường phát triển và đội ngũ cán bộ, chuyên viên TTCN cần không ngừng nâng cao nghiệp vụ, tinh thần làm việc chuyên nghiệp để chinh phục những đỉnh cao mới mà trước hết là hoàn thành xuất sắc kế hoạch năm 2008 do Ban Tổng Giám đốc giao. 2.2. Thực trạng hoạt động huy động vốn của ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005 - 2008 Cùng với sự phát triển vượt bậc, quy mô huy động vốn của Techcombank tăng dần theo từng năm và luôn vượt chỉ tiêu đề ra, chỉ trong 4 năm đã tăng từ 9238,05 lên 50000 tỷ đồng, gấp 5,41 lần, duy chỉ có năm 2008 do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế trên thề giới gây hàng loạt khó khăn cho các hoạt động doanh nghiệp nói chung và của ngân hàng nói riêng nên mục tiêu đề ra đã không thực hiện được, tuy vậy đây không phải là một tín hiệu đáng lo ngại vì việc gặp khó khăn là xu hướng chung của tất cả các doanh nghiệp chứ không chỉ riêng Techcombank. . Bảng 3 : Tổng nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương Techcombank giai đoạn 2005 – 2008. (Đơn vị: tỉ đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Thực hiện Tỷ trọng so với năm trước (%) Thực hiện Tỷ trọng so với năm trước (%) Thực hiện Tỷ trọng so với năm trước (%) Thực hiện Tỷ trọng so với năm trước (%) Tổng vốn thu hút hút 5738,05 123,34% 14932,67 160,23% 35197,81 135,71% 50000 42,05% Biểu đồ 3 : Biểu đồ tăng trưởng huy động vốn cuả Techcombank giai đoạn 2005 – 2008 Theo cơ cấu của Techcombank, hoạt động huy động vốn có thể chia theo đối tượng: Huy động vốn từ hộ gia đình và từ doanh nghiệp, trong mỗi đối tượng lại có thể chia nhỏ theo kì hạn và theo loại tiền 2.2.1. Huy động vốn từ hộ gia đình của ngân hàng Techcombank từ 2005-2008 Huy động vốn từ hộ gia đình luôn là 1 chính sách ưu tiên hàng đầu trong công tác huy động vốn của Techcombank. Và thực tế là nguồn vốn này luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động. Trong giai đoạn 2005-2008, tỷ trọng nguồn vốn huy động từ hộ gia đình luôn chiếm hơn 60%, từ 62,11% năm 2005 tăng lên 67,67% năm 2008. Bảng 4 : Nguồn vốn huy động của từ hộ gia đình và doanh nghiệp của ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005-2008. (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ Tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 Thực hiện Tỷ trọng Thực hiện Tỷ trọng Thực hiện Tỷ trọng Thực hiện Tỷ trọng Hộ gia đình 5738,05 62,11% 10052 67,31% 22634,81 64,31% 33834 67,67% Doanh nghiệp 3500 37,89% 4880,67 32,69 12563 35,69% 16166 32,33% 2.2.1.1 Huy động vốn theo kì hạn Huy động vốn theo kì hạn chia theo không có kì hạn, ngắn hạn (dưới 12 tháng), trung và dài hạn ( từ 12 tháng đến 60 tháng). Bảng 5: Quy mô vốn huy động theo kì hạn với đối tượng hộ gia đình tại ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005-2008. (Đơn vị: tỷ đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng Tổng vốn thu hút 5738,05 100% 10052 100% 22634,81 100% 33834 100% Không kì hạn 1300 22,65% 1500 14,92% 2730 12,06% 1150 3,4% Ngắn hạn 3286,05 57,26% 6200 61,67% 12904,81 57,01% 25050 74% Trung và dài hạn 1150 20,09% 2352 23,41% 7000,8 30,93% 7634 22,6% Nhìn vào bảng có thể thấy, vốn huy động đã tăng lên rất nhanh, năm 2005 mới chỉ là 5738,05 tỷ thì sang năm 2006 đã tăng lên 10052 tỷ đồng, tăng 75%, đặc biệt trong năm 2007 khi nền kinh tế phát triển vượt bậc, vốn huy động đã đạt 22634,81 tỷ tăng hơn 125% so với 2006, sang đến năm 2008 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng nên quy mô vốn đã không đạt được như kế hoạch ban đầu, tuy vậy so với năm 2007 vẫn có sự bứt phá đáng kể, tăng hơn 49%. Trong 3 loại kì hạn thì vốn huy động không có kì hạn chiếm tỷ trọng thấp nhất do tính chất của loại này là khách hàng có thể rút tiền ra bất kì lúc nào khiến ngân hàng khá bị động trong việc hoạch định kế hoạch cho loại này nên lãi suất rất thấp. Vốn huy động ngắn hạn luôn chiếm tỉ lệ cao nhất, điều này cũng dễ hiểu, lượng tiền nhàn rỗi được hộ gia đình gửi trong thời gian ngắn hạn nhằm mục đích sinh lời và sau 1 năm có thể rút tiền ra để sử dụng cho các hoạt động của mình. Đây cũng là nguồn tiền chủ yếu để các ngân hàng có thể thực hiện hoạt động cho vay của mình. Trong 4 năm, vốn huy động ngắn hạn đã tăng từ 3286,05 lên 25050 tỷ đồng, gấp 7,7 lần. Còn vốn huy động không có kì hạn thì có tỷ trọng thấp nhất do loại này khách hàng có thể rút tiền ra bất kì lúc nào nên lãi suất rất thấp. Tỷ trọng của vốn ngắn hạn giai đoạn này chiếm 57-74% trong tổng cơ cấu thu hút vốn và tỷ trọng vốn trung, dài hạn chiếm 20- 22% trong tổng cơ cấu thu hút vốn. Biểu đồ 4: Quy mô vốn huy động của các loại kì hạn theo đối tượng hộ gia đình của Techcombank trong giai đoạn 2005-2008 Xu hướng dịch chuyển là tăng tỷ trọng vốn trung và dài hạn trong tổng nguồn vốn thu hút như trên là khá hợp lý vì các nguyên nhân sau: Thứ nhất: Bất kì một ngân hàng nào trong quá trình hoạt động cũng đều có xu hướng tăng loại hình tiền gửi trung, dài hạn cũng như tiền gửi có kì hạn, do loại tiền gửi này sẽ làm cho ngân hàng chủ động hơn trong hoạt động kinh doanh của mình. Đồng thời vẫn phải giảm tỷ trọng thu hút vốn ngắn hạn đến một tỷ trọng hợp lý nhưng vẫn phải giữ tỷ trọng tuyệt đối trong tổng vốn huy động. Thứ hai: Do có một thực tế là lãi suất của các khoản tiền gửi ngắn hạn luôn thấp hơn lãi suất của các khoản vay dài hạn chính vì vậy mà để thu được lợi nhuận cao trong hoạt động thì ngân hàng thường lấy các khoản gửi ngắn hạn cho vay dài hạn. Nhưng đồng thời các ngân hàng cũng nhận thấy nếu như người gửi các khoản tiền ngắn hạn đến thời điểm đáo hạn thì sẽ khó khăn cho ngân hàng trong việc huy động tiền trả nợ. Chính vì vậy mà ngân hàng luôn hi vọng rằng trong khoảng thời gian đáo hạn của khoản này thì dứt khoát sẽ có nhiều người tiếp tục gửi tiền vào ngân hàng và ngân hàng có thể dùng những khoản này để trả nợ cho các khoản đến hạn. Như vậy ngoài việc thiết lập uy tín vững chắc thì ngân hàng cũng cần phải tiến hành các biện pháp cũng như hình thức quảng cáo, khuyến mại nhằm giữ vững tỷ trọng tuyệt đối của các khoản tiền gửi ngắn hạn trong tổng vốn thu hút. Qua bảng số liệu ta thấy thu hút vốn năm 2007 tăng mạnh so với năm 2006 vì năm 2007 có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao mà lại ổn định, là năm mà nước ta gia nhập tổ chức thương mại quốc tế WTO nên đã tạo ra nhiều cơ hội để phát triển kinh tế đất nước. Nền kinh tế tăng trưởng cao kéo theo các ngành khác phát triển đặc biệt là ngành tài chính – ngân hàng. Năm 2005 tỷ trọng vốn trung, dài hạn giảm là do năm 2005 có sự biến động về chỉ số giá liên tục tăng, chỉ số lạm phát tương đối cao, làm cho người gửi tiền thận trọng nên không muốn gửi tiền với kì hạn dài và những ảnh hưởng đó cũng đôi chút ảnh hưởng đến năm 2006. Như đã phân tích ở trên năm 2008 bị ảnh hưởng bởi cuộc suy thoái kinh tế kinh tế trên toàn cầu nên mọi người cảm thấy không an tâm khi gửi tiền bằng hình thức trung và dài hạn làm cho vốn thu hút bằng hình thức này không cao. Giai đoạn này Techcombank quan tâm hơn đến việc huy động tiết kiệm bằng các hình thức phát hành kì phiếu, chứng chỉ các loại tiền gửi với lãi suất cao. Chính vì vậy mà mức độ chênh lệch giữa thu hút vốn ngắn hạn và trung, dài hạn ngày càng rút ngắn lại. Tuy nhiên trong giai đoạn này vốn huy động ngắn hạn vẫn duy trì vai trò chủ đạo của mình trong tổng vốn thu hút của ngân hàng Techcombank. Thể hiện ở việc nó luôn chiếm tỷ trọng 60-74% trong vòng 4 năm qua. Tiền gửi ngắn hạn thường của các khách hàng lớn có mối quan hệ truyền thống với ngân hàng nên có xu hướng ổn định những khoản tiền gửi này qua các năm đồng nghĩa với việc loại tiền này còn tiếp tục tăng và ổn định trong giai đoạn tiếp theo do kì hạn thực tế của các loại tiền gửi này thường kéo dài nhiều năm (hết kì hạn này khách hàng sẽ rút cả lãi và gốc, sau đó sẽ rút cả lãi và gốc sau đó tiếp tục gửi vào kì tiếp theo). Tuy nhiên sự chiếm tỷ trọng lớn của vốn ngắn hạn cũng như vốn không kì hạn cũng là một vấn đề mà Techcombank cần tiếp tục chuyển dịch hơn nữa để có thể có hiệu quả kinh doanh và an toàn trong năm tới. Kết quả của cơ cấu này cho thấy giai đoạn 2005 – 2008 chất lượng nguồn vốn theo kì hạn của Techcombank có chiều hướng được nâng lên do lãi suất các khoản tiền gửi là thấp, mặt khác cũng phản ánh tính chất nguồn vốn từ dễ biến động sang ổn định dần, do nguồn tiền gửi không kì hạn và ngắn hạn thường chịu ảnh hưởng về những biến động như lãi suất, tỷ giá, thu nhập, chu kì chi tiêu 2.2.1.2. Huy động vốn từ hộ gia đình phân theo loại tiền Huy động vốn theo loại tiền có thể chia thành huy động theo nội tệ và ngoại tệ. Với việc VN gia nhập WTO, càng ngày càng có nhiều doanh nghiệp nước ngoài vào đầu tư khai thác thị trường tiềm năng của VN, việc trao đổi ngoại tệ ngày càng phổ biến, số vốn huy động ngoại tệ tử hộ gia đình cũng tăng lên nhanh chóng và chiếm tỷ trọng cao trong tổng vốn huy động. Bảng 6: Vốn huy động theo loại tiền của đối tượng hộ gia đình tại ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005-2008. ( Đơn vị: tỷ đồng) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng Tổng vốn 5738,05 100% 10052 100% 22634,81 100% 33834 100% Nội tệ 4350 75,08% 7450 74,11% 12904,81 57,01% 16584 49,01% Ngoại tệ 1388.05 24,92% 2575 25,89% 9730 42,99% 17250 50,99 Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy về mặt giá trị thu hút vốn của cả loại tiền đều tăng qua các năm. Đồng thời cũng có sự chuyển dịch trong cơ cấu của vốn thu hút xét theo loại tiền. Cụ thể là tăng dần về tỷ trọng của tiền ngoại tệ trong cơ cấu thu hút vốn. Từ 1388,05 tỷ đồng năm 2005 lên 17250 tỷ đồng năm 2008, tức là gấp 12,42 lần. Tuy nhiên tỷ trọng của đồng nội tệ đang có xu hướng giảm dần. Đây là sự chuyển dịch hợp lý dần tiến đến thế cân bằng của hai loại tiền gửi này để phù hợp với xu hướng phát triển của nền kinh tế. Đầu tiên nguồn nội tệ là nguồn chủ yếu của ngân hàng Techcombank chiếm 75% tổng nguồn vốn, có xu hướng giảm dần qua các năm. Đến cuối năm 2008 vốn nội tệ thu được là 16584 tỷ đồng gấp 3,81 lần so với năm 2005 (năm 2005 vốn nội tệ thu hút được là 4350 tỷ đồng). Nguyên nhân của sự chuyển dịch này nằm trong chiến lược điều chỉnh cơ cấu vốn theo chương trình hoạt động của Techcombank, phù hợp với hoạt động tín dụng. Vốn huy động VNĐ vẫn tăng về mặt giá trị cho dù tỷ trọng trong tổng vốn có xu hướng giảm dần, đây là kết quả của hoạt động đa dạng hóa sản phẩm của Techcombank trong thời gian qua đã áp dụng nhiều biện pháp như triển khai các loại kì phiếu với nhiều kì hạn khác nhauđẩy mạnh thu hút qua hình thức tài khoản cá nhân cùng với các dịch vụ thẻ đồng thời các phòng ban cũng có sự phối hợp tích cực để đưa ra các giải pháp tổng thể cho khách hàng là các tổ chức kinh tế, xã hội lớn. Thứ hai nguồn ngoại tệ quy đổi có tỷ trọng khá cao, bình quân giai đoạn này là 25%. Năm 2006 vốn ngoại tệ 2575 tỷ đồng gấp 1,785 lần so với năm 2005. Năm 2007 vốn ngoại tệ là 9730 tỷ đồng cao gấp 3,63 lần so với năm 2006. Riêng năm 2008 vốn ngoại tệ là 17250 tỷ đồng cao gấp 1,77 lần so với năm 2007. Do ảnh hưởng bởi suy thoái kinh tế năm 2008 nên lượng vốn thu hút được giảm so với kế hoạch đặt ra dẫn đến lượng ngoại tệ này giảm đáng kể. Đây thực sự là con số kỉ lục và có dấu hiệu đáng mừng. Đó cũng chính là nguyên nhân dẫn đến việc tăng giảm lượng vốn nội tệ và ngoại tệ như kết quả đã chỉ ra ở bảng. Với nhiều chính sách mở cửa của nhà nước và việc hội nhập kinh tế thế giới xu hướng lượng kiều hối để vào trong nước ngày càng nhiều và thời điểm hiện tại giá đồng USD đang ở mức cao và ổn định đồng thời cùng với sự tích lũy kinh nghiệm qua nhiều năm thì xu hướng thu hút vốn ngoại tệ sẽ hoàn toàn có khả năng tăng trở lại trong thời gian tới đúng với khả năng vốn có của Techcombank. Tuy nhiên nếu định hướng tiếp tục cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thì Techcombank cần tiếp tục duy trì tỷ trọng của nó trong tổng vốn thu hút đầu tư và tiếp tục khai thác cơ hội của nguồn vốn ngoại tệ đem lại. Cho dù kết quả đạt được cũng tương đối cao trong giai đoạn 2005 – 2008 nhưng cũng không thể dự đoán được do yếu tố khách quan của thị trường vốn ngoại tệ. Biểu đồ 5: Quy mô vốn huy động theo loại tiền với đối tượng hộ gia đình của ngân hàng Techcombank trong giai đoạn 2005-2008. (Đơn vị: tỷ đồng) 2.2.2- Huy động vốn từ doanh nghiệp 2.2.2.1. Huy động vốn theo kì hạn Các doanh nghiệp gửi tiền vào vào ngân hàng với mục đích chủ yếu là thanh tóan cho các hoạt động kinh doanh của mình và có thể nhằm để sinh lời khi nguồn vốn nhàn rỗi chưa cần sử dụng đến. Vì thế tài khoản ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất luôn trong khoảng 61- 75% trong tổng huy động vốn. Đây là nguồn vốn có chi phí thấp, quy mô lớn, sử dụng tuy linh hoạt nhưng lại không phụ thuộc vào nhiều vào quyết định của đối tượng gửi tiền do tác động của lãi suất cạnh tranh. Do đó, nguồn tiền này có thể được dùng để tài trợ cho các dự án ngắn hạn. Bảng 7: Quy mô huy động vốn theo kì hạn của doanh nghiệp tại ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005-2008. ( Đơn vị: tỉ đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng Tổng nguồn vốn thu hút 3500 100% 4880,07 100% 12363 100% 16166 100% Không kì hạn 700 20% 850 17,4% 970 7,84% 950 5,87% Ngắn hạn 1950 55,7% 2506,21 51,3% 9340 75,5% 12111 74,91% Trung và dài hạn 850 24,3% 1524,46 31,3% 2250 16,66% 3105 19,22% Nhìn vào bảng và biểu đồ có thể thấy, quy mô huy động vốn theo kì hạn của doanh nghiệp nhỏ hơn hộ gia đình khá nhiều. Và trong đó vốn ngắn hạn chiếm tỷ trọng lớn nhất. Năm 2005, vốn ngắn hạn là 1950 tỷ đồng chiếm 55,7 %, sang 2006 là 2506,21 tỷ đồng chiếm 51,3 %. Năm 2007 khi VN gia nhập WTO nguồn vốn này đã tăng lên 1 cách đáng kể, đạt 9340 tỷ, gấp 37,26 lần năm 2006 và chiếm tỷ trọng 75,5 % trên tổng nguồn vốn huy động. Năm 2008 do tác động của khủng hoảng kinh tế, lạm phát tăng cao khiếm các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn nhưng Techcombank vẫn giữ được sự tin cậy của khách hàng doanh nghiệp và nguồn vốn huy động trong năm này vẫn rất lớn, tổng nguồn vốn đạt 16166 tỷ đồng trong đó vốn ngắn hạn là 12111 tỷ chiếm 74,91 %. Biểu đồ 6: Quy mô vốn huy động theo kì hạn của đối tượng doanh nghiệp tại ngân hàng Techcombank trong giai đoạn 2005 – 2008. (Đơn vị: tỷ đồng) 2.2.2.2. Huy động vốn từ doanh nghiệp theo loại tiền Kể từ khi Việt Nam hòa nhập với nền kinh tế thế giới, nhu cầu buôn bán xuất khẩu hàng hóa qua lại giữa Việt Nam với các nước bạn tăng cao, do đó nhu cầu sử dụng các đồng ngoại tệ cũng tăng cao. Nhận thức được điều này, công tác huy động nguồn vốn bằng ngoại tệ luôn được ngân hàng Techcombank chú trọng và phát triển. Các doanh nghiệp gửi tiền ngoại tệ vào ngân hàng để phục vụ cho cho hoạt động thanh toán xuất nhập khẩu hoặc do tỷ giá hối đoái thay đổi có lợi nên gửi tiền nhằm sinh lời cao hơn so với nguồn tiền ngoại tệ. Đây chủ yếu là các khoản tiền gửi trong thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn ngắn thường từ 1-3 tháng. Bảng 8: Quy mô vốn huy động từ doanh nghiệp theo loại tiền của ngân hàng Techcombank giai đoạn 2005-2008.(Đơn vị: tỷ đồng) Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Năm 2008 TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng TH Tỷ trọng Tổng vốn 3500 100% 4880,07 100% 12363 100% 16166 100% Nội tệ 2750 78,57% 3370 69,05% 8343 67,48% 9553 59,09% Ngoại tệ 750 21,43% 1510,07 30,95% 4020 32,52% 6613 40,91% Nhìn vào bảng có thể thấy tỷ trọng huy động vốn ngoại tệ đang tăng dần theo từng năm, năm 2005 nguồn vốn ngoại tệ đạt 750 tỷ chỉ chiếm 21,43 %, năm 2006 con số này đã tăng gấp 2 lần là 1510,07 tỷ đồng chiếm 30,95% tổng nguồn vốn, năm 2007 là 1 năm đột phá của Techcombank, lượng tiền ngoại tệ huy động đã tăng vọt lên đạt 4020 tỷ đồng, tăng gấp 2,5 lần và chiếm 32,52% tổng nguồn vốn, năm 2008 tuy gặp khủng hoảng gây khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng nguồn vốn huy động bằng ngoại tệ của Techcombank vẫn đạt được quá mục tiêu đặt ra, đạt 6613 tỷ đồng, chiếm hơn 40% trong tổng nguồn vốn. Biểu đồ 7: Quy mô vốn huy động theo loại tiền của đối tượng doanh nghiệp tại Techcombank giai đoạn 2002-2005. (Đơn vị: Tỷ đồng) 2.3. Đánh giá hoạt động huy động vốn tại ngân hàng TMCP Techcombank thời gian qua 2.3.1 Thành tựu đạt được Thứ nhất, tổng vốn huy động của ngân hàng không ngừng tăng trưởng với tốc độ nhanh và luôn vượt chỉ tiêu đề ra. Duy chỉ có năm 2008 do tác động của khủng hoảng kinh tế nên có gặp khó khăn tuy vậy ngân hàng vẫn đứng vững và có nhiều biện pháp để cải thiện tình hình khắc phục khó khăn. Thứ hai, các sản phẩm huy động vốn ngày càng được nâng cao vè chất lượng và số lượng. Ngoài hình thức huy động truyền thống thì Techcombank đã bổ sung thêm nhiều hình thức như tiết kiệm bậc thang, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm gửi góp, tiết kiệm khuyến mãi bằng hiện vật, phát hành các giấy tờ có giá với các phương thức trả lãi trước, trong và sau, kỳ hạn đa dạng, phong phú. Thứ ba, cơ cấu nguồn huy động ngày càng hợp lý. Luôn có chính sách ưu tiên cho huy động vốn từ hộ gia đình, ngân hàng Techcombank đã đưa ra nhiều mức lãi suất cao và phong phú về kì hạn, ngoài ra còn có các chương trình trúng thưởng để hấp dẫn các hộ gia đình gửi tiền vào. Ngoài ra, ngân hàng đã linh hoạt với những thay đổi của nền kinh tế thị trường, hoạt động không chỉ hướng tới khối công thương nghiệp mà đã phát triển theo hướng đa năng, chủ trương liên kết, hợp tác với tất cả các thành phần kinh tế. Do vây, chiến lược huy động cũng có từng bước chuyển dịch. Vốn huy động của các tổ chức kinh tế vẫn rất lớn, chiếm tỷ trọng cao trong tổng nguồn vốn, tiền gửi ngắn hạn với chi phí lãi thấp có tỷ trọng ngăy càng cao, phát hành giấy tờ có giá ngày càng thu hút được nhiều hơn nữa sự quan tâm của khách hàng. Thứ tư, các chi nhánh trong hệ thống đều chủ động và tích cực huy động nguồn vốn tại chỗ. 2.3.2. Những mặt còn hạn chế trong công tác huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của Techcombank trong thời gian qua. Mặc dù ngân hàng đã đạt được nhiều thành tựu to lớn song bên cạnh đó vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Thứ nhất, nguồn vốn tuy tăng trưởng cao nhưng các hình thức huy động vốn vẫn tăng trưởng chưa ổn định. Thứ hai, cơ cấu vốn có sự chuyển dịch tốt nhưng chưa thực sự hợp lý. Nguồn tiền gửi từ hộ gia đình mặc dù chiếm tỷ trọng khá cao nhưng vẫn chưa đạt đến độ phù hợp với nhu cầu sử dụng, Bên cạnh đó, nguồn vốn huy động còn nghiêng về nguồn vốn ngắn hạn. Đây là nguồn vốn có chi phí huy động rẻ song lại đưa ra áp lực lớn đối với các khỏan cho vay trung và dài hạn, khiến ngân hàng không thể cân bằng giữa huy động và cho vay, từ đó có thể gây ra rủi ro thanh khoản. Thứ ba, các sản phẩm huy động vốn trong năm tuy có triển khai được nhiều nhưng vẫn chưa đủ và chưa tương xứng với sự phát triển của ngân hàng. Bên cạnh các sản phẩm tiền gửi đã áp dụng, ngân hàng chỉ mới có tiết kiệm bậc thang lãi suất chứ chưa có bậc thang về số tiền gửi, chưa có các gói tiết kiệm hay như rút gốc linh hoạt, chưa có các kì hạn ngắn như ngày, tuần , chưa triển khai phát triển nhiều loại thẻ dùng cho thanh tóan phù hợp với từng lọai đối tượng. Để nguồn vốn có thể phát triển một cách ổn định, bền vững và đem lại hiệu quả thì tất cả các hạn chế nói trên của ngân hàng cần phải được xem xét và đưa ra những biện pháp kịp thời để khắc phục nhanh chóng. 2.3.3 Nguyên nhân của những hạn chế 2.3.3.1 Nguyên nhân khách quan Môi trường tồn tại xung quanh ngân hàng có thể thúc đẩy ngân hàng phát triển nhưng ở một khía cạnh nào đó, nó lại đang kìm hãm sự phát triển của ngân hàng, Thứ nhất, năm 2008 nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn bất ổn với lạm phát tăng cao. Điều này làm cho người dân không muốn gửi tiền vào tiết kiệm mà phải dùng tiền cho hoạt động tiêu dùng hàng hóa. Thứ hai, nguyên nhân từ phía hệ thống cơ chế, chính sách. Hiện nay, chúng ta có nhiều văn bản pháp luật quy định về hoạt động của các NHTM cũng như các văn bản liên quan khác chưa được chỉnh sửa, bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển kinh tế hiện nay. Các văn bản này còn thiếu đồng bộ, nhiều khi thừa rắc rối lại thiếu chặt chẽ, chồng chéo lên nhau khiến cho các ngân hàng thương mại nói chung ngân hàng Techcombank nói riêng còn lúng túng trong việc áp dụng. Thứ ba, thị trường ngân hàng phải chịu sự cạnh tranh từ các thị trường khác như thị trường bất động sản có dấu hiệu phục hồi từ đầu năm 2007, thị trường chứng khoán với sự bùng nổ trong năm 2006 Thứ tư, ngành ngân hàng trong những năm gần đây đang có sự phát triển vũ bão với ra đời va phát triển mạnh mẽ của hệ thống các Ngân hàng thương mại cổ phần trong và ngòai nước, các tổ chức tài chính và tổ chức tín dụng. Điều này đặt ngân hàng vào một môi trường cạnh tranh gay gắt, làm cho thị phần của chi nhánh bị thu hẹp. 2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan Bên cạnh các yếu tố khách quan bên ngoài, bản thân ngân hàng còn tồn tại một số nguyên nhân chủ quan cần khắc phục. Thứ nhất, hoạt động Marketing, tuyên truyền quảng bá hình ảnh, các sản phẩm nghiệp vụ tuy đã có nhiều cố gắng và mang lại hiệu quả nhất định song vẫn còn hạn chế về chất lượng, mẫu mã, phương thức quảng bá, quảng cáo, tiếp thị ít nhiều ảnh hưởng đến kết quả hoạt động kinh doanh. Thứ hai, ngân hàng chưa thực hiện hiệu quả chính sách khách hàng trong huy động tiền gửi, các dịch vụ sau khi huy động vốn hầu như không có, đặc biệt khách hàng sau khi gửi tiền vào ngân hàng hoàn tòan không được cập nhập thêm những thông tin như sự biến động về số dư, lãi suất, tỷ giá Thứ ba, Chi nhánh còn chủ yếu sử dụng các hình thức huy động vốn truyền thống, cạnh tranh chủ yếu bằng lãi suất, cách thức gửi và rút tiền còn rườm ra, gửi đâu rút đó, chưa có những dịch vụ hỗ trợ khách hàng thuận tiện hơn. Thứ tư , thời gian giao dịch chưa linh hoạt, bó hẹp trong giờ hành chính, hạn chế khả năng huy động vốn. Tuy còn một số hạn chế nhưng Techcombank vẫn đang tích cực thay đổi hàng ngày để có thể khắc phục và phát triển, tạo điều kiện tốt nhất cho các khách hàng của mình. CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP THỰC HIỆN KẾ HOẠCH THU HÚT VỐN CỦA TECHCOMBANK NĂM 2009 3.1. Quan điểm và định hướng thực hiện mục tiêu thu hút vốn của Techcombank năm 2009 3.1.1. Quan điểm phát triển nguồn vốn của Techcombank Từ mục tiêu thu hút vốn được xác định trong kế hoạch thu hút vốn năm 2009 và căn cứ vào thực trạng thu hút vốn của Techcombank thời gian qua. Quan điểm của ngân hàng về hoạt động huy động vốn thời kỳ này như sau: Một là: Hoàn thành và vượt mức mục tiêu thu hút vốn cả về quy mô và cơ cấu thu hút. Căn cứ vào kết quả đạt được của công tác thu hút vốn giai đoạn 2005- 2008, cũng như phân tích tình hình kinh tế xã hội của đất nước, của Hà Nội, ngân hàng thương mại cổ phần và kỹ thương Việt Nam phấn đấu hoàn thành mục tiêu đặt ra năm 2009. Đặc biệt là công tác huy động vốn của ngân hàng sẽ được hoàn thành trên cả phương diện quy mô và cơ cấu. Hai là: Đa dạng hoá các nguồn vốn và xác định rõ khâu đột phá trong thu hút vốn năm 2009 Cùng với sự phát triển trong nhu cầu của khách cũng như sự cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng trong giai đoạn hiện nay cũng như trong tương lai, một yêu cầu đặt ra của Techcombank giai đoạn tới là phải đa dạng hóa các nguồn vốn thu hút, cũng như thấy được tiềm năng của mình và nắm bắt cơ hội để tạo ra các bước đột phá trong công tác huy động vốn. Ba là: Điều chỉnh hợp lý mối quan hệ giữa thu hút vốn và sử dụng vốn. Hoạt động có hiệu quả nhất của ngân hàng thương mại và cổ phần kĩ thương Techcombank hiện nay là công tác thu hút vốn, với những lợi thế có được về khách hàng do thương hiệu lâu đời cũng như uy tín sẵn có, Techcombank đặt ra mục tiêu tiếp tục tập trung cao hơn nữa vào hoạt động này, thực hiện nhiều biện pháp tích cực nhằm đạt được mục tiêu thu hút vốn đặt ra trong thời gian tới. Đồng thời phải sử dụng vốn có hiệu quả, kết hợp thu hút vốn – sử dụng vốn một cách hợp lý nhất, phát huy được nguồn vốn thu hút cho mục tiêu lợi nhuận của ngân hàng. Bốn là: Đảm bảo mục tiêu thu hút vốn an toàn - hiệu quả Phương châm hoạt động của Techcombank là an toàn – hiệu quả. An toàn trong mọi lĩnh vực kinh doanh, hiệu quả mang ý nghĩa xã hội và phát triển phù hợp với tốc độ phát triển của đất nước và chính sách tiền tệ của ngân hàng. Techcombank luôn quán triệt bản thân mình hoạt động theo sát với chiến lược phát triển của đất nước, tiếp cận các chương trình, các dự án quốc gia để ngân hàng sẽ đầu tư vào đó. Đối với các khách hàng, Techcombank luôn mang đến một niềm tin và sự an toàn tuyệt đối. Bởi vậy mà thương hiệu của Techcombank ngày càng được khẳng định. 3.1.2. Định hướng phát triển công tác thu hút vốn của Techcombank Những quan điểm phát triển hoạt động thu hút vốn của Techcombank được thể hiện bằng các định hướng nhằm thực hiện được kế hoạch thu hút vốn năm 2009. 3.1.2.1. Tăng cường thu hút vốn nhiều nhất từ dân cư Techcombank đã xác định và coi nguồn vốn từ dân cư là nguồn vốn cần được đẩy mạnh thường xuyên để có được nguồn thu hút vốn ổn định và tăng trưởng. Hiện nay thị trường dân cư là một thị trường lớn, giàu tiềm năng vì đối tượng mà ngân hàng hướng tới là khách hàng trẻ tuổi ở các đô thị lớn. Hà Nội là thủ đô của nước ta đồng thời có tiềm năng phát triển nên đây cũng là thị trường đầy hứa hẹn. Cần chú trọng gia tăng nguồn vốn thu hút này trong thời gian tới bằng cách mở rộng địa bàn thu hút vốn, thực hiện đa dạng hóa các hình thức thu hút vốn. Mở rộng thêm văn phòng giao dịch ở các khu đông dân cư, ven đô thị mới. Phải xác định được đây là một thị trường tiềm năng trong thời gian tới. Phát triển hướng thu hút từ các tổ chức tín dụng Vốn thu hút từ các tổ chức tín dụng là nguồn vốn có tích chất ổn định và tương đối lớn, có xu thế tăng lên cùng với sự phát triển kinh tế của đất nước. Nhưng thời gian qua Techcombank chưa tận dụng được điều này, thu hút từ các tổ chức tín dụng trong tổng số còn khá nhỏ. Chính vì vậy bên cạnh việc chú trọng thu hút vốn từ dân cư ta cũng nên đẩy mạnh thu hút vốn từ các tổ chức tín dụng bằng các biện pháp như tiếp thị, marketing.... Mở rộng mối quan hệ giữa các tổ chức, ngân hàng trong khu vực và trên thế giới Thực tế là tỷ trọng vốn ngoại tệ chiếm trong tổng vốn huy động là không đáng kể. Chính vì vậy cần tăng cường mối quan hệ với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, các tổ chức tài chính khu vực và thế giới để tăng lượng vốn ngoại tệ. Trong đó đối tác chiến lược quan trọng của Techcombank là HSBC đã hỗ trợ Techcombank rất nhiều trong thời gian qua. Đồng thời chính mối quan hệ này cũng góp phần làm tăng kết quả kinh doanh của ngân hàng trong tương lai. Với xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế, Techcombank cần có những định hướng rõ ràng với quan điểm này. 3.2. Một số giải pháp nhằm thực hiện mục tiêu kế hoạch huy động vốn của Techcombank năm 2009 Ngân hàng không thể tiến hành hoạt động kinh doanh của mình nếu huy động vốn không đủ vốn hoặc thu hút vốn quá nhiều mà không sử dụng hết, tức là ngân hàng đang trong tình trạng “kẹt vốn”. Do vậy hoạt động quan trọng nhất đối với mỗi ngân hàng là công tác huy động vốn hay còn gọi là hoạt động “đầu vào”, một khi “đầu vào” thuận lợi sẽ góp phần cho “đầu ra” thông thoáng. Nhưng “đầu vào” lại phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như môi trường kinh doanh, các nhân tố thuộc bản chất ngân hàng như chiến lược kinh doanh của ngân hàng, chiến lược khách hàng, chiến lược lãi suất....Thấy được tầm quan trọng của công tác huy động vốn, ngân hàng đã đưa ra các giải pháp sau để công tác huy động vốn năm 2009 đạt được mục tiêu đã đề ra, phát huy tối đa tiềm năng của mình trong bối cảnh nền kinh tế như hiện nay. Tăng cường thu hút vốn trên nguyên tắc tăng trưởng ổn định, tăng cường huy động tối đa từ dân cư và tận dụng mọi nguồn lực tài chính của ngân hàng cũng như ở bên ngoài để cải thiện cơ cấu và chất lượng nguồn vốn và cạnh tranh với các ngân hàng khác. Dưới đây là các giải pháp: 3.2.1. Mở rộng các hình thức huy động vốn Mở rộng các hình thức tiền gửi với đối tượng hộ gia đình bao gồm cả tiền gửi tiết kiệm, tiền gửi sử dụng thẻ, tiết kiệm có thưởng, tiết kiệm tích lũy, tiết kiệm bậc thang. Đa dạng hóa kỳ hạn gửi tiết kiệm: không chỉ dừng lại việc chỉ có tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn kiểu 3 tháng, 6 tháng, 1 năm.v.v..NHTMCP kỹ thương Techcombank cần có giải pháp tự động chuyển hóa tiền gửi không kỳ hạn sang có kỳ hạn cho dân. Linh hoạt về thời hạn cũng là 1 sự hấp dẫn tiền gửi. Sử dụng công cụ tiền gửi có mục đích. Đây là hình thức tiết kiệm trung, dài hạn. Khi các khách hàng mang tiền gửi vào ngân hàng dưới hình thức này thù giữa ngân hàng và khách hàng đều biết rõ mục đích của việc gửi tiền. Đối tượng chủ yếu của hình thức này là người có thu nhập thấp nhưng ổn định có dự định chi tiêu trong tương lai, có nhu cầu mua sắm tài khoản có giá trị lớn nhưng mức tiết kiệm của họ trong thời gian ngắn không thể đáp ứng được. Do biết được mục đích gửi tiền của khách hàng, ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng về thời gian và phương thức gửi tiền cụ thể như: + Tiết kiệm tuổi già và tiết kiệm tích lũy, đây là hình thức tương tự như bảo hiểm tuổi già, bảo hiểm nhân thọ của các công ty bảo hiểm. Hình thức tiết kiệm tuổi già cùng với bảo hiểm xã hội và bảo hiểm nhân thọ sẽ đảm bảo cho người già có mức sống ổn định và cuộc sống có ý nghĩa hơn. + Tiết kiệm nhà ở: Những người dân có nhu cầu làm nhà, mua nhà nhưng tài chính có hạn, gửi dần tiền tích lũy được vào ngân hàng đến lúc nào đó có thể rút ra để mua nhà, xây nhà. Ngân hàng cần có chính sách cho vay ưu đãi để làm nhà, mua nhà đối với những người gửi thường xuyên, đều đặn và có quy mô đến một độ nào đó thì có thể cho vay thêm để mua nhà, xây nhà bằng cách kết hợp lợi ích của người dân với lợi ích của ngân hàng, sẽ mở ra triển vọng tốt đẹp cho hình thức này. + Tiền tiết kiệm mua sắm phương tiện đắt tiền (ô tô, xe máy..vv..) cũng như người muốn làm nhà, mua nhà, người, người mua sắm ô tô, xe máy nhưng chưa đủ tiền. Số tiền có được và thu nhập hàng tháng có thể gửi vào ngân hàng để đến lúc nào đó có thể rút ra mua sắm. Ngân hàng cũng cần có cơ chế cho vay ưu đãi thêm đối với những người gửi thường xuyên và có số dư đáng kể. 3.2.2. Thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt Lãi suất là một trong các yếu tố kinh tế có tác động mạnh đến việc thu hút vốn, đặc biệt là vốn trung và dài hạn, vì hộ gia đình khi có tiền nhàn rỗi gửi vào ngân hàng với thời hạn dài thường đặt mục tiêu lãi suất lên trên hàng đầu. Lãi suất ngân hàng cần phải thõa mãn : Có lợi cho ngân hàng, có lợi cho người gửi, có lợi cho người vay và có lợi cho ngân hàng. Đối với lãi suất các kì hạn, Techcombank nên tuân thủ theo nguyên tắc: Nâng cao lãi suất đối với tiền gửi trung và dài hạn, đồng thời hạ lãi suất tiền gửi không kỳ hạn hoặc kỳ hạn ngắn để đảm bảo lãi suất trung bình không bị tăng lên đối với toàn bộ vốn huy động. Việc nâng cao lãi suất trung và dài hạn phải nằm trong khung giá, phải có tính cạnh tranh, ngân hàng có thể dựa vào khung lãi suất kỳ phiếu, trái phiếu của các ngân hàng lớn để đưa ra mức lãi suất vừa hấp dẫn, mang tính cạnh tranh. Trong những năm tới, khi dịch vụ ngân hàng phát triển, công tác thanh toán ngân hàng được hiện đại hóa, ngân hàng sẽ tiến tới không trả lãi đối với các tài khoản tiền gửi không kỳ hạn như ở các ngân hàng nước ngoài đã làm. 3.2.3. Phát triển các dịch vụ đa dạng liên quan đến huy động vốn Hiện nay phương thức cạnh tranh giữa các ngân hàng là cạnh tranh bằng loại hinh và chất lượng dịch vụ. Các dịch vụ của ngân hàng hiện được đổi mới đáp ứng các tiến bộ khoa học kĩ thuật vào lĩnh vực ngân hàng. Đối với khách hàng thông qua hoạt động cung ứng dịch vụ cho khách hàng, ngân hàng sẽ nắm được những thông tin tài chính của khách hàng, biết được khi nảo khách hàng thiếu hoặc thừa vốn và :có thể đưa ra các biện pháp để giúp đỡ khách hàng. + Dịch vụ tư vấn : Khách hàng khi đến ngân hàng không phải ai cũng hiểu biết rõ về các sản phẩm, dịch vụ mà ngân hàng có thể đáp ứng, các nhân viên giao dịch có thể giúp đỡ, hướng dẫn khách hàng lựa chọn cho mình hình thức phù hợp nhất để khách hàng gửi tiền hay đầu tư. + Dịch vụ bảo quản: Là việc ngân hàng xác nhận trách nhiệm giữ hộ cho khách hàng tài sản theo yêu cầu của khách hàng và đảm bảo giữ an toàn bí mật. 3.2.4. Nâng cao chất lượng thông tin phòng ngừa rủi ro Đối với đối tượng khách hàng là các doanh nghiệp, ngân hàng cần thực hiện triệt để việc khai thác thông tin từ nhiều nguồn kết hợp, từ doanh nghiệp, bạn hàng của doanh nghiệp, từ trung tâm phòng ngừa rủi ro của ngân hàng nhà nước, từ cơ quan pháp luật, tránh thông tin không cân xứng. 3.2.5. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Techcombank đang có một đội ngũ cán bộ trẻ giàu nhiệt huyết, tuy vậy đôi khi sẽ còn thiếu kinh nghiệm trong những tình huống khó khăn, vì vậy việc đào tạo cán bộ về chuyên môn cũng như đạo đức sẽ nâng cao chất lượng của các dịch vụ của Techcombank, và với thái độ nhiệt tình, năng động khi tiếp xúc và hướng dẫn cho khách hàng sẽ tạo được niềm tin của họ, đây chính là một phần tạo ra uy tín của ngân hàng và giúp cho hoạt động huy động vốn được phát triển. Một số kiến nghị nhằm thực hiện tốt những giải pháp đề ra Kiến nghị với nhà nước Nhà nước cần hoàn thiện môi trường pháp lý và môi trường hoạt động cho các ngân hàng. Nhà nước cần xây dựng các chính sách kinh tế ổn định tránh gây ra những đột biến trong nền kinh tế gây ra những rủi ro kinh doanh của doanh nghiệp và của ngân hàng. Tất cả các hoạt động của nhà nước đều hướng tới mục tiêu tạo ra môi trường cạnh tranh lành mạnh giữa các ngân hàng, đặc biệt trong điều kiện nền kinh tế đang bị suy thoái như hiện nay thì nhà nước có vai trò ngày càng quan trọng không thể thiếu được để bình ổn nền kinh tế và tạo ra môi trường luật pháp chặt chẽ, công bằng. Nhà nước cũng không nên sử dụng quá nhiều các công cụ pháp lý mà cần xem xét thực hiện chính sách của mình để tăng tính tự chủ cho hoạt động của ngân hàng trong giai đoạn hiện nay và trong thời gian sắp tới. Kiến nghị đối với ngân hàng Techcombank 3.3.2.1.Trong lĩnh vực kinh doanh Ngân hàng cần phải giữ vững và phát triển các khách hàng truyền thống, trước hết là các tổng công ty lơn. Ngân hàng cần chủ động các khách hàng lớn, dự án tốt để đầu tư, đồng thời tích cực nghiên cứu đê xác định những lĩnh vực trọng điểm để tiếp tục mở rộng khách hàng, nâng thị phần. Ngân hàng nên đẩy mạnh công tác Marketing, mở rộng thị trường bằng đổi mới và nâng cao hiệu quả sản phẩm truyền thống, đáp ứng cao nhết nhu cầu vốn, dịch vụ ngân hàng cho khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế. Ngân hàng tiếp tục thâm nhập vào thị trường vốn trong nước thông qua việc đúc rút và phát triển các giải pháp đã có để tăng cường huy động vốn trung và dài hạn đi đôi với việc giữ và phát triển được nguồn vốn ngắn hạn hiện có. Ngân hàng nên mở rộng hoạt động kinh doanh tiền tệ trên thị trường liên ngân hàng trong nước và tích cực tham gia thị trường vốn trung và dài hạn trong nước. 3.3.2.2. Trong lĩnh vực tài chính Ngân hàng tập trung tích lũy thỏa đáng để năng lực tài chính của bản thân ngân hàng đảm bảo yêu cầu đổi mới công nghệ, phòng ngừa rủi ro, ổn định thu nhập của người lao động, gắn liền thu nhập với hiệu quả của người lao động kinh doanh, với chất lượng sản phẩm, dịch vụ cung cấp (đặc biệt là trong lĩnh vực công nghệ thông tin) để thu hút cán bộ giỏi, chuyên gia giỏi mà ngành đang cần. 3.3.2.3. Tổ chức và phát triển mạng lưới Ngân hàng tiếp tục đổi mới mô hình, mạng lưới kinh doanh theo hướng xây dựng tập đoạn kinh doanh đa năng trên cơ sở củng cố phát triển nâng cao hiệu quả kinh doanh của các công ty hiện có. Từng bước sắp xếp lại mạng lưới chi nhánh khu vực theo yêu cầu kinh doanh của từng vùng lĩnh vực theo hướng tập trung vào các địa bàn trọng điểm, có tiềm năng phát triển. Đồng thơi trên cơ sở xây dựng những chỉ tiêu chuẩn cho một chi nhánh trực thuộc và phòng giao dịch, tiến hành đánh giá, tổ chức lại đối với những đơn vị kinh doanh có hiệu quả thấp. Phát triển chiều sâu quan hệ hợp tác với các bạn hàng truyền thống, các tổ chức tài chính tín dụng trong nước và ngoài nước để nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng. Ngân hàng nên chú trọng tranh thủ hợp tác quan hệ trong nước, hợp tác đối với các ngân hàng lớn có quan hệ lâu năm thuộc khu vực Đông Nam Á, Mỹ, Châu Âu để đẩy mạnh kinh doanh trên thị trường quốc tế. KẾT LUẬN Hiện nay sự tăng trưởng kinh tế đất nước là mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Do vậy nhu cầu về vốn của nền kinh tế cũng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà kinh tế, chính trị gia hàng đầu trên thế giới. Kinh tế càng phát triển kéo theo hệ thống tài chính – ngân hàng cũng phát triển. Một trong những kênh truyền vốn quan trọng là thông qua hệ thống các ngân hàng. Và thu hút vốn luôn là một trong những nghiệp vụ quan trọng nhất của bất kì ngân hàng nào. Quy mô và chất lượng thu hút vốn có thể ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của hệ thống ngân hàng do đó ảnh hưởng trực tiếp đến việc cung ứng vốn cho nền kinh tế. Trong thời gian thực tập tại ngân hàng thương mại cổ phần kĩ thương Techcombank có trụ sở tại 70-72 Bà Triệu em đã tìm hiểu kĩ công tác huy động vốn cùng sự tham khảo các tài liệu liên quan em đã hoàn thành chuyên đề thực tập này. Chuyên đề này đã nêu lên được hình thức huy động vốn từ hộ gia đình và doanh nghiệp của Techcombank và những yếu tố ảnh hưởng tới công tác này. Em đã phân tích được thực trạng huy động vốn của Techcombank giai đoạn 2005-2008 với những thành tựu đạt được và những khó khăn vướng mắc từ đó đưa ra một số giải pháp và kiến nghị nhằm tăng cường công tác thu hút vốn cho Techcombank. Trên đây là toàn bộ chuyên đề thực tập của em trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Techcombank. Do trình độ thực tế còn bị hạn chế và thời gian thực tập chưa dài nên chuyên đề của em không tránh khỏi những thiếu sót, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô giáo và những ai quan tâm đến vấn đề này. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn thạc sĩ Bùi Thị Lan cùng toàn thể cán bộ phòng kế hoạch tổng hợp đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề thực tập này. Chữ kí của sinh viên Xác nhận của ngân hàng Techcombank MỤC LỤC Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc2069.doc
Tài liệu liên quan